Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

giải pháp phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.75 KB, 18 trang )

1. Khái niệm về thanh toán quốc tế.
• Thanh toán quốc tế là việc chi trả các nghiệp vụ và yêu cầu về tiền tệ, phát sinh từ
các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng giữa các tổ chức tài chính
quốc tế, giữa các hãng, các cá nhân của các quốc gia khác nhau để kết thúc một
chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng các hình thức chuyển
tiền hay bù trừ trên các tài khoản tại Ngân hàng.
• Thanh toán quốc tế là quá trình thực hiện các khoản thu và các khoản chi đối
ngoại để hoàn thành các mối quan hệ về kinh tế, thương mại, hợp tác khoa học kĩ
thuật, ngoại giao… giữa chủ thể của nước này với chủ thể của nước khác hoặc/và
với các tổ chức KTTCQT
• Theo Đinh Xuân Trình (1996) thanh toán quốc tế là việc thanh toán các nghiã vụ
tiền tệ phát sinh có liên quan tới các quan hệ kinh tế, thương mại và các mối quan
hệ khác giữa các tổ chức, các công ty và các chủ thể khác nhau của các nước.
• Theo Trầm Thị Xuân Hương (2006), thanh toán quốc tế là quá trình thực hiện các
khoản thu chi tiền tệ quốc tế thông qua hệ thống ngân hàng trên thế giới nhằm
phục vụ cho các mối quan hệ trao đổi quốc tế phát sinh giữa các nước với nhau.
2. Đặc điểm của TTQT
• Trước hết, thanh toán quốc tế diễn ra trên phạm vi toàn cầu, phục vụ các giao dịch
thương mại, đầu tư, hợp tác quốc tế thông qua mạng lưới ngân hàng thế giới.
Thanh toán quốc tế được thực hiện dựa trên nền tảng pháp luật và tập quán thương
mại quốc tế như UCP, URC, URR, Incoterms, đồng thời nó cũng bị chi phối bởi
luật pháp của các quốc gia, bởi các chính sách kinh tế, chính sách ngoại thương và
chính sách ngoại hối của các quốc gia tham gia
• Trong thanh toán TTQT chịu sự ảnh hưởng của tỉ giá và dự trữ ngoại tệ của các
quốc gia. Thanh toán quốc tế khác với thanh toán trong nước là ở đây nó liên quan
đến việc trao đổi tiền của quốc gia này lấy tiền của quốc gia khác. Vì vậy khi ký
kết các hợp đồng mua bán ngoại thương các bên phải thỏa thuận với nhau lấy
đồng tiền của nước nào là tiền tệ tính toán và thanh toán trong hợp đồng, đồng thời
phải tính toán thận trọng để lựa chọn các biện pháp phòng chống rủi ro khi tỷ giá
hối đoái biến động.
• Ngoại trừ các giao dịch XNK hàng hóa được mua bán qua con đường tiểu ngạch,


các giao dịch thanh toán quốc tế chủ yếu được thực hiện qua hệ thống NHTM.
Tiền tệ trong thanh toán quốc tế thường không phải là tiền mặt mà nó tồn tại dưới
hình thức các phương tiện thanh toán như thư chuyển tiền, điện chuyển tiền, hối
phiếu, kỳ phiếu và séc ghi bằng ngoại tệ. Thanh toán giữa các nước đều được tiến
hành thông qua ngân hàng và không dùng tiền mặt, nếu có thì chỉ trong những
trường hợp riêng biệt. Do vậy thanh toán quốc tế về bản chất chính là các nghiệp
vụ ngân hàng quốc tế. Chúng được hình thành và phát triển trên cơ sở các hợp
đồng ngoại thương và các trao đổi tiền tệ quốc tế.
• Hoạt động thanh toán là một loại dịch vụ (tính vô hình, không dự trữ được…)
3. Vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế
- Đối với nền kinh tế:
• Bôi trơn và thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu của nền kinh tế.
• Bôi trơn và thúc đẩy hoạt động đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp.
• Thúc đẩy và mở rộng hoạt động dịch vụ, hợp tác quốc tế.
• Tăng cường thu hút kiều hối và các nguồn lực tài chính khác.
• Thúc đẩy thị trường tài chính quốc gia hội nhập quốc tế
- Đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng:
• Việc hoàn thiện để phát triển hoạt động thanh toán quốc tế có một ý nghĩa hết sức
thiết thực, hoạt động thanh toán quốc tế là một dịch vụ thuần tuý làm tăng khả
năng cạnh tranh của Ngân hàng, nó bổ sung và hỗ trợ cho các hoạt động khác của
Ngân hàng.
• Hoạt động thanh toán quốc tế giúp cho Ngân hàng thu hút thêm nhiều khách hàng,
trên cơ sở đó Ngân hàng tăng được quy mô hoạt động của mình, giúp cho Ngân
hàng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng, trên cơ sở đó tạo được niền tin cho
khách hàng và nâng cao uy tín của mình. Từ đó mà có thể khai thác được nguồn
vốn tài trợ của Ngân hàng nước ngoài về nguồn vốn trên thị trường tài chính quốc
tế để đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng.
• Hoạt động thanh toán quốc tế giúp cho Ngân hàng phát triển được nghiệp vụ bảo
lãnh, kinh doanh ngoại tệ và các dịch vụ khác. Nếu hoạt động thanh toán quốc tế
được đẩy mạnh thì sẽ đẩy mạnh được hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu

cũng như tăng cường được nguồn vốn huy động do tạm thời quản lý được nguồn
vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp có quan hệ thanh toán quốc tế qua Ngân hàng.
• Hoạt động thanh toán quốc tế giúp cho Ngân hàng tăng thu nhập và tăng cường
khả năng cạnh tranh của Ngân hàng trong cơ chế thị trường, đồng thời nó giúp cho
hoạt động Ngân hàng vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và hoà nhập với hệ thống
Ngân hàng thế giới.
- Đối với chủ thể thanh toán:
• Giảm thiểu chi phí nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Trong các mối quan hệ
thanh toán quốc tế, ngân hàng đóng vai trò trung gian tiến hành thanh toán. Nó
giúp cho quá trình thanh toán được tiến hành an toàn, nhanh chóng và thuận lợi
đồng thời giảm thiểu chi phí cho khách hàng. Với sự uỷ thác của khách hàng, ngân
hàng không chỉ bảo vệ quyền lợi cho khách hàng trong các giao dịch thanh toán
mà còn tư vấn cho họ nhằm tạo nên sự tin tưởng, hạn chế rủi ro trong quan hệ
thanh toán với các đối tác nước ngoài.
• Đảm bảo khả năng thanh toán, ổn định tình hình tài chính DN. Thông qua thanh
toán quốc tế còn tạo nên các mối quan hệ tin cậy giữa doanh nghiệp và ngân hàng,
từ đó có thể tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp được các ngân hàng tài
trợ vốn trong trường hợp doanh nghiệp thiếu vốn, hỗ trợ về mặt kỹ thuật thanh
toán thông qua việc hướng dẫn, tư vấn cho doanh nghiệp, hạn chế thấp nhất rủi ro
có thể xảy ra trong quá trình thanh toán với các đối tác.
• Tạo dựng vị thế và nâng cao uy tín phát triển kinh doanh. Thanh toán quốc tế còn
có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu gia tăng
qui mô hoạt động, tăng khối lượng hàng hoá giao dịch và mở rộng quan hệ giao
dịch với các nước.
- Đối với nhà nước:
Về phương diện quản lý của Nhà nước, thanh toán quốc tế giúp tập trung và quản
lý nguồn ngoại tệ trong nước và sử dụng ngoại tệ một cách hiệu quả, tạo điều kiện thực
hiện tốt cơ chế quản lý ngoại hối của nhà nước, quản lý hiệu quả các hoạt động xuất nhập
khẩu theo chính sách ngoại thương đã đề ra.
4. Các phương thức thanh toán quốc tế trong kinh doanh tại Việt Nam

Trong kinh doanh ngày nay, thanh toán quốc tế đang ngày trở nên phổ biến.
Những phương thức thanh toán truyền thống như tiền mặt đã dần được thay thế bằng
những phương thức thanh toán hiện đại hơn, nhanh chóng hơn.
Bạn thử hình dung nếu bạn có quan hệ đối tác làm ăn với các thương nhân nước
ngoài mà bạn không có các phương thức thanh toán quốc tế thì sẽ như thế nào? Hẳn là
không thể kinh doanh được rồi.
Những phương thức thanh toán quốc tế ngày nay ngày càng nhiều. Các doanh nhân
sử dụng chúng cũng một cách thông dụng hơn trong hoạt động giao thương của mình.
Nhưng do tính chất đặc biệt của nó nên rất dễ gặp rủi ro. Chẳng hạn như mới đây hãng
Acama, một hãng chuyên nhập khẩu đồ gỗ nội thất của Mỹ khi nhận một hoá đơn thanh
toán theo phương thức nhờ thu của đối tác nước ngoài. Acama đã theo những chỉ dẫn
chung đã thực hiện việc chuyển tiền qua ngân hàng, nhưng do chưa tìm hiểu kỹ càng
ngân hàng nhờ thu nên đã mất không một khoản tiền. Không những thế Acama còn bị
phạt Hợp đồng vì thành toán muộn.
Đó chỉ là một trong rất nhiều các trường hợp doanh nghiệp gặp phải rủi ro trong
quá trình thanh toán quốc tế. Yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp là cần có kiến thức
vững chắc về phương thức thanh toán quốc tế nhất định được áp dụng trong từng lần giao
thương.
4.1Phương thức chuyển tiền:
Khi có một khách hàng (người trả tiền) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển
một số tiền nhất định cho một người khác ( người thụ hưởng) ở một địa điểm nhất định
thì gọi là chuyển tiền của ngân hàng. Để thực hiện việc chuyển tiền thì ngân hàng chuyển
tiền phải thông qua đại lý của mình ở nước người thụ hưởng. Phương thức chuyển tiền có
thể thực hiện bằng hai cách:
• Chuyển tiền bằng điện
• Chuyển tiền bằng thư
Hai cách chuyển tiền trên chỉ khác nhau ở chỗ là: chuyển tiền bằng điện nhanh
hơn chuyển tiền bằng thư, nhưng chi phí chuyển tiền bằng điện cao hơn. Tiền chuyển đi
có thể là tiền của nước người thụ hưởng hoặc là tiền của nước người trả hoặc là tiền của
nước thứ ba. Nếu là tiền của nước người thụ hưởng và tiền của nước thứ ba thì gọi là

thanh toán bằng ngoại tệ. Trong trường hợp thanh toán bằng ngoại tệ thì người chuyển
tiền phải mua ngoại tệ theo tỷ giá hối đoái của nước đó.
Phương thức chuyển tiền ít được sử dụng trong thanh toán thương mại quốc tế. Nó
được sử dụng chủ yếu trong thanh toán phi mậu dịch, cũng như các dịch vụ có liên quan
đến xuất nhập khẩu hàng hoá như cước vận tải, bảo hiểm, bồi thường
4.2Phương thức nhờ thu:
Người xuất khẩu sau khi hoàn thành nhiệm vụ xuất chuyển hàng hoá cho người
nhập khẩu thì uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền ở người nhập khẩu trên
cơ sở hối phiếu do mình lập ra. Các thành phần chủ yếu tham gia phương thức thanh toán
này như sau:
• Người xuất khẩu
• Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu
• Ngân hàng đại lý của ngân hàng phục vụ người xuất khẩu (đó là ngân hàng quốc gia
của người nhập khẩu)
• Người nhập khẩu.
Phương thức nhờ thu được phân ra làm hai loại như sau:
• Nhờ thu phiếu trơn: Người xuất khẩu sau khi xuất chuyển hàng hoá, lập các chứng từ
hàng hoá gửi trực tiếp cho người nhập khẩu (không qua ngân hàng), đồng thời uỷ thác
cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền trên cơ sở hối phiếu do mình lập ra.
• Phương thức thanh toán này ít được sử dụng trong thanh toán thương mại quốc tế vì
nó không đảm bảo quyền lợi cho người xuất khẩu.
• Nhờ thu kèm chứng từ: là phương thức trong đó người xuất khẩu uỷ thác cho ngân
hàng thu hộ tiền ở người nhập khẩu, không những chỉ căn cứ vào hối phiếu mà còn căn
cứ vào bộ chứng từ hàng hoá, gửi kèm theo với điều kiện là người nhập khẩu trả tiền
hoặc chấp nhận hối phiếu có kỳ hạn, thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ hàng hoá để đi
nhận hàng.
Theo phương thức này ngân hàng không chỉ là người thu hộ tiền mà còn là người
khống chế bộ chứng từ hàng hoá. Với cách khống chế này quyền lợi của người xuất khẩu
được đảm bảo hơn.
4.3Phương thức tín dụng chứng từ:

Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoã thuận mà trong đó một ngân hàng
theo yêu cầu của khách hàng sẽ trả một số tiền nhất định cho một người thứ 3 hoặc chấp
nhận hối phiếu do người thứ 3 ký phát trong phạm vi số tiền đó, khi người thứ 3 này xuất
trình bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng.
Như vậy, để tiến hành thanh toán bằng phương thức này, bắt buộc phải hình thành
một thư tín dụng. Đây là một văn bản pháp lý quan trọng của phương thức thanh toán
này, vì nếu không có thư tín dụng thì xuất khẩu sẽ không giao hàng và như vậy phương
thức tín dụng chứng từ cũng sẽ không hình thành được.
Tín dụng thư là văn bản pháp lý trong đó ngân hàng mở tín dụng thư cam kết trả
tiền cho người xuất khẩu, nếu như họ xuất trình đầy đủ bộ chứng từ thanh toán phù hợp
với nội dung của thư tín dụng đã mở. Thư tín dụng được hình thành trên cơ sở hợp đồng
thương mại, tức là phải căn cứ vào nội dung, yêu cầu của hợp đồng để người nhập khẩu
làm thủ tục yêu cầu ngân hàng mở thư tín dụng. Nhưng sau khi đã được mở, thư tín dụng
lại hoàn toàn độc lập với hoạt động thương mại đó. Điều đó có nghĩa là khi thanh toán,
ngân hàng chỉ căn cứ vào nội dung thư tín dụng mà thôi. Các loại thư tín dụng chủ yếu là:
• Thư tín dụng có thể huỷ ngang: Đây là loại thư tín dụng mà sau khi đã được mở thì
việc bổ sung sửa chữa hoặc huỷ bỏ có thể tiến hành một cách đơn phương.
• Thư tín dụng không thể huỷ ngang: Là loại thư tín dụng sau khi đã được mở thì việc
sữa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ chỉ được ngân hàng tiến hành theo thoã thuận của tất cả
các bên có liên quan. Trong thương mại quốc tế thư tín dụng này được sử dụng phổ
biến nhất.
• Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có xác nhận: Là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ,
được một ngân hàng khác đảm bảo trả tiền theo yêu cầu của ngân hàng mở thư tín
dụng.
• Thư tín dụng chuyển nhượng: Là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ, trong đó quy
định quyền của ngân hàng trả tiền được trả hoàn toàn hay trả một phần của thư tín cho
một hay nhiều người theo lệnh của người hưởng lợi đầu tiên.
5. Thực trạng hoạt động TTQT tại các NHTM Việt Nam
5.1 Một số kết quả đã đạt được
Qua các năm hoạt động cùng với bề dày kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ nghiệp

vụ tăng lên, sự đổi mới nhanh chóng về công nghệ, kỹ thuật, trang bị đồng bộ mạng
SWIFT, phần mềm tài trợ thương mại của nước ngoài, hoạt động thanh toán quốc tế tại
các NHTM Việt Nam đã từng bước phát triển, ngày càng nâng cao sức cạnh tranh, đảm
bảo kinh doanh có hiệu quả cao và đủ điều kiện để hội nhập quốc tế. Bản thân mỗi ngân
hàng đang gắng sức phát huy hiệu quả của mô hình hoạt động TTQT theo dự án hiện đại
hoá do ngân hàng thể giới tài trợ, đảm bảo tăng trưởng hoạt động nhưng vẫn an toàn
trong giao dịch, giữ vững và nâng cao uy tín dịch vụ TTQT với các ngân hàng trong và
ngoài nước, cũng như đối với khách hàng. Một số kết quả đạt được trong những năm vừa
qua đó là :
- Các nghiệp vụ thanh toán quốc tế ngày càng được mở rộng. Kể từ khi mới triển
khai, chỉ có các sản phẩm dịch vụ thanh toán quốc tế truyền thống như mở thư tín dụng,
chuyển tiền ; cho đến nay đã phát triển được hầu hết các sản phẩm dịch vụ thanh toán
quốc tế hiện có trên thị trường Việt Nam.Điển hình là các sản phẩm dịch vụ thanh toán
quốc tế mới như chiết khấu chứng từ hàng xuất, xác nhận L/C, tín dụng trọn gói (Packing
Credit), Biên lai tín thác (Trust Receipt),thanh toán thẻ tín dụng quốc tế, séc du lịch, mới
đây là dịch vụ ngân hàng điện tử, phục vụ giải ngân nguồn vốn ODA và phục vụ thanh
toán cho các Dự án quốc gia được Bộ tài chính và Ngân hàng Nhà nước chỉ định .
- Trình độ công nghệ ngân hàng và trình độ nghiệp vụ cán bộ được nâng cao. Đội
ngũ cán bộ nhân viên bộ phân thanh toán quốc tế luôn được tiếp cận với công nghệ tiên
tiến trên thế giới như tham gia hệ thống SWIFT với các phiên bản hiện đại nhất được cập
nhật thường xuyên, xây dựng và triển khai chương trình tài trợ thương mại nằm trong dự
án Hiện đại hoá ngân hàng theo tiêu chuẩn của ngân hàng thương mại hiện đại. Qui trình
thực hiện nghiệp vụ liên tục được cải tiến, Vd : BIDV cũng xây dựng chương trình
Home Banking/ Direct Banking/ Mobile Banking để cung cấp các dịch vụ tiện ích cho
khách hàng như tra cứu số dư tài khoản, gửi lệnh thanh toán, lệnh phát hành thư tín dụng
bằng hệ thống điện tử.
- Quan hệ đại lý ngày càng được mở rộng, uy tín của các NHTM ngày càng đuợc
tăng cường trên trường quốc tế cũng như ở trong nước.Số lượng ngân hàng đại lý và số
nước thiết lập quan hệ đại lý ngày càng nhiều. Từ chỗ hoàn toàn không có quan hệ với
nước ngoài trong những năm đầu thập kỷ 90, đến nay, đã thiết lập quan hệ đại lý với trên

800 ngân hàng và có quan hệ tài khoản với 43 ngân hàng trên thế giới, có mối quan hệ
hợp tác sâu rộng với các đối tác nước ngoài có uy tín tại các thị trường Séc, Nga, Mỹ,
Trung Quốc, Lào Ví dụ, đến nay, BIDV đã là thành viên của Hiệp hội ngân hàng Châu
á (ABA), ASEAN và là thành viên hội đồng quản trị của Hiệp hội các định chế tài chính
phát triển Châu á Thái Bình Dương (ADFIAP).
5.2 Những mặt hạn chế, khó khăn
Hạn chế về nhân lực: Các NHTM đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ nghiệp
vụ đông đảo, nhiều người trong số đó có trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ rất tốt. Đây là
một yếu tố quan trọng, góp phần thúc đẩy hoạt động TTQT phát triển nhanh chóng. Tuy
nhiên trình độ nghiệp vụ TTQT của cán bộ hiện nay không đồng đều, nhất là ở chi nhánh
các tỉnh. Nhiều cán bộ chỉ thuộc một cách máy móc mà chưa nắm vững được ý nghĩa của
nhiều điều khoản của các tập quán quốc tế, dẫn đến việc hiểu và vận dụng sai các điều
khoản của các tập quán. Đội ngũ cán bộ TTQT chủ yếu là cán bộ trẻ năng nổ nhiệt tình
nhưng do đặc điểm của loại hình dịch vụ này là mới, đang được mở rộng ở các chi nhánh
trên khắp các địa bàn trên toàn quốc nên cũng không tránh khỏi các hạn chế như trình độ
nghiệp vụ của cán bộ chưa cao, chưa được cọ sát thực tế để đúc rút kinh nghiệm, trình độ
ngoại ngữ yếu, không thường xuyên cập nhật các thông lệ quốc tế, ý thức chấp hành quy
chế, quy trình thanh toán quốc tế chưa nghiêm túc, thậm chí còn so suất gây tổn thất cho
ngân hàng.
Trình độ nghiệp vụ, kinh nghiệm cán bộ TTQT chưa đồng đều nên chưa tạo ra
chất lượng TTQT đồng nhất. Cách thức, tốc độ xử lý giao dịch giữa các cán bộ có độ
vênh nhất định. Vì vậy, một số khách hàng sẽ được hưởng chất lượng TTQT tốt hơn, một
số khách hàng khác lại chưa hài lòng với chất lượng TTQT nhận được. Hầu hết cán bộ
làm công tác TTQT tại chi nhánh đều là cán bộ kiêm nhiệm, được biên chế tại phòng
KHKD hoặc phòng kế toán nẻn chưa chuyên tâm cho nghiệp vụ, thậm chí phát sinh ít
giao dịch, kiến thức, kỹ năng của cán bộ TTQT cũng bị mai một.
Hạn chế về kỹ thuật, công nghệ: Nhìn chung tuổi nghề của các ngân hàng
thương mại còn quá ngắn so với các ngân hàng thương mại lớn trên thế giới. Do vậy kinh
nghiệm hoạt động và kỹ thuật còn thiếu và chưa thể đáp ứng đủ yêu cầu chung cho tiêu
chuẩn một ngân hàng hiện đại trong khu vực. Các hình thức thanh toán dù được mở rộng

nhưng chưa có cơ sở vật chất đầy đủ, nhiều khi dẫn đến những sai sót không đáng có.
Một trong số này là những bất cập của hệ thống thẻ ATM, thi thỏang vẫn còn tình trạng
máy nuốt thẻ, trả tiền rách và thậm chí là độ an toàn, tính bảo mật của các giao dịch còn
thấp. Điều này không những khiến các NHTM mất uy tín với khách hàng mà còn ảnh
hưởng đến doanh thu hoạt động.
Áp lực cạnh tranh nội bộ ngành và với các ngân hàng trong khu vực và thế
giới: Trong bối cảnh các NHTM không ngừng mở rộng, các ngân hàng thương mại và
đầu tư trong nước vẫn tăng trưởng liên tục, dẫn đầu nhiều năm là Ngân hàng Thương mại
Cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank). Không chỉ thế, thời gian gần đây sự ra
đời của một loạt ngân hàng cổ phần tư nhân mới khiến các NHTM phải nỗ lực không
ngừng, liên tục củng cố hệ thống và cho ra đời những sản phẩm và dịch vụ mới. Bên cạnh
đó, việc gia nhập WTO của nước ta cách đây đã mang lại cho ngành ngân hàng, những cơ
hội và thách thức to lớn. Với kinh nghiệm dày dặn trên trường quốc tế, các ngân hàng
nước ngoài có ưu thế ở mảng kinh doanh ngoại tệ và dịch vụ ngân hàng bán lẻ. Đồng
thời, tiềm lực tài chính lớn mạnh của các ngân hàng nước ngoài chính là mối đe dọa đến
những ngân hàng trong nước vốn chỉ có quy mô ở tầm vừa và nhỏ. Các NHTM hiện đang
cố gắng hướng đến biện pháp khả thi là bổ sung thêm vốn, nhằm nâng cao hệ số an toàn
vốn tự có và giải quyết bài toán năng lực tài chính và chất lượng dịch vụ theo các tiêu
chuẩn quốc tế.
Hệ thống văn bản pháp lý làm căn cứ cho TTQT còn một số điểm bất cập:
mặc dù các NHTM đã xây dựng được hệ thống văn bản pháp lý cho HĐKD ngoại hối nói
chung và TTQT nói riêng áp dụng trong toàn hệ thống. Tuy nhiên sau nhiều năm triển
khai đã bộc lộ những bất cập, thiếu đồng bộ, đòi hỏi phải chỉnh sửa nhiều hoặc ban hành
mới để phù hợp với hệ thống văn bản pháp qui mới ban hành cũng như yêu cầu thực tế.
Còn phát sinh sự chồng chéo về chức năng nhiệm vụ giữa Caùc phoøng ban, đặc biệt là
trong vấn đề tham mưu ban hành văn bản quy định và công tác kiểm tra kiểm soát hoạt
động của các chi nhánh, cơ chế thông tin báo cáo.Tại một số chi nhánh trực thuộc, do
lãnh đạo không hiểu biết về HĐKD ngoại hối, hoặc không quan tâm đến hoạt động này
nên không chú trọng đến công tác tiếp thị, thu hút khách hàng XNK và chưa chú trọng
đến chất lượng hoạt động. Quy trình về hoạt động TTQT không rõ ràng, chặt chẽ vì sửa

đổi quá nhiều điều khoản và quá chi chít, rất khó khăn cho người thực hiện nên tiếp tục
nghiên cứu, chỉnh sửa phù hợp với công nghệ hiện có và thông lệ quốc tế
Một số quy trình nghiệp vụ chưa phân định rõ trách nhiệm của các phòng ban và
các đơn vị liên quan. Việc tu chỉnh để đáp ứng yêu cầu mới, cập nhật những vấn đề thực
tế mới phát sinh còn chậm.
Chính sách phát triển sản phẩm dịch vụ còn hạn chế: Đây là mảng hoạt động
quan trọng trong chiến lược phát triển hoạt động TTQT của ngân hàng, song chưa được
thực sự quan tâm đầy đủ. Các sản phẩm dịch vụ về TTQT chưa đa dạng, chủ yếu là các
sản phẩm dịch vụ truyền thống, các dịch vụ ngân hàng hiện đại còn triển khai chậm, chưa
mang lại nhiều tiện ích đáp ứng được đòi hỏi của khách hàng. Sự phát triển sản phẩm
dịch vụ chưa có sự kết hợp chặt chẽ với các bộ phận khác nhằm đạt được hiệu quả trên
tổng thể.
Cơ chế tài trợ XNK chưa toàn diện: Với sự mở rộng và từng bước hoàn thiện
hoạt động TTQT, thúc đẩy hoạt động TD tài trợ XNK, hoạt động KDNT. Việc triển khai
cơ chế cho vay ưu đãi xuất khẩu đến khách hàng chưa đồng loạt và rộng khắp các chi
nhánh trực thuộc nên doanh số cho vay xuất khẩu còn rất hạn chế. Bên cạnh đó, nhu cầu
vốn khách hàng xuất khẩu không nhiều. Mặt khác, những khách hàng xuất khẩu không có
nhu cầu vay vốn, caùc NHchưa có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong việc bán
ngoại tệ cho ngân hàng vì tỷ giá trong ngân hàng nhiều lúc chênh lệch quá thấp so với thị
trường chợ đen. Mất cân đối lớn giữa thanh toán xuất khẩu và thanh toán nhập khẩu trong
thanh toán L/C. Có tình trạng một số khách hàng thực hiện thông báo L/C qua NH naøy
nhưng lại xuất trình chứng từ tại một ngân hàng khác.
Công tác kiểm tra kiểm soát hoạt động TTQT chưa thực sự đáp ứng yêu cầu.
Công tác kiểm tra kiểm toán chưa được thực hiện nghiêm túc và thường xuyên nên chưa
kịp thời phát hiện các sai sót để sửa chữa, khắc phục hoặc rút kinh nghiệm Các quy
định, cơ chế quản lý, kiểm soát rủi ro trong hoạt động KDĐNnhìn chung chưa đầy đủ nên
khả năng phát hiện kịp thời sai phạm và ngăn chặn rủi ro chưa tốt. Điều đó có thể tạo cơ
hội cho các cán bộ cố ý làm trái quy định, quy trình nghiệp vụ gây ra những bất lợi cho
NHTM.
Hạn chế trong quan hệ với các NHĐL nước ngoài. Việc xây dựng và phát triển

mối quan hệ với hệ thống NHĐL mới chỉ chú trọng ở chiều rộng mà chưa thực sự coi
trọng quan hệ về chiều sâu, chưa có những thỏa thuận hợp tác toàn diện, đầy đủ với
những NHĐL tại những quốc gia là thị trường XNK chủ lực của VN. Caùc NHTM mới
thiết lập quan hệ tài khoản Nostro chủ yếu bằng đồng Đô la Mỹ (USD) và vài đồng tiền
khác mà chưa đa dạng hóa được loại tiền tệ.
5.3 Nguyên nhân.
Sở dĩ hoạt động thanh toán quốc tế còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân khác
nhau, cả khách quan lẫn chủ quan.
Nguyên nhân khách quan.
- Môi trường pháp lý:
Cho đến nay,chính sách của Nhà nước và các văn bản của các nghành chưa đồng
bộ và chưa phù hợp với tình hình phát triển của công tác thanh toán.Các văn bản pháp
quy của ngành ngân hàng cho nghiệp vụ thanh toán quốc tế chưa đáp ứng kịp thời hoăc
đầy đủ.
Trong thời kỳ mở cửa lợi dụng kẽ hở của hành lang pháp lý và cán bộ kém năng
lực, nhiều doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng sử dụng trái mục đích, đồng thời không trả
được nợ Ngân hàng dẫn đến các Ngân hàng không dám đầu tư, hoạt động thanh toán
quốc tế giảm sút.
- Sự cạnh tranh của Ngân hàng khác.
Hiện nay số lượng các NHTM ngày càng gia tăng. Chính vì vậy sự cạnh tranh giữa
các ngân hàng diễn ra ngày càng quyết liệt.Các ngân hàng này thường có vốn điều lệ lớn
nên được cho phép vay dự án lớn, nhờ vậy có điều kiện ràng buộc người vay thanh toán
qua họ. Như vậy, với số lượng đông đảo các ngân hàng trên địa bàn chật hẹp, việc chia sẻ
khách hàng, phân tán nghiệp vụ là điều không thể tránh khỏi. Hơn nữa, các ngân hàng
nước ngoài lại có lợi thế về công nghệ thông tin hiện đại,thủ tục tín dụng đơn giản,có
kinh nghiệm trong chính sách khách hàng. Chính ví vậy, không thể tránh khỏi những khó
khăn trong việc thu hút khách hàng.
- Trình độ kinh nghiệm của khách hàng :
Mặc dù số lượng khách hàng được phép trực tiếp kinh doanh XNK ngày càng tăng
nhưng kinh nghiệm trong thanh toán XNK vẫn chưa có, trình độ am hiểu về công tác

Thanh toán quốc tế còn hạn chế gây không ít khó khăn cho ngân hàng
Hầu hết các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở Việt Nam rất yếu về các nghiệp vụ
ngoại thương. Ngoài ra các doanh nghiệp vẫn chưa nắm rõ luật kinh tế , thủ tục tố tụng
nên trong trường hợp có tranh chấp thì không khiếu nại kịp thời,đúng chỗ mà chỉ biết
khiếu nại ngân hàng. Từ chỗ không nắm vững được luật pháp sẽ dẫn đến những sơ hở về
mặt pháp lý trong việc ký hợp đồng thương mại.
- Ngân hàng luôn đối phó với những hành vi lừa đảo: Là một trung gian thanh toán
nên Ngân hàng luôn phải đối đầu với các hành vi lừa đảo có thể xuất phát từ ngươì xuất
khẩu, người nhập khẩu hoặc người vận chuyển. Đặc biệt là sự xuất hiện của nhiều công
ty ma, với nhiều thủ thuật lừa đảo ngày càng tinh vi. Do đó Ngân hàng cần có cơ chế
quản lý giám sát chặt chẽ để tránh mọi rủi ro có thể xảy ra.
b Nguyên nhân chủ quan:
c Thứ nhất, Công tác Marketing chưa được vận dụng một cách triệt để trong hoạt động
thanh toán của Ngân hàng .
d Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng số lượng khắch hàng mà phòng Thanh toán quốc tế
thu hút không nhiều.Ngân hàng chưa có chương trình công tác cụ thể theo đuổi các mục
tiêu chung trong chiến lược khách hàng tại ngân hàng.
e Mặt khác tuy đã ứng dụng Marketing vào quá trình cung ứng dịch vụ Thanh toán
quốc tế nhưng vẫn bộc lộ nhiều hạn chế. Trong quá trình giao dịch với khách hàng, thái
độ nhân viên rất đúng mực, lịch sự, có tinh thần trách nhiệm với khách hàng, không gây
phiền hà, không để khách hàng khiếu nại. Song đến nay ngân hàng vẫn chưa có phòng
Marketing riêng.
f Hơn nữa, hoạt đông thanh toán hàng xuất khẩu chưa thực sự được quan tâm đúng
mức.Thực tế cho thấy,thanh toán hàng xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ còn
rất hạn chế so với thanh toán hàng nhập khẩu. Hầu hết khách hàng của ngân hàng đều là
những doanh nghiệp kinh doanh hàng nhập khẩu hoặc một số khách hàng có kinh doanh
cả hàng hoá xuất khẩu nhưng lại thanh toán hàng xuất ở ngân hàng khác, do vậy không
thúc đẩy hoạt động Thanh toán quốc tế.
- Thứ hai, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng, ban, đặc biệt là giữa
phòng kinh doanh và thanh toán quốc tế trong công tác tìm hiểu khách hàng.

Điều này có ý nghĩa rất lớn trong hoạt động của phũng Thanh toán quốc tế tại các
ngân hàng. Nếu thực hiện được điều này công tác thanh toán nói riêng sẽ tiết kiệm được
rất nhiều về cả thời gian và nhân sự. Không chỉ có vậy, thông qua sự phối hợp này, mọi
hợp đồng sẽ có được hàng rào bảo hiểm trước rất nhiều rủi ro, đặc biệt là rủi ro tác
nghiệp - loại rủi ro cơ bản của nghệp vụ thanh toán L/C.
- Thứ ba, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ nhân viên còn nhiều hạn chế.
Mặc dù ngân hàng đã thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ
cán bộ bằng việc tạo điều kiện đi khảo sát và trao đổi kinh nghiệm nghiệp vụ với các chi
nhánh thực hiện Thanh toán quốc tế trong hệ thống cũng như học tập nghiệp vụ ngân
hàng hiện đại tại các ngân hàng đại lý song vẫn còn thua kém những ngân hàng nước
ngoài. Họ có chiến lược khách hàng hợp lý, theo dõi khách hàng sát sao, áp dụng triệt để
Marketing ngân hàng trong hoạt động kinh doanh nên tác phong của họ phần nào cũng
năng động hơn.
- Thứ tư, hạn chế về cơ sở vật chất, trang thiết bị và giờ làm việc.
Mặc dù hiện nay các NH khá đủ điều kiện và tiên nghi khá tốt. Tuy nhiên, diện
tích phòng làm việc thì lại nhỏ. Điều này gây cho khách hàng tâm lý chưa thoải mái trong
giao dịch tại ngân hàng. Hơn nữa cũng ảnh hưởng tới điều kiện làm việc của cán bộ ngân
hàng.
Mặt khác, trang thiết bị của ngân hàng dù đã được trang bị khá hiện đại song vẫn
còn nhiều hạn chế, điều này làm chậm tiến trình giao dịch với khách hàng.
Giờ làm việc cũng không thể cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài. Trong khi
các ngân hàng nước ngoài mở cửa làm việc đến 18h thì ngân hàng đóng cửa vào lúc
16h30. Điều này làm hạn chế lượng khách hàng đến giao dịch với ngân hàng.
- Thứ năm, hạn chế về Ngân hàng đại lý.
Với số lượng ngân hàng đại lý như hiện nay, các NHTM cổ phần nhỏ vẫn chưa đủ
khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác (chẳng hạn ngân hàng Ngoại thương VN có
1600 ngân hàng đại lý).
Hơn nữa, ngân hàng chưa nắm bắt được các chính sách, quy định của các ngân
hàng đại lý ở nước ngoài trong các giao dịch thanh toán với các ngân hàng VN, chưa khai
thác tối đa dịch vụ ngân hàng do họ cung cấp để đáp ứng nhu cầu giao dịch với khách

hàng.
6. Giải pháp phát triển hoạt động TTQT tại Việt Nam
6.1. Giải pháp từ phía các ngân hàng
6.1.1. Đẩy mạnh hoạt động marketing.
Ngày nay với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì hoạt động marketing
ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự thành công của các doanh nghiệp, trong đó có
ngành ngân hàng. Đối với các ngân hàng, khi hoạt động marketing được tiến hành một
cách có tổ chức và có hệ thống thì các sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng sẽ được khách
hàng biết đến và có cơ hội lôi kéo khách hàng về với mình. Các ngân hàng cần phải có sự
quan tâm hơn nữa tới hoạt động marketing đặc biệt là cần chú trọng tới công tác nghiên
cứu thị trường và tìm hiểu nhu cầu khách hàng. Công tác nghiên cứu thị trường cũng đòi
hỏi các ngân hàng phải tìm hiều cả về đối thủ cạnh tranh của mình trong việc cung cấp
các sản phẩm dịch vụ cùng loại, trong đó có dịch vụ TTQT, để tìm hiểu xem các ngân
hàng đó mạnh về phương thức thanh toán nào, từ đó sẽ giúp cho ngân hàng có được
những hành động phù hợp và hiệu quả hơn. Chính sách marketing của ngân hàng cần
được xây dựng một cách khoa học, có hệ thống để khi đi vào thực hiện đem lại kết quả
tốt và phát huy tối đa nguồn lực của ngân hàng.
6.1.2. Đổi mới chính sách khách hàng
Hoạt động thanh toán quốc tế và số lượng khách hàng có quan hệ sử dụng dịch vụ
thanh toán quốc tế của ngân hàng Việt Nam còn hạn chế, chính vì vậy việc đưa ra các
chính sách khách hàng hợp lý là điều hết sức cần thiết. Các ngân hàng nên đưa ra các
chính sách ưu đãi hơn nữa đối với những khách hàng có dư nợ tín dụng cao, đồng thời
ngân hàng nên có chính sách khuyến khích cụ thể đối với những khách hàng có doanh số
tham gia hoạt động thanh toán quốc tế lớn.
Trong chính sách khách hàng, ngân hàng cũng có thể cho khách hàng vay để ký
quỹ, bởi vì ký quỹ là một yêu cầu bắt buộc khi khách hàng mở L/C tại ngân hàng, nó đảm
bảo cho sự an toàn của ngân hàng khi người mua không có khả năng thanh toán cho ngân
hàng. Tuy nhiên nếu trong trường hợp người mua chưa có đủ vốn để ký quỹ thì ngân
hàng có thể tạo điều kiện cho khách hàng của mình bằng cách cho vay để ký quỹ, như thế
sẽ tạo cho khách hàng có điều kiện thực hiện được hoạp đồng và sẽ có quan hệ tốt hơn

với ngân hàng.
6.1.3. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường và nhu cầu của khách hàng.
Công việc này sẽ giúp cho ngân hàng xác định được thị trường mục tiêu và các
khách hàng mục tiêu của mình, từ đó sẽ đưa ra chính sách sản phẩm phù hợp. Quá trình
phân tích đánh giá về thị trường sẽ giúp cho ngân hàng xác định được thị trường mục tiêu
phù hợp với thực lực của mình.
Sau khi đã xác định được thị trường mục tiêu thì công đoạn tiếp theo là tiến hành
việc xác định những phương thức TTQT phù hợp với đoạn thị trường đó, để có những
biện pháp phát triển sâu hơn về phương thức đó. Tiếp theo là việc xúc tiến quảng cáo các
sản phẩm và tiện ích của các dịch vụ của mình tới nhóm khách hàng mục tiêu, việc quảng
cáo có thể được tiến hành theo nhiều cách như thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng như sách báo, tạp chí, ti vi, hoặc có thể thông qua các tuyên truyền viên tới gặp
gỡ trực tiếp những khách hàng để tiếp thị.
6.1.4. Tăng cường đầu tư hiện đại hoá công nghệ thanh toán ngân hàng.
Khi mà thời đại ngày nay là thời đại của công nghệ thông tin thì việc ứng dụng các
thành tựu của khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống là một tất yếu trong tất cả các
lĩnh vực, và trong đó ngành ngân hàng là một ví dụ điển hình. Khi mà các ngân hàng
cùng cung cấp các sản phẩm dịch vụ như nhau thì khách hàng sẽ ưu tiên lựa chọn ngân
hàng nào có công nghệ hiện đại hơn bởi vì sẽ tiết kiệm được thời gian cũng như chi phí
giao dịch của họ. Hệ thống ngân hàng Việt Nam cần phải đầu tư hơn nữa để hiện đại hoá
công nghệ ngân hàng của mình để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và đủ sức cạnh tranh
khi mà xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ.
Công nghệ thanh toán hiện đại sẽ tạo sứ mạnh cạnh tranh cho SGD, nó được
thể hiện:
+Tiết kiệm chi phí, đẩy nhanh tốc độ thanh toán và chuyển tiền, tập trung hiệu quả vốn
kinh doanh
+Thực hiện kế toán, giao dịch thức thời, kiểm soát từ xa các nghiệp vụ thị trường liên
Ngân Hàng, quản lí thong tin, phòng ngừa rủi ro….
+ Đảm bảo an toàn và hiệu quả.
Khoa học công nghệ ngày càng phát triển tiên tiến hơn, hoạt động TTQT đòi hỏi

sự nhanh chóng chính xác. Vì vậy ứng dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động TTQT là
không thể thiếu được và phải cập nhập liên tục.
6.1.5. Phát triển hơn nữa mối quan hệ với các ngân hàng đại lý.
Ngân hàng sẽ không thực hiện được hoạt động TTQT nếu như không có các mối
quan hệ với các ngân hàng đại lý trong và ngoài nước. Để phát triển mối quan hệ với các
ngân hàng đại lý nên thường xuyên có những hoạt động như: Tăng cường tiếp xúc và trao
đổi học hỏi kinh nghiệm của các ngân hàng có uy tín và tiềm lực tài chính lớn mạnh, tiến
hành cử nhân viên của mình sang tập huấn tại ngân hàng bạn để tiếp thu những kiến thức
mới,
6.1.6. Thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ thanh toán
quốc tế.
Thanh toán quốc tế là một nghiệp vụ phức tạp, nó đòi hỏi cán bội phải không
ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ, trình độ tiếng anh, để đáp ứng nhu cầu của khách
hàng và thực hiện được mục tiêu của ngân hàng.
Trình độ của cán bộ nghiệp vụ TTQT có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động TTQT
về thời gian, chi phí và chất lượng. Việc nâng cao trình độ của cán bộ TTQT có thể được
thực hiện thông qua các hoạt động như: tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ
TTQT một cách thường xuyên, nâng cao trình độ ngoại ngữ của cán bộ TTQT, tổ chức
các buổi hội thảo về TTQT, khi tuyển chọn nên ưu tiên những người có chuyên môn
nghiệp vụ vững, biết ngoại ngữ, có khả năng giao tiếp tốt.
Vì trong hoạt động TTQT luôn phải xem xét và xử lý các vấn đề có liên quan như:
- Trách nhiệm và quyền hạn của mỗi bên tham gia hoạt động ngoại thương cũng
như hoạt động thanh toán quốc tế đều bị chi phối không chỉ bởi luật lệ, tập quán của mỗi
quốc gia mà còn chịu sự quy định bởi các văn bản.
- Trong hoạt động TTQT liên quan đến các vấn đề về xử lý các sai sót chứng từ và
tranh chấp có thể xảy ra
Để có thể phát triển hoạt động TTQT, cần có đội ngũ cán bộ năng động, nhiệt tình,
giỏi về chuyên môn và ngoại ngữ, vi tính, am hiểu lĩnh vực ngoại thương, các luật lệ và
tập quán quốc tế về ngoại thương và thanh toán quốc tế. Có thể tư vấn cho khách hàng ký
kết các hợp đồng xuất nhập khẩu, và áp dụng phương thức thanh toán phù hợp tránh rủi

ro, đồng thời có thể xử lý được những tình huống phát sinh trong quá trình thực hiện hợp
đồng và thanh toán, đảm bảo quyền lợi khách hàng nhưng vẫn giữ uy tín của SGD trên
thương trường quốc tế.
Tài liệu tham khảo
1. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại- TS.Nguyễn Minh Kiều- NXB Lao Động và Xã
Hôi
2. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại- PGS.TS Nguyễn Đăng Dờn-NXB Đại học quốc
gia TPHCM
3. Thanh toán quốc tế- PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương- NXB Lao Động và Xã Hội

×