ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT HỌC PHẦN
GIÁO DỤC THỂ CHẤT 2
(HỌC PHẦN TỰ CHỌN)
NGÀNH ĐÀO TẠO: …………………………
CHUYÊN NGÀNH: ………………………….
1. Tên học phần: Giáo dục thể chất 2 (Bóng chuyền)
Mã số: BAS103
2. Số tín chỉ:
3. Trình độ: Cho sinh viên năm thứ 1
4. Phân bổ thời gian:
- Lý thuyết: 2 (tiết/tuần) x 1 (tuần) = 2 tiết.
- Thực hành: 2 (tiết/tuần) x 14 (tuần) = 28 tiết.
- Tổng số tiết thực dạy: 2 tiết + 28 tiết = 30 tiết
- Tổng số tiết chuẩn: 2 tiết + 28 tiết = 30 tiết chuẩn.
5. Các học phần học trước: Giáo dục thể chất 1 (Thể dục + Điền
kinh)
6. Học phần thay thế, tương đương: Không
7. Mục tiêu của học phần:
Sau khi học xong học phần, sinh viên phải nắm được các kiến
thức, kỹ thuật động tác cơ bản của môn Bóng chuyền. Qua đó vận
dụng vào trong tập luyện và thi đấu để nâng cao sức khỏe và phát
triển các tố chất thể lực.
8. Mô tả vắn tắt nội dung học phần:
Học phần Giáo dục thể chất 2 (Bóng chuyền) là học phần tự chọn,
nội dung kiến thức của học phần bao gồm 2 phần:
PHẦN I – LÝ THUYẾT
1. Sơ lược lịch sử phát triển môn bóng chuyền.
2. Đặc điểm và tác dụng môn bóng chuyền.
3. Nguyên lý kỹ thuật của môn bóng chuyền.
4. Luật và phương pháp tổ chức thi đấu.
PHẦN II – THỰC HÀNH
1. Tư thế chuẩn bị và di chuyển.
2. Kỹ thuật chuyền bóng:
+ Kỹ thuật chuyền bóng thấp tay bằng hai tay.
+ Kỹ thuật chuyền bóng cao tay bằng hai tay.
3. Kỹ thuật phát bóng:
+ Kỹ thuật phát bóng cao tay chính diện.
+ Kỹ thuật phát bóng thấp tay trước mặt.
9. Nhiệm vụ của sinh viên:
- Dự lớp > 80% tổng số thời lượng của học phần.
- Trang phục gọn gàng.
- Tham gia tập luyện ngoại khóa.
10. Tài liệu học tập và tham khảo:
1. Bộ môn Giáo dục thể chất – Đại học KTCN; Bài giảng môn
Giáo dục thể chất 2 (Bóng chuyền).
2. Đinh Văn Lẫm và các cộng sự; Giáo trình Bóng chuyền; NXB
Thể dục Thể thao; Hà Nội 2006.
3. Liên đoàn Bóng chuyền Thế giới (FIVB); Luật Bóng chuyền;
NXB Thể dục Thể thao; Hà nội 2009.
4. Phạm Vĩnh Thông; Trò chơi vận động; NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội; Hà Nội 1999.
Đề cương học phần GDTC 2 – Bóng chuyền 9 10 Đề cương học phần GDTC 2– Bóng chuyền
11. Tiêu chuẩn đánh giá sinh viên và thang điểm:
* Tiêu chuẩn đánh giá
- Chuyên cần.
- Kiểm tra thường xuyên.
- Thi kết thúc học phần.
* Thang điểm
- Kiểm tra thường xuyên 03 bài: 50%
- Thi kết thúc học phần: 50%
12. Đề cương chi tiết và Lịch trình giảng dạy:
- Biên soạn: ĐAN THÀNH VINH
TT NỘI DUNG
T/L học
tập, tham
khảo
Hình
thức
học
1
LÝ THUYẾT
1. Sơ lược lịch sử và sự phát triển của
môn Bóng chuyền.
2. Đặc điểm và tác dụng của môn Bóng
chuyền.
3. Nguyên lý kỹ thuật của môn Bóng
chuyền.
4. Tập thể lực chung.
1-3
Nghe
giảng
2
THỰC HÀNH
1. Tư thế chuẩn bị và di chuyển
- Tư thế:
+ Tư thế chuẩn bị.
+ Tư thế đánh bóng.
- Di chuyển:
+ Chạy.
1-4
Thực
hành
+ Bước
+ Nhảy.
+ Lăn và ngã
2. Trò chơi vận động
3
1. Ôn tập tư thế chuẩn bị và di chuyển.
2. Kỹ thuật chuyền bóng cao tay bằng hai
tay.
- Tư thế chuẩn bị.
- Động tác đánh bóng.
- Kết thúc động tác.
3. Tập thể lực chuyên môn
1-3
Thực
hành
4
1. Ôn tập tư thế chuẩn bị và di chuyển.
2. Ôn tập kỹ thuật chuyền bóng cao tay
bằng hai tay.
3. Kiểm tra thường xuyên
1-3
Thực
hành
5
1. Ôn tập kỹ thuật chuyền bóng cao tay
bằng hai tay.
2. Kỹ thuật chuyền bóng thấp tay bằng hai
tay.
- Tư thế chuẩn bị.
- Động tác đánh bóng.
- Kết thúc động tác.
3. Trò chơi vận động.
1-4
Thực
hành
6
1. Ôn tập kỹ thuật chuyền bóng cao tay
bằng hai tay.
2. Ôn tập kỹ thuật chuyền bóng thấp tay
bằng hai tay.
3. Tập thể lực chung.
1-3
Thực
hành
7
1. Luật thi đấu trong môn Bóng chuyền
1-3
Giảng
Đề cương học phần GDTC 2 – Bóng chuyền 9 10 Đề cương học phần GDTC 2– Bóng chuyền
2. Ôn tập kỹ thuật chuyền bóng cao tay
bằng hai tay.
3. Ôn tập kỹ thuật chuyền bóng thấp tay
bằng hai tay.
4. Tập thể lực chuyên môn.
+ thực
hành
8
1. Ôn tập kỹ thuật chuyền bóng cao tay
bằng hai tay.
2. Ôn tập kỹ thuật chuyền bóng thấp tay
bằng hai tay.
3. Kiểm tra thường xuyên
1-3
Thực
hành
9
1. Ôn tập tư thế chuẩn bị và di chuyển.
2. Kỹ thuật phát bóng thấp tay trước mặt.
3. Tập thể lực chung.
1-3
Thực
hành
10
1. Ôn tập kỹ thuật phát bóng thấp tay
trước mặt.
2. Kỹ thuật phát bóng cao tay trước mặt.
3. Trò chơi vận động.
1-4
Thực
hành
11
1. Ôn tập kỹ thuật phát bóng thấp tay
trước mặt.
2. Ôn tập kỹ thuật phát bóng cao tay trước
mặt.
3. Kiểm tra thường xuyên.
1-3
Thực
hành
12
1. Ôn tập kỹ thuật phát bóng.
2. Ôn tập kỹ thuật chuyền bóng cao tay.
3. Thi đấu.
1-3
Thực
hành
13
1. Ôn tập kỹ thuật phát bóng.
2. Ôn tập kỹ thuật chuyền bóng thấp tay.
3. Thi đấu.
1-3
Thực
hành
14
1. Ôn tập kỹ thuật phát bóng.
2. Ôn tập kỹ thuật chuyền bóng cao tay.
3. Ôn tập kỹ thuật chuyền bóng thấp tay.
4. Thi đấu.
1-3
Thực
hành
15
1. Ôn tập kỹ thuật phát bóng.
2. Ôn tập kỹ thuật chuyền bóng cao tay.
3. Ôn tập kỹ thuật chuyền bóng thấp tay.
4. Thi đấu.
1-3
Thực
hành
PHẦN I - LÝ THUYẾT
1. Nguồn gốc và lịch sử phát triển của môn bóng chuyền:
1.1. Nguồn gốc
Môn thể thao Bóng chuyền xuất hiện lần đầu tiên tại Mỹ vào năm
1895 do một giáo viên thể dục, ở thành phố Geliok-Massatrusets có
tên là Wiliam Morgan nghĩ ra. Lúc đầu môn thể thao này chỉ là một
trò chơi đơn giản, không đòi hỏi nhiều thiết bị, tốn kém và thường
được chơi nhiều trên các bãi biển. Sau đó qua gần 30 năm (1896-
1925) với nhiều lần cải tiến và nghiên cứu luật chơi thì Bóng chuyền
đã gần giống như ngày nay.
1.2. Lịch sử phát triển
Bản chất của môn Bóng chuyền được dựa trên cơ sở một trò chơi
vận động, nó luôn được cải tiến trong quá trình tập luyện và thi đấu,
vì vậy nó đã phát triển và trở thành một môn thể thao mới.
Từ năm 1895 đến năm 1920 Bóng chuyền là môn thể thao thút hút
được mọi tầng lớp, đặc biệt là lớp trẻ tập luyện, do đó phong trào đã
phát triển rất nhanh, không chỉ ở châu Âu mà còn phát triển sang
châu Mỹ và châu Á.
Đề cương học phần GDTC 2 – Bóng chuyền 9 10 Đề cương học phần GDTC 2– Bóng chuyền
Bóng chuyền xuất hiện ở châu Mỹ Latinh và Canada năm 1900,
năm 1906 ở Puecôrricô , năm 1910 ở Pari, năm 1917 ở Brazil và
Uruguay.
Bóng chuyền xuất hiện ở châu Á vào khoảng năm 1905 đến 1908.
Lúc đầu vào Philippin, Nhật Bản và Trung Quốc.
Bóng chuyền vào châu Âu theo con đường quân đội Mỹ. Năm
1910 vào Pháp, năm 1914 vào Anh, năm 1920-1921 vào Liên Xô
(cũ), Tiệp Khắc, Ba Lan và nó phát triển rất nhanh chóng ở châu Âu,
đặc biệt là Liên Xô, Pháp và Tiệp Khắc.
Do có sự phát triển rất nhanh của Bóng chuyền, cả về số lượng và
chất lượng ở hầu hết các nước và các châu lục trên Thế giới nên Bóng
chuyền có số lượng người tham gia tập luyện thường xuyên khoảng
trên 200 triệu người. Do đó Bóng chuyền cần phải có một tổ chức
lãnh đạo thống nhất và được thi đấu trong các cuộc thi đấu thể thao.
2. Quá trình phát triển môn Bóng chuyền
2.1. Quá trình phát triển kỹ chiến thuật môn Bóng chuyền
Bóng chuyền là môn thể thao được phát triển rất nhanh và rộng
khắp trên các châu lục, bên cạnh sự phát triển về số lượng các nước
tham gia tập luyện và thi đấu Bóng chuyền, thì kỹ thuật và chiến
thuật trong môn Bóng chuyền cũng được phát triển theo, điều này đã
làm cho Bóng chuyền ngày càng trở lên hấp dẫn hơn. Năm 1922, ở
Mỹ lần đầu tiên Bóng chuyền chính thức được tổ chức giải vô địch và
cùng năm đó Bóng chuyền cũng được đề nghị đưa vào chương trình
Thế vận hội Olympic lần thứ 8 tại Pháp năm 1924. Cùng với mốc lịch
sử đó, trong chương trình các Thế vận hội Olympic những năm tiếp
theo và trong các lần Đại hội TDTT sinh viên thế giới, bóng chuyền
luôn là môn thể thao thi đấu chính thức.
Do Bóng chuyền ngày càng được thi đấu trong các Đại hội TDTT
khu vực, châu lục và thế giới; trong chương chình Thế vận hội và cả
trong đại hội TDTT của sinh viên, chính vì vậy đòi hỏi phải có một tổ
chức để quản lý và lãnh đạo phong trào Bóng chuyền. Năm 1947,
mốc lịch sử quan trọng nhất của bóng chuyền thế giới và việc thành
lập Liên đoàn bóng chuyền Quốc tế tại Pari (Pháp) viết tắt là FIVB.
Trong đó có các thành viên tham gia như: Liên Xỗ (cũ), Tiệp Khắc,
Ba Lan, Nam Tư, Ý, Rumani, Hà Lan, Bỉ, Brazil, Hy Lạp, Chi Lê, Ai
Cập và Nam Phi. Sự kiện thành lập Liên doaanf bóng chuyền Quốc tế
chứng tỏ sự thừa nhận bóng chuyền là môn thể thao mang ý nghĩa
quốc tế rộng khắp.
Từ khi có Liên đoàn bóng chuyền Quốc tế thì các giải vô địch
bóng chuyền thế giới và các châu lục được tổ chức liên tục vào các
năm. Sự phát triển lớn mạnh của bóng chuyền thế giới và tính chất,
quy mô các giải thi đấu đã thực chất đánh giá đúng sự phát triển của
môn bóng chuyền.
Sau đây là một số nét khái quát về các giải thi đấu lớn của bóng
chuyền thế giới:
- Giải vô địch bóng chuyền thế giới năm 1949 tại Praha (Tiệp
Khắc) có 10 đội tham gia và đội Liên Xô (cũ) vô địch
- Giải vô địch bóng chuyền thế giới năm 1952 tại Matsxcơva
(Liên Xô (cũ)) có 11 đội nam và 8 đội nữ tham gia. Kết quả 2 đội
nam và nữ Liên Xô (cũ) vô địch
- Giải vô địch bóng chuyền thế giới năm 1956 tại Pari (Pháp) đã
có 24 đội nam và 17 đội nữ tham gia. Kết quả 2 đội nam và nữ Liên
Xô (cũ) vô địch
- Tiếp sau đó là: Năm 1960 tổ chức tại Brazil và năm 1963 ở Nhật
Bản, …
Đề cương học phần GDTC 2 – Bóng chuyền 9 10 Đề cương học phần GDTC 2– Bóng chuyền
Cho đến nay Liên đoàn bóng chuyền Quốc tế đã có trên 100 nước
tham gia. Do vậy quy mô tổ chức giải bóng chuyền thế giới ngày
càng lớn và kỹ chiến thuật ngày càng được phát triển ở trình độ cao
và cứ 4 năm giải vô địch bóng chuyền thế giới được tổ chức một lần
Vào năm 1948 giải bóng chuyền châu Âu lần đầu tiên được tổ
chức tại Ý; tiếp theo đó, năm 1950 giải bóng chuyền châu Âu lần thứ
2 được tổ chức tại Soophia (Bungari), năm 1953 giải lần thứ 3 được
tổ chức tại Pari (Pháp), năm 1955 giải lần thứ 4 được tổ chức tại
Bucaret (Hungari), và năm 1958 giải lần thứ 5 được tổ chức tại Praha
(Tiệp Khắc)…. Trong lúc đó, ở các châu lục khác như châu Mỹ, châu
Á các giải bóng chuyền cũng được tổ chức nhưng quy mô, tính chất
và số lượng các đội tham gia, trình độ thể lực, kỹ chiến thuật còn hạn
chế, chỉ có một số nước có trình độ bóng chuyền phát triển tham gia
thi đấu như: ở châu Mỹ có Brazil, Cuba, Peru,…. Châu Á có Trung
Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên,…. Tuy nhiên vào những năm 1959 giải
bóng chuyền 3 châu lục được tổ chức tại Pari (Pháp), lúc này trình độ
bóng chuyền vẫn là thế mạnh của các đội bóng châu Âu. Sau các đội
châu Âu như: Liên Xô (cũ), Tiệp Khắc, Bungari, Ba Lan, Pháp, Thổ
Nhĩ Kỳ có Trung Quốc và Brazil.
Bên cạnh sự phát triển của bóng chuyền ở các châu lục khác nhau
thì trong từng khu vực người ta cũng đánh giá sự phát triển của bóng
chuyền ở châu Âu và cũng tổ chức được các giải vô địch bóng
chuyền Đông và Tây Âu. Ở châu Mỹ tổ chức được giải bóng chuyền
vô địch Bắc Mỹ, Nam Mỹ và vùng biển Caribe. Ở châu Á bóng
chuyền cũng được tổ chức ở khu vực Đông Nam Á.
Ngoài ra các giải bóng chuyền khác cũng thường xuyên được tổ
chức như: Giải bóng chuyền thanh niên thế giới, giải bóng chuyền vô
địch trẻ thế giới, … Các hình thức, tính chất, quy mô tổ chức các giải
đấu này ngày càng được nâng cao và phát triển mạnh. Số lượng các
nước là thành viên của Liên đoàn bóng chuyền Quốc tế tham gia tập
luyện và thi đấu bóng chuyền ngày càng lớn. Chính vì vậy vào năm
1963, Liên đoàn bóng chuyền Quốc tế đã tổ chức rất nhiều giải đấu
quốc tế để chuẩn bị cho Thế vận hội Olympic năm 1964 tại Tokyo
(Nhật Bản). Tại Thế vận hội này đã có một số nước đưa ra thử
nghiệm loại hình chiến thuật phát bóng và sắp xếp đội hình thi đấu
theo nguyên tắc 5-1. Điều này lại một lần nữa khẳng định vị trí của
bóng chuyền trên phạm vi quốc tế.
Trong thời điểm này trình độ thể lực, kỹ chiến thuật bóng chuyền
cũng đã được quan tâm và phát triển khá mạnh trên thế giới. Song
một điều bất ngờ tại Thế vận hội 1964 tại Tokyo (Nhật Bản) là đội nữ
Nhật Bản đã đưa ra thể nghiệm kỹ thuật phát bóng “bay” và trở thành
đội vô địch Thế vận hội. Phát bóng “bay” xuất hiện đã đánh dấu một
bước phát triển mới của kỹ thuật bóng chuyền hiện đại.
Do kỹ thuật, chiến thuật ở giai đoạn này có sự phát triển mạnh
theo các trường phái khác nhau, đã làm cho công tác huấn luyện môn
bóng chuyền phải luôn thay đổi cho phù hợp với xu thế mới. Những
năm tiếp theo, các phương tiện huấn luyện môn bóng chuyền đã được
cải tiến và hiện đại về trang thiết bị, dụng cụ. Do vậy bóng chuyền
càng có điều kiện phát triển mạnh mẽ như: Về kỹ thuật, xuất hiện tấn
công hang sau, chắn bóng bậc thang, … Các hệ thống chiến thuật như
tấn công 3 người, chiến thuật phòng thủ số 6 cơ động cũng được phát
triển rộng rãi, …. nhiều vận động viên có trình độ thể lực cao của
bóng chuyền hiện đại như về sức bật, khả năng thi đấu trong thời gian
dài,…
Trong những năm gần đây bóng chuyền thế giới đã có sự phát
triển mạnh mẽ và đồng đều ở khắp các châu lục, nhiều kỹ thuật thi
Đề cương học phần GDTC 2 – Bóng chuyền 9 10 Đề cương học phần GDTC 2– Bóng chuyền
đấu mới, hiện đại có hiệu quả cao đã được ứng dụng như: Kỹ thuật
bật nhảy phát bóng, kỹ thuật đập bóng sau đầu người chuyền 2 với
một chân giậm nhảy,…. đã làm cho bóng chuyền đạt tới trình độ
đỉnh cao của nghệ thuật thi đấu. Điề này không chỉ đem lại hiệu quả
thi đấu mà còn hấp dẫn người hâm mộ.
2.2. Quá trình phát triển của luật thi đấu bóng chuyền
Cùng với sự phát triển về kỹ thuật, chiến thuật và thể lực của các
vận động viên bóng chuyền thì Luật thi đấu cũng luôn luôn được cải
tiến, thay đổi và bổ sung cho phù hợp với trình độ phát triển.
Năm 1895, khi mới xuật hiện lần đầu môn thể thao bóng chuyền
thì chưa có điều luật thi đấu, mà chỉ có những quy định đơn giản ban
đầu của những người tham gia như một trò chơi.
Năm 1896, lần đầu tiên môn thể thao này được tổ chức thi đấu và
các quy định cũng hết sức đơn giản.
Năm 1897, Luật thi đấu môn bóng chuyền được xuất hiện lần đầu
tiên tại Mỹ với nhưng quy định đơn giản và cụ thể như:
- Diện tích sân là: 7,5m x 15,1m.
- Chiều cao lưới thi đấu là 1,98m
- Số cầu thủ không hạn chế,…
Đến năm 1900, một số điều của Luật này đã thay đổi, như điểm
kết thúc của mỗi hiệp là 21; chiều cao của lưới là 2,13m, vạch biên là
phần của sân.
Năm 1912, một số điều luật tiếp tục được cải tiến và thay đổi.
Ví dụ: Diện tích sân thi đấu là 10,6m x 18,2m, chiều cao của
lưới là 2,28m, sau khi mất quyền phát bóng thì các đối thủ phải đổi
chỗ,….
Trình độ ngày càng cao đòi hỏi Luật cũng phải thay đổ cho phù
hợp với thực tế thi đấu.
- Năm 1917, chiều cao lưới là 2,43m, hiệp đấu kết thúc là 15
điểm.
- Năm 1918, đội hình thi đấu trên sân giới hạn là 6 người.
- Năm 1921, có them đường giữa sân.
- Năm 1922, quy định mỗi cầu thủ chỉ được chạm bóng 1 lần và
cả đội được chạm bóng 3 lần.
- Năm 1923, diện tích sân là 9,1m x 18,2m. Khi tỷ số hiệp đấu là
14-14, đội nào hơn 2 điểm trước là đội đó thắng cuộc.
Các điều luật thay đổi và bổ sung có tác dụng trực tiếp để thay đổi
kỹ chiến thuật và thể lực phát triển.
Đến năm 1934 tại hội nghị đại biểu các Liên đoàn bóng chuyền
các quốc gia ở Stockhom (Thủy Điển) đã quyết định thành lập Ủy
ban kỹ thuật. Đề nghị này được thong qua tại Becslin (Đức) năm
1936 và do ông Ravich Maclopski người Ba Lan làm chủ tịch. Ủy
ban có 13 nước châu Âu, 5 nước châu Mỹ và 4 nước châu Á tham gia
và đi đến một quyết định lấy các điều luật cơ bản của Mỹ làm cơ sở
và thay đổi một số điều luật cho phù hợp như:
- Lấy đơn vị mét (m) làm đơn vị đo lường.
- Phần thân thể chạm bóng hợp lệ được tính từ thắt lưng trở lên.
- Cầu thủ chắn bóng không được chạm bóng 2 lần.
- Chiều cao lưới của VĐV nam là 2,43m và lưới nữ là 2,24m.
- Vị trí phát bóng bị thu hẹp lại
Năm 1949 luật bóng chuyền tiếp tục được thay đổi như: mỗi hiệp
đấu được tạm nghỉ 3 lần và cho phép được chắn bóng tập thể.
Năm 1951 có đường hạn chế tấn công và được phép đổi vị trí sau
khi phát bóng.
Năm 1952, số lần tạm dừng rút xuống còn 2 lần.
Đề cương học phần GDTC 2 – Bóng chuyền 9 10 Đề cương học phần GDTC 2– Bóng chuyền
Năm 1957, giảm số lần thay đổi người trong một hiệp từ 12 xuống
còn 4 lần. Thời gian quy định thay người từ 60s xuống còn 30s,
không được làm khuất cầu thủ phát bóng.
Năm 1961, cho phép tăng số lần thay người trong 1 hiệp đấu lên 6
lần.
Mãi tới năm 1964, khi bóng chuyền chính thức được đưa vào Thế
vận hội thì luật bóng chuyền vẫn không ngừng được thay đổi, bổ
sung và hoàn thiện.
Năm 1965, cho phép qua tay chắn bóng và người chắn bóng được
phép chạm bóng lần hai.
Năm 1972, thời gian quy định cho phát bóng là 5s, cho phép VĐV
giẫm lên đường giữa sân, cọc giới hạn được đưa vào hai đầu lưới
phạm vi sân
Trong những năm tiếp theo thì những điều luật cũng được Liên
đoàn bóng chuyền Quốc tế thay đổi và hoàn thiện như: Cầu thủ hàng
trên được phép chắn bóng ở những quả phát bóng đầu tiên, tấn công
hàng sau không được bật nhảy trong khu vực tấn công, cầu thủ hàng
sau không được đánh bóng tay cao hơn mép trên của lưới…. Cho đến
nay, mặc dù bóng chuyền thế giới đã phát triển đến đỉnh cao của nghệ
thuật thi đấu và sức hấp dẫn của nó đã lan rộng khắp thế giới thì các
điều luật vẫn tiếp tục được Liên đoàn bóng chuyền Quốc tế bổ sung
và thay đổi
Năm 1990, cầu thủ hàng trên không được chắn bóng từ quả phát
bóng đầu tiên, điểm của mỗi hiệp là 17, riêng hiệp quyết thắng thứ 5
đánh theo luật luân lưu (thắng trong một pha bóng thì được điểm và
được quyền phát bóng và ngược lại). Ở tỷ số 16 đều, đội nào hơn 1
điểm thì đội đó thắng cuộc.
Năm 1992, cuộc cách mạng về luật đã làm cho bóng chuyền càng
phát triển mạnh. Một số điều luật đặc trưng như:
- Phần thân thể chạm bóng hợp lệ được tính từ khớp gối trở lên.
- Ở quả chuyền thứ nhất trong đỡ đập và đỡ phát bóng, đấu thủ
được chạm 2, 3 lần liên tiếp trong cùng một động tác mà thời gian
bóng nằm không lâu trên cơ thể
- Các cầu thủ tấn công không được nâng, cầm, đẩy, vít bóng.
- Trong động tác đập bóng, cầu thủ đã hoàn thành động tác mà
bóng bay ra ngoài khu vực phòng thủ, sau đó cầu thủ này chạm lưới
thì cầu thủ này không phạm luật.
- Điểm kết thúc từ hiệp 1 đến hiệp 4 là 17, riêng hiệp quyết thắng
(hiệp 2) vẫn đánh theo luật luân lưu, song phải hơn 2 điểm mới thắng.
Từ năm 1999 trở lại đây, do xu thế phát triển mạnh của bóng
chuyền hiện đại lên luật bóng chuyền trong nhà cũng đã có những
thay đổi tương ứng:
- Điểm thi đấu của 1 hiệp được tăng lên là 25 điểm, thi đấu theo
thể lức luân lưu (thắng điểm trực tiếp). Đội thắng 1 hiệp là đội được
25 điểm trước và hơn đội kia ít nhất 2 điểm. Nếu 2 đội có số hiệp
thắng là 2 đều thì hiệp quyết thắng (hiệp 5) thi đấu tới 15 điểm và đội
thắng là đội được 15 điểm trước và hơn đội kia ít nhất 2 điểm.
- Cầu thủ được đánh bóng bằng bất cứ bộ phận nào của cơ thể
(Không được phạm lỗi dính bóng và chạm bóng 2 lần trừ chắn bóng).
- Cho phép sử dụng cầu thủ Libero (Cầu thủ chuyên phòng thủ) để
làm cho thi đấu bóng chuyền thêm hấp dẫn và quyết liệt.
3. Quá trình phát triển môn bóng chuyền ở Việt Nam.
Bóng chuyền xuất hiện lần đầu tiên ở nước ta vào năm 1922. Tuy
là nước phát triển sau, chậm và phải trải qua những bước thăng trầm
của lịch sử nhưng bóng chuyền vẫn được duy trì và phát triển.
Đề cương học phần GDTC 2 – Bóng chuyền 9 10 Đề cương học phần GDTC 2– Bóng chuyền
Giai đoạn đầu của sự hình thành và phát triển môn bóng chuyền ở
nước ta, nó cũng mang bản sắc vùng gần giống một số nước trong
khu vực. Trong giai đoạn này bóng chuyền chỉ được phổ biến trong
một số học sinh người Hoa, ở một số thành phố lớn. Dưới sự thống trị
của thực dân phong kiến, bóng chuyền nước ta không được phát
triển.
Tháng 3 năm 1946, Bác Hồ ra lời kêu gọi toàn dân tập thể dục và
được nhân dân nhiệt tình hưởng ứng. Ngoài một số thành phố lớn thì
bóng chuyền đã được phát triển ở nông thôn. Trong giai đoạn này
bóng chuyền đã được tổ chức thi đấu giữa các tỉnh.
Ví dụ: Liên khu 3 cho các tỉnh: Thái Bình, Hưng Yên và Hải
Dương; Liên khu 5 cho các tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi, ….
Tuy trong giai đoạn này bóng chuyền được phát triển mạnh,
nhưng nhìn chung trình độ kỹ, chiến thuật còn đơn giản, chúng ta
chưa có những thông tin của Quốc tế.
Sau hòa bình lập lại năm 1954 bóng chuyền mới có điều kiện để
phát triển. Lúc này bóng chuyền được phát triển rất mạnh trong lực
lượng vũ trang, mà tiêu biểu là đội bóng chuyền của đoàn Thể Công,
nòng cốt của đội tuyển quốc gia sau này. Trong giai đoạn này bóng
chuyền vẫn phát triển một cách tự phát, chưa có một sự chỉ đạo
chung.
Để cho bóng chuyền Việt Nam phát triển đúng hướng và hiệu
quả, lúc này đồi hỏi phải có một tổ chức lãnh đạo và thống nhất
chung trong quản lý, lãnh đạo phong trào. Do vậy, tháng 3 năm 1957,
Hội bóng chuyền Việt Nam được thành lập. Sự kiện này là một bước
ngoặt lớn của bóng chuyền nước ta trong thời kỳ mới. Hội bóng
chuyền Việt Nam là một tổ chức trực tiếp đứng ra tổ chức lãnh đạo
và quản lý phong trào bóng chuyền nước ta. Cũng năm đó chúng ta
đã mời chuyên gia nước ngoài giúp trong việc đào tạo cán bộ bóng
chuyền. Chúng ta đã tổ chức được một số giải thi đấu như: Giải hòa
bình, Thống nhất mùa xuân, … và tháng 10/1957 đội tuyển nam nước
ta được thành lập để tham dự giải 4 nước, trong đó có: Trung Quốc ,
Triều Tiên, Mông Cổ và Việt Nam. Tuy còn non trẻ nhưng các VĐV
nước ta lần đầu tiên đã được tiếp xúc với những kỹ thuật mới của
bóng chuyền quốc tế. Đó cũng là thời kỳ đánh dấu những bước khởi
đầu của bóng chuyền nước ta. Phong trào ngày càng phát triển cả về
chiều rộng và chiều sâu. Chúng ta tiếp tục mời các đội bóng quốc tế
vào Việt Nam thi đấu.
Năm 1959, Hội bóng chuyền Việt Nam mời các đội tuyển bóng
chuyền nam, nữ Bungari và Mông Cổ sang thi đấu hữu nghị. Được cọ
xát quốc tế, vào thời gian này trình độ bóng chuyền nước ta đã có
bước phát triển nhanh về kỹ thuật, chiến thuật và thể lực. Trong nước
chúng ta bắt đầu tổ chức giải bóng chuyền hạng A miền Bắc gồm 8
đội nam và 8 đội nữ tham gia. Ngoài ra chúng ta còn tổ chức được
các giải nông thôn dành cho khu vực nông nghiệp.
Năm 1962, Liên đoàn Bóng chuyền Việt Nam gia nhập Liên đoàn
Bóng chuyền Quốc tế.
Năm 1963, chúng tat ham gia đại hội thể thao Ganêpho lần thứ
nhất tại Inđônêxia.
Chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ tại miền Bắc, cùng với cả
nước, thể thao nới chung và bóng chuyền nói riêng đã chuyển sang
thời kỳ mới, tuy vậy chúng ta vẫn tổ chức được một số giải lớn như:
Giải hạng A, giải dành cho miền núi, ….
Năm 1966, đội tuyển bóng chuyền của nước ta tham gia Đại hội
Ganêpho châu Á lần 2 tại Cambuchia. Trong thời kỳ chiến tranh
chống Mỹ, mặc dù điều kiện tập luyện bị hạn chế, nhưng bóng
Đề cương học phần GDTC 2 – Bóng chuyền 9 10 Đề cương học phần GDTC 2– Bóng chuyền
chuyền vẫn được duy trì. Đến năm 1973, bóng chuyền lại được khôi
phục và phát triển, chúng ta tổ chức giải hạng A với sự tham gia của
24 đội nam, nữ. Đặc biệt giai đoạn này bóng chuyền nữ nước ta đã
tham gia giải bóng chuyền trẻ các nước XHCN tại Triều Tiên.
Nhìn chung từ khi bóng chuyền xuất hiện ở nước ta, cho đến giai
đoạn này, phong trào bóng chuyền luôn được duy trì và đã có bước
phát triển khá mạnh. Mạc dù các cầu thủ của ta đã có những tiến bộ
đáng kể về kỹ, chiến thuật. Song còn nhiều mặt bị hạn chế do chiến
tranh ở hai miền Nam Bắc.
Sự kiện 30/4/1975, đánh dấu bước ngoặt lịch sử của dân tộc Việt
Nam, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Đây là một thuận
lợi cho TDTT nói chung và bóng chuyền nói riêng. Được sự quan
tâm của Đảng và Nhà nước đầu tư phát triển, chúng ta có điều kiện tổ
chức được nhiều loại giải khác nhau từ trung ương đến các cơ sở địa
phương. Bộ môn bóng chuyền của Tổng cục TDTT được thành lập là
cơ quan quản lý Nhà nước có chức năng lãnh đạo, tổ chức và quản lý
phong trào bóng chuyền của cả nước. Chúng ta đã xây dựng kế hoạch
thi đấu định kỳ cho các giải bóng chuyền hạnh A1, A2, B hàng năm;
Ngoài ra chúng ta còn tổ chức được giải bóng chuyền trẻ, giải bóng
chuyền các ngành, công đoàn, lực lượng vũ trang, các trường Đại
học,…. Thời kỳ này bóng chuyền nước ta đã có sự phát triển mạnh,
trình độ ngày càng được nâng cao. Thông qua giải hạng A, chúng ta
đã chọn được một số đội nam, nữ mạnh tham gia thi đấu giải các đội
mạnh toàn quốc. Qua thi đấu chúng ta đã tuyển chọn được đội tuyển
bóng chuyền nam, nữ quốc gia tham gia tập luyện và thi đấu quốc tế.
Một sự kiện có ý nghĩa vô cùng to lớn của bóng chuyền Việt Nam
là tổ chức Liên đoàn Bóng chuyền Việt Nam ra đời năm 1991. Cùng
với cơ quan quản lý Nhà nước đã có là Bộ môn Bóng chuyền Tổng
cục TDTT (nay là Ủy ban TDTT) Liên đoàn bóng chuyền Việt Nam
đã không ngừng tạo mọi điều kiện cho phong trào bóng chuyền nước
ta luôn luôn phát triển. Chúng ta đã xây dựng được kế hoạch thi đấu
định kỳ cho từng năm, nhiều năm và phương hướng phát triển cho
bóng chuyền những năm tiếp theo.
Những năm gần đây bóng chuyền Việt Nam đã có những thành
viên tham gia vào hội đồng trọng tài quốc tế, tạo điều kiện cho bóng
chuyền nước ta phát triển và hội nhập.
Bóng chuyền hiện đại có xu thế ngày càng phát triển đạt tới đỉnh
cao của nghệ thuật thi đấu thể thao. Bên cạnh chiều cao của các VĐV
bóng chuyền ngày càng phát triển, thì các mặt khác như trình độ kỹ
thuật điêu luyện, chiến thuật đa dạng, biến hóa nhanh, trình độ thể lực
tốt và tâm lý vững vàng đã làm cho bóng chuyền ngày càng trở lên
hấp dẫn trên toàn thế giới. Chính sự phát triển về trình độ bóng
chuyền cao như vậy, do đó trong công tác huấn luyện đã nổi lên một
số đặc trưng lớn của bóng chuyền hiện đại đó là:
- Xu hướng chuyên môn hóa cao trong từng vị trí của VĐV bóng
chuyền.
- Xu hướng tấn công nhanh và mạnh gây yếu tố bất ngờ.
- Xu hướng tăng cường tấn công hàng sau
- Bật nhảy phát bóng mạnh.
Thực tế trong thi đấu cho thấy, trong những năm gần đây, nhiều
trận thi đấu bóng chuyền bị kéo dài do trình độ cao và tương đương
giữa hai đội. Chính vì thế một số điều Luật thi đấu đã được Liên
đoàn Bóng chuyền Quốc tế thay đổi và bổ sung cho phù hợp với thời
gian thi đấu của một trận, nhằm mục đích tăng tốc độ thi đấu và tính
hấp dẫn của bóng chuyền hiện đại.
Đề cương học phần GDTC 2 – Bóng chuyền 9 10 Đề cương học phần GDTC 2– Bóng chuyền
Sự hình thành và phát triển môn bóng chuyền trên Thế giới.
- Ngày nay đa số các nhà sử học đều cho rằng, môn bóng chuyền
được xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào năm 1895, do một giáo viên thể
thao tên là Uyliam Moócgân nghĩ ra. Ông đã dùng lưới quần vợt mắc
cao 6 bộ (1bộ = 0,3248m) và dùng ruột quả bóng rổ để chuyền qua
lưới.
- Năm 1897 lần đầu tiên luật Bóng chuyền ra đời gồm 10 điều có
những nội dung sau: Đánh dấu sân, trang phục, kích thước sân, kích
thước lưới, bóng, tính điểm, thời gian thi đấu, bóng rơi vào vạch giới
hạn là phạm luật, không hạn chế số lượng người chơi.
- Từ năm 1895-1920 bóng chuyền dần dần được du nhập vào các
nước khác và được phát triển rộng rãi ra các châu: Mỹ, Âu, Á
Trong
quá trình đó Luật Bóng chuyền cũng được thay đổi và hoàn thiện dần.
- Năm 1912: Diện tích sân là 35 pút x 60 pút (10,6m x 18,2m )
chiều cao lưới là 7,5 pút (2,28 m )
- Năm 1917: Chiều cao lưới được nâng lên 8 pút (2,43 m).
- Năm 1918: Đội hình mỗi đội có 6 người, điểm mỗi hiệp là 15.
- Năm 1921, 1922, 1923 có thêm đường kẻ giữa sân, mỗi đội chỉ
được chạm bóng 3 lần, diện tích sân bóng chuyền là 30 pút x 60 pút (9,1
m x 18,2 m).
- Năm 1925: Khi tỷ số 14-14 đội nào hơn 2 điểm trước thì đội đó
thắng hiệp đó.
- Năm 1922 tại Brooklyn (Mỹ) chính thức tổ chức giải vô địch
bóng chuyền và quyết định đưa môn Bóng chuyền vào chương trình
Thế vận hội lần thứ VIII sẽ tổ chức vào năm 1924 tại thủ đô Pari
(Pháp).
- Năm 1929-1939 kỹ thuật và chiến thuật có những bước tiến
nhảy vọt. Chắn bóng tập thể xuất hiện, thúc đẩy sự phát triển các hình
thức tấn công mới. Bóng chuyền trở thành môn thể thao mang tính
tập thể hơn. Điều đó được thể hiện rất rõ trong cách sắp xếp các đấu
thủ trên sân, trong việc tổ chức tấn công và phòng thủ, trong việc
yểm hộ người chắn bóng và người đập bóng. Năm 1934 tại cuộc họp
ở Stốckhôm (Thụy Điển), hội nghị đã đề nghị thành lập Uỷ ban kỹ
thuật bóng chuyền. Chủ tịch là Ông Ravích Máclốpsky (Chủ tịch Hội
bóng chuyền Ba Lan), thành phần tiểu ban gồm 13 nước Châu Âu, 5
nước châu Mỹ và 4 nước châu Á. Tiểu ban đã quyết định lấy Luật
Bóng chuyền của Mỹ làm cơ sở cho luật thi đấu bóng chuyền và có
thay đổi một số điều như :
- Lấy đơn vị mét làm đơn vị đo lường chính thức.
- Phần thân thể chạm bóng chỉ tính từ thắt lưng trở lên.
- Đấu thủ chắn bóng không được chạm bóng lần thứ hai, khi chưa
có người khác chạm bóng.
- Chiều cao của lưới nữ là 2,24 m. Vị trí phát bóng được thu hẹp
lại.
Ngoài ra tiểu ban còn quyết định đưa môn bóng chuyền vào
chương trình thi đấu Thế vận hội năm 1940. Năm 1948, lần đầu tiên
Hiệp hội Bóng chuyền Quốc tế tổ chức giải vô địch bóng chuyền
Nam châu Âu ở Rôm (Italia), có 6 đội tham gia, đội Tiệp Khắc đoạt
chức vô địch.
Tháng 9/1949, tại Praha (Tiệp Khắc) tổ chức Giải Vô địch Bóng
chuyền thế giới lần thứ nhất cho các đội nam và vô địch Châu Âu
cho các đội nữ. Hai đội bóng chuyền nam nữ của Liên Xô đều giành
chức vô địch. Thời kỳ 1948/1968 bóng chuyền phát triển rất mạnh
trên toàn Thể giới. Các giải vô địch Thế giới, vô địch Châu Âu, cúp
Châu Âu được tiến hành thường xuyên và ngày càng thu hút nhiều
đội đại biểu các nước tham gia. Năm 1964, bóng chuyền chính thức
Đề cương học phần GDTC 2 – Bóng chuyền 9 10 Đề cương học phần GDTC 2– Bóng chuyền
được đưa vào chương trình Thế vận hội ở Tôkyô (Nhật Bản), đội
bóng chuyền nam Liên Xô và đội bóng chuyền nữ Nhật Bản giành
chức vô địch. Luật Bóng chuyền vẫn không ngừng hoàn thiện. Trong
thời gian này kỹ, chiến thuật bóng chuyền cũng được phát triển cao.
Kỹ thuật đập bóng giãn biên, đập nhanh, đập lao, đập trên tay
chắn xuất hiện. Chiến thuật tấn công cũng phát triển như chiến thuật
tấn công 2 chuyền phối hợp với động tác giả. Chiến thuật tấn công 3
người do hàng sau đan lên tổ chức (chuyền 2), chiến thuật tấn công
“đan chéo”, “đập chồng”, đập với động tác giả
Chiến thuật phát bóng cũng đã xuất hiện trong thời kỳ này, đặc
biệt là lối phát bóng cao tay nghiêng mình bay của đội bóng chuyền
nữ Nhật Bản. Ở giải vô địch thế giới năm 1966 cho thấy sự tiến bộ
của nhiều đội. Tranh giải thứ hạng cao của giải có 5-7 đội, không có
đội nào trong giải không có trận thua. Ngang hàng với các đội mạnh
nhất Thế giới như Liên Xô, Tiệp Khắc, Rumani còn có các đội
CHDC Đức, Nhật Bản Trình độ điêu luyện của các VĐV các đội
CHND Trung Hoa, CuBa, Braxin cũng tăng lên rõ rệt, chiến thuật
tấn công cũng trở nên đa dạng hơn.
- Đến năm 1976 số lượng các đội bóng chuyền nam, có thể tranh
giải cao tương đối ổn định. Vô địch thế giới, vô địch thế vận hội
Olympic, vô địch châu Âu vào giai đoạn này là các đội Liên Xô, Tiệp
Khắc, Nhật Bản, Ba Lan.
Dưới sự bảo trợ của Liên đoàn Bóng chuyền Thế giới hiện tiến
hành các giải thi đấu sau:
- Giải bóng chuyền trong chương trình Thế vận hội Olympic 4
năm / 1 lần.
- Giải vô địch Thế giới 4năm / 1lần.
- Cúp Thế giới 4 năm / 1lần.
- Giải vô địch trẻ châu Âu 2 năm / 1 lần.
- Vô địch châu Âu 2 năm / 1 lần; Cúp các đội vô địch cho các đội
đoạt cúp châu Âu hàng năm giành cho các đội câu lạc bộ. Bóng
chuyền trở nên một trong những môn thể thao hàng đầu của Thế giới,
năm 1983 Liên đoàn Bóng chuyền Thế giới có 146 nước thành viên
đã chứng minh rõ điều này.
1.2. Sự hình thành và phát triển môn bóng chuyền ở Việt Nam qua các
thời kỳ:
Môn bóng chuyền xuất hiện lần đầu tiên ở nước ta vào năm
1922. Tuy gặp rất nhiều khó khăn và trải qua nhiều bước thăng trầm
của lịch sử đất nước, môn bóng chuyền vẫn không ngừng được duy
trì, củng cố và phát triển. Bóng chuyền Việt Nam đã tồn tại và phát
triển qua các thời kỳ:
- Thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám.
- Từ Cách mạng tháng Tám đến 1954.
- Từ 1954 đến 1964.
- Từ 1964 đến 1975.
- Từ 1975 đến nay.
1.2.1. Thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám.
Bóng chuyền xuất hiện vào nước ta có màu sắc riêng không
giống như một số nước quanh ta lúc bấy giờ. Kích thước sân bãi gần
giống như bóng chuyền hiện tại.
Chiều dài sân : 18m - rộng: 9m. Khu phát bóng: 1,2 m. Lưới
bóng chuyền của nam cao 2,4 m, của nữ là 2,2 m. Số điểm thi đấu
của mỗi hiệp là 21. Các cầu thủ trong đội được đánh 4 chuyền. Nếu
phát bóng rơi vào khu phát bóng của đối phương thì được 2 điểm.
Trận thi đấu bóng chuyền đầu tiên được tổ chức giữa người Hoa ở Hà
Đề cương học phần GDTC 2 – Bóng chuyền 9 10 Đề cương học phần GDTC 2– Bóng chuyền
Nội và Hải Phòng năm 1927. Dưới ách thống trị của thực dân phong
kiến, phong trào bóng chuyền nước ta không phát triển được.
1.2.2. Từ Cách mạng tháng Tám đến 1954.
Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân ra đời.
Bác Hồ kính yêu ra “ lời kêu gọi tập Thể dục” và được toàn dân
nhiệt liệt hưởng ứng. Một số môn thể thao được hình thành, bóng
chuyền đã được phát triển ở các vùng nông thôn và nhân dân đã tập
luyện đông đảo. Trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,
bóng chuyền trở thành môn thể thao chủ yếu trong các cơ quan kháng
chiến ở Việt Bắc, ở khu 5 và trong các đơn vị bộ đội Bóng chuyền
đã góp phần rèn luyện sức khoẻ, làm phong phú đời sống văn hoá của
nhân dân ta.
1.2.3. Từ năm 1954 đến năm 1964.
Sau hoà bình lập lại môn bóng chuyền có nhiều điều kiện thuận
lợi để phát triển. Tháng 3/1957 Hội Bóng chuyền Việt Nam ra đời
lãnh đạo phong trào bóng chuyền nước ta, tổ chức các giải Hoà bình -
Thống nhất, giải Mùa xuân 1957 để động viên cổ vũ phong trào.
Ngày 10/06/1961 Hiệp hội Bóng chuyền Việt Nam được thành
lập. Cũng trong năm này, trường huấn luyện TDTT Trung ương được
thành lập, trong đó có 2 đội bóng chuyền nam - nữ, đồng thời mời
chuyên gia Liên Xô sang giúp đỡ đào tạo cán bộ. Khoá học sinh đầu
tiên của Trường trung cấp Thể dục Thể thao ra đời, trong đó có cán
bộ môn Bóng chuyền.
- Tháng 7 năm 1963, Hội nghị về phương hướng huấn luyện của
bóng chuyền Việt Nam được tổ chức tại Thái Bình
- 1963 tham gia Đại hội Ganêfo lần thứ nhất tại Inđônêxia.
- 1964 Ủy ban TDTT phong cấp kiện tướng và cấp I đầu tiên cho
VĐV bóng chuyền, trong thời kỳ này bóng chuyền nước ta đã tiến
nhanh về nhiều mặt.
1.2.4. Từ 1964 đến 1975.
Sau sự kiện ngày 5 tháng 8 năm 1964, miền Bắc nước ta bước
vào cuộc kháng chiến chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, phong trào
TDTT nói chung và bóng chuyền nói riêng tạm thời thu hẹp và
chuyển sang thời chiến.
- Tháng 3 năm 1965, tổ chức hội nghị Bóng chuyền tại Hải
Dương nhằm xác định phương hướng, nhiệm vụ phát triển môn Bóng
chuyền trong thời chiến.
- Năm 1966, đội tuyển bóng chuyền nước ta tham gia Ganêfo
châu Á tại Campuchia và đứng thứ 3 (nam và nữ ). Năm 1969 giải
bóng chuyền đại biểu các nghành lần thứ nhất được tổ chức tại Hà
Nội, đồng thời các giải hạng A và B vẫn được duy trì nhằm củng cố
và khôi phục phong trào.
- Năm 1970 - 1972, giặc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại
miền Bắc với quy mô ác liệt và mạnh mẽ hơn, nhưng chúng đã thất
bại. Chỉ sau 8 tháng, sau Hiệp định Pari, giải hạng A năm 1973 lại tổ
chức với sự tham gia 24 đội nam, nữ.
- Năm 1974, giải hạng B được tổ chức từ cơ sở, thu hút đông đảo
quần chúng tham gia. Giải hạng A được tổ chức theo định kỳ đã chọn
được 12 đội A
1
(nam, nữ) và 12 đội A
2
(nam, nữ).
1.2.5. Từ 1975 đến nay.
Đất nước hoà bình thống nhất phong trào bóng chuyền nói riêng
và phong trào TDTT nói chung được phát triển mạnh mẽ, hầu hết các
Đề cương học phần GDTC 2 – Bóng chuyền 9 10 Đề cương học phần GDTC 2– Bóng chuyền
tỉnh, thành, nghành đều có các đội bóng chuyền. Các giải truyền
thống hàng năm được tổ chức, số đội ngày càng tăng và trình độ
chuyên môn của VĐV không ngừng được nâng cao.
Tháng 8/1991, tại Đại hội Hiệp hội Bóng chuyền Việt Nam
(VFV- Volleyball Federation of Vietnam) lần thứ hai đã quyết định
đổi tên thành Liên đoàn Bóng chuyền Việt Nam, là thành viên của
Liên đoàn Bóng chuyền Thế giới (VIVB) và Liên đoàn Bóng chuyền
châu Á (AVC). Hàng năm tổ chức giải vô địch các đội mạnh toàn
quốc. Giải Bóng chuyền A
1
, A
2
, giải Bóng chuyền bãi biển Ngoài ra
trong chương trình đại hội TDTT toàn quốc, Hội khoẻ Phù Đổng toàn
quốc (4 năm 1 lần) bóng chuyền đều là môn thi đấu chính thức trong
chương trình.
Tại các giải thi đấu bóng chuyền quốc tế hay trong khu vực các
đội tuyển của chúng ta đã giành được những thứ hạng cao, khẳng
định sự tiến bộ vượt bậc góp phần phát triển phong trào bóng chuyền
trong quần chúng nhân dân ngày càng phát triển.
2. Đặc điểm và tác dụng của môn bóng chuyền.
2.1. Đặc điểm môn bóng chuyền:
Đặc điểm nổi bật của bóng chuyền là yêu cầu thiết bị dụng cụ,
sân tập và luật tương đối đơn giản, được đông đảo quần chúng ưa
thích. Là môn thể thao có tính tập thể, tính đối kháng cao, đồng thời
cũng đòi hỏi ở người tập có trình độ toàn diện về thể lực cũng như về
kỹ, chiến thuật, tâm lý, ý chí trong thi đấu.
Đặc điểm nổi bật nữa của bóng chuyền là tính phức tạp và độ
nhanh chóng của việc giải quyết các nhiệm vụ vận động trong tình
huống thi đấu, sức nhanh của phản ứng vận động và khả năng điều
khiển động tác.
Hoạt động bóng chuyền là hoạt động không chu kỳ. Trong thi
đấu thường xuyên có những tình huống khác nhau xảy ra và diễn
biến liên tục. Vị trí trên sân của các đấu thủ luôn thay đổi, do vậy đòi
hỏi mỗi đấu thủ phải có thể lực tốt và trình độ chuyên môn toàn diện,
biết vận dụng nhiều tư thế và kỹ thuật đánh bóng khác nhau. Có như
vậy mới hoàn thành được chức năng, nhiệm vụ ở bất kỳ vị trí nào trên
sân.
2.2. Tác dụng môn bóng chuyền:
Mỗi kỹ thuật trong bóng chuyền dù đơn giản nhất cũng đòi hỏi
người tập phải vận động tay, chân và toàn thân một cách hợp lý, kịp
thời. Khi tập luyện thực hiện các động tác yêu cầu phải tập trung chú
ý cao, lặp lại nhiều lần qua đó giúp cho người tập từng bước tăng
cường sức mạnh tay, chân và toàn thân, hình thành khả năng xử lý
nhanh nhẹn, tháo vát, khéo léo, tạo điều kiện thích ứng với những
hoạt động phức tạp trong lao động sản xuất, chiến đấu cũng như
trong cuộc sống hàng ngày.
Tập luyện và thi đấu bóng chuyền còn là một quá trình rèn luyện,
bồi dưỡng con người phát triển toàn diện về phẩm chất ý chí, tâm lý,
ý thức và tinh thần tập thể, tính kiên trì và dũng cảm.
Tác động thẩm mỹ của bóng chuyền rất lớn đối với con người,
tác động này không chỉ giới hạn trong quá trình tập luyện bóng
chuyền con người sẽ đạt được sự phát triển hài hòa về cơ thể, vẻ đẹp
và sức truyền cảm của các động tác mà còn thông qua sự hiệp đồng
hành động khi thực hiện phối hợp các chiến thuật, bản thân cuộc đua
tranh trong thi đấu và niềm vui chiến thắng sẽ mang lại niềm vui sâu
sắc. Điều đó giải thích tại sao bóng chuyền lại có sức hấp dẫn lớn lao
Đề cương học phần GDTC 2 – Bóng chuyền 9 10 Đề cương học phần GDTC 2– Bóng chuyền
với quần chúng các lứa tuổi và nghành nghề khác nhau và tại sao đội
ngũ người tập bóng chuyền ngày càng phát triển lớn mạnh.
3. Kỹ thuật cơ bản.
3.1. Khái niệm.
- Kỹ thuật là biện pháp thực hiện một động tác nào đó, mà biện
pháp ấy được thể hiện trong những hoạt động cụ thể có chủ định của
vận động viên.
Bản chất kỹ thuật thể hiện ở sự vận dụng hợp lý khéo léo của con
người với khả năng hoạt động của họ để hoàn thành nhiệm vụ với
chất lượng cao nhất. Những nhiệm vụ ấy trong bóng chuyền thể hiện
ở di động đỡ bóng kịp thời, nhanh nhẹn, phát bóng cao có tốc độ
nhanh, mạnh, chuẩn xác, thay đổi hướng bóng
- Kỹ thuật là cơ sở phát triển đồng thời là biện pháp cơ bản thực
hiện chiến thuật, kỹ thuật còn là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá trình
độ tập luyện của vận động viên. Có kỹ thuật tốt là điều kiện thuận lợi
để vận động viên thực hiện những ý đồ chiến thuật trong mọi tình
huống cần thiết khi thi đấu.
- Mỗi kỹ thuật trong thể thao nói chung và bóng chuyền nói riêng
khi thực hiện đều là một hệ thống gồm những thành phần chuyển
động khác nhau để hoàn thành một nhiệm vụ nào đó. Chất lượng và
hiệu quả một kỹ thuật biểu hiện ở sự phối hợp nhịp nhàng ổn định
hợp lý và được vận dụng trong thi đấu có kết quả cao.
3.2. Nguyên lý cơ bản.
3.2.1. Tính chất của bóng và đặc điểm đường bay.
Về tính chất và đặc điểm đường bay của bóng, căn cứ vào điều
kiện khách quan như khí động lực học, cơ học, các tính chất khác và
chất liệu bóng mà vận dụng kỹ thuật trong quá trình tập luyện và thi
đấu hợp lý. Trong tập luyện và thi đấu cũng rất cần tập với những quả
bóng đủ tiêu chuẩn hoặc gần đủ tiêu chuẩn.
- Nếu đánh bóng, điểm tiếp xúc của tay vào bóng nằm trên trục
dọc qua tâm bóng cân đối thì bóng chuyển động theo đường thẳng
hầu như trùng với hướng ban đầu của lực tác động. Nếu điểm tiếp
xúc lệch sang phía bên thì bóng bay đi sẽ rẽ vòng. Với đặc điểm và
quỹ đạo bay của bóng, người tập cần chọn vị trí và tư thế khi tiếp xúc
bóng cho thật phù hợp (khi đánh cũng như khi đỡ).
- Tuỳ theo tốc độ bóng đến và lực mạnh hay nhẹ, cự ly xa hay
gần, cao hay thấp, mà vận dụng lực tác động cho phù hợp, cần chú ý
tới hướng của lực. Ngoài ra cần chú ý đến hoàn cảnh khách quan
khác để tạo ra tính năng khác nhau của đường bóng. Tạo thuận lợi
cho đội nhà gây khó khăn cho đối phương.
3.2.2. Bóng bay.
- Nếu tác động một lực qua đúng tâm bóng, đồng thời các điểm
tiếp xúc trên bề mặt bóng cân bằng, giống nhau và cùng một lúc thì
bóng sẽ bay. Bóng bay đi trong không khí ở dạng tịnh tiến và không
xoáy vì sức cản của môi trường tác động lên bề mặt phía ngoài của
bóng xem như giống nhau.
Bóng bay thường chuyển động theo hướng thẳng. Nhưng cũng có
nhiều yếu tác động tới quỹ đạo bay của bóng. Cự ly bay của bóng phụ
thuộc vào lực tác động, trọng lượng bóng và góc độ bay. Tốc độ bay
của bóng càng lớn thì lực cản không khí càng tăng cự ly bay giảm và
góc độ lớn tốc độ rơi tương đối nhanh. Nếu tốc độ bay của bóng theo
phương nằm ngang giảm dần thì chuyển động của bóng gần như
chuyển sang dạng rơi tự do.
3.2.3. Bóng xoáy.
Đề cương học phần GDTC 2 – Bóng chuyền 9 10 Đề cương học phần GDTC 2– Bóng chuyền
- Khi tác động một lực không qua tâm bóng, thì bóng bay đi ở
dạng xoáy. Bóng xoáy có thể xoay quanh nó với nhiều trục khác
nhau, các dạng xoáy phụ thuộc vào vị trí tác động trên bề mặt của
bóng và hướng của lực.
- Nếu điểm tiếp xúc và hướng lực tác động trên trục dọc của tâm
bóng thì xoáy theo trục ngang. Nếu hướng lực tác động qua trục dọc
phía trên tâm bóng thì bóng bay theo hướng thẳng và xoáy xuống.
- Nếu lực tác động qua phía dưới tâm bóng thì bóng sẽ xoáy lên.
Nếu điểm tiếp xúc và hướng của lực lệch sang phải hoặc trên trục
ngang thì bóng sẽ xoáy quanh nó theo trục dọc từ phải sang trái và
đường bay của bóng cũng theo hướng đó. Tiếp xúc ngược lại thì bóng
sẽ xoay từ trái sang phải và đường đi cũng theo hướng đó. Tốc độ
xoay của bóng phụ thuộc vào lực tác động và độ dài cánh tay đòn của
trục xoay. Cánh tay đòn được tính từ tâm bóng tới điểm gần nhất trên
véc-tơ lực khi tác động.
3.2.4. Bật nhảy.
Trong tập luyện và thi đấu bóng chuyền các đấu thủ thường bật
nhảy cao tại chỗ và có đà. Độ cao của bật nhảy phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, song mức độ khuỵu gối giữ vai trò quan trọng. Nếu bật nhảy
có đà khớp gối thường gấp khoảng 120
0
như vậy là tốt, nhưng trong
thực tế khó thực hiện được như vậy. Còn bật nhảy tại chỗ góc độ
khuỵu gối có thể trong khoảng 80
0
- 90
0
, nhưng các cơ bắp của chân
hoạt động không thể tạo ra được sức mạnh tối đa mà chủ yếu dùng
biện pháp tăng cự ly chuyển động của trọng tâm thân thể để tăng độ
bật nhảy cao.
Để thực hiện bật nhảy được cao mỗi người cần chú ý:
- Góc độ khụyu gối hợp lý.
- Hoạt động của bàn chân khi bật nhảy.
- Tốc độ và đà bật nhảy phải nhanh.
- Phối hợp động tác (toàn thân) nhịp nhàng, đặc biệt là phối
hợp chuyển động của tay khi bật nhảy.
4. Luật và phương pháp tổ chức thi đấu. (Bóng chuyền 6 người
lớn).
4.1. Luật thi đấu (Áp dụng luật đang hiện hành của Ủy ban TDTT).
4.1.1. Một số điểm cần lưu ý.
*) Đội bóng.
Theo Điều 4 Luật Bóng chuyền thì mỗi đội được phép đăng ký
thi đấu tối đa là 12 cầu thủ (trong đó có một cầu thủ tự do Libero).
Chỉ có các cầu thủ đã đăng ký thi đấu mới được vào sân thi đấu.
Ngoài 12 cầu thủ, mỗi đội còn có 1 huấn luyện viên trưởng, 1
huấn luyện viên phó và 1 bác sỹ.
*) Cột lưới.
Theo điều 2.5: Cột lưới được đặt ở vị trí cách đường biên dọc về
phía ngoài 1m.
*) Đội trưởng trên sân.
Theo điều 5.1: Vận động viên Libero không được làm đội trưởng
và đội trưởng trên sân.
*) Được 1 điểm, thắng một hiệp và thắng toàn trận.
Khi đội đỡ phát bóng thắng một pha bóng đội đó ghi được 1 điểm
đồng thời giành được quyền phát bóng và các cầu thủ đội đó xoay
vòng một vị trí theo chiều kim đồng hồ.
4.1.2. Bắt lỗi.
Trong một pha bóng đội phạm lỗi bị thua pha bóng đó khi.
- Nếu đội đối phương phát bóng thì đội đó được thêm một điểm
và được tiếp tục phát bóng.
Đề cương học phần GDTC 2 – Bóng chuyền 9 10 Đề cương học phần GDTC 2– Bóng chuyền
- Nếu đội đối phương đỡ phát bóng thì đội đó được thêm một
điểm và giành quyền phát bóng. Nếu đội phạm lỗi sai vị trí bị phạt
như sau: Đội phạm lỗi bị sử thua pha bóng đó (đối phương được 1
điểm và được quyền phát bóng).
- Phạm lỗi khi phát bóng không dùng trật tự xoay vòng đội bị
phạt thua pha bóng đó, đối phương ghi thêm 1 điểm và giành quyền
phát bóng.
Cụ thể theo điều 6 Luật Bóng chuyền thì:
* Được một điểm.
- Đội đang phát bóng, nếu đội đối phương phạm lỗi thì được một
điểm và tiếp tục phát bóng.
- Đội đang phát bóng, nếu phạm lỗi thì mất quyền phát bóng và
đội đối phương được quyền phát bóng (đổi bóng) đồng thời được 1
điểm.
* Thắng một hiệp.
Đội thắng 1 hiệp (trừ hiệp 5) là đội được 25 điểm trước và hơn
đội kia ít nhất là 2 điểm. Trường hợp hòa 24-24 thì phải đấu tiếp cho
đến khi hơn nhau 2 điểm . Ví dụ (26-24), (25-27).
* Thắng một trận.
Đội thắng một trận là đội thắng 3 hiệp trước. Trường hợp hòa 2-
2, thì hiệp thứ 5 ( hiệp quyết định thắng) chỉ đánh đến 15 điểm và đội
thắng phải hơn ít nhất 2 điểm.
* Bắt lỗi chạm lưới.
Theo điều 12 Luật bóng chuyền thì: Cầu thủ chạm lưới hoặc cột
ăng ten (điều 12.4.4) không phạm lỗi, trừ khi cầu thủ chạm chúng
trong khi đánh bóng hoặc làm ảnh hưởng tới đối phương khi thi đấu.
* Bắt lỗi khi VĐV phát bóng.
Theo điều 13.4 Luật bóng chuyền, thực hiện phát bóng, nếu quá 8
giây sau khi có tiếng còi của trọng tài mà cầu thủ chưa thực hiện phát
bóng đi hay đứng phát bóng ở ngoài khu phát thì phạm lỗi, bị mất
quyền phát bóng, đối phương được điểm và giành quyền phát bóng.
*) Cầu thủ phát bóng.
Theo điều 13 của Luật bóng chuyền, trong vòng 8 giây sau tiếng
còi của trọng tài cầu thủ phải phát bóng đi, được phép đẩy nhẹ bóng
và di chuyển trong khu vực tự do.
*) Thời gian hội ý và hội ý kỹ thuật.
Tùy tính chất giải hay trận đấu có thể trong các hiệp từ 1- 4, mỗi
lần có 2 lần hội ý kỹ thuật, mỗi lần 60 giây và mỗi đội còn được xin
một lần hội ý thường. Nếu không áp dụng mỗi hiệp có 2 lần hội ý kỹ
thuật thì các đội có quyền hội ý 2 lần trong một hiệp đấu, mỗi lần 60
giây.
* Nghỉ giữa quãng.
Trong các cuộc thi đấu chính thức của FIVB, mỗi lần nghỉ giữa
các hiệp kéo dài 3 phút. Tuy nhiên, ban tổ chức có thể yêu cầu nghỉ
từ 5 - 10 phút nhưng chỉ áp dụng cho những lần nghỉ giữa hiệp thứ 2
và thứ 3.
* Luật VĐV tự do (Libero).
Trang phục Libero phải mặc áo có màu khác hẳn với các VĐV
khác trong đội. Trong thi đấu, Libero được phép thay thế bất kỳ VĐV
hàng sau nào và chỉ giữ vai trò như VĐV hàng sau không được đập
bóng tấn công từ bất kỳ vị trí nào (kể cả trong sân đấu và khu vực tự
do), nếu vào thời điểm chạm bóng, bóng hoàn toàn ở cao hơn mép
trên của lưới. Libero không được phát bóng, chắn bóng hoặc giả chắn
bóng.
Đề cương học phần GDTC 2 – Bóng chuyền 9 10 Đề cương học phần GDTC 2– Bóng chuyền
Nếu một Libero chuyền bóng cao tay ở khu hàng trước hoặc phần
kéo dài của khu này thì VĐV đập bóng không được đập quả bóng
cao hơn mép trên của lưới. Libero chuyền bóng cao tay ở sau khu
hàng trước thì VĐV được tự do đập bóng.
Thay Libero không tính là thay người thông thường số lần thay
không hạn chế, nhưng giữa hai lần thay người phải có một pha giao
bóng. Libero chỉ được thay bằng VĐV mà anh chị (Libero) đã vào
thay. Libero vì trấn thương đã phải thay ra không được vào sân thi
đấu tiếp phần còn lại của trận đó.
4.2. Phương pháp tổ chức thi đấu.
- Thi đấu là một biện pháp rất quan trọng trong công tác huấn
luyện bóng chuyền, thông qua thi đấu nâng cao trình độ kỹ thuật -
chiến thuật cũng như thể lực cho cầu thủ, giúp họ rèn luyện lòng
dũng cảm, ý chí ngoan cường và tinh thần tập thể.
- Thi đấu còn là cách giải trí lành mạnh góp phần nâng cao đời
sống văn hóa tinh thần cho mọi tầng lớp quần chúng, thi đấu còn
mang một ý nghĩa chính trị là tăng cường mối quan hệ hữu nghị giữa
các đơn vị, địa phương thậm trí giữa các quốc gia với nhau.
4.2.1. Các bước tiến hành một giải thi đấu bóng chuyền. Bao gồm 3
giai đọan sau: Trước, trong và sau khi thi đấu.
* Giai đoạn trước khi thi đấu.
Đây là giai đoạn quan trọng và mang tính quyết định để giải
thành công. Bao gồm những việc sau:
- Thông qua điều lệ giải.
- Phổ biến và ban hành điều lệ giải cho các đơn vị có thành viên
tham gia thi đấu.
- Ấn định thời gian và địa điểm thi đấu.
- Thành lập Ban tổ chức giải, ban trọng tài và các ban khác.
Ban tổ chức có trách nhiệm quán xuyến toàn bộ công tác tổ chức
giải. Tùy quy mô của giải mà thành lập Ban tổ chức cho phù hợp.
Điều lệ giải là văn bản có tính pháp lý, bao gồm những nguyên
tắc quy ước trong thi đấu, bắt buộc tất cả mọi người phải chấp hành
nghiêm chỉnh.
* Giai đoạn trong khi thi đấu.
- Ban tổ chức tổng hợp nhanh chóng, chính xác, kịp thời diễn
biến của các trận đấu, ngày đấu, thống kê thành tích các đội.
- Giải quyết kịp thời, đúng luật mọi việc xảy ra trong quá trình thi
đấu.
* Giai đoạn sau khi thi đấu.
Ban tổ chức cần họp các bộ phận có liên quan để rút kinh
nghiệm, đánh giá kết quả, công bố thành tích và trao giải thưởng, và
kết thúc giải.
4.2.2. Các hình thức thi đấu bóng chuyền.
Phải căn cứ vào tính chất, quy mô của giải, căn cứ vào số lượng
các đội tham gia, vào sân bãi, vào thời gian và kinh phí cho phép
mà quyết định hình thức thi đấu cho phù hợp, hiệu quả. Trong thi đấu
bóng chuyền thường áp dụng 3 hình thức thi đấu sau:
4.2.2.1. Tính số trận đấu:
* Đấu loại trực tiếp một lần thua.
Là hai đội gặp nhau, đội nào thua thì bị loại ngay, đây là hình
thức đơn giản, dễ tổ chức, dễ theo dõi thành tích. Nhưng có hạn chế
là do số trận ít nên không đánh giá được chính xác trình độ của các
đội. Trong hình thức này có 2 cách vạch biểu đồ thi đấu như sau.
- Nếu số đội tham gia = 2
n
, thì cho bốc thăm thi đấu với nhau.
Ví dụ: Có 8 đội (=2
3
) theo biểu đồ sau.
Đề cương học phần GDTC 2 – Bóng chuyền 9 10 Đề cương học phần GDTC 2– Bóng chuyền
- Nếu số đội tham gia không bằng 2
n
, thì ta vận dụng công thức
X = ( a - 2
n
).2 để tính số đội thi đấu trước, trong đó.
+ X: là số đội thi đấu trước.
+ Tổng số đội tham gia.
+ n là số tự nhiên, sao cho 2
n
nhỏ hơn và gần bằng tổng số đội
tham gia.
Ví dụ: Có 11 đội tham gia. Theo công thức ta có: X = (11- 2
3
).2 =
6 đội, như vậy có 6 đội phải thi đấu trước, các đội còn lại bắt đầu thi
đấu sau 6 đội này.
Biểu đồ thi đấu của 11 đội như sau:
Muốn tính số trận theo thể thức trực tiếp một lần thua, ta lấy tổng
số đội tham gia trừ đi 1.
Ví dụ: Có 8 đội tham gia, số trận đấu là 8 - 1 = 7 trận.
* Đấu loại trực tiếp hai lần thua.
Theo phương pháp này đội nào thua 2 lần mới bị loại, đảm bảo
độ chính xác cao hơn đấu loại trực tiếp 1 lần thua, nhưng mất nhiều
thời gian hơn. Đội nào thắng sẽ tiếp tục thi đấu (ở một bảng chính)
các đội thua sẽ tiếp tục gặp nhau trực tiếp ở một bảng phụ, nếu lại bị
thua sẽ loại ra khỏi giải. Cả hai bảng cứ thế thi đấu để chọn ra đội
mạnh nhất ở mỗi bảng tiếp tục thi đấu với nhau ở trận chung kết.
Trong trận chung kết nếu đội ở bảng chính thua thì phải đấu thêm
một trận nữa (vì đội này mới thua một lần). Trận đấu lại, đội nào
thắng sẽ vô địch.
- Tổng số trận đấu của giải theo phương pháp này là: X = (A x 2) - 2.
Ví dụ : Có 8 đội tham gia, thì tổng số trận đấu sẽ là: X =( 8 x 2) -
2 = 14 trận.
Biểu đồ thi đấu được sắp xếp như sau:
1 1 2
2 1 3 3 3
4
3 1 3
4 4
Chung kết
5 5 3 7
6 5 5
Đề cương học phần GDTC 2 – Bóng chuyền 9 10 Đề cương học phần GDTC 2– Bóng chuyền
8 Vô địch
9
6
6
5
6
1
1
1
2
3
3
4
7
8
9
10
11
8
9
10
1 Vô địch
5
1
5
5
6
7
8
7
1
1
2
3
3
4
7 7 8
7 7 6
8 Bảng chính Bảng phụ
* Thi đấu vòng tròn.
Thi đấu vòng tròn tính điểm gồm hai thể thức: gặp nhau 1 lượt và
gặp nhau 2 lượt. + Ưu điểm của hình thức này: là xác định được
chính xác về trình độ các đội tham gia, xếp hạng được tất cả các đội
tham gia. Đội thắng là đội có tổng số điểm cao nhất.
+ Nhược điểm của hình thức này: là hạn chế số đội tham gia, thời
gian thi đấu kéo dài và tốn kém, do vậy thường chỉ áp dụng với giải
có ít đội tham gia.
Khi tiến hành tổ chức thi đấu theo hình thức này phải xác định
được tổng số trận đấu và số ngày cần cho thi đấu. Thi đấu theo thể
thức gặp nhau 2 lượt phải tăng gấp đôi số trận và số ngày thi đấu.a)
Tính số trận theo công thức (vòng tròn một lượt):
( )
2
1
−
=
AA
X
- X là tổng số trận đấu.
- A là tổng số đội tham gia.
Ví dụ : Có 7 đội tham gia, thì số trận đấu là.
( )
21
2
177
=
−
=
X
Trận
4.2.2.2. Tính số vòng đấu.
* Vòng tròn 1 lượt:
- Nếu tổng số đội tham gia thi đấu là số lẻ thì số vòng đấu bằng
số đội tham gia.
- Nếu số đội tham gia là số chẵn thì số vòng đấu bằng tổng số
trận đấu trừ đi một ( a-1)( xem bảng 1& 2).
Bảng 1. Lịch thi đấu vòng tròn tính điểm (7 đội)
Vòng
đấu
Vòng
1
Vòng
2
Vòng
3
Vòng
4
Vòng
5
Vòng
6
Vòng
7
Trận 1 - 0 1 - 7 1 - 6 1 - 5 1 - 4 1 - 3 1 - 2
Trận 2 - 7 0 - 6 7 - 5 6 - 4 5 - 3 4 - 2 3 - 0
Trận 3 - 6 2 - 5 0 - 4 7 - 3 6 - 2 5 - 0 4 - 7
Trận 4 - 5 3 - 4 2 - 3 0 - 2 7 - 0 6 - 7 5 - 6
Chú ý: Đội nào gặp số 0 thì nghỉ trận đó.
Bảng 2. Lịch thi đấu vòng tròn tính điểm (6 đội)
Vòng đấu Vòng1 Vòng2 Vòng3 Vòng4 Vòng5
Trận 1 - 6 1 - 5 1 - 4 1 - 3 1 - 2
Trận 2 - 5 6 - 4 5 - 3 4 - 2 3 - 6
Trận 3 - 4 2 - 3 6 - 2 5 - 6 4 - 5
Để đảm bảo công bằng, thứ tự của các đội được thực hiện bằng
cách rút thăm. Tuy nhiên khi xếp lịch cũng cần tính tới thời gian nghỉ
giữa 2 trận đấu của mỗi đội và phải đảm bảo sao cho số lần thi đấu
buổi sáng, buổi chiều và buổi tối của mỗi đội là tương đương nhau.
Để theo dõi kết quả thi đấu của các đội và làm căn cứ xếp hạng
cho các đội tham gia, ta lập bảng thống kê kết quả thi đấu toàn giải.
Lưu ý : Trong thực tế thi đấu, kết quả toàn giải có thể có 2,3
đội bằng điểm nhau, vì vậy căn cứ vào biên bản thi đấu của từng trận
đấu để tổng hợp kết quả tổng số: hiệp thắng, hiệp thua, quả thắng,
quả thua của từng đội để làm căn cứ xếp hạng chính xác cho từng đội
tham gia thi đấu (trên cơ sở dựa vào luật và điều lệ giải đã quy định).
Ví dụ : Có 5 đội tham gia giải, ta có bảng thống kê sau.
Số A D C D E Điểm Xếp hạng
A 3-0 2-3 3-1 3-1
1 0 1 1
Đề cương học phần GDTC 2 – Bóng chuyền 9 10 Đề cương học phần GDTC 2– Bóng chuyền
B 0-3 2-3 3-1 3-2
0 0 1 1
C 3-2 3-2 3-0 3-1
1 1 1 1
D 1-3 1-3 0-3 3-2
0 0 0 1
E 1-3 2-3 1-3 2-3
0 0 0 0
PHẦN II
THỰC HÀNH KỸ THUẬT BÓNG CHUYỀN
1. Tư thế chuẩn bị và di chuyển.
1.1. Tư thế.
1.1.1. Tư thế chuẩn bị.
- Là thế đứng của đấu thủ trên sân thuận lợi hợp lý nhất để quan
sát, phán đoán tốt, di chuyển kịp thời theo mọi hướng tới vị trí cần
thiết trên sân để đón đánh bóng.
* Tư thế chuẩn bị:
Hai chân rộng bằng vai, đứng chân trước chân sau, chân sau hơi
kiễng, hai đầu gối hướng vào trong, khuỵu vừa phải và hợp lý. Thân
người hơi gập, hai tay co tự nhiên, khuỷu tay ở ngang hông gần cạnh
sườn. Cẳng tay gần như song song với đùi. Bàn tay, ngón tay duỗi tự
nhiên. Mắt theo dõi bóng và động tác của những đấu thủ có bóng để
xác định hướng và điểm rơi của bóng, từ đó xác định nhiệm trong
những tình huống cụ thể.
Hai chân luôn ở trạng thái động, trọng lượng thân người chuyển
từ chân này sang chân kia giúp cho đấu thủ sẵn sàng di động về mọi
phía kịp thời, nhanh nhẹn và thuận lợi. Đấu thủ phải luôn xoay người
đúng hướng bóng, tập trung cao, tư thế thân người ở trạng thái tự
nhiên, thoải mái, chuyển động nhịp nhàng.
Căn cứ vào mức độ hạ thấp trọng tâm cơ thể (chủ yếu mức độ
khuỵu gối) để chuẩn bị tham gia các động tác đánh bóng khác nhau.
Trên cơ sở này tư thế đánh bóng có thể phân ra 3 loại chính :
+ Tư thế chuẩn bị cao.
+ Tư thế chuẩn bị trung bình.
+ Tư thế chuẩn bị thấp.
1.1.2. Tư thế đánh bóng.
- Tư thế đánh bóng được hình thành sau khi di chuyển để tiếp cận
với bóng hoặc cũng có thể ngay từ tư thế chuẩn bị chuyển sang tư thế
đánh bóng. Tư thế đánh bóng có những đặc điểm riêng tuỳ theo kỹ
thuật như : chuyền bóng cao tay, chuyền bóng thấp tay, đập bóng,
chắn bóng
Tùy theo đặc điểm tính chất các đường bóng đến, cũng như mục
đích yêu cầu kỹ thuật, chiến thuật, hoàn cảnh khách qua để lựa chọn
tư thế đánh bóng cho phù hợp.
1.2. Di chuyển.
Di chuyển trong tập luyện và thi đấu bóng chuyền là phương
pháp di chuyển của đấu thủ từ vị trí này đến vị trí khác, là khâu trung
gian nối liền giữa tư thế chuẩn bị và tư thế đánh bóng.
Di chuyển có những phương pháp chính sau: Chạy, bước, nhảy,
ngã Tuỳ theo từng tình huống cụ thể mà vận dụng phương pháp di
chuyển cho phù hợp, hiệu quả tốt nhất.
1.2.1. Chạy.
Trong bóng chuyền được sử dụng khi bóng xa người, có đặc
điểm là tăng tốc độ xuất phát, khoảng cách di chuyển ngắn, đột ngột
Đề cương học phần GDTC 2 – Bóng chuyền 9 10 Đề cương học phần GDTC 2– Bóng chuyền
thay đổi hướng và dừng lại. Bước chạy cuối cùng phải dài nhất và
được kết thúc bằng động tác hãm của chân đưa ra trước. Nó giúp cho
người tập có khả năng dừng lại nhanh sau khi di chuyển và thay đổi
hướng di chuyển.
1.2.2. Bước.
Trong kỹ thuật bóng chuyền bước gồm có: Bước thường, bước
lướt, bước chéo, bước nhảy, bước xoạc.
* Bước thường.
Được vận dụng nhiều khi bóng đến có tốc độ chậm, cự ly không
xa . Trong quá trình thực hiện động tác thân người ở tư thế gần như
tư thế đánh bóng, mắt theo dõi bóng, tay co tự nhiên. Kết thúc giai
đoạn di chuyển cũng là lúc tư thế đánh bóng được thực hiện.
* Bước lướt.
Là phương pháp di chuyển có thể thực hiện một bước hoặc nhiều
bước. Chân ở phía di động bước về hướng cần thiết di động, chân kia
bước theo đà lướt, duy trì tư thế cơ bản. Cứ tiếp tục như thế có thể
thực hiện nhiều bước với hình thức chân nọ kế tiếp chân kia liên tục
cho đến khi dừng lại trở về tư thế đánh bóng.
* Bước nhảy.
Khi thực hiện hai chân phải rời mặt đất, chân bước trước co và
nâng cao đùi, chân bước sau đạp đất duỗi nhanh khớp gối đẩy cơ thể
chuyển động theo hướng di chuyển hơi chếch lên cao. Đánh bóng
xong, chân sau co tự nhiên, chân trước chạm đất chủ yếu bằng gót
chân, chân sau chạm đất chủ yếu bằng mũi chân. Khi hai chân chạm
đất cũng chính là lúc tư thế đánh bóng được thực hiện. Bước nhảy
được vận dụng khi khoảng cách giữa hai người và bóng không xa
nhưng xa hơn bước di động, khi không kịp sử dụng các bước di động
thì dụng bước nhảy, ổn định nhanh tư thế đánh bóng, tốc độ di
chuyển nhanh, bước dài.
* Bước chéo.
Khi thực hiện hai chân bước chéo nhau, nếu muốn di chuyển
sang trái thì chân phải bước chéo sang bên trái rồi chân trái bước tiếp.
Trọng tâm hơi khuỵu ở khớp gối và nhanh chóng chuyển sang chân
vừa bước. Bước chéo vận dụng cả trong tấn công cũng như trong
phòng thủ với cự ly di động không xa.
* Bước xoạc.
Khi thực hiện, chân bước theo hướng di động, chân nào bước
trước chạm đất thì khuỵu gối nhiều, chân sau duỗi tự nhiên hoặc hơi
gập một chút ở khớp gối. Người luôn ở tư thế sẵn sàng đánh bóng.
Bước xoạc vận dụng cứu bóng khi ở tầm thấp và có thể thực hiện
theo mọi phía song chủ yếu là sang ngang hay về phía trước.
1.2.3. Nhảy.
Trong bóng chuyền có bật nhảy để đập bóng, nhảy chuyền bóng,
chắn bóng hoặc bước nhảy, cả nhảy để đập xa đỡ bóng phòng thủ.
Bật nhảy bằng hai chân và một chân; bật nhảy tại chỗ và có đà.
1.2.4. Lăn và ngã.
- Lăn là các động tác quay để xoay chuyển thân.
- Ngã là phương pháp di chuyển gồm có: Ngã sấp, ngã nhửa và
ngã nghiêng. Ngã được vận dụng nhiều trong phòng thủ như cá nhảy,
lăn nghiêng cứu bóng, ngã ngửa chuyền bóng. Ngã không chỉ là
phương pháp đỡ bóng thuận lợi, nhanh mà còn là biện pháp bảo vệ
thân thể khi đỡ bóng.
1.3. Đội hình giảng giải thị phạm:
Đề cương học phần GDTC 2 – Bóng chuyền 9 10 Đề cương học phần GDTC 2– Bóng chuyền
1.3.1. Đội hình giảng giải vào làm mẫu.
- Chủ yếu là hàng ngang xếp thành nhiều hàng. Góc độ quan sát
của giáo viên không quá lớn.
- Làm mẫu toàn bộ động tác. kết hợp vừa giảng giải vừa làm
mẫu. Làm mẫu chậm cho người tập theo. Khi người tập đã nắm được
thì giáo viên chỉ dẫn theo hiệu lệnh của mình.
1.3.2. Hình thức tập luyện:
- Đứng tại chỗ tập tư thế chuẩn bị nhiều lần.
- Từ tư thế chuẩn bị bước sang ngang, tiến lên trước lùi về sau 1,
2 bước.
- Thực hiện nhiều bước di động
-Từ tư thế chuẩn bị quay người đổi hướng di động.
- Di động nhanh rồi dừng lại, chạy tiếp hoặc đổi hướng di động.
- Tại chỗ thực hiện động tác bật nhảy. tại chỗ thực hiện động tác
bước xoạc, lăn ngã.
- Di động nhiều bước xoạc, lăn ngã.
2. Kỹ thuật chuyền bóng cơ bản.
2.1. Chuyền bóng cao tay bằng hai tay.
2.1.1. Đặc điểm và tác dụng.
Chuyền bóng cao tay là kỹ thuật chủ yếu dùng những ngón tay
chuyền bóng đi.
- Khi chuyền bóng đi cùng một lúc có nhiều điểm tiếp xúc vào
bóng, nhưng điểm tiếp xúc ấy chủ yếu ở các ngón tay.
- Vị trí bàn tay tiếp xúc bóng khi chuyền luôn luôn ở trước mặt
với độ cao ngang trên trán hoặc trên đỉnh đầu.
- Cùng với lúc thực hiện động tác, mắt có thể quan sát được tay,
bóng, vị trí muốn chuyền tới.
- Chuyền bóng cao tay sử dụng được các bộ phận linh hoạt, khéo
léo nhất của cơ thể mà cụ thể là cá ngón tay, cổ tay góp phần tạo ra
độ chuẩn xác cao, linh hoạt và biến hoá các đường bóng. Đây là kỹ
thuật nối tiếp giữa phòng thủ và tấn công. Đặc biệt đối với đập bóng,
chuyền bóng là kỹ thuật chính để tổ chức ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng tấn công, ngoài ra còn có thể bỏ nhỏ vào chỗ trống trên
sân đối phương.
Với đặc điểm chuyền bóng, cùng một lúc có nhiều điểm tiếp xúc
vào bóng do đó dễ phạm lỗi kỹ thuật dính bóng, hai tiếng. Chuyền
bóng cao tay bao gồm một số kỹ thuật chủ yếu : Chuyền lật sau đầu,
nhảy chuyền bằng hai tay, một tay, ngã chuyền bóng, chuyền bước
hai. Ngoài ra nó còn có một số dạng khác phụ thuộc vào tư thế người
chuyền.
2.1.2. Phân tích kỹ thuật chuyền bóng cao tay bằng hai tay cơ bản.
- Người chuyền bóng đứng ở tư thế chuẩn bị chân trước, chân
sau, trọng lượng cơ thể dồn vào chân trước.
Nếu đồng đội chuyền bóng đến từ phía trái thì chân trái bước lên
trước và ngược lại. Người chuyền bóng khi di chuyển đến vị trí đón
bóng bằng bước thường, bước chạy ở đây điều quan trọng là động
tác xuất phát phải nhanh, tăng nhanh tốc độ ở một phần ba quãng
đường đầu tiên, rồi sau đó từ từ dừng lại để chọn vị trí đón bóng.
Bước cuối cùng là bước gìm, điều đó giúp cho việc chọn vị trí đón
bóng để chuyền bóng tới địa chỉ cần thiết.
Tư thế chuẩn bị, hai chân hơi khuỵu ở khớp gối (không nhỏ hơn
90
0
) hai tay co tự nhiên ở khớp khuỷu và đưa lên cao, hai bàn tay ở
phía trước mặt, các ngón cái ở ngang tầm lông mày. Các ngón trỏ tạo
thành hình tam giác và qua đó người tập có thể quan sát bóng bay tới
Đề cương học phần GDTC 2 – Bóng chuyền 9 10 Đề cương học phần GDTC 2– Bóng chuyền
gần, mỗi bàn tay khum xoè tạo thành hình ô van, hai bàn tay hợp
thành hình túi để chuẩn bị chuyền bóng (Hình 1).
Hình 1
Khi bóng tới gần thì 2 chân bắt đầu động tác phối hợp chuyền
bóng bằng cách duỗi mạnh khớp gối, đẩy người lên hơi chếch ra phía
trước. Sau đó là động tác của hai tay, vươn duỗi mạnh khớp khuỷu để
tạo hướng tay cơ bản của bóng khi chuyền đi. Hoạt động vươn duỗi
tay đẩy bóng được thực hiện nhờ chuyển động thẳng của trục khớp cổ
tay so với trục khớp vai. Khi thực hiện động tác đẩy bóng đi, hai chân
đạp duỗi mạnh và nhanh chóng kết hợp với hai tay vươn duỗi khớp
khuỷu nhưng chậm hơn (Hình2).
Để điều chỉnh hướng bóng, hai lòng bàn tay phải vuông góc với
hướng bóng chuyền đi, khi hai tay chạm đẩy bóng thì bàn tay hơi ưỡn
ra sau. Chức năng thực hiện đẩy bóng của các ngón tay cũng khác
nhau. Các ngón cái hướng ra sau chịu lực hoãn xung chính và cùng
với các ngón tay khác bật đẩy bóng theo hướng chuyền. Các ngón trỏ
và ngón giữa là bộ phận bật đẩy chính của bàn tay còn các ngón đeo
nhẫn và ngón út chỉ giữ phía bên trong của bóng và điều chỉnh hướng
bóng đi.
Khi bóng rời tay, cả chân và tay tiếp tục vươn duỗi hết rồi dừng
lại, động tác này gọi là chuyển động tay vươn theo bóng. Sau đó
nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị để sau đó tiếp tục thực hiện những
động tác tiếp theo.
2.1.3. Đội hình giảng giải và làm mẫu , hình thức tập luyện
* Đội hình giảng giải:
- Người tập xếp thành một hoặc nhiều hàng ngang tuỳ theo số
lượng cụ thể. Giáo viên đứng ở giữa hàng. Dùng 2 người làm mẫu
hướng bóng đi song song với lưới ,Sau đó giảng giải từng phần. Phân
tích từng cử động. Làm mẫu lần hai cần mấu chốt kỹ thuật và mục
đích chủ yếu của kỹ thuật.
* Hình thức tập luyện:
+ Tập không có bóng:
- Tại chỗ tập tư thế và hình tay,cần chú ý vị trí tay tiếp xúc bóng
và tầm chuyền.
- Tập chuyển động thân thể nhịp nhàng khi chuyền bóng.
- Di động rồi dùng lại khi chuyền bóng, chú ý ổn định của tư thế.
+ Tập có bóng:
Đề cương học phần GDTC 2 – Bóng chuyền 9 10 Đề cương học phần GDTC 2– Bóng chuyền
Hình 2
- Đứng ở tư thế chuyên giữ bóng tập hình tay, chú ý điểm tiếp
xúc và tầm chuyền.
- Đứng ở tư thế chuyền đẩy bóng đi, chú ý tư thế đứng và chuyển
thân nhịp nhàng khi đẩy bóng đi.
- Tự tung bóng lúc đầu chuyền tại chỗ, rồi chuyền đi chú ý tầm
chuyền bóng, hình tay khi tiếp xúc bóng, độ hoãn xung.
- Chuyền bóng do đồng đội tung( ở cự ly ngăn sau xa dần)
- Chuyền bóng liên tục vào tường hoặc hai người với nhau. Hai
nhóm với nhau.
- Một người đứng tại chỗ chuyền, một hoặc nhiều người di
chuyển chuyền bóng.
- Chuyền tam giác.
- Chuyền chéo lưới. Tư số 6 > 2, 4.Từ số 5 > số 3 hoặc số 2, từ số
1> 3 hoặc 4.
- Tập chuyền hai nâng cao độ khó.
- Thi đấu.
2.2. Kỹ thuật chuyền bóng thấp tay bằng hai tay.
2.2.1. Đặc điểm và tác dụng.
Đệm bóng là một kỹ thuật sử dụng cẳng tay, bàn tay đệm đẩy
bóng đi, diện tiếp xúc giữa tay và bóng rộng, nhưng điểm tiếp xúc ít
hơn chuyền bóng cao tay, do đó đã hạn chế được phạm lỗi kỹ thuật
như dính bóng, hai tiếng Đây là kỹ thuật phòng thủ quan trọng của
bóng chuyền , dùng để đỡ phát bóng, đỡ đập bóng và cứu bóng.
* Tác dụng:
- Đỡ được những đường bóng nhanh, mạnh, thấp, khó, khi đối
phương tấn công sang.
- Phạm vi khống chế rộng, đỡ được những đường bóng ở xa thân
người.
- Nâng cao thể lực, tính nhanh nhẹn, linh hoạt và lòng dũng cảm
cho người tập.
- Cấu trúc kỹ thuật đơn giản, kỹ thuật dễ tiếp thu và thuận lợi hơn
chuyền bóng cao tay.
Đệm bóng gồm có các kỹ thuật chính: Đệm hai tay, đệm lật sau
đầu, đệm nghiêng mình, đệm một tay và lăn cứu bóng. Ngoài ra trong
thi đấu còn có thể dùng thân người, dùng chân đỡ bóng.
2.2.2. Phân tích kỹ thuật chuyền bóng thấp tay bằng hai tay cơ bản.
Đây là kỹ thuật dùng khi thực hiện hướng bóng đi và hướng
bóng đến đều ở phía trước mặt và gần như cùng quỹ đạo chuyển động
nhưng ngược chiều.
* Tư thế chuẩn bị:
Người đứng ở tư thế trung bình thấp, chân rộng bằng hoặc hơn
vai. Hai tay co tự nhiên ở hai bên sườn, thân hơi gập, mắt quan sát
bóng.
Khi xác định chính xác điểm rơi của bóng và ở tầm thích hợp hai
tay đưa ra đỡ bóng. Hai tay duỗi thẳng, hai bàn tay đặt chéo lên nhau
và nắm lại, bàn tay nọ bọc lấy bàn tay kia, hai ngón cái song song kề
sát với nhau (Hình 3).
Hình 3
Đề cương học phần GDTC 2 – Bóng chuyền 9 10 Đề cương học phần GDTC 2– Bóng chuyền
* Đánh bóng:
Khi bóng đến tầm ngang hông, cách thân khoảng gần một cánh
tay thì thực hiện đánh bóng. Lúc này chân đạp đất duỗi khớp gối,
nâng trọng tâm thân thể và nâng tay. Hai tay được chuyển động từ
dưới lên trên và dùng phần giữa cẳng tay đệm dưới bóng kết hợp với
nâng tay ở mức độ cần thiết. Khi hai tay chạm bóng cũng là lúc gập
cổ tay xuống dưới làm căng các nhóm cơ cẳng tay, kết hợp hóp bụng,
giữ chắc bả vai với khớp khuỷu. Hai tay chắc thẳng, nắm và ép chặt
vào nhau, toàn thân hơi lao về trước (Hình 4).
Hình 4
Nếu bóng đi đến với lực nhẹ vừa phải thì kết hợp với đạp chân,
nâng nhanh tay để đẩy bóng đi.
Nếu bóng đi đến với tốc độ nhanh, mạnh thì hạn chế nâng tay mà
ghìm bóng để bóng bật đi theo ý muốn. Góc độ đường bóng đi phụ
thuộc góc độ tay đệm bóng. Góc của tay đệm bóng là góc tạo bởi mặt
phẳng đất và cánh tay đệm bóng. Góc độ của tay đệm bóng còn phụ
thuộc góc độ của đường bóng đến. Góc độ bóng đến là góc tạo bởi
mằt phẳng mặt đất và đường bóng đến.
Nếu góc độ đường bóng đến lớn thì góc độ của tay đệm bóng
nhỏ. Nếu góc độ của đường bóng đến nhỏ thì góc độ của tay đệm
bóng lớn. Trong tập luyện và thi đấu bóng chuyền tùy điều kiện cần
vận dụng cụ thể, tùy thuộc đặc điểm góc độ đường bóng đến và độ
cao của đường bóng muốn chuyền đi mà quyết định góc độ của tay
đệm bóng cho phù hợp.
Kết thúc động tác: Khi bóng ra tay hai chân tiếp tục duỗi, tay
nâng theo hướng bóng đi một đoạn ngắn rồi nhanh chóng trở về tư
thế chuẩn bị để tiếp tục thực hiện những động tác tiếp theo.
2.2.3. Đội hình giảng giải, làm mẫu động tác.
* Làm mẫu:
Dùng hai người làm mẫu toàn bộ động tác ở giữa hai hàng,
hướng bóng đi song song với hàng.
Sau đó giảng dạy từng phần, phân tích từng cử động, làm mẫu lần
hai cần nêu rõ mấu chốt kỹ thuật, mục đích, yêu cầu kỹ thuật.
2.2.4. Hình thức tập luyện:
* Tập không có bóng:
- Tập hình tay, làm nhiều lần ( đúng kỹ thuật đã giảng)
- Tập tư thế và hình tay khi chuyền bóng
- Chuyền bóng tại chỗ, chú ý chuyển thân nhịp nhàng.
- Di chuyển các bước các hướng chuyền bóng đi.
* Tập có bóng:
- Chuyền bóng cố định tại chỗ( dùng bóng treo hay một người
giữ bóng một người tập).
- Di động tập chuyền bóng cố định, di động nhanh, chiếm vị trí
tốt, có tư thế đúng, phối hợp nhịp nhàng.
- Tự tung tự chuyền.
Đề cương học phần GDTC 2 – Bóng chuyền 9 10 Đề cương học phần GDTC 2– Bóng chuyền