Tải bản đầy đủ (.pdf) (284 trang)

nghiên cứu trình độ tập luyện của vận động viên nhảy cao và chạy cự ly ngắn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 284 trang )

SỞ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ SỞ THỂ DỤC THỂ THAO
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH





ĐỀ TÀI NGHIỆM THU


TÊN ĐỀ TÀI:


“NGHIÊN CỨU TRÌNH ĐỘ TẬP
LUYỆN CỦA VẬN ĐỘNG VIÊN NHẢY
CAO VÀ CHẠY CỰ LY NGẮN THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH”




CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI:
CN.NGUYỄN ĐĂNG KHOA















TP.HỒ CHÍ MINH 28/01/2008


- 1 -
PHẦN MỞ ĐẦU

Điền kinh là môn thể thao cơ bản và không thể thiếu trong hệ thống thi đấu ở
các kỳ Đại hội thể thao khu vực, châu lục và thế giới.
Ở Việt Nam, môn Điền kinh được phát triển rôïng trên mọi miền đất nước.
Thành tích của các nội dung môn Điền kinh không ngừng được nâng cao. Từ Sea
games 16 đến Seagames 22 thành tích điền kinh nước ta đã có những bước tiến
đáng kể, đặc biệt ở Seagames 23 tại Philippine, các VĐV đội tuyển điền kinh Việt
Nam đã đạt 8 HCV trong đó có huy chương vàng ở cự ly chạy 100m của Vũ Thò
Hương; nhảy cao của Bùi Thò Nhung, Nguyễn Duy Bằng v.v… và một số VĐV đạt
trình độ cao, giành nhiều huy chương trong các giải quốc tế góp phần nâng trình độ
Điền kinh Việt Nam lên tầm cao mới.
Tuy nhiên thành tích của Điền kinh Việt Nam đạt được trong thời gian qua
còn thấp so với thành tích ở Châu Á. Việc nâng cao thành tích môn Điền kinh là hết
sức cần thiết và cấp bách đòi hỏi người làm công tác quản lý và huấn luyện trong
môn thể thao này đi sâu nghiên cứu trên nhiều mặt , trong đó trọng tâm là nâng cao
trình độ tập luyện cho các VĐV trẻ.
Thực hiện chiến lược phát triển Thể dục Thể thao tp Hồ Chí Minh thời kỳ
2001-2010 và quán triệt tinh thần nghò quyết 20-NQ/TU của Ban thường vụ Thành
y, công tác đào tạo vận động viên trẻ và năng khiếu của Thành phố Hồ Chí Minh

xác đònh: “Đổi mới và cải tiến công tác đào tạo tài năng thể thao theo hướng trọng
tâm hóa, đa dạng hóa, xã hội hóa và hiện đại hóa, tạo nên sự vượt ngưỡng, đột biến
thành tích thể thao để nhanh chóng đạt được thành tích thể thao cao trong khu vực,
tiếp cận Châu lục và Thế giới”. Công tác xây dựng lực lượng vận động viên trẻ là
một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Ngành thể dục thể thao Thành phố Hồ Chí
Minh trong những năm vừa qua, hiện nay và ở những năm tiếp theo.


- 2 -
Điền kinh Thành phố Hồ Chí Minh đã góp phần lớn vào thành tích chung của
Thể thao Việt Nam, trong đó có nhiều VĐV CLN - Nhảy cao đã tham gia đội tuyển
điền kinh Quốc gia và đạt thành tích cao tại các giải thi đấu như: Nguyễn Đình
Minh, Trònh Đức Thanh, Lương Tích Thiện, Lâm Hải Vân, Trương Hòang Mỹ Linh,
Trần Thò Phương Mai, Nguyễn Quang Vinh … Nhưng hiện nay trình độ VĐV trẻ lớp
sau của TP HCM chưa đáp ứng việc bổ sung lực lượng cho đội trẻ Quốc gia. Vận
động viên ở lứa tuổi này là lứa tuổi bước vào giai đọan chuyên môn hóa sâu, giai
đọan phát triển khả năng tối đa về chuyên môn (tốc độ- sức bền), khả năng phối
hợp vận động, sự ổn đònh về thể lực ở mức cao, tinh thần và ý chí thi đấu v.v…
Muốn đánh giá trình độ năng lực thi đấu duy trì và nâng cao thành tích môn
Điền kinh của Việt Nam nói chung và của Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, việc
nâng cao trình độ tập luyện của VĐV trong đó đánh giá là việc làm thường xuyên
hệ thống của các HLV cũng như các nhà quản lý TDTT.
Tìm hiểu, nghiên cứu và đánh giá trình độ tập luyện của vận động viên trẻ
CLN - Nhảy cao về từng mặt : thể lực, tâm lý , hiønh thái, kỹ-chiến thuật … là vấn đề
thực tiễn và cần thiết để thiết lập chỉ tiêu kiểm tra, so sánh trình độ tập luyện hiện
tại và tìm giải pháp nâng cao phù hợp hơn cho huấn luyện VĐV CLN - Nhảy cao,
góp phần nâng cao chất lượng công tác huấn luyện, làm cơ sở cho việc xây dựng
mô hình đào tạo dài hạn cho VĐV điền kinh trẻ ở TP HCM. Đó là việc luôn thôi
thúc các nhà chuyên môn, các HLV tìm ra cái mới, khoa học và hiệu quả hơn trong
phương pháp huấn luyện cho VĐV chạy cự ly ngắn và nhảy cao.

Để đóng góp phần vào việc nâng cao trình độ môn chạy cự ly ngắn - nhảy
cao cho Thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi đã xác đònh cách thức và phương pháp
nghiên cứu phù hợp với tên đề tài sau:
“ Nghiên cứu trình độ tập luyện của vận động viên chạy cự ly ngắn và nhảy
cao lứa tuổi 15 – 18 tại TP Hồ Chí Minh”.



- 3 -
* Mục đích của đề tài :
Nghiên cứu thực trạng và xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá trình độ tập
luyện của vận động viên chạy cự ly ngắn và nhảy cao lứa tuổi 15 – 18 phù hợp với
tình hình cụ thể của Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn chuyên môn hoá sâu
nhằm góp phần vào việc tuyển chọn, đánh giá quá trình huấn luyện một cách khoa
học và hệ thống.
* Các nhiệm vụ : Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài nghiên cứu đã giải
quyết các nhiệm vụ sau:
1. Nghiên cứu đánh giá thực trạng trình độ tập luyện của VĐV chạy cự ly
ngắn và nhảy cao lứa tuổi 15 - 18 của tp Hồ Chí Minh (thể lực, hình thái, chức năng,
y- sinh, tâm lý).
2. Nghiên cứu độ tăng trưởng và xây dựng các tiêu chuẩn, đánh giá trình độ
tập luyện của VĐV chạy Cự ly ngắn và Nhảy cao sau hai tập luyện.
3. Phân tích đánh giá kế họach huấn luyện VĐV chạy cự ly ngắn- nhảy cao
lứa tuổi 15 -18 theo chu kỳ năm và trên cơ sở đánh giá về trình độ tập luyện của
VĐV, đề xuất nội dung, biện pháp huấn luyện phù hợp nhằm nâng cao trình độ tập
luyện của VĐV chạy Cự ly ngắn và Nhảy cao ở tp Hồ Chí Minh.














- 4 -
CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN

1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU :
1.1.1 Trình độ tập luyện của VĐV :
Trong quy trình đào tạo VĐV nhiều năm, việc đánh giá trình độ tập luyện
(TĐTL) của VĐV các cấp theo độ tuổi, giới tính và môn thể thao chuyên sâu rất có
nghóa về mặt thực tiễn và lý luận, đặc biệt trong tuyển chọn và huấn luyện
VĐV.Theo TS.Nguyễn Thế Truyền và các cộng sự, TĐTL là một phức hợp gồm
nhiều thành tố Y-Sinh, tâm lý, kỹ – chiến thuật, thể lực, ngày càng được nâng cao
nhờ ảnh hưởng trực tiếp lâu dài của lượng vận động tập luyện và thi đấu cũng như
các liệu pháp hỗ trợ ngọai sinh khác [40].
Khái niệm về quá trình biến đổi lâu dài của TĐTL luôn gắn liền với phạm
trù “phát triển “ và”thích nghi” Phát triển là một quá trình biến đổi trạng thái của
tất cả các thành tố tạo nên thực thể trong tự nhiên và xã hội diễn ra theo quy luật
nhất đònh. Sự biến đổi các thực thể đó có mối quan hệ tương hỗ về lượng và chất,
tiùnh ngẫu nhiên, tính đa dạng của những biến đổi đó theo xu hướng chung và tồn tại
lâu dài. Sự phát triển TĐTL nhờ tác dụng lâu dài của lượng vận động tạo nên
những biến đổi về chức năng và cấu trúc trong các cơ quan và các hệ thống cơ thể.

“Thích nghi” là sự biến đổi của các hệ thống chức năng tâm lý và sinh lý lên
một trình độ cao hơn và sự thích nghi với các điều kiện chuyên môn bên ngòai. Sự
thích nghi về sinh lý và tâm lý luôn được coi là một quá trình thống nhất”[40]
Quá trình phát sinh giai đọan thích nghi gần giống như sự phát triển TĐTL.
Song giữa trình độ huấn luyện và giai đọan thích nghi cũng có khác nhau. Trình độ
tập luyện là một trạng thái động, tạo cơ sở để phát triển không ngừng các thành tích
thể thao. Giai đọan thích nghi đánh dấu những kết quả đã đạt được của khả năng


- 5 -
thích nghi của cơ thể ở mức độ ổn đònh cụ thể nào đó và giai đọan này nói lên cơ sở
nâng cao lượng vận động cao hơn.
Nhiều tác giả nghiên cứu về TĐTL như :
- Theo Novicov A.D và Matveep L.P : “ Khái niệm TĐTL thường được gắn
chủ yếu với những biến đổi thích ứng về mặt sinh học (về chức năng và hình thái)
xảy ra trong cơ thể VĐV dưới tác dụng của các lượng vận động trong tập luyện và
được biểu hiện ở sự nâng cao năng lực họat động, TĐTL càng cao thì VĐV hòan
thành một họat động nhất đònh càng có hiệu quả và hòan thiện hơn. Do đó, TĐTL
là thước đo mức thích ứng của cơ thể đối với một họat động cụ thể đạt được qua tập
luyện”.[13]
- Theo Aulic I.V, cần phải để ý đến một trong những yếu tố cơ bản của
TĐTL, là thành tích thể thao. Aulic I.V cho rằng “TĐTL là năng lực tiềm tàng của
VĐV để đạt được những thành tích nhất đònh trong môn thể thao được lựa chọn”.
Ông đã đònh nghóa “TĐTL chính là mức độ thích ứng của cơ thể đối với một nhiệm
vụ cụ thể, đạt được bằng con đường tập luyện”. [12]
- Theo Sách giáo khoa bậc đại học về bóng bàn có nêu đònh nghóa “ TĐTL là
một hợp kim phức hợp nhiều thành tố, nhiều mặt về hình thái, chức năng, tâm lý,
thể lực, hiểu biết”.
Theo PGS-TS Trònh Trung Hiếu và TS.Nguyễn Sỹ Hà : “ TĐTL là trạng thái
gắn liền với những biến đổi thích nghi của các đặc tính sinh học trong cơ thể VĐV.

Những biến đổi đó, xác đònh mức độ khả năng của các hệ thống chức năng cơ
thể”.[10]
Theo PGS-TS Nguyễn Tóan và PGS-TS Phạm Danh Tốn : “ TĐTL của VĐV,
đó là kết quả của việc tổng hợp giải quyết các nhiệm vụ trong thực tiễn huấn luyện
thể thao. TĐTL thể hiện ở mức độ nâng cao chức phận cơ thể, năng lực họat động
chung và chuyên môn của VĐV ở mức hòan thiện các kỹ xảo thể thao phù
hợp”.[28]


- 6 -
Theo TS.Nguyễn Ngọc Cừ : “ TĐTL là phạm trù đa giá trò, có tính tương đối
trừu tượng, tiềm ẩn, không thể nhận biết ngay được bằng trực quan, vì nó là tổng
hòa những biến đổi thích nghi của vô số các yếu tố thuộc các lónh vực khoa học Y-
Sinh, sư phạm và tâm lý diễn ra bên trong cơ thể của VĐV hợp lý, thông qua quá
trình huấn luyện lâu dài, được biểu hiện ra bên ngòai bằng năng lực vận động và
thành tích thể thao. TĐTL được coi là tiền đề, là nền tảng cho sự sáng tạo các thành
tích thể thao. Nhưng không phải lúc nào TĐTL tốt cũng được biểu hiện một cách vô
điều kiện ra ngòai bằng thành tích thể thao cao. Bởi lẽ chúng ta không thể lường
hết và cũng không thể điều tiết được tất cả những yếu tố cho phối tiêu cực đối với
các cuộc thi đấu thể thao”.[8]
Theo Từ điển TDTT Trung Quốc xuất bản năm 1991 thì : “ TĐTL là mức đo
khả năng thích nghi của cơ thể VĐV với vận động . Do ảnh hưởng của lượng vận
động trong tập luyện, tính thích nghi về mặt sinh học của cơ thể cũng thay đổi tức là
nâng cao năng lực họat động chức năng của các tổ chức , cơ quan, hệ thống và năng
lực tiềm tàng của VĐV, cũng cải thiện năng lực điều tiết của hệ thống thần kinh
trung ương đối với chức năng của các tổ chức, cơ quan. Trong họat động TDTT được
biểu hiện ở mức độ phát triển tổng hợp về các mặt tố chất thể lực, kỹ thuật chiến
thuật môn chính, trí tuệ và tố chất tâm lý. TĐTL càng cao, năng lực thể thao càng
mạnh, thành tích thể thao càng tốt. Khi đánh giá TĐTL của VĐV, cần tổ chức kiểm
tra chuyên môn và đánh giá theo các số liệu đã đo đạc được so với các tài liệu có

liên quan. TĐTL là thước đo đánh giá hiệu quả huấn luyện. Tìm hiểu TĐTL có tác
dụng quan trọng đối với việc khắc phục sự mù quáng, nâng cao tính tích cực tự giác
của VĐV, điều khiển quá trình huấn luyện một cách khoa học”.[16]
Theo các đònh nghóa trên, TĐTL bao gồm các nội dung chính sau đây:
- TĐTL là một trạng thái động.
- Thành tích thể thao là yếu tố cơ bản của TĐTL.


- 7 -
- TĐTL bao gồm nhiều mặt, nhiều thành phần nhưng dựa trên nền tảng
sinh học.
- TĐTL được nâng cao thông qua con đường tập luyện thể thao.
Trình độ tập luyện có TĐTL chung và TĐTL chuyên môn:
TĐTL chung được biến đổi một cách hợp lý, dưới tác dụng của các bài tập
nhằm củng cố sức khỏe, nâng cao mức độ phát triển thể lực và các khả năng chức
năng của cơ quan, tổ chức cơ thể trong các họat động cơ bắp khác nhau. TĐTL
chuyên môn là kết quả hòan thiện của một VĐV trong họat động cụ thể được lựa
chọn làm đối tượng chuyên môn hóa sâu.
Theo khái niệm cấu trúc nhiều thành phần của TĐTL, thành tích thể thao
được xác đònh bằng cả một lọat các yếu tố và có thể ghép chúng vào một số nhóm.
Chính vì vậy, nghiên cứu TĐTL theo các góc độ khác nhau: sư phạm, tâm lý , y
học, xã hội. Về góc độ sư phạm của TĐTL có trình độ kỹ thuật và chiến thuật. Về
tâm lý của TĐTL có các trạng thái tâm lý, các phẩm chất ý chí và đạo đức của
VĐV. Về góc độ y học của TĐTL người ta xem xét đến các chỉ số sinh lý của cơ
thể và tình trạng sức khỏe. Sức khỏe tốt và khả năng chức phận cao của cơ thể là
cần thiết để đạt được những thành tích xuất sắc trong thể thao. Về mặt xã hội của
TĐTL xác đònh ở vò trí của thể thao và của VĐV trong xã hội, thể hiện điều kiện
sống của VĐV, động cơ và về những tính chất khác nhau của tính cách …
Nghiên cứu lý thuyết về trình độ tập luyện của VĐV cho thấy:
a. Để đạt được thành tích cao trong một môn thể thao nào đó, VĐV phải có

những mặt cấu thành khác nhau của trình độ thi đấu và tập luyện gồm: mức độ và
đặc điểm của sự phát triển thể lực ( chiều cao, cân nặng, sự phát triển cơ bắp, độ
dài chân…)các tố chất vững vàng, chức năng từng lọai thể hình hay lọai xôma (bình
thường, yếu đuối, khỏe mạnh), năng lực phối hợp vận động, thời gian tiềm phục của
phản ứng vận động, trình độ kỹ thuật và chiến thuật, các phẩm chất tâm lý ý chí
…mà theo lý luận huấn luyện khoa học, những tố chất cấu thành của TĐTL.


- 8 -
b. Nguyên tắc cơ bản cáo nhất là trạng thái sung sức thể thao , năng lực thi
đấu thể thao việc đánh giá TĐTL là tổng hợp. Có thể dùng hai hay ba bài thử
nghiệm đơn giản nhưng xác thực phản ánh được những mặt khác nhau nhưng là bản
chất của TĐTL, sẽ cho lượng thông tin có ích hơn nhiều so với việc sử dụng thiết bò
phức tạp và hàng chục chỉ số, khi những chỉ số nầy không thể hiện được những yếu
tố bản chất chủ yếu.
c. Để đánh giá TĐTL phải kiểm tra TĐTL, của môn đó có là một ở những
giai đọan huấn luyện nhất đònh, dùng phương pháp và công cụ (dụng cụ và phương
tiện) kiểm tra thích hợp, để nhận được những trò số phản ánh được TĐTL của VĐV,
về hình thái và chức năng của cơ thể, tố chất vân động, kỹ thuật, chiến thuật, tri
thức cơ bản về TDTT, lý luận môn chuyên sâu, tố chất tâm lý. Kiểm tra phải đủ độ
tin cậy, tính khách quan, tính hiệu quả phản ánh chính xác một mặt nào đó của
TĐTL), tính khác quan (những người kiểm tra khác nhau cho kết quả như nhau trên
cùng một đối tượng kiểm tra).
1.1.2. Trình độ tập luyện của VĐV chạy CLN và nhảy cao:

Điền kinh là một môn thể thao bao gồm các nội dung đi bộ, chạy, nhảy ,ném
đẩy và nhiều môn phối hợp. Điền kinh được phân theo tính chất hoạt động có chu
kỳ và hoạt động không có chu kỳ. Nó là môn thể thao tổng hợp luôn lấy hình thái
vận động là họat động tự nhiên của con người. Chạy CLN là môn chạy chu kỳ có
miền năng lượng averobic là chính còn nhảy cao thuộc sức mạnh tốc độ , hình thái

vận động là chạy và nhảy.
Đề tài nghiên cứu đánh giá TĐTL của VĐV chạy CLN và Nhảy cao trên hai
mặt : sư phạm và y sinh (chức năng, hình thái).
Qua nghiên cứu những tài liệu trong nước và ngoài nước thấy : trong huấn
luyện thể thao hiện đại, luôn coi trọng nghiên cứu các chỉ tiêu hình thái, các tỉ lệ
nhân trắc học, các tố chất cần thiết cho môn thể thao cụ thể, để tìm ra những


- 9 -
phương pháp huấn luyện phù hợp nhằm nâng cao thành tích thể thao đạt kết quả tối
ưu .[21]
Trong thực tiễn, huấn luyện các cự ly chạy, các nhà nghiên cứu đã xác đònh
được các yếu tố chính tạo nên thành tích, đó là:
Thành tích chạy = Biên độ bước + Tần số bước
Biên độ bước có được nhờ cấu trúc giải phẫu của từng VĐV: chiều cao, cấu
trúc hình của xương chậu, chiều dài chi dưới, tỉ lệ giữa các đoạn của chi dưới… thể
hiện ở bước chạy.
Dựa vào các chỉ số hình thể và kết quả thành tích các test kiểm tra thể lực
của VĐV, đánh giá được trình độ hiện tại của VĐV về sự phát triển thể hình, các
chỉ tiêu hình thái chuyên biệt cho môn chuyên sâu có phù hợp không; các tố chất
thể lực có phát triển như mong đợi không.
Nội dung nghiên cứu chỉ chú trọng phân tích các chỉ số chuyên biệt cho môn
chạy CLN – nhảy cao về hình thể như: chiều cao, cân nặng, chỉ số Quetelet, chiều
dài chân A, chiều dài chân B, chiều dài chân C, chiều dài chân H, chiều dài cẳng
chân A, chiều dài gân Asin. vòng cổ chân ;Về chức năng sinh học: hệ tim mạch, hệ
hô hấp ; Phương pháp trắc nghiệm tâm lý: phản xạ đơn; Về tố chất thể lực thì chọn
các test sư phạm đại diện cho tố chất chuyên biệt của môn chạy CLN- Nhảy cao
chủ yếu: sức mạnh bật, tốc độ, sức bền tốc độ.
Các chỉ tiêu hình thể với môn CLN – Nhảy cao rất quan trọng, đây là môn
cần phát huy hết công suất để hoàn thành cự ly trong thời gian ngắn nhất. Ngoài tốc

độ và sức bền tốc độ , biên độ bước là yếu tố cần thiết để hạn chế công suất để
thực hiện số bước trong quá trình hoàn thành cự ly thi đấu.
Trên cơ thể con người nói chung và cơ thể vận động viên nó riêng, có rất
nhiều kích thước (chỉ tiêu) để đo. Xuất phát từ đặc thù của từng môn thể thao
chuyên sâu và ở các vận động viên chạy CLN – Nhảy cao ta quan tâm tới các nhóm


- 10 -
chỉ tiêu sau: Chiều cao ; Cân nặng ; Chỉ số Quetelet ; Dài chân A ; Dài chân B; Dài
chân C ; Dài chân H ; Dài gân Asin ; Dài cẳng chân A ; Vòng cổ chân.
Khi biết được trình độ toàn diện và điều kiện thể hình của vận động viên,
huấn luyện viên có thể dự báo khá chính xác thành tích chuyên môn hẹp của họ.
Tầm vóc của vận động viên đóng vai trò đáng kể với thành tích của họ. Rõ ràng
vận động viên của Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu này. Chính vì thế, để có
thành tích tốt trong các môn thể thao, phải triệt để khai thác các vấn đề trên.
1.1.2.1. Cơ sở sinh lý môn chạy cự ly ngắn:

a. Đặc điểm chung
:
Môn chạy ngắn có các cự ly 60m, 100m, 200m, 400m. Kỹ thuật môn chạy là
động tác chu kỳ mang tính đôïng lực, cường độ tối đa, chủ yếu phát triển tốc độ và
sức bền tốc độ. Đặc điểm chung kỹ thuật chạy ngắn là tốc độ cao nhất, cường độ
lớn nhất, thư giãn ngắn nhất. Thành tích toàn cự ly phụ thuộc vào các nhân tố: tốc
độ phản xạ, sự tăng tốc và năng lực duy trì tốc độ cao nhất, chất lượng thực hiện kỹ
thuật tốt.
b. Đặc điểm sinh lý
:
Trong chạy CLN hệ thần kinh có đặc điểm tính linh hoạt cao hơn do hoạt
động thay nhau giữa cơ đối kháng và cơ co rút cần thay đổi nhau giữa quá trình
hưng phấn và ứng chế ở trung khu vận động vỏ não, để nâng cao được tính linh hoạt

thần kinh. Quá trình hưng phấn chiếm ưu thế, vì tốc độ chạy nhanh nhất với cường
độ cao cho nên cơ quan cảm thụ bản thể bò xung động rất lớn và liên tục truyền đến
vỏ não gây nên hưng phấn cao ở trung tâm vận động vỏ não và tất nhiên, quá trình
hưng phấn cao hơn quá trình ức chế.
Do quá trình hưng phấn cơ bắp cuả vận động viên cao nên đòi hỏi chức năng
hoạt động cơ quan vận động rất cao, thời trò cơ bắp ngắn, thời trò cơ đối kháng ngắn
và cơ co gần giống nhau. Lượng oxy tiêu thụ không nhiều, ví dụ: trong cự ly 100m –


- 11 -
thời gian 10 giây nhu cầu oxy là 7 lít (khoảng 40lít/phút), nhu cầu oxy / phút vào
khoảng 35 – 40 lít là môn thể thao có lượng nhu cầu oxy lớn.
Ta biết chạy CLN có cường độ tối đa nên nhu cầu oxy rất lớn, do vậy, trong
khi vận động không thể thoả mãn được nhu cầu oxy và gây nên nợ oxy. Chức năng
hô hấp và tuần hoàn phải qua 3 – 5 phút mới phát huy hết khả năng, song vận động
viên CLN chỉ hoạt động phải hoàn thành cự ly trong thời gian ngắn 9 – 47 giây. Do
đó, trong vận động công năng tim – phổi thay đổi không lớn nhưng phải hoạt động
trong trạng thái yếm khí – phải nợ oxy CLN từ 90 % trở lên. Tuy nhiên, vì thời gian
chạy kết thúc ngắn nên trò số nợ oxy không cao, cự ly 100 m: nợ oxy 6,3 lít; 200 m
(13lít) ; 400 m (20lít).
Chức năng hô hấp thay đổi không lớn, nhưng sau khi kết thúc cự ly, chức
năng hô hấp lại nâng cao rõ rệt, tần số hô hấp đạt 35 lần / phút, thông khí phổi đạt
70 – 80 lít / phút.
Sự thay đổi chức năng tuần hoàn không nhiều, nhưng sau khi chạy sẽ tăng
nhanh, mạch đập từ 140 lần – 160 lần / phút đến 200 lần / phút, huyết áp tối đa từ
150 – 180 mmHg đến 200 mmHg, huyết áp tối thiểu giảm 10 – 20 mmHg, lượng
tâm thu / phút đạt 8 – 10 lần / phút, axit lactic trong máu tăng 100 – 200 mg% (lúc
yên tónh 9 – 15 mg%).[28]
Các hệ thống cung cấp năng lựơng tham gia vào quá trình luyện tập các môn
chạy điền kinh như sau:[20]

Tỉ lệ nguồn cung cấp năng lượng
Môn điền kinh
Hệ Phosphagène
và glycolyzis
Hệ glycolyzis và
Oxy hoá
Hệ Oxy hoá
100 m, 200m
98 2 -
400 m
80 15 5
800 m
30 65 5
1500 m
20 55 25
3000 m
20 40 40
5000 m
10 20 70
10.000 m
5 15 80
Marathon
- 5 95


- 12 -
Qua bảng hệ thống năng lượng môn điền kinh, thấy rõ hệ năng lượng
Phosphagène (ATP, CP – yếm khi phi lactat) và hỗn hợp Phosphagène và
glycolyzis (đường phân – yếm khí lactat) tham gia vào những hoạt động trong CLN
chiếm tỉ lệ phầm trăm rất cao.

Qua bảng phân loại ưa – yếm khí, thời gian và năng lượng cung cấp sau đây
sẽ thuyết minh chi tiết bảng trên:[28]
Phân loại
( Yếm khí – Ưa khí )
Thời gian Năng lượng cung cấp
Yếm khí không axit lactic 1 – 4 giây ATP
Yếm khí không axit lactic 4 – 20 giây ATP + CP
Yếm khí không axit lactic
+ Yếm khí có axit lactic
20 – 45 giây
ATP + CP + Glucogen
trong cơ
Yếm khí có axit lactic 45 – 120 giây Glucogen trong cơ
Ưa khí + yếm khí 120 – 140 giây Glucogen trong cơ
Ưa khí 240 – 600 giây Glucogen trong cơ + lipit
Các công trình nghiên cứu của Saltin (1986), Hultman (1990) và nhiều tác
giả khác về năng lực của các hệ thống trao đổi chất trong cơ thể VĐV các môn TT,
đã lượng hoá được các yếu tố cấu thành của chúng, gồm mức dự trữ vật chất mang
năng lượng như: ATP, CP, Glucogen, Lipit trong cơ bắp. Tốc độ phân giải, công
suất tố i đa, hiệu suất sinh hoá, thời gian tối đa có thể cung cấp năng lượng và khả
năng tái tổng hợp các liên kết cao năng lượng trong phân tử ATP của vật chất mang
năng lượng nêu trên.
Có 2 hệ thống trao đổi chất và mối quan hệ chặt chẽ giữa năng lực trao đổi
chất và năng lượng vận động của cơ thể như sau:
1. Hệ thống trao đổi chất yếm khí.
2. Hệ thống trao đổi chất ưa khí.
Trong 2 hệ trao đổi chất trên, hệ thống trao đổi chất yếm khí tham gia chính
vào sự cung cấp năng lượng cho môn CLN.
 Hệ thống trao đổi chất yếm khí:




- 13 -
- Miền cung cấp năng lượng phosphagène:
bao gồm 2 hợp chất mang năng
lượng là ATP, CP thuộc hệ năng lượng yếm khí phi lactat (không sản sinh ra acid
lactic khi phân giải).
Hệ phosphagène có lượng dự trữ thấp nhất. Tổng cộng cả ATP và CP chỉ
khoảng 100 mili phân tử gam trong 1 kg trọng lượng cơ khô, ký hiệu là mmol.kg
-1
D,
nhưng lại có tốc độ và công suất phân giải cao nhất. Tốc độ phân giải tối đa là 4.4
phân tử gam ATP trong 1 phút (ký hiệu là ~p.mol.min
1
). Công suất tối đa của ATP
là 11.2, CP là 8.9 mili phân tử gam trên 1kg trọng lượng cơ khô trong 1 giây. Thời
gian đạt công suất tối đa chưa đến 1 giây và thời gian tối đa cung cấp năng lượng
cho hoạt động với cường độ cực hạn của ATP và CP trong khoảng 6 Ỉ 8 giây là cạn
kiệt.
Như trên, hệ phosphagène không có khả năng thoả mãn đủ nhu cầu năng
lượng cho những hoạt động thể lực yếm khí có tốc độ quá 10m/giây, kéo dài trong
vòng 10 giây như chạy 100m.
Tuy vậy, hệ phosphagène là nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu và có hiệu
quả cao cho những loạt hoạt động với động tác mà kỹ chiến thuật đòi hỏi tốc độ cực
hạn, sức mạnh tốc độ tối đa (sức mạnh bộc phát) kéo dài không quá 6 Ỉ 8 giây.
Các hệ thống trao đổi
chất
Năng lượng
Lượng dự trử
(mmol.kg

-1
D)
Khả năng tái tạo
ATP
(mmol.kg
-1
D)
Thời gian tối đa có thể
cung cấp năng lượng
(cường độ cực hạn)
Trao đổi chất yếm khí:
- Hệ thống phosphagène
ATP
CP
- Hệ thống glycolyzis
Glycogen trong cơ


25
77

365




100

~250
(tổng dự trử 1030)



6 Ỉ 8 giây

1 Ỉ 3 phút
Trao đổi chất ưa khí:
- Glycogen trong cơ
- Lipit (mỡ, acid béo)

365
49

13000
không hạn chế

1 Ỉ 2 giờ
nhiều giờ



- 14 -
- Miền cung cấp năng lượng glycolyzis:
là hệ cung cấp năng lượng yếm khí
do quá trình phân giải của đường glucose và glucogen tạo ATP cho cơ thể hoạt
động. Đặc điểm chủ yếu của quá trình đường phân yếm khí là tạo ra axit lactic, vì
thế hệ glycolyzis còn gọi là hệ yếm khí lactat.
Bảng tốc độ phân giải và công suất tối đa của các vật chất mang năng lượng
Quá trình trao đổi chất
Năng lượng
Công suất tối đa

(mmol ATP/kg
–1
S
–1
)
Thời gian để đạt
công suất tối đa
Nhu cầu oxy
(mmol O
2
.ATP
–1
)
Quá trình yếm khí
ATP
CP
Glycolyzis

11.2
8.6
5.2

> 1 giây
> 1 giây
> 5 giây

0.0
0.0
0.0
Quá trình ưa khí:

Glycose Ỉ CO
2
+ H
2
0
Acid bé CO
2
+ H
2
0

2.7
1.4

sau 3 phút
sau 30 phút

0.167
0.177

Trong thực tiễn hoạt động thể thao gần như không có cự ly hoặc môn nào huy
động đơn độc một hệ năng lượng, mà thường là cung cấp năng lượng hỗn hợp của 2
hoặc 3 hệ . Năng lượng hỗn hợp phosphagène – glycolyzis tạo ra công suất gần
bằng ATP, CP và để cung cấp năng lượng cho hoạt động kéo dài từ 15 giây Ỉ 30
giây thuộc vùng cường độ cực hạn, và 3 Ỉ 5 phút vùng cường độ dưới cực hạn. Vì
vậy, hệ thống năng lượng hỗn hợp phosphagène – glycolyzis thực sự là cơ sở vật
chất quyết đònh năng lượng vận đông và thành tích của VĐV CLN.[27]
Như vậy, trong huấn luyện năng lực chuyên môn cho môn chạy CLN luôn
đưa ra những bài tập hoạt động trong khoảng từ 1 giây Ỉ 45 giây nhằm nâng cao
khả năng hoạt động của cơ thể thích nghi với hệ thống cung cấp năng lượng này.

Đó là những bài tập xếp vào dạng SM bộc phát, SM tốc độ, SB tốc độ.
1.1.2.2. Cơ sở sinh lý của môn nhảy cao:

a. Đặc điểm chung:

Môn nhảy bao gồm: nhảy cao, nhảy xa, nhảy 3 bước và nhảy sào. Môn nhảy
thuộc các bài tập hỗi hợp, trong đó có các giai đọan có chu kỳ như trong kỹ thuật
chạy đà, có giai đọan họat động không chu kỳ như kỹ thuật dậm nhảy và giai đọan


- 15 -
trên không. Các tố chất tổng hợp thể hiện qua kỹ năng nhảy của vận động viên.
Thành tích môn nhảy phụ thuộc vào tốc độ, gốc dậm nhảy, sức bật bộc phát. Nhiều
tác giả nghiên cứu thành tích nhảy xa được xác đònh theo công thức sau:
2 gh
S
max
= Vo cos ∀ + ( Sin
2
+ ∀ _________ )
Vo
2

h =1m
S
max
:Thành tích
V : tốc độ trung bình đà
Vo : tốc độ ban đầu
∀ : góc dậm nhảy

h : h chiều cao từ trọng tâm cơ thể với mặt đất
b. Đặc điểm sinh lý:

* Hệ thần kinh:
Tính mẫn cảm của hệ thần kinh cao. Bởi vì môn nhảy có kỹ thuật chủ yếu là
dậm nhảy, bay trên không, qua xà và rơi xuống là tổ hợp với các đôäng tác không
chu kỳ tổ hợp lại .

*
Vai trò, chức năng của giác quan:
+
Vai trò, chức năng cơ quan cảm thụ bản thể trong các giai đọan kỹ thuật
trên không, qua xà yêu cầu vò trí đầu phải chính xác.
Vì vò trí đầu chính xác có vai trò mấu chốt đònh hướng không gian khi qua xà,
nên vò trí đầu thay đổi ảnh hưởng rõ đến cơ quan cảm thụ, gây phản xạ căng thẳng
cơ thể, ảnh hưởng đến động tác toàn thân.
+Tác dụng của cơ quan cảm giác tư thế.
Do động tac nhảy kích thích cơ quan cảm thụ, sự phản xạ gây phản xạ điều
chỉnh cân bằng khi chạm đất, do vậy môn nhảy nâng cao chức năng cơ quan tiền
đình cơ thể.


- 16 -
Vai trò của cơ quan thò giác: vân động viên môn nhảy trước khi thực hiện kỹ
thuật cần phải quan sát chính xác bước nhảy và bước dậm nhảy và phán đoán chính
xác độ cao của xà, góc độ dậm nhảy. Do vậy khả năng phán đoán thời gian và
không gian của thò giác của vận động viên phải được nâng cao.
* Sự thay đổi hệ thần kinh thực vật
:
Mỗi lần nhảy thời gian tương đối ngắn, sau đó được nghỉ, nên sự thay đổi

chức năng các cơ quan không lớn . Nhưng khi xà càng cao, chức năng tim- phổi
cũng thay đổi tương ứng.
* Thời gian hồi phục
;
Khả năng hồi phục nhanh.
1.1.3 Cơ sở lý luận của huấn luyện tố chất sức mạnh, tốc độ, sức bền tốc độ,
mềm dẻo và khả năng phối hợp vận động:
a. VĐV chạy CLN
:
Trong huấn luyện chạy CLN, nguyên tắc gắn liền giữa cường độ chạy và
khối lượng vận động là mối quan hệ ngược: cường độ tăng thì khối lượng phải giảm.
Trong giai đoạn huấn luyện chung, khối lượng chạy hầu như gấp 3 lần so với
giai đoạn trước thi đấu. Sự thay đổi trong cường độ huấn luyện chạy phải diễn ra
một cách tự nhiên không thể như khối lượng. Trong thời kỳ chuẩn bò không thể tăng
cường độ lên gấp ba lần. Thực tế, cuối thời kỳ chuẩn bò tốc độ chỉ tăng được 15%.
Tỷ lệ đó chỉ tăng do giảm cường độ ở giai đoạn huấn luyện chung. Riêng trong giai
đoạn chuẩn bò thi đấu, khối lượng giảm từng 3 tuần một lần. Trong 3 tuần đó, khối
lượng luôn giữ mức nào đó, còn cường độ tăng liên tục, có nghóa là khi cường độ
được giữ nguyên thì cường độ lại giảm. Tiếp theo khi chuyển sang giai đoạn tiếp
theo thì khối lượng và cường độ thay đổi theo hướng: khối lượng giảm dần và cường
độ tăng.


- 17 -
Việc giảm cường độ chạy ở giai đoạn huấn luyện chung không là cách giải
quyết tốt nhất để nâng cao tốc độ chạy. Việc giữ cường độ luôn ở mức tương đối
cao trong các giai đoạn huấn luyện là cách nâng cao thành tích chạy 100m, 200m.
Chạy 50m, 100m là biện pháp cơ bản để hoàn thiện kỹ thuật của VĐV CLN.
Chạy các cự ly này còn góp phần giải quyết nhiệm vụ phát triển vượt ngưỡng tần số
và độ dài bước. Các VĐV CLN xuất sắc Thế Giới là những người có khả năng tập

trung duy trì cả tần số và độ dài bước chạy lại thực hiện trong quá trình chạy rất
căng thẳng ở các cuộc thi đấu quan trọng. Các VĐV có kinh nghiệm, khi chạy 100m
đều có không dưới 3 Ỉ 4 lần điều chỉnh tần số và độ dài bước, mục đích duy trì tốc
độ có được cho đến hết cự ly.
Dựa vào cơ sở y sinh học, hoạt động cơ thể của VĐV CLN trong thi đấu chủ
yếu diễn ra từ 1 giây đến 45 giây. Vì thế, việc huấn luyện cũng chỉ đưa vào kế
hoạch những bài tập hoạt động với cường độ tối đa trong khoảng thời gian đó, nhằm
nâng cao năng lực VĐV. Những bài tập trong thời gian trên, là những loại bài tập
về sức mạnh, sức mạnh tốc độ, sức bền tốc độ.
Theo tài liệu “Tính chu kỳ trong huấn luyện thể thao” của TS. Lâm Quang
Thành và ThS. Bùi Trọng Toại, mối quan hệ giữa các tố chất vận động được mô
hình hoá như sau:[36]







Sức mạnh Sức bền Tốc độ Mền dẻo
Sức mạnh -
Bền
Sức mạnh
Tốc độ

Sức bền
tốc độ
Sức nhanh Khả năng
di động
Sức mạnh

tối đa
Sức bền
yếm khí
Sức bền
ưa khí
Tốc độ
tối đa
Khả năng
phối hợp tối
Biên độ tối đa
của động tác
Khả năng
phối hợp


- 18 -

Tố chất trội của môn chạy CLN được biễu diễn dưới dạng tam giác có 3 đỉnh
đại diện cho 3 tố chất trội cần thiết cho môn thể thao chuyên biệt.
F Sức mạnh


Tốc độ S E Sức bền
Như vậy, trong huấn luyện CLN chỉ tập trung vào huấn luyện sức mạnh, tốc
độ, sức bền tốc độ thì thành quả của nó sẽ sức nhanh – Đó là thành tích CLN.
¾ Phương pháp huấn luyện sức mạnh đối với VĐV chạy cự ly ngắn (100M) :
Huấn luyện sức mạnh bằng hình thức của lượng vận động phục vụ trực tiếp
cho việc nâng cao sức mạnh tối đa, sức mạnh – nhanh và sức mạnh – bền. Ngoài ra,
các năng lực sức mạnh này cũng được hoàn thiện khi giải quyết có trọng điểm các
nhiệm vụ khác của huấn luyện TT, nếu cường độ vận động của các hình thức vận

động đặt ra đủ lớn.
Có 2 hình thức huấn luyện sức mạnh:
- Huấn luyện sức mạnh tónh lực.
- Huấn luyện sức mạnh động lực.
Huấn luyện sức mạnh chạy CLN chủ yếu theo hình thức động lực, trong
huấn luyện sức mạnh động lực có 3 hình thức vận động: khắc phục, nhượng bộ và
phối hợp giữa khắc phục và nhượng bộ.
- Hình thức vận động khắc phục: hình thức vận động, nội lực khắc phục được
ngoại lực với tốc độ nhanh nhất tương ứng với độ lớn của lực cản lựa chọn. Hình
thức vận động khắc phục đặc biệt thích hợp với huấn luyện SM các môn thể thao ưu
thế về chế độ hoạt động khắc phục của hệ thần kinh cơ, trong đó tiến trình lực –
S


- 19 -
thời gian cần phải phù hợp rộng rãi với yêu cầu và nhiệm vụ thi đấu chuyên môn
CLN những bài tập như kéo bánh xe, chạy có người kéo.
- Hình thức vận động nhượng bộ: trong huấn luyện SM tối đa, ngoại lực có
thể nhiều hơn 100% năng lực SMTĐ. Tác dụng lực vượt mức này xuất hiện khi nội
lực cao nhất được sử dụng, trong đó cường độ co cơ tối đa cần thiết cho toàn bộ
phạm vi biên độ động tác. Ngoài ra, tốc độ vận động nhỏ cũng thích hợp trong huấn
luyện SM tối đa, nên cần bảo đảm cường độ vận động tối đa trong thời gian co cơ
tối ưu.
Trong huấn luyện CLN, cách huấn luyện theo chế độ nhượng bộ được áp
dụng để phát triển sức bật: bật 1,3,5,10 bước ;bật rào ;bật bục ;bật tại chổ trong hố
cát, bật cóc……
SM tối đa là nền tảng cho SMTĐ. Thường những bài tập phát triển SM tối đa
tập với tạ (khoảng từ 80 Ỉ100 % trọng lượng tối đa), trong đó mỗi đợt tập có thể
lặp lại từ 2 Ỉ 8 lần.
Phát triển SM tối đa với các phụ trọng nặng là một hình thức huấn luyện SM

hiện đại và hợp lý cho VĐV trình độ cao. Huấn luyện SM tối đa bổ trợ cho lực đạp
sau khi xuất phát cũng như trong từng bước chạy nhằm đạt được tốc độ cao trong
CLN.
Việc giáo dục các năng lực cho VĐV chạy ngắn nhằm :
- Phát huy và duy trì sức mạnh đối với các cơ.
- Biểu hiện nỗ lực tối đa trong khoản thời gian ngắn.
- Hình thành kỹ năng tập trung sức mạnh vận động vào bộ phận nhất đònh
của động tác.
- Nâng cao năng lực biểu hiện nỗ lực tối đa vào thời điểm chuyển từ giai
đoạn này sang giai đoạn khác nhau.
Trong thi đấu chạy ngắn năng lực sức mạnh được thể hiện rõ nét là sức
mạnh nhanh (sức mạnh tốc độ), sức bền, sức mạnh đơn thuần.


- 20 -
¾ Phương pháp huấn luyện sức nhanh (Tốc độ) đối với VĐV chạy ngắn (100m):
Sức nhanh là một trong những tố chất quan trọng của VĐV điền kinh, là khả
năng hoạt động với tốc độ cực hạn, sức nhanh là khả năng thực kiện động tác trong
thời gian ngắn nhất.
Các hình thức biểu hiện của sức nhanh: Phân biệt sức nhanh được biểu hiện
dưới 3 hình thức:
+ Sức nhanh phản ứng vận động: Là khả năng nhanh chóng đáp lại những tín hiệu
kích thích của VĐV.
+ Sức nhanh động tác : Là năng lực hoàn thành động tác trong một thời gian ngắn
của VĐV.
+ Sức nhanh tần số động tác : Là khả năng hoàn thành nhiều lần lặp lại động tác
trong thời gian ngắn.
Với chạy ngắn (100m) thì sức nhanh động tác là một trong các cơ sở quyết
đònh thành tích thể thao.
Để huấn luyện VĐV chạy ngắn chúng ta cần giải quyết các nhiệm vụ cơ bản

để nâng cao thành tích thể thao đối với môn chạy ngắn.
- Phát triển sức nhanh phản ứng vận động đơn giản.
- Phát triển sức nhanh động tác và tần số động tác.
Sự phát triển huấn luyện SM – nhanh đòi hỏi không những phải nâng cao tốc
độ co cơ mà còn nâng cao SM tối đa. Ý nghóa của SM tối đa với năng lực SM nhanh
phụ thuộc vào các yêu cầu của cấu trúc thành tích môn thi đấu. Trong những môn
SM tối đa là cơ sở quyết đònh tốc độ vận động tối ưu, phải phối hợp huấn luyện SM
tối đa cả SM nhanh với nhau. Đó là phương pháp huấn luyện đặc biệt. Việc huấn
luyện này phải đảm bảo sự biến đổi một cách tốt nhất năng lực SM – nhanh. Hiện
nay vấn đề này đang gây ra những khó khăn và người ta còn chưa nhận rõ đầy đủ
về phần đóng góp của năng SM tối đa vào thành tích SM – nhanh và tỷ lệ tối ưu
giữa huấn luyện SM tối đa và SM nhanh cho các môn thi đấu riêng biệt.


- 21 -
Nhiệm vụ chủ yếu của VĐV CLN là mau chóng đạt được tốc độ tối đa và
duy trì đến hết cự ly. Trong đó, tần số và độ dài bước có mâu thuẫn với nhau ở mức
nhất đònh. Việc tăng độ dài bước chạy sẽ làm giảm tần số bước và ngược lại. Vì
vậy, trong thực tế, VĐV CLN không thể chạy với độ dài bước tối đa hoặc tần số
bước tối đa, mà chỉ có thể chạy với tần số và độ dài bước nào đó để không làm
giảm tốc độ chạy.
Người ta thấy việc tăng 1 yếu tố nào trong khi duy trì được độ lớn của yếu tố
kia, hoặc đồng thời tăng được cả hai, là việc rất phức tạp. Thực tế cách giải quyết
nhiệm vụ trên là tăng đến mức tối đa vai trò các thành phần của tốc độ trong mối
quan hệ giữa chúng. Sử dụng các bài tập chuyên môn để phát triển tần số và độ dài
bứơc. Tốc độ chạy khi đó không đạt mức tối đa, nhưng tăng được các thành phần
của tốc độ chạy và tiếp theo sẽ tạo khả năng để VĐV phối hợp độ dài bước ở mức
cao hơn, để nâng được tốc độ chạy.
Phương pháp tổ chức có hiêïu quả nhất nhằm huấn luyện SM nhanh (tốc độ)
và sự phối hợp với biên đôï bước cho CLN, thường sử dụng những bài tập: gánh tạ

đạp sau nhanh, chạy có người kéo, lặp lại những bài 30m, 60m tốc độ cao…
¾ Phương pháp huấn luyện sức bền, sức bền tốc độ đối với VĐV chạy ngắn (100):
Sức bền không chỉ cần cho VĐV khi tham gia thi đấu mà cần khi thực hiện
khối lượng tập luyện.
Chạy ngắn có những đặc điểm tiêu biểu là lượng vận động và thi đấu cũng như
nhòp độ thi đấu cao và căng thẳng, đòi hỏi VĐV phải có sức chòu đựng và duy trì về
hệ thống thần kinh, cơ bắp, ý chí. Do đó cần phải phát triển sức bền cho VĐV chạy
ngắn, cụ thể làsức bền chung và sức bền chuyên môn.
Sức bền chung được sử dụng trong thời kỳ chuẩn bò cho VĐV, được phát triển
thông qua các bài tập thể lực được đưa vào HL. Phát triển sức bền chung tốt nhất là
cho VĐV chạy với cự ly dài với cường độ điều hoà, như vậy để cho các cơ quan hệ
thống trong cơ thể được hoàn thiện hơn.


- 22 -
Sức bền chuyên môn được sử dụng nhiều trong thời kỳ tập luyện cho thi đấu
nó được xác đònh bởi mức độ HL chuyên môn của tất cả các cơ quan hệ và hệ
thống, bởi mức độ khả năng thể lực và tâm lý phù hợp với môn diền kinh tự chọn.
Sức bền chuyên môn có liên quan với tính hợp lý và tiết kiệm trong kỹ thuật và
chiến thuật.
Những điều kiện cơ bản trong huấn luyện sức bền tốc độ là thực hiện khối
lượng vận động lớn tới mức cho phép với một lực cản được nâng cao hơn với những
điều kiện thi đấu. Tuy các năng lực sức bền tốc độ cần thiết cho thành tích thể thao
cũng được phát triển thông qua các hình thức của lượng vận động để huấn luyện sức
nhanh và sức bền. Điều này đặc biệt quan trọng với các môn TT mang tính chất sức
bền như chạy 200m, 400m.
Trước hết huấn luyện sức bền tốc độ được tiến hành bằng các bài tập chuyên
môn. Gắn liền với hình thức vận động của môn thi đấu. Trong CLN thường sử dụng
những bài tập lặp lại cự ly : 200m, 300m nhiều lần với thời gian nghỉ vừa, mạnh đập
120 Ỉ 130 lần / phút

.
¾
Phương pháp huấn luyện khả năng mềm dẻo và khả năng phối hợp vận động
đối với VĐV chạy ngắn (100m):

a. Mềm dẻo:
Nhiệm vụ cơ bản phát triển khả năng mềm dẻo của VĐV chạy ngắn làn
hoàn thiện các tố chất chạy theo yêu cầu đòi hỏi của chạy ngắn, cần chú ý trước
tiên đến tăng tính linh hoạt ở các khớp cổ chân, vai, hông, đùi …
Phương pháp chủ yếu được sử dụng trong các bài tập phát triển khả năng
mềm dẻo là phương pháp lập lại: Việc tập luyện mềm dẻo phải diễn ra liên tục và
hệ thống, tốt nhất là tập hàng ngày và nên tập buổi sáng, sau khi khởi động. Trong
các buổi tập chính, bài tập dẻo được đưa vào phần chuẩn bò mà không đưa vào phần
cuối của buổi tập, vì cơ thể đã mệt mỏi cần đưa các bài tập chuyên môn phát triển
sức nhanh vào chương trình huấn luyện khả năng mềm dẻo. Việc lựa chọn các bài


- 23 -
tập phát triển năng lực mềm dẻo cần xuất phát từ yêu cầu của môn thể thao chuyên
sâu, cần căn cứ vào đối tượng lứa tuổi và trình độ tập luyện của người tập.
b. Khả năng phối hợp vận động
:
Là một trong những tố chất quan trọng, nếu như các năng lực sức mạnh, sức
bền dựa trên cơ sở thích ứng về mặt lượng thì khả năng phối hợp vận động phụ
thuộc chủ yếu và các quá trình điều khiển hành vi vận động.
Trong chạy ngắn khả năng phối hợp vận động là thực hiện những động tác
phức tạp, cũng như khả năng giữa giải quyết nhanh và chính xác các nhiệm vụ vận
động và khả năng điều chỉnh vận động tương ứng với từng giai đoạn kỹ thuật từ lúc
xuất phát cho đến lức về đích.
Khả năng phối hợp vận động là một tố chất tổng hợp bao gồm trong mình

nhiều năng lực thành phần, để tạo khả năng phối hợp vận động cao, có nhiều tác
giả nghiên cứu về bản chất của tố chất này như: Hiz 1973, Bdume 1978, Hase 1979
… thông qua các tác giả thì khả năng phối hợp vận động là một tổ chất tổng hợp hữu
cơ biểu hiện trình độ cao về sức mạnh và sức nhanh đối với khả năng phối hợp vận
động và đảm bảo độ chính xác của VĐV đó.
Khả năng phối hợp vận động là năng lực hoàn thành các động tác chính xác,
linh hoạt và nhòp nhàng của VĐV trong các điều kiện biến đổi phức tạp
Khả năng phối hợp vận động của chạy ngắn thường biểu hiện dưới dạng
năng lực .
- Năng lực liên kết vận động.
- Năng lực phản ứng
- Năng lực phân biệt vận động.
Các phương pháp nhằm phát triển khả năng phối hợp vận động rất phong
phú, có thể phối hợp chúng với nhau hoặc thực hiện một cách có trọng điểm từng
phương pháp. Thường xuyên nâng cao độ khó phối hợp vận động của bài tập, vì chỉ
có nâng cao kích thích đối với cơ thể mới tạo được trình độ thích ứng cao hơn.


- 24 -
b. VĐV nhảy cao
:
Kỹ thuật nhảy cao được xây dựng trên cơ sở tố chất thể lực. Tố chất thể lực tốt là
tiền đề thuận lợi cho việc năm vững kỹ thật nhảy cao, chòu đựng lượng vận động
lớn trong tập luyện và trong thi đấu. Thể lực chuyên môn bao gồm: tốc độ chuyên
môn, sưc mạnh chuyên môn, sức bền chuyên môn, độ mềm dẻo và năng lực phối
hợp vận động.
- Tốc độ là tố chất của VĐV được đặc trưng bởi thời gian tiềm tàng của phản
ứng, tần số động tác, tốc độ của một động tác riêng lẻ. Tốc đô trong nhảy cao có
thể chia ra như sau: tốc độ chạy đà, tốc độ giậm nhảy, tốc độ qua xà. (trong tốc độ
có tốc độ chạy đoạn đường thẳng, tốc độ chạy đường vòng).

- Sức mạnh chuyên môn là yếu tố cơ bản của nhảy cao là cơ sở để phát riển các
tố chất khác, là nhân tố để hoàn thiện kỹ thuật và nâng cao thành tích. Trong nhảy
cao sức mạnh đặc trưng nhất là sức mạnh bộc phát.
- Sức bền chuyên môn trong nhảy cao giúp cho VĐV khi tập luyện, thi đấu trong
thời gian dài vẫn đủ năng lực, duy trì được cường độ lớn hoặc cường độ cự hạn khi
nhảy.
- Mềâm dẻo và năng lực phối hợp, kỹ thuật nhảy cao “lưng qua xà” đòi hỏi VĐV
đôï mềm dẽo và năng lực phối hợp cao. Độ mềm dẽo và khả năng phối hợp không
chỉ năng cao hiệu lực điều khiển, khống chế cơ bắp của VĐV, giúp cho hoàn thiện
và cải tiến động tác kỹ thuật mà còn tăng cường khả năng tự bảo vệ và là biện
pháp có hiệu quả phòng ngừa chấn thương cho VĐV. Trong huấn luyện thể lực cho
VĐV nhảy cao các HLV cần sắp xếp huấn luyện thể lực chung và thể lực chuyên
môn tuỳ theo chu kỳ huấn luyện hay giai đoạn huấn luyện . Quan điểm cần chú ý
trong quá trình hình thành và phát triển các tố chất thể lực luôn có mối quan hệ chặt
chẽ vơi sự hình thành kỹ năng kỹ xảo vận động, mức độ phát triển của các cơ quan
và hệ cơ trong cơ thể. Sự phát triển các tố chất xảy ra không đồng bộ, mỗi tố chất
phát triển theo một nhòp độ riêng theo những thời kỳ và các giai đọan khác nhau.

×