Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

kinh nghiệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở một số nước và bài học kinh nghiệm vận dụng với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.62 KB, 47 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Công nghiệp hoá là con đường tất yếu để các nước đang phát triển thoát
khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu về kinh tế. Vào những năm 50 của thế kỷ
XX, làn sóng công nghiệp hoá diễn ra ở nhiều nước đang phát triển với sựđa
dạng về mô hình và cách thức tiến hành. Nhìn lại mấy thập kỷ qua, công
nghiệp hoáở các nước đang phát triển đã có những thành công và hạn chế
khác nhau. Thực tế, một số quốc gia đã trở thành nước công nghiệp mới. Một
số quốc gia chuẩn bị gia nhập hàng ngũ các nước công nghiệp mới. Cũng
trong hoàn cảnh ấy, sốđông các nước đang phát triển vẫn trong tình trạng
nghèo nàn lạc hậu về kinh tế.
Hoà vào làn sóng công nghiệp hoá các nước đang phát triển, các nước ở
khu vực Đông NamÁ qua mấy thập kỷ thực hiện công nghiệp hoáđã thu được
những thành tựu quan trọng. Kinh tế tăng trưởng nhanh và cơ cấu kinh tế có
sự dịch chuyển theo hướng công nghiệp hoá.
Ở Việt Nam, từ 1986 đến nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo
đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng đãđem lại những thay đổi cơ bản
cho đất nước. Trong điều kiện có nhiều khó khăn và những tác động tiêu cực
từ trong đời sống kinh tế - chính trị quốc tế, kinh tế Việt Nam vẫn đạt tăng
trưởng cao so với một số nước trong khu vực và thế giới. Từ giữa thập kỷ 90
của thế kỷ XX, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Những thành
tựu kinh tếđạt được đã vàđang tạo tiền đề cho đất nước đẩy nhanh tiến trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực tế công nghiệp hoá, hiện đại hoáở nước
ta vẫn bộc lộ không ít vấn đề bất cập, đặc biệt là việc lựa chọn chiến lược
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bối cảnh quốc tế hoáđời sống kinh tế thế
giới dưới tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ thời đại.
Việt Nam và các nước nằm trong vùng Đông Namá, cùng là thành viên
của ASEAN. Hai nước có một sốđiểm tương đồng vềđiều kiện tự nhiên, kinh
tế - xã hội trong tiến hành công nghiệp hoá. Do vậy việc nghiên cứu quá trình
công nghiệp hoáở các nước này sẽ giúp cho chúng ta rút ra một số bài học
kinh nghiệm có tính chất tham khảo với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hoáở nước ta hiện nay. Vì vậy em chọn đề tài: "Kinh nghiệm công nghiệp


hoá, hiện đại hoáở một số nước và bài học kinh nghiệm vận dụng với Việt
Nam" cho bài đềán của mình.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰ CTIỄN
VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
I. Khái niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1. Các quan niệm về công nghiệp hoá
Ngày nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá mang tính tất yếu trong quá
trình phát triển kinh tế của các quốc gia. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường để biến một nền kinh tế nông nghiệp
lạc hậu thành một nền kinh tế hiện đại, mà công nghiệp có vai tròđặc biệt
quan trọng. Với cách tiếp cận khác nhau thì quan niệm về công nghiệp hoá,
hiện đại hoá cũng có những điểm không hoàn toàn giống nhau và tất nhiên sẽ
dẫn đến những chính sách và giải pháp thực thi cũng khác nhau đối với từng
nước, thậm chíđối với một quốc gia trong những thời kỳ lịch sử khác nhau.
Điều đóđược thể hiện khá rõở sựđa dạng trong việc lựa chọn mo hình công
nghiệp hoá, hiện đại hoáở các nước trên thế giới.
Quan niệm đơn giản nhất cho rằng "Công nghiệp hoá làđưa tính đặc thù
công nghiệp cho một hoạt động (của một vùng, một nước) với các nhà máy,
các loại hình công nghiệp". Quan niệm này được hình thành trên cơ sở khái
quát quá trình lịch sử công nghiệp hoáở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Trong
quá trình thực hiện công nghiệp hoá, các nước này chỉ chủ yếu tập trung vào
phát triển các ngành công nghiệp, nên sự chuyển biến của các hoạt động kinh
tế - xã hội khác chỉ là hệ quả của quá trình phát triển công nghiệp, mà không
phải làđối tượng trực tiếp của công nghiệp hoá. Quan niệm giản đơn trên đây
có những mặt chưa hợp lý. Trước hết, nó không cho thấy mục tiêu của quá
trình công nghiệp hoá cần thực hiện. Thứ hai, nội dung quan niệm này gần
nhưđồng nhất quá trình công nghiệp hoá với quátrình phát triển công nghiệp.
Thứ ba, quan niệm này cũng không thể hiện được tính lịch sử của quá trình
công nghiệp hoá. Do vậy, quan niệm này được vận dụng rất hạn chế trong

thực tiễn.
Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) đãđưa ra
định nghĩa sau đây (vào năm 1963): "Công nghiệp hoá là một quá trình phát
triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của
cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong
nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ
phận chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu
dùng, có khả năng bảo đảm cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ
cao, bảo đảm đạt tới sự tiến bộ về kinh tế - xã hội". Khái niệm này nói lên
rằng công nghiệp hoá là quá trình bao trùm toàn bộ quá trình phát triển kinh
tế - xã hội nhằm đạt tới không chỉ sự tăng trưởng kinh tế mà còn cả sự tiến bộ
xã hội. Đồng thời quá trình công nghiệp hoá trong điều kiện ngày nay cũng
gắn liền với quá trình hiện đại hoá nền kinh tế, trong mọi mặt hoạt động kinh
tế - xã hội. Tuy nhiên, định nghĩa trên đây lại quá dài với ý tưởng dung hoà
nhiều ý kiến khác nhau, nên nó mang tính chất một phương hướng thực thi
hơn là một khái niệm.
Một định nghĩa được dùng phổ biến ở nước ta hiện nay cóý nghĩa tương
đối bao quát và phù hợp về công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời đại ngày
nay do Báo cáo Hội nghị Trung ương 7 (khoá VII) đưa ra là "quá trình chuyển
đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý
kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng phổ biến
sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện
đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - cong nghệ,
tạo ra năng suất lao động xã hội cao". Định nghĩa này đã nói lên được phạm
vi và vai tròđặc biệt quan trọng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong phát
triển kinh tế - xã hội; gắn liền được hai phạm trù không thể tách rời là công
nghiệp hoá và hiện đại hóa. Nó cũng xác định vai tròkhông thể thiếu của khoa
học - công nghệ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2. "Công nghiệp hoá" và "hiện đại hoá"
Công nghiệp hoá là quá trình trang bị công nghệ và thiết bị cơ khí hoá

cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành chiếm vị trí
quan trọng. Công nghiệp hoáđã làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất
với kỹ thuật, công nghệ và tổ chức sản xuất truyền thống. Hiện đại hoá là quá
trình thường xuyên cập nhật và nâng cấp những công nghệ hiện đại nhất, mới
nhất trong quá trình công nghiệp hoá. Đa số các ý kiến của các nhà nghiên
cứu cho rằng hiện đại hoá là quá trình liên tục hiện đại nền kinh tế, thay đổi
công nghệ cũ bằng công nghệ mới tiên tiến hơn. Thực chất, hiện đại hoá là cái
đích cần vươn tới trong quá trình công nghiệp hoá. Cái đích này không cốđịnh
hay duy nhất đối với một quốc gia hay một ngành nghề mà nó luôn thay đổi
theo sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trình độ văn minh chung của nhân
loại. Nó còn phụ thuộc cả và loại ngành nghề, từng khu vực khác nhau ngay
trong một nước. Xu thế chung của thế giới ngày nay là thực hiện đổi mới
công nghệ nhanh chóng, rút ngắn chu kỳ sống của mỗi loại công nghệ. Điều
cần phấn đấu làđưa trình độ khoa học - công nghệ của đất nước theo kịp với
trình độ hiện đại chung của thế giới. Tuỳđiều kiện cụ thể của mỗi ngành, mỗi
lĩnh vực hoạt động mà xác định trình độ công nghệ thích ứng. Quan niệm một
cách giản đơn về công nghiệp hoá, hiện đại hoá dẫn tới việc tiếp thu công
nghệ không chọn lọc. Do sự thiếu hiểu biết và thiếu thông tin đã dẫn nhiều
nước đang phát triển phải trả giá quá lớn và tốc độ hiện đại hoá không được
đẩy nhanh.
Vào cuối thế kỷ 20, với những thay đổi nhanh chóng của cách mạng
khoa học kỹ thuật và công nghệ thì việc hiện đại hoáđối với các nước rất
khóđạt được. Ngay cả những nước phát triển cũng dễ dàng bị tụt hậu. Vì vậy,
các nước đi sau trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá buộc phải chia
quá trình này thành nhiều giai đoạn với mục tiêu của giai đoạn sau là hiện đại
hoá những gì mà giai đoạn trước đãđạt được. Đối với mỗi giai đoạn phát triển,
người ta thường dùng một số chỉ tiêu nhằm đánh giá kết quả công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, ví dụ như mức đóng góp của công nghiệp trong GDP, tỷ trọng
lao động trong công nghiệp trong tổng lao động xã hội…
Thực hiện công nghiệp hoá trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ

thuật ngày nay, quá trình trang bị công nghệ cho các ngành phải gắn liền với
quá trình hiện đại hoáở cả phần cứng và phần mềm của công nghệ. Quá trình
này cũng đồng thời là quá trình xây dựng xã hội văn minh công nghiệp và cải
biến các ngành kinh tế, các hoạt động theo phong cách của nền công nghiệp
lớn hiện đại. Quá trình ấy phải tác động làm cho nhịp độ tăng trưởng kinh tế -
xã hội nhanh vàổn định, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của các tầng
lớp dân cư, thu hẹp dần chênh lệch trình độ kinh tế - xã hội của đất nước với
các nước phát triển. Trong đó những nước đi sau đã có một sốít nước (trong đó
cóCác nước) thực hiện được hiện đại hoá tương đối cao trong thời gian ngắn.
II. Bản chất của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Trong điều kiện ngày nay, quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
dù trên góc độ nào đó cũng có phần khác với quá trình phát triển công nghiệp.
tuy quá trình công nghiệp hoá có những đặc điểm riêng đối với từng nước,
nhưng đó chỉ là sự vận dụng một quá trình có tính phổ biến cho phù hợp với
điều kiện cụ thể của từng nước. Công nghiệp hoá, là quá trình có tác động rộng
lớn và phức tạp, bản chất của quá trình này bao hàm trên các mặt sau đây:
•Thứ nhất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một phương thức có tính
chất phổ biến để thực hiện mục tiêu trong phát triển của hầu hết các quốc gia
trên thế giới. Mỗi nước vì có hệ thống mục tiêu riêng của mình mà lựa chọn
phương thức công nghiệp hoá phù hợp. Nhưng mục tiêu chung nhất của mọi
quốc gia là nhằm tăng nhanh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật
chất mọi mặt của mọi tầng lớp dân cư thông qua việc tạo ra cơ sở vật chất kỹ
thuật ngày càng hiện đại, huy động và sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực
của đất nước.
•Thứ hai, công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá. Trong lịch sử
công nghiệp hoáđã diễn ra hàng trăm năm ở các nước trên thế giới, công
nghiệp hoá và hiện đại hoá luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì hiện
đại hoáđểđạt tới trình độ kỹ thuật hiện đại nhất là một yêu cầu cơ bản của quá
trình công nghiệp hoá. Thực tễ kỹ thuật hiện đại nhất đối với mỗi giai đoạn
lịch sử có giới hạn nhất định và luôn luôn thay đổi theo thời gian. Chính vì

vậy, hiện đại hoá không phải là một quá trình độc lập mà là một hoạt động có
tính liên tục của công nghiệp hoá gắn liền với sự tiến bộ của khoa học kỹ
thuật, hay là một quá trình kế tiếp đểđạt được mục tiêu của công nghiệp hoá.
Vào thế kỷ 18-19 ở Anh và Tây Âu thì hiện đại hoá là việc áp dụng máy móc
với hệ thống động lực máy hơi nước thay thế cho lao động cơ bắp. Đến thế kỷ
20 cóđiện năng thì hiện đại hoá chính là dựa trên điện khí hoá như khẩu hiệu
V.Lênin đã vạch ra cho nước Nga. Ngày nay, với những tiến bộ khoa học kỹ
thuật mới thì hiện đại hoá gắn liền với tựđộng hoá, tin học hó và nền kinh tế
tri thức. Nói chung, hiện đại hoá chính là chỉ phương tiện, điều kiện đểđạt tới
mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá, vì vậy nó không thể tách rời công
nghiệp hoá.
•Thứ ba, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình tác động đến tất cả
các ngành, các lĩnh vực hoạt động của một nền kinh tế. Vì trong một chỉnh thể
kinh tế của một quốc gia, các ngành các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội có
quan hệ mật thiết và tác động qua lại với nhau. Sự thay đổi ở ngành, lĩnh vực
này sẽ dẫn tới sự thay đổi ở các ngành, các lĩnh vực khác. Quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế quốc dân và cơ cấu lao động. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá chuyển dịch cơ cấu làm cho vị trí của ba khu vực kinh tế: công nghiệp,
nông nghiệp và dịch vụ luôn luôn thay đổi.
•Thứ tư, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự kết hợp chặt chẽ của các
quá trình kinh tế - kỹ thuật - xã hội - môi trường. Quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là sẽđem lại cho đất nước trình độ kỹ thuật công nghệ ngày càng
hiện đại, kinh tế ngày càng vững mạnh. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng
nâng cao dân trí, mức sống dân cư và phát triển xã hội ngày càng văn minh.
Như vậy, trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá, quá trình kinh tế - kỹ thuật xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc thực hiện mục tiêu của quá trình kinh
tế- xã hội. Trong khi đó, quá trình kinh tế - xã hội mang lại động lực quan
trọng cho thực hiện mục tiêu của quá trình kinh tế - kỹ thuật.
•Thứ năm, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn là quá trình mở

rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Ngày nay, mở rộng phân công lao động
quốc tế và xu thế toàn cầu hoá kinh tếđang diễn ra như một tất yếu. Mỗi quốc
gia là một bộ phận của hệ thống kinh tế thế giới, chịu ảnh hưởng của biến
động kinh tế thế giới và có tác động ở mức độ khác nhau đến kinh tế của các
nước khác. Vì vậy, việc xác định mục tiêu, phương thức công nghiệp hoá,
hiện đại hoáở mỗi nước cần dựa trên cơ sở phân tích và dự báo những biến
động kinh tế - xã hội chung của khu vực và toàn cầu. Việc xây dựng hệ thống
kinh tế quốc gia mở và tăng cường hợp tác kinh tế và phân công lao động
quốc tế là xu hướng không cưỡng lại được của mọi quốc gia trên thế giới hiện
nay.
Giữa công nghiệp hoáở các nước đi theo con đường TBCN vàở nước ta
và các nước theo con đường XHCN có những khác nhau về nhiều mặt, quan
trọng nhất là về bản chất xã hội. Tuy cùng mục đích là biến một nền kinh tế
nông nghiệp thành nền kinh tế công nghiệp, nhưng do chếđộ chính trị- xã hội
nên mục tiêu của công nghiệp hoá của các nước khác nhau căn bản. Công
nghiệp hoáở các nước TBCN nhằm thay đổi vàđưa đến thắng lợi của phương
thức sản xuất TBCN mang lại lợi ích cho giai cấp tư sản, công nghiệp hoáở
nước ta nhằm mục tiêu nâng cao phúc lợi xã hội, đời sống mọi mặt của nhân
dân giữbền vững môi trường. Công nghiệp hoáở các nước TBCN đem lại
phương tiện ngày càng tinh vi để giai cấp tư sản bóc lột nhân dân lao động và
càng gây thêm phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng và mâu thuẫn sâu sắc
trong xã hội; còn ở nước ta nó sẽ tạo ra tiền đề cơ sở vật chất ngày càng hiện
đại trong một nền kinh tế mà người chủđích thực là nhân dân lao động, nó gắn
liền với công bằng xã hội và tiến bộ xã hội. Vì vậy, công nghiệp hoá, hiện đại
hoáở nước ta có thể tham khảo và vận dụng sáng tạo các kinh nghiệm về lựa
chọn chiến lược, các giải pháp huy động vốn, giải pháp khoa học công nghệ,
giải pháp kinh tế xã hội… của các nước đi trước nhằm mục tiêu hiện đại hoá
nhanh và giữ vững bản chất xã hội của công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo
định hưỡng XHCN.
III. Các mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoáở các nước đang

phát triển
Trong lịch sử công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra trên thế giới hàng
trăm năm qua có sựđa dạng về mô hình. Luận án chỉ tập trung nghiên cứu mô
hình công nghiệp hoá, hiện đại hoáở các nước đang phát triển trong những
thập kỷ gần đây. Đó là những nước trước đây vốn là thuộc địa hoặc nửa thuộc
địa của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, đã giành được độc lập dân tộc, nền kinh
tế trong tình trạng thấp kém. Do điều kiện kinh tế - xã hội như vậy, các nước
có những điểm tương đồng với nước ta về xuất phát điểm trong tiến trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu (chiến lược hướng nội)
- Mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu (chiến lược hướng ngoại)
- Mô hình công nghiệp hoá bền vững theo hướng hội nhập (chiến lược
hỗn hợp)
Việc lựa chọn mô hình công nghiệp hoá bền vững theo hướng hội nhập
đang là vấn đề mới trong giai đoạn thử nghiệm vàđịnh hình. Điều chắc chắn
trong quá trình triển khai sẽ phát sinh những hạn chếmới. Đây là những vấn
đề mà các nước cần nắm bắt đểđiều chỉnh, khắc phục đểđạt được mục tiêu của
công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước mình.
CHƯƠNG II
KINHNGHIỆMCÔNGNGHIỆPHOÁ, HIỆNĐẠIHOÁ
ỞMỘTSỐNƯỚCĐANGPHÁTTRIỂNCHÂUÁ
Mấy thập kỷ qua, làn sóng công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra mạnh
mẽở các nước đang phát triển. Do xuất phát điểm khi bước vào quá trình này
có khác nhau và những định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá khác nhau
nên công nghiệp hoá, hiện đại hoá có sựđa dạng về mô hình. Lịch sửđã ghi
nhận những thành công và thất bại của nhiều quốc gia trong công nghiệp hoá.
Trong phạm vi nghiên cứu, luận án chỉ tập trung vào quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoáở một số nước và vùng lãnh thổ có nền kinh tế thấp kém và
cóđặc điểm kinh tế - xã hội mang những nét tương đồng với nước ta nhưĐài
Loan, Thái Lan, Malaysia… để làm rõ thêm thực tế trên.

I. Công nghiệp hoá, hiện đại hoáở Thái Lan
So với các nước đang phát triển ở châu Á như Nhật Bản hoặc các nước
công nghiệp mới (Nics), Thái Lan là nước chậm trong phát triển công nghiệp.
Tuy vậy, nước này đã nhận thức được tầm quan trọng của phát triển công
nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế, cũng như hiện đại hoá nền kinh tế.
Tháng 10 năm 1954, Thái Lan đã công bố "Dự luật khuyến khích phát triển
công nghiệp" và bắt đầu xúc tiến công nghiệp hoá với việc thành lập Ban đầu
tư (BOI) năm 1959. Thực thi chính sách nghiêng về phát triển công nghiệp
nhằm dùng công nghiệp hoá làm động lực phát triển toàn bộ nền kinh tế.
Trong suốt những năm 60 qua 2 kế hoạch 5 năm (1961-1966), kế hoạch
(1967-1971) Thái Lan nhấn mạnh vào việc phát triển công nghiệp thay thế
nhập khẩu, với đặc trưng chủ yếu hướng vào thị trường trong nước. Nhà nước
đã có những chính sách bảo hộ công nghiệp trong nước, khuyến khích các
ngành công nghiệp sử dụng nhiều nguyên liệu và lao động trong nước. Do
vậy, công nghiệp trong nước đã có khả năng cạnh tranh với hàng nhập khẩu ở
các lĩnh vực: dệt, hoá chất, chế biến thực phẩm… Trong suốt thập kỷ 60, tốc
độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt trên 10%. Tuy vậy, chính sách công
nghiệp hoá hướng nội ở Thái Lan cũng đã bộc lộ những hạn chế. Thứ nhất, do
công nghệ hạn chế, Thái Lan vẫn phải nhập máy móc thiết bị, công nghệ sản
xuất và nguyên liệu thô. Điều này có nghĩa là chính sách thay thế nhập khẩu
không đạt được mục đích đề ra mà chỉ làm thay đổi cơ cấu nhập khẩu. Thứ
hai, chính sách thay thế nhập khẩu còn tác động đến việc sử dụng lãng phí các
nguồn tài nguyên trong nước do kỹ thuật lạc hậu và trình độ quản lý kinh tế
yếu kém, chi phí lao động cao, năng suất thấp. Thứ ba, thực hiện chiến lược
này, nhà nước đã can thiệp quá sâu vào hoạt động của nền kinh tế và chính
sách thay thế nhập khẩu làm cho công nghiệp trong nước phát triển chậm
chạp, trì trệ do thiếu động lực cạnh tranh.
Để khắc phục những hạn chế của chiến lược hướng nội, Thái Lan đã
hoạch định lại chính sách công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ 1972 Thái Lan
đã chuyển sang chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Các kế

hoạch 5 năm 1972-1976, 1977-1981, 1982-1986, 1987-1990, 1991-1995 đã
thực hiện điều chỉnh sự phát triển của công nghiệp nhằm tranh thủ các nhân tố
thuận lợi bên ngoài kết hợp với việc sử dụng các lợi thế trong nước đểđa dạng
hoá trong sản xuất kinh doanh đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Nhà nước đã
có những chính sách và biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy tiến trình công
nghiệp hoá như khuyến khích đầu tư nước ngoài, khuyến khích đầu tư trong
nước, chính sách miễn thuếđối với hàng nhập khẩu và kinh doanh nguyên vật
liệu và tư liệu sản xuất nhập phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu. Từ cuối
thập kỷ 80, Thái Lan đã lấy công nghiệp hoá chất làm trọng tâm, chúýđa dạng
hoá sản phẩm xuất khẩu, coi dầu tư nước ngoài làđộng lực để phát triển kinh
tế.
Để thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, Thái Lan
vừa chú trọng đào tạo đội ngũ nhân lực vừa nhập khẩu công nghệ mới từ Nhật
Bản và phương Tây. Thực tế cho thấy việc chuyển hướng chiến lược trong
công nghiệp hoáđã mang lại những thành công đáng chúý. Trong thập kỷ 70,
tốc độ tăng trưởng GDP đạt khá cao trung bình 10%/năm, từ 1980-1990 đạt
7,6%; 1991-1995 là 8,6%. Từ 1987-1990, tốc độ tăng trưởng của công nghiệp
Thái Lan bình quân là 15%. Những năm đầu của thập kỷ 90, tốc độ tăng
trưởng kinh tế có chững lại nhưng tốc độ tăng trưởng công nghiệp vẫn có xu
hướng tăng. Ngoại thương Thái Lan có xuất khẩu tăng nhanh: 1976 đạt kim
ngạch 197 triệu USD, 1996 đạt 7,096 tỷ USD. Thu nhập quốc dân của Thái
Lan cũng tăng nhanh đến năm 1998 đạt bình quân đầu người 2.450 USD.
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ cấu kinh tế của Thái Lan đã
có sự thay đổi theo hướng tích cực tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế có
xu hướng giảm dần, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng lên.
Bảng 1.1: Cơ cấu kinh tế Thái Lan (1960-1999)
1960 1970 1980 1985 1990 1999
Nông nghiệp 40 28 25 17 12 13
Công nghiệp và XD 26 32 36 41 46 40
Dịch vụ 34 40 39 42 42 47

Nguồn: World Development Report, World Bank, 1998, 1999, 2000
Sau hơn ba thập kỷ phát triển nhanh chóng, kinh tế Thái Lan đã bộc lộ
những hạn chế. Đó là sự phụ thuộc quá lớn vào nguồn vốn đầu tư nước ngoài
và công nghệ nhập khẩu. Trong phát triển, có tình trạng mất cân đối nghiêm
trọng giữa quy môđầu tư và khả năng tài chính. Tình trạng quá nóng của nền
kinh tế, đặc biệt từ giữa thập kỷ 90, khiến nợ nước ngoài của Thái Lan gia
tăng (chủ yếu là nợ ngắn hạn và trung hạn): chiếm tới 50% so với GDP
(1997). Trong hoàn cảnh ấy, vai tròđiều tiết, kiểm soát của hệ thống tài chính-
ngân hàng trong đầu tư và cung ứng tiền tệ bộc lộ nhiều yếu kém. Đó chính là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệở Thái Lan
và lan rộng sang các nước Đông NamÁ vàĐông Á vừa qua. Đối phó với tình
hình ấy, Thái Lan buộc phải thực hiện điều chỉnh chiến lược công nghiệp hoá.
II. Công nghiệp hoá, hiện đại ởĐài Loan
Công nghiệp hoáởĐài Loan được tiến hành trong điều kiện rất khó khăn
cả vềđiều kiện trong nước và ngoài nước, không chỉ do nguồn tài nguyên hạn
hẹp, trình độ kinh tế nói chung còn thấp kém, mà còn do ảnh hưởng của bối
cảnh chính trịđặc biệt của hòn đảo này. Vềđối ngoại, Đài Loan không được sự
công nhận rộng rãi của cộng đồng quốc tế. Thêm vào đó, Đài Loan luôn đứng
trước khả năng phải đương đầu với cuộc chiến tranh giải phóng Đài Loan,
thống nhất đất nước của chính phủ Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Điều đó
càng làm cho tình hình Đài Loan bất ổn định, lòng dân không yên, công
nghiệp hoá gặp thêm nhiều trở ngại. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoáởĐài Loan có thể chia làm 3 giai đoạn [36]:
1. Giai đoạn thứ nhất (1953-1964)
Giai đoạn này tương ứng với 3 kế hoạch 4 năm phát triển kinh tế của
Đài Loan: 1953 - 1956, 1957-1960 và 1961-1964, thực hiện chiến lược hướng
nội.
Mục tiêu chiến lược của Đài Loan giai đoạn này là phát triển công
nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản của nhân dân nhưăn, mặc, ở, đi lại, học
tập, giải trí… Do vậy, CNH ở giai đoạn 1953-1964, thay thế nhập khẩu được

coi là nhiệm vụ trọng tâm.
Trong giai đoạn này, Đài Loan một mặt chủ trương phát triển các ngành
sản xuất trong nước nhằm thay thế những sản phẩm nhập khẩu trước đây; mặt
khác, đưa ra một loạt các biện pháp nhằm hạn chế nhập khẩu những mặt hàng
tự sản xuất được. Chính quyền Đài Loan còn áp dụng nhiều biện pháp hỗ trợ
công nghiệp nội địa như miễn giảm thuế kinh doanh, cho vay với lãi suất thấp
và các khoản trợ cấp khác. Nhà nước đã có một loạt các biện pháp khẩn cấp
để trấn an lòng dân, ổn định kinh tế, tạo điều kiện để bước vào công nghiệp
hoá. Các biện pháp chủ yếu bao gồm:
Thứ nhất: chú trọng phát triển nông nghiệp. Ý thức được lợi thế vốn có
của mình là nông nghiệp, Đài Loan đã tập trung cho lĩnh vực này. Biện pháp
cốt lõi để phát triển nông nghiệp giai đoạn 1950-1952 là cải cách ruộng đất.
Cải cách ruộng đất 1950-1952 không chỉđem lại ruộng đất cho người nông
dân mà quan trọng hơn, nó kích thích sản xuất trong nông nghiệp, tạo nguồn
nguyên liệu ổn định và có tích luỹ ban đầu đầu tư cho công nghiệp hoá.
Thứ hai: ổn định tài chính, kinh tế. Trong điều kiện lạm phát phi mã,
không một nhàđầu tư nào dám bỏ vốn vào dựán công nghiệp. Do vậy, Đài
Loan rất chú trọng ổn định tài chính. Để triển khai có hiệu quả biện pháp này,
chính phủĐài Loan đã thành lập "Uỷ ban quản lý sản xuất khu vực", thông
qua cải cách tiền tệđể ngăn chặn lạm phát, tăng cường quản lý ngoại tệ, khôi
phục các cơ sở công nghiệp…
Thứ ba: tận dụng lợi thếđịa lý - chính trị của mình trong quan hệ với
Mỹ. Đài Loan rất chú trọng tranh thủ sự viện trợ và giúp đỡ của Mỹ và các
nước phương Tây. Tính đến giữa năm 1951, riêng Mỹđã cung cấp cho Đài
Loan 42 triệu USD viện trợ kinh tế. Số tiền viện trợ này đã hỗ trợ rất nhiều
cho chương trình cải cách ruộng đất vàổn định tài chính ởĐài Loan giai đoạn
1950-1952 [40].
Nhờáp dụng các biện pháp tích cực nêu trên và huy động mọi nỗ lực
của toàn xã hội, đến cuối năm 1952, nền kinh tếĐài Loan đãđược khôi phục,
đạt mức cao nhất trước chiến tranh. Những kết quả nói trên tạo thuận lợi

đểĐài Loan bước vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chiến lược
công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu với các biện pháp tích cực đãđem lại cho
Đài Loan một số kết quả nhất định: giá trị sản lượng công nghiệp từ 1953 đến
1962 tăng trung bình 11,7%/năm. Công nghiệp được mở rộng đã thu hút thêm
một lượng lớn lao động, từ 17% trong toàn bộ lao động đang làm việc năm
1951 tăng đến 25% năm 1964 [59]. Bước ngoặt đánh dấu sự phát triển công
nghiệp của Đài Loan là giá trị sản xuất công nghiệp từ năm 1956 đã bắt đầu
vượt giá trị sản xuất nông nghiệp trong GDP.
Về mặt kinh tế - xã hội, chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu
cũng có tác động tích cực đến phát triển nông nghiệp vàđời sống nông thôn.
Ngoài việc cung cấp các sản phẩm phục vụ nông nghiệp, các ngành công
nghiệp còn thu hút một lượng không nhỏ lao động dư thừa ở nông thôn, giải
quyết một phần tình trạng thất nghiệp, thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các
tầng lớp nhân dân.
Tuy nhiên, chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu kể từđầu
thập kỷ 60 cũng đã bộc lộ các mặt hạn chế của nó, sản phẩm công nghiệp của
Đài Loan không có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới, còn lại thị
trường trong nước, sức mua của người dân rất hạn chế do thu nhập còn thấp.
Trong khi đó, việc nhập khẩu các nguyên liệu, thiết bị cần thiết cho CNH vẫn
tiếp tục tăng lên khiến thâm hụt mậu dịch, thâm hụt ngoại tệ vẫn tiếp tục tăng.
Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tốc
độ tăng trưởng của công nghiệp bắt đầu giảm dần từ cuối thập kỷ 50, từ 20%
năm 1955 xuống còn 8,9% năm 1961. Riêng tốc độ tăng trưởng của công
nghiệp chế biến - một thế mạnh của Đài Loan thập kỷ 50 cũng giảm từ 14,4%
năm 1960 xuống còn 8,1% năm1962. Để thoát khỏi tình thế bất lợi này và tìm
kiếm con đường phát triển cho Đài Loan, chính phủ và các nhà kinh tế, giới
kinh doanh của hòn đảo này đã chuyển chiến lược công nghiệp hoá thay thế
nhập khẩu sang công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.
2. Giai đoạn thứ 2 (1963-1970)
Triển khai chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, Đài Loan

đã thực hiện một bước thay đổi căn bản về chiến lược phát triển, về quy chế
và quản lý kinh tế, thông qua một loạt cải cách quan trọng. Thứ nhất, áp dụng
chếđộ một tỷ giá hối đoái. Thứ hai, chính phủĐài Loan áp dụng nhiều biện
pháp ưu đãi đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng phục vụ xuất khẩu. Thứ
ba, ngoài các nỗ lực huy động nguồn lực bên trong, Đài Loan ban hành nhiều
chính sách nhằm thu hút vốn và công nghệ từ bên ngoài.
Phương châm đề ra trong giai đoạn này là: "xuất khẩu để nhập khẩu",
"nhập khẩu để thúc đẩy xuất khẩu". Do đó, công nghiệp nheu và công nghiệp
nặng Đài Loan đã có bước phát triển mạnh mẽ, đạt mức tăng trưởng trung
bình hàng năm là 18,5%. Điều quan trọng hơn là tỷ trọng công nghiệp trong
GDP tăng lên đáng kể, đạt 41,3%, nông nghiệp đã giảm tương đối, chỉ còn
15,5%. Sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp đã góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế của Đài Loan. GDP của Đài Loan giai đoạn này luôn tăng
trung bình là 10,1%/năm [59].
3. Giai đoạn thứ 3 (1974 đến nay)
Giai đoạn này Đài Loan tiếp tục công nghiệp hoá, hiện đại hoá song có
một bước đầu chỉnh quan trọng về cơ cấu ngành nghề, trong đóưu tiên hàng
đầu là tập trung phát triển các ngành công nghiệp cơ bản có hàm lượng vốn và
kỹ thuật cao, tuy nhiên vẫn duy trì chính sách phát triển các ngành công
nghiệp nhẹ hướng ra xuất khẩu. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đài Loan
giai đoạn này tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Nâng cấp, cải tiến các trang thiết bịở các ngành công nghiệp nhẹ nhằm
nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, giảm nguyên liệu, hạ
giá thành sản phẩm để tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
- Tăng cường đầu tư ra nước ngoài, đồng thời chuyển giao công nghệ,
dùng nhiều lao động sang một số nước đang phát triển khác ở khu vực châu
Á- Thái Bình Dương.
- Tập trung nghiên cứu, triển khai và nhập khẩu những dây chuyền công
nghệ mới, đầu tư cho những ngành công nghiệp mới có triển vọng sáng sủa
hơn, trong đó có các ngành tiêu biểu cho cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật

hiện đại như vi điện tử, máy tính, bán dẫn…
- Đẩy mạnh xây dựng các công trình công cộng và xí nghiệp công
nghiệp có quy mô lớn.
Nhờ sự chuyển hướng kịp thời, trong các kế hoạch 4 năm ở giai đoạn
này: kế hoạch 4 năm lần thứ 6 (1973-1976), lần thứ 7 (1977-1980), lần thứ 8
(1981-1984), kế hoạch 6 năm (1985-1990) và kế hoạch 6 năm (1991-1996)
kinh tếĐài Loan không những giữđược tốc độ tăng trưởng cao, công nghiệp
phát triển theo hướng hiện đại hoá với các sản phẩm có hàm lượng khoa học
cao. Trong vòng 17 năm (1973-1990), sản xuất công nghiệp của Đài Loan vẫn
tăng trung bình là 8,5%/năm, trong đó công nghiệp chế biến tăng gần 9%. Tỷ
trọng hàng xuất khẩu có hàm lượng khoa học cao ngày càng tăng. Nếu năm
1976 loại hàng hoá này mới chỉ chiếm gần 11% tổng kim ngạch xuất khẩu thì
có bước thay đổi căn bản. Trong giai đoạn 1991-1996, tăng trưởng công
nghiệp Đài Loan đạt 9,9%/năm [85], công nghệ thông tin với những sản phẩm
xuất khẩu năm 1994 xếp thứ 4 sau Mỹ, Nhật, Đức; công nghiệp đóng tàu vận
tải đứng thứ 5 thế giới…
Nhìn chung, sau gần 5 thập kỷ kể từ năm 1953, Đài Loan đã khôi phục
kinh tế sau chiến tranh và quá trình CNH đã cơ bản hoàn thành các mục tiêu
đặt ra. Quá trình CNH thành công tạo điều kiện cho Đài Loan giải quyết tốt
các vấn đề xã hội, trong đó có việc nâng cao mức sống của người dân, thu hẹp
khoảng cách giàu nghèo. Tất cả các thành tựu đạt được của Đài Loan đã tạo
tiền đề cho sựđầu tư phát triển theo chiều sâu, để tiếp tục phát triển trong
thiên niên kỷ mới.
Tuy vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoáĐài Loan cũng bộc lộ không ít
yếu kém. Sự can thiệp quá nhiều của chính phủđã tạo ra một khu vực tài chính
khá lạc hậu và một nền công nghiệp thiếu các doanh nghiệp qui mô lớn có
khả năng cạnh tranh quốc tế. Trong xu thế toàn cầu hoá và tự do hoá thương
mại quốc tế thì việc cải tổ cơ cấu kinh tế, tiếp tục hiện đại hoá nền kinh tếđặt
ra nhiều vấn đề màĐài Loan cần giải quyết. Thực tế cho thấy, một số lợi thế
phát triển màĐài Loan cóđược trước đây đến nay đã giảm, việc chuyển đổi cơ

cấu kinh tế có sự hẫng hụt về vấn đề công nghệ, kỹ thuật và nguồn nhân lực
trong phát triển công nghệ cao. Đài Loan vốn có truyền thống tập trung vào
công nghiệp chế tạo, chưa chú trọng nhiều đến dịch vụ và nghiên cứu triển
khai. Hiện nay Đài Loan chi tiêu khoảng 1,8% GDP cho nghiên cứu triển
khai, thấp hơn nhiều so với tỷ trọng tương ứng của nền kinh tế tiên tiến. Điều
đó cho thấy, Đài Loan cần đầu tư nhiều hơn cho phát triển công nghệ và
nghiên cứu triển khai muốn duy trì sức mạnh cho nền kinh tế dựa trên tri thức
mới.
III. Công nghiệp hoá, hiện đại hoáởMalaysia
Khi mới giành được độc lập, nền kinh tếMalaysiaở trong tình trạng thấp
kém. Cơ cấu kinh tế rất mất cân đối, nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, năm
1960 nông nghiệp chiếm 34,6% GP. Nông nghiệp trong tình trạng độc canh,
trồng trọt chủ yếu là cây cao su nên Malaysia vẫn phải nhập khẩu lương thực
(năm 1961 phải nhập 2/3 lượng lương thực tiêu dùng trong nước). Công
nghiệp còn rất nhỏ bé, sản lượng công nghiệp chế tạo năm 1961 chỉ chiếm
8,5% GNP, công nghiệp khai thác chiếm 5,9% GNP [42]. Giữa khu vực công
nghiệp và nông nghiệp hầu như không có quan hệ tác động qua lại. Hoạt động
xuất khẩu của Malaysia đóng vai trò chủđạo của nền kinh tế nhưng lại lệ
thuộc vào tư bản nước ngoài, mà chủ yếu là tư bản Anh. Nguồn cao su và
thiếc chiếm 80% giá trị xuất khẩu của nước này. Đứng trước thực trạng kinh
tế khó khăn, Malaysia lựa chọn con đường công nghiệp hoáđưa đất nước
thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoáở Malaysia trải qua 3 giai đoạn chủ yếu sau:
1. Giai đoạn thay thế nhập khẩu và lấy nông nghiệp là ngành phát
triển chủđạo (1961-1970)
Khác với một số nước đang phát triển tiến hành công nghiệp hoá lấy
công nghiệp làm trọng tâm, sau khi giành độc lập Malaysia tiến hành công
nghiệp hoá lấy nông nghiệp là ngành chủđạo. Thời kỳ này Malaysia thực hiện
các kế hoạch 5 năm (1961-1965) và (1966-1970). Mục tiêu công nghiệp hoá
giai đoạn này là tăng nhanh sản lượng lương thực vàđa dạng hoá các mặt hàng

nông sản xuất khẩu, đồng thời nâng cao trình độ của ngành chế biến nguyên
liệu xuất khẩu và xây dựng các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu. Do
vậy, nhà nước đã giành 50% ngân sách đầu tư cho phát triển nông nghiệp,
đồng thời đầu tư cho một số dựán phát triển công nghiệp, chú trọng phát triển
cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn và xây dựng các doanh nghiệp cong
nghiệp quốc doanh để sơ chế nông phẩm. Chương trình tập trung đầu tư cho
nông nghiệp đã mang lại nhiều thành công, mức tăng trưởng hàng năm của
nông nghiệp là 5,5% cao nhất ở châu Á trong thập niên 60. Đến năm 1970,
Malaysia đã tự túc được 81% nhu cầu lương thực trong nước [53].
Trong lĩnh vực công nghiệp, Malaysia đã tạo ra hàng loạt doanh nghiệp
sản xuất thay thế nhập khẩu như dệt, may, chế biến gỗ và một số loại máy
móc. Từ năm 1961-1970, sản lượng công nghiệp đã tăng 2 lần bình quân hàng
năm tăng 13,5%. Cũng trong thời kỳ này, tỷ trọng của sản phẩm gỗ, dầu cọ
tăng từ 5,4% và 1,7% lên 16,5% và 5,1%. Thu nhập bình quân đầu người
hàng năm liên tục tăng đạt trung bình gần 7%/năm [36].
2. Giai đoạn đa dạng hoá kinh tế và chiến lược hướng về xuất khẩu
(1971-1985)
Trong 3 kế hoạch 5 năm 1971-1975, 1976-1980 và 1981-1985,
Malaysia chủ trương xây dựng công nghiệp đa dạng với công nghiệp chế tạo
được ưu tiên phát triển. Nhà nước còn chú trọng xây dựng các ngành công
nghiệp nặng như chế biến dầu mỏ, luyện kim và mở rộng các cơ sở chế biến
xuất khẩu. Vào thời kỳ này, các doanh nghiệp cũng chú trọng hướng về xuất
khẩu do thị trường nội địa bị giới hạn. Do đó, tỷ trọng hàng xuất khẩu đã tăng
từ 11,9% năm 1970 lên 21,7% năm 1980. Đồng thời Malaysia cũng đẩy mạnh
đầu tư vào ngành khai thác và chế biến dầu mỏ nên thu nhập nhờ xuất khẩu
dầu mỏ rất đáng kể năm 1970 đạt 164 triệu ringit (chiếm 3,2%) tổng giá trị
xuất khẩu), năm 1980 con số này là 6,7 tỷ (chiếm 23,8% tổng giá trị xuất
khẩu), năm 1980 con số này là 6,7 tỷ (chiếm 23,8% tổng giá trị xuất khẩu).
3. Giai đoạn đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế, ưu tiên phát triển công
nghiệp cơ khí (1985-1995)

Bước sang giai đoạn phát triển mới, chính phủ Malaysia đã soạn thảo kế
hoạch phát triển công nghiệp 10 năm (1986-1995). Trong ngành công nghiệp,
chính phủđề ra kế hoạch phát triển tổng thể (IMP) với các mục tiêu [42]:
- Phấn đấu đạt tốc độ tăng bình quân của công nghiệp chế tạo khoảng
9%/năm nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế hơn 65/năm. Tăng cường phát
triển công nghệ thông tin, các ngành công nghiệp chế tạo sử dụng nguyên liệu
trong nước được ưu tiên phát triển.
- Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu triển khai ứng dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật, khuyến khích nghiên cứu triển khai tại xí nghiệp đểđưa nhanh
tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, rút ngắn thời gian từ khâu nghiên cứu đến khâu
áp dụng.
- Khuyến khích giáo dục đào tạo để nâng cao dân trí và trình độ khoa
học kỹ thuật để phát huy tối đa những lợi thế của đất nước;
Từ kế hoạch 5 năm lần thứ năm (1986-1990), Malaysia đã tập trung ưu
tiên phát triển cơ sở hạ tầng và một số ngành công nghiệp nặng, nhất là những
ngành sử dụng nguyên liệu trong nước sẵn có như xi mang, sắt thép… Các
ngành công nghiệp quan trọng khác nhưđiện, cơ khí chế tạo cũng được chú
trọng đầu tư phát triển với việc áp dụng công nghệ mới. 50 nhóm sản phẩm
trong các ngành sử dụng nhiều lao động, sử dụng nguyên liệu tại chỗ như cao
su, dầu cọ, gỗ, thực phẩm, khai khoáng, điện tử, dệt may… được ưu tiên phát
triển sản xuất, đặc biệt phục vụ xuất khẩu. Trong sự phát triển công nghiệp,
chính phủ Malaysia đặc biệt chú trọng đầu tư vào khu vực tư nhân, coi khu
vực này là chủđạo của nền kinh tế. Chính phủđã chi một lượng vốn lớn cho
hoạt động nghiên cứu triển khai, khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường
tiến hành nghiên cứu ứng dụng vào sản xuất.
Nhờ tích cực thực hiện các chính sách phát triển trên, nền kinh tế
Malaysia đã tăng trưởng với tốc độ cao: 1987 là 5,2%; 1988 là 8,7%; 1990 là
9,4% và 1995 đạt 8,5%; trong đó ngành công nghiệp chế tạo tăng trưởng với
tốc độ cao hơn (năm cao nhất là 1989 đạt 25,1%) [114]. Trên cơ sởđó, xuất
khẩu của Malaysia đã có sự tăng nhanh với xu hướng giảm dần xuất khẩu

nguyên liệu, tăng dần các sản phẩm công nghiệp chế tạo (điện tử) và nông sản
chế biến nhưcao su, ca cao, dầu cọ, hạt tiêu,… Năm xuất khẩu cao nhất
(1989) đạt 67,8 tỷ USD bằng 71,5 GNP. Theo các nhà phân tích kinh tế thì
Malaysia đã bước đầu chuyển từ nước chủ yếu dựa vào nông nghiệp và các
ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu sang nền công nghiệp có hàm lượng
khoa học cao hướng về xuất khẩu.
Bên cạnh những thành tựu kinh tếđạt được, theo Viện nghiên cứu kinh
tế Malaysia (MIER), nền kinh tế nước ngày còn gặp phải những yếu kém cần
khắc phục: Thứ nhất, về nguồn nhân lực bắt đầu xuất hiện tình trạng khan
hiếm, trong khi giá nhân công tăng lên; Thứ hai, khả năng cạnh tranh và tiếp
cận thị trường quốc tế của Malaysia còn hạn chế; Thứ ba, đầu tư cho nghiên
cứu triển khai còn thấp. Đó cũng chính là những thách thức trong điều chỉnh
nhằm tiếp tục công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bối cảnh hội nhập kinh tế.
IV. Một số kinh nghiệm từ công nghiệp hoá, hiện đại hoáở Thái
Lan, Đài Loan vàMalaysia
Nhìn chung Thái Lan, Đài Loan vàMalaysia khi bước vào công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nền kinh tếđều ởđiểm xuất phát thấp, kinh tế nông nghiệp là
chủ yếu, công nghiệp nhỏ bé và bị phụ thuộc vào nước ngoài. Tuy vậy, chỉ
trong vài ba thập kỷ, các nước này đã nhanh chóng vươn lên và thu được
những thành công trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đài Loan đã trở thành
nước công nghiệp mới. Thái Lan vàMalaysia cũng được coi là những nước
công nghiệp mới. Thành công ấy đãđể lại những bài học kinh nghiệm mà
nhiều nước đang phát triển có thể học tập và tham khảo.
Thứ nhất, trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá các nước này đã biết đi
lên từ nông nghiệp. Bước đi khởi đầu là phát triển nông nghiệp, để lấy nông
nghiệp nuôi dưỡng công nghiệp. Những tiền đề mà nông nghiệp tạo ra cóý
nghĩa rất quan trọng về cả phương diện kinh tế và xã hội. Vì chính công
nghiệp hoá, hiện đại hoá không thể tiến hành khi tình hình xã hội không ổn
định. Trong bước đi ban đầu, sự phát triển nông nghiệp không chỉ giải quyết
vấn đề lương thực trong nước, mà còn đóng góp vào xuất khẩu, cải thiện cán

cân thanh toán, cán cân thương mại theo hướng tích cực.
Thứ hai, việc lựa chọn mô hình công nghiệp hoá cóý nghĩa quyết định
với sự kinh tếở các nước đang phát triển. Trong tiến trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, các nước này đã lựa chọn chiến lược theo hai giai đoạn về cơ
bản là phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của họ. Thực tế mỗi chiến lược
đều có vị trí quan trọng, tuy nhiên mỗi chiến lược bên cạnh mặt tích cực, vẫn
bộc lộ những hạn chế. Do vậy, việc chọn thời điểm đểđiều chỉnh chiến lược
phát triển cóý nghĩa rất quan trọng. Nóđặt sự phát triển kinh tế của đất nước
không chỉ phù hợp với hoàn cảnh trong nước mà cả quốc tế. Thực tế việc
chuyển sang chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu khi quá trình
toàn cầu hoá, khu vực hoá dưới tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật là
sự cần thiết. Chính việc lựa chọn thời điểm chuyển hướng chiến lược mới có
thể tạo nên sự thích ứng trong chiến lược phát triển kinh tế. Công nghiệp hoá,
hiện đại hoá với sựđa dạng hoá trong sản xuất kinh doanh để mở rộng xuất
khẩu và vươn mạnh ra thị trường thế giới dãđem lại tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao liên tục trong hơn ba thập kỷ cho Đài Loan, Thái Lan vàMalaysia.
Thứ ba, trong công nghiệp hoá, hiện đại hoáở các nước này, nhà nước
đóng vai trò vô cùng quan trọng với việc lựa chọn chiến lược, việc tạo lập
môi trường kinh tế vĩ mô, chiến lược tạo vốn, nâng cao hiệu quảđầu tư, có
chính sách phát huy nguồn lực con người, mở rộng quan hệ kinh tếđối ngoại.
Do vậy, nhà nước không chỉ phát huy được nội lực mà còn khai thác tốt các
yếu tố ngoại lực tạo nên tăng trưởng kinh tế cao. Nhà nước đã thành công
trong việc điều chỉnh chiến lược gắn với các chương trình cải cách tự do hoá
một cách khéo léo linh hoạt. Đó chính là viết biết khai thác những động lực
của kinh tế thị trường, biết nắm bắt và tận dụng những thành tựu của cách
mạng khoa học kỹ thuật, những cơ hội mà kinh tếđối ngoại đặc biệt là ngoại
thương mang lại nhằm phát huy lợi thế trong trật tự phân công lao động quốc
tế.
Thứ tư, công nghiệp hoá, hiện đại hoá - con đường tất yếu để thoát khỏi
nghèo nàn lạc hậu của các nước đang phát triển. Mục tiêu trong công nghiệp

hoá, hiện đại hoáđể hướng tới tăng trưởng trong phát triển. Theo đuổi tăng
trưởng kinh tếđã trở thành khát vọng của các nước đang phát triển. Tuy vậy,
kinh nghiệm ở Thái Lan, Malaysia, chiến lược trong công nghiệp hoá, hiện
đại hoá cần phải gắn liền với sựổn định của môi trường kinh tế vĩ mô, có sự
kết hợp hài hoà giữa chiến lược hướng ngoại và hướng nội, cải cách kinh tế
phải gắn liền với cải cách xã hội. Đó là những điều kiện để tạo nên sự bền
vững trong phát triển.
Thứ năm, trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoáở Thái Lan,
Malaysia vàĐài Loan, con đường phát triển của Đài Loan mang tính đặc thù
rõ nét và sơm đưa nước này trở thành nước công nghiệp mới. Bí quyết thành
công của Đài Loan trong bước khởi đầu công nghiệp hoá là biết lấy nông
nghiệp để nuôi dưỡng công nghiệp; biết dựa vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ
với sự khuyến khích và hỗ trợ của Nhà nước để hình thành nên những chuỗi
xí nghiệp hoạt động liên hoàn với nhau; biết nắm thời cơđể nhanh chóng đi
vào một số ngành hiện đại nhưđiện tử, công nghiệp thông tin, hoá dầu…
Tóm lại, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là vấn đề mang tính qui luật với
tất cả các nước trên thế giới. Để làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, chương I luận án đã làm rõ khái niệm về công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và mối quan hệ giữa hai phạm trù này trong tiến
trình phát triển. Luận án cũng làm rõ bản chất của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và các mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoáở các nước đang phát triển
trong mấy thập kỷ qua. Đó là mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu,
công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu và mô hình công nghiệp hoá bền vững
theo hướng hội nhập. Các mô hình này được nghiên cứu, xem xét vàđánh giá
theo các khía cạnh: mục tiêu, chính sách và biện pháp, kết quả và hạn chế.
Đồng thời, luận án đã trình bày khái quát thực trạng những bài học kinh
nghiệm về vận dụng các mô hình công nghiệp hoá trong phát triển kinh tếđất
nước.
CHƯƠNG III
VẬNDỤNGMỘTSỐKINHNGHIỆMCỦAMỘTSỐNƯỚCCHÂUÁVÀOQ

UÁTRÌNH CNH, HĐH ỞNƯỚCTA
I. Khái quát về tình hình công nghiệp hóa ở Việt Nam trong thời
kỳđổi mới (từ 1986 - nay)
1. Một sốđổi mới nhận thức của Đảng ta về công nghiệp hóa, hiện
đại hóa
TừĐại hội lần III 9 (năm 1960) đến nay, Đảng ta đã xác định công
nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quáđộ. Đại hội III vàĐại
hội IV (1976), Đảng ta luôn nhấn mạnh ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
trong thực hiện công nghiệp hóa. Đến Đại hội V (1982), Đảng ta chỉ ra một số
sai lầm trong thực hiện công nghiệp hóa. Do vậy, đã có bước điều chỉnh về
nội dung công nghiệp hóa với việc coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu và
thực hiện cắt giảm một số hạng mục trong đầu tư xây dựng cơ bản. Tuy vậy
trong suốt thời gian dài tiến hành công nghiệp hóa, về cơ bản ta vẫn ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng. Thực hiện, với chủ trương nóng vội mang nặng
tính chủ quan, duy ý chí cũng như một số sai lầm trong tổ chức thực hiện nên
công nghiệp nặng được đầu tư lớn nhưng hiệu quả thấp, nền kinh tế trì trệ
vàđã xuất hiện những dấu hiệu của sự khủng hoảng kinh tế - xã hội vào giữa
những năm 1980.
Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) đã nêu ra những sai lầm, thiếu sót
trong tiến hành công nghiệp hóa. Xuất phát từ tư tưởng chủ quan, nóng vội,
muốn bỏ qua những bước đi cần thiết nên chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh
công nghiệp hóa với việc tập trung phát triển công nghiệp nặng trong khi
chưa cóđủ tiền đề cần thiết, đặc biệt "việc bố trí cơ cấu kinh tế trước hết là cơ
cấu sản xuất vàđầu tưthường xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không
tính đến điều kiện và khả năng thực tế".
Từ những kinh nghiệm thực tiễn công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam thời gian qua, Đảng ta chủ trương: "Không lặp lại những mô hình
công nghiệp hóa cổđiển, mà tự tìm lấy một mô hình phù hợp với hoàn cảnh
đất nước vàđiều kiện thế giới ngày nay". Đại hội VI của Đảng đã xác định
trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên làổn định mọi mặt tình

hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy
mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo "trước
mắt là trong kế hoạch 5 năm (1986 - 1990) phải thật sự tập trung sức người,
sức của vào việc thực hiện cho được 3 chương trình mục tiêu về lương thực
thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu". Những chủ trương chính sách
và biện pháp đổi mới của Đảng ta từ sau đại hội VI, đặc biệt là sau đại hội VII
đã tạo ra những chuyển biến bước đầu rất quan trọng trong sự phát triển kinh
tếđất nước. Tuy nhiên, nền kinh tế phát triển chưa vững chắc và có nguy cơ
tụt hậu so với nhiều nước trên thế giới và khu vực. Đứng trước thực trạng đó,
Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VII và sau đóĐại
hội VIII, IX của Đảng xác định đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ,
thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập quốc tế, đồng thời
đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế cao, bền vững. Do vậy, mục tiêu đến năm 2020
với nước ta là ra sức phấn đấu để cơ bản trở thành một nước công nghiệp:
"Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tếđộc lập tự
chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng
sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã
hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên
ngoài và chủđộng hội nhập kinh tế quốc tếđể phát triển nhanh, có hiệu quả và
bền vững; tăng trưởng kinh tếđi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội
với tăng cường an ninh - quốc phòng".
Như vậy, công nghiệp hóa trước đây và hiện nay đều thống nhất về
mục tiêu vàđịnh hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên công nghiệp hóa, hiện đại
hóa theo đường lối đổi mới rất khác về phương thức tiến hành so với trước
đây. Có thể nói, phương thức tiến hành công nghiệp hóa hiện nay được xem
là bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng ta về công nghiệp hóa, phù
hợp với đặc điểm của nước ta và bối cảnh quốc tế hiện nay.
- Trước đây công nghiệp hóa được tiến hành theo cơ chế kế hoạch hóa

tập trung, quan liêu với các chỉ tiêu pháp lệnh, thì ngày nay, nóđược tiến hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Đểđảm bảo thành công,
nhà nước một mặt phải tạo điều kiện cho mọi chủ thể, mọi thành phần kinh
tếđược tham gia vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa được quyền tự do sản xuất
kinh doanh theo pháp luật, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp,
hạn chế tối đa độc quyền sản xuất kinh doanh. Mặt khác, do cơ chế thị trường
luôn chứa đựng những mặt tiêu cực vốn có của nó, đểđảm bảo cho công cuộc
công nghiệp hóa nói riêng, nền kinh tế nói chung phát triển nhanh, bền vững
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc tăng cường vai tròđiều hành quản lý
của Nhà nước là rất quan trọng. Nhà nước phải có những biện pháp quản lý
dựa trên cơ sở kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và quốc gia,
phải tạo môi trường vàhành lang pháp lýổn định, an toàn cho hoạt động kinh
tế, nhà nước hướng dẫn và hỗ trợ cho đầu tư phát triển chủđộng hình thành cơ
cấu công nghiệp hợp lýđáp ứng mục tiêu của công nghiệp hóa ở nước ta là
xây dựng xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
- Công nghiệp hóa trước đây theo xu hướng khép kín, tự cung tự cấp thì
ngày nay công nghiệp hóa được tiến hành theo hệ thống kinh tế mở, hướng
mạnh về thị trường khu vực và thế giới, vừa tăng cường xuất khẩu vừa thay
thế nhập khẩu có hiệu quả. Công nghiệp hóa trước đây được tiến hành nhằm
mục tiêu chính là nâng cao khả năng tựđáp ứng các nhu cầu của sản xuất
vàđời sống ở trong nước. Do đó, vấn đềđầu tiên là phải ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng để tự giải quyết các nhu cầu về vật tư, trang bị kỹ thuật thay thế

×