SỞ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH
†
GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC SỰ MẤT
CÂN ĐỐI TRONG CƠ CẤU ĐÀO TẠO
NHÂN LỰC ĐỂ ĐÁP ỨNG NHU CẦU
PHỤC VỤ CÔNG NGHIỆP HÓA-HIỆN
ĐẠI HÓA Ở TP.HỒ CHÍ MINH.
Chủ nhiệm đề tài : PGS-TS-NGƯT Lý Ngọc Sáng
TP.HỒ CHÍ MINH – THÁNG 12/2006
Thành viên tham gia đề tài :
1. TS. Huỳnh Công Minh – Giám đốc Sở GD-ĐT TP.Hồ Chí
Minh.
2. Trần Trung Dũng – Sở LĐTB-XH TP.Hồ Chí Minh.
3. Th.S Tạ Văn Doanh – Tổng Biên tập báo Giáo dục
Sáng tạo.
4. Nguyễn Duy Tụng – Giám đốc Trung tâm Tư vấn GD-
TL-TC 209C Nguyễn Đình Chính –
Phú Nhuận.
5. PGS-TS Võ Hưng – Trung tâm Tư vấn GD-TL-TC.
6. TS. Nguyễn Trần Nghóa – Hiệu trưởng trường Cao đẳng nghề
TP.Hồ Chí Minh.
7. Th.S Lê Thu Hà – Trung tâm Tư vấn GD-TL-TC.
8. Th.S Nguyễn Ngọc Tài – Trung tâm Tư vấn GD-TL-TC.
Ban chủ nhiệm đề tài chân thành cảm ơn :
q
Sở Khoa học và Công nghệ TP.Hồ Chí Minh.
q
Sở Giáo dục và Đào tạo TP.Hồ Chí Minh.
q
Trung tâm Tư vấn GD-TL-TC 209C Nguyễn Đình Chính-
Phú Nhuận.
q
BGH các trường THPT Trần Đại Nghóa.
THPT BC Marie-Curie.
THPT DL Hồng Đức.
CĐKT Lý Tự Trọng.
Trường cấp 2,3 An Lạc – Bình Chánh.
THPT Bình Chánh – Cần Giờ.
q
BGH các trường THCS Võ Trường Toản.
THCS Bàn Cờ.
THCS Ngô Sỹ Liên.
THCS Phạm Đình Hổ.
THCS BC Chi Lăng.
THCS Củ Chi.
THCS Nguyễn An Khương.
THCS Phú Xuân.
q
Ban Giám hiệu Trường TH Nông nghiệp TP.Hồ Chí Minh.
Trường KTNV Hùng Vương.
Trường Dạy nghề Nhân Đạo – Quận 3.
Trường Cao đẳng Kỹ thuật Lý Tự Trọng.
Trường Kỹ thuật Nghiệp vụ Bán công
Nguyễn Tất Thành.
Trường Cao đẳng Dệt May Thời trang II.
Trung tâm Dạy nghề Quốc Tế.
Trường THKT và NV Nguyễn Hữu Cảnh.
Trường TH Tư thục Kinh tế Kỹ thuật Vạn
Tường.
Trường Cao đẳng nghề TP.Hồ Chí Minh.
Trường TH Tư thục Kinh tế – Kỹ thuật
Tây Nam Á.
Trường TH Công nghiệp TP.Hồ Chí Minh.
Trường THKT Nghiệp vụ Nam Sài Gòn.
Trường Cao đẳng Bách Việt.
Trường TH Dân lập Kinh tế – Kỹ thuật
Phương Đông.
q
Và tất cả các em HS tham gia làm trắc nghiệm hướng
nghiệp đã quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để
chúng tôi hoàn thành đề tài này.
Ngày 10/12/2006
Chủ nhiệm đề tài
PGS-TS-NGƯT Lý Ngọc Sáng
DANH MỤC VIẾT TẮT
Cán bộ quản lý CBQL
Cải cách giáo dục CCGD
Cao đẳng CĐ
Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa CNH-HĐH
Dạy nghề DN
Dạy nghề trung học DNTH
Đại học ĐH
Đào tạo liên thông ĐTLT
Giáo dục-Đào tạo GD-ĐT
Giáo dục chuyên nghiệp GDCN
Giáo dục-Tâm lý-Thể chất GD-TL-TC
Giáo viên GV
Hướng nghiệp HN
Học sinh HS
Khoa học và Công nghệ KH & CN
Khoa học kỹ thuật KHKT
Kỹ thuật nghiệp vụ KTNV
Lao động kỹ thuật LĐKT
Lao động sản xuất LĐSX
Phụ huynh học sinh PHHS
Sản xuất-Dòch vụ SX-DV
Sinh viên SV
Trung cấp chuyên nghiệp TCCN
Trung cấp nghề TCN
Trung học chuyên nghiệp THCN
Trung học cơ sở THCS
Trung học kỹ thuật THKT
Trung học phổ thông THPT
Thò trường lao động TTLĐ
Mục lục
ĐỀ MỤC
TRANG
Chương I : Mở đầu 1
1-Đặt vấn đề (lý do chọn đề tài) 2
2-Mục tiêu đề tài 3
3-Nội dung nghiên cứu đề tài
4-Phương pháp nghiên cứu
Chương II
: Cơ sở lý luận và thực tiễn 5
1-Nghiên cứu nghề nghiệp một số nước trên thế giới 7
2-Nghiên cứu nghề nghiệp ở nước ta 11
3-Những ý kiến chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về hoạt động HN 14
4-Hoạt động HN tại TP.Hồ Chí Minh trong những năm gần đây 15
5-Giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội 17
Về nhân tố người lao động 18
Về người sử dụng lao động 19
6-Vấn đề phân luồng ở trường THPT 20
r -Vấn đề giải quyết phân luồng HS THPT ở 1 số nước 21
r -Vấn đề phân luồng HS PT ở TP.Hồ Chí Minh trong thời gian qua 23
7-Những xu thế phát triển giáo dục ảnh hưởng đến phân luồng 25
a-Xu hướng kết hợp giáo dục phổ thông với giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp
trong quá trình hoàn thiện bậc trung học
b-Xu hướng kết hợp giáo dục phổ thông với giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp 27
nhằm hoàn thiện bậc trung học ở nước ta
8-Cơ sở khoa học về liên thông giáo dục phổ thông-GDCN 29
a-Cơ sở khoa học của việc liên thông
b-Cơ sở khoa học của liên thông nội dung GD-ĐT các loại hình phổ thông
và chuyên nghiệp ở bậc trung học
c-Thiết kế chương trình chung cho các loại hình 30
trường phổ thông trung học và dạy nghề
d-Giáo dục kỹ thuật công nghệ trong nhà trường phổ thông
9-Thực trạng, nhu cầu và các vấn đề tồn tại 31
Mặt bằng dân trí 32
Tỉ lệ mất cân đối
Chất lượng lao động thấp 33
Sử dụng thiếu hiệu quả
Chương III
: Kết quả khảo sát về qui mô và cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực 35
và việc phân luồng HS vào các cơ sở nghề tại TP.Hồ Chí Minh
I-Kết quả khảo sát CBQL & GV 36
II- Kết quả khảo sát PHHS tại các trường THCS & THPT 45
III- Kết quả khảo sát HS tại các trường THCS & THPT 53
IV- Kết quả khảo sát tại các trường DN 68
Chương IV
: Một số giải pháp và kiến nghò 76
I-Một số giải pháp 77
II-Một số kiến nghò 96
Tài liệu tham khảo 99
Trang 1
Chöông I :
MÔÛ ÑAÀU
Trang 2
1/ Đặt vấn đề :
TP.Hồ Chí Minh đang trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH. Để
thực hiện nhiệm vụ đó, vấn đề quan trọng là chú trọng nguồn nhân lực. Nói đến
nguồn nhân lực, đó là lực lượng lao động được cung cấp kiến thức và kỹ năng cần
thiết tham gia vào lực lượng sản xuất. Nguồn nhân lực đó phải được đào tạo 1
cách chu đáo. Có được 1 đội ngũ nhân lực lành nghề và đồng bộ sẽ tạo động lực
cho sự phát triển kinh tế-xã hội, tạo nên sức hấp dẫn lớn để thu hút đầu tư nước
ngoài.
_ Nói chọn nghề là chọn cuộc đời, chọn số phận. Cuộc đời của mỗi
người có ý nghóa hay không chính là sức lao động của mình mang lại lợi ích cho
chính bản thân và cho xã hội. Sự nghiệp lao động của mỗi con người chính là tìm
cho mình 1 nghề thích hợp đó là niềm vui, niềm hạnh phúc giúp cho con người
phát triển, phát huy khả năng, sức lực của mình mà còn giúp cho xã hội phát triển
ổn đònh, sự phân bố lao động phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội, mà xã hội
phát triển thì nghề nghiệp sẽ biến động, nghề mới nảy sinh, 1 số nghề phải lùi
dần. Trong khối lớn nghề nghiệp mênh mông đó làm thế nào con người đònh
hướng, chọn đúng được nghề phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của mình. Một
HS trung học sau khi tốt nghiệp đều phải lựa chọn cho mình 1 nghề nhất đònh.
Bước vào đời đã khó vì bỡ ngỡ trước thế giới nghề nghiệp rất phức tạp, lý do vì
các em thiếu hiểu biết về ngành nghề, không đánh giá đúng bản thân, bò tác động
chi phối của bạn bè, cha mẹ và người thân mà hậu quả chọn nghề không phù hợp
chẳng những ảnh hưởng đến tương lai các em mà còn gây hậu quả xấu cho xã hội
như sự phân bố không hợp lý nguồn lực cần đào tạo. Một số ngành nghề có quá
đông HS đăng ký, 1 số ngành mà xã hội có nhu cầu nhưng lại ít HS tham gia, HS
đăng ký thi vào các trường ĐH mà ít đăng ký vào các trường chuyên nghiệp nghề.
Đây là vấn đề thời sự kéo dài gây nhức nhối cho xã hội hiện nay nói chung cho
Trang 3
TP nói riêng. Điều này gây quá tải cho công tác tuyển sinh CĐ-ĐH hàng năm,
gây lãng phí lớn cho gia đình HS và cho xã hội.
Từ những vấn đề nêu trên, đề tài Giải pháp khắc phục sự mất cân đối
trong cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu phục vụ CNH-HĐH
ở TP.Hồ Chí Minh, được nghiên cứu nhằm góp phần phản ánh thực trạng tìm
hiểu nguyên nhân và đề xuất biện pháp cân đối trong cơ cấu đào tạo và việc phân
luồng HS vào các trường TCCN và TCN tại TP.Hồ Chí Minh.
2/ Mục tiêu đề tài :
– Trước hết khảo sát đánh giá thực trạng quy mô đào tạo nguồn nhân
lực chủ yếu là công nhân kỹ thuật để thấy sự mất cân đối trong cơ cấu đào tạo
như thế nào ? cũng như thực trạng việc phân luồng HS sau THCS-THPT vào
các cơ sở đào tạo nghề ở TP. Mức độ đặt ra như thế nào là hợp lý và thực tế.
– Trên cơ sở đó phân tích, đánh giá, chọn lọc, đề xuất những điều kiện
và giải pháp khắc phục.
3/ Nội dung nghiên cứu đề tài
:
Nghiên cứu quy mô đào tạo thông qua thực hiện việc phân luồng HS sau
THCS-THPT vào các cơ sở DN TP (qua bước khảo sát cụ thể, qua tổng kết kinh
nghiệm về quy mô cơ cấu đào tạo nghề của TP và so sánh tiếp thu kinh nghiệm
quy mô đào tạo nghề của 1 số nước tiên tiến).
Trên cơ sở đó đề ra giải pháp cụ thể ở 2 nội dung : quy mô cơ cấu đào tạo
và việc phân luồng HS sau THCS-THPT.
4/ Phương pháp nghiên cứu
:
Một trong những phương pháp nghiên cứu :
Trang 4
• Phân tích lý luận, tham khảo tài liệu, trao đổi với các nhà khoa học và
quản lý GD-ĐT.
•
Phương pháp điều tra : Thông qua đàm thoại và phiếu tham khảo với
GV-HS và các cấp quản lý giáo dục, PHHS.
•
Phương pháp thống kê toán nhằm xử lý số liệu, phân tích, đánh giá và
xác đònh kết quả cụ thể.
Trang 5
Chửụng II :
Cễ Sễ LY LUAN
& THệẽC TIEN
Trang 6
Sự phát triển khoa học hiện đại đặc trưng bởi quá trình phân hóa. Trong quá
trình phân hóa nhiều ngành đã được tách ra theo xu thế phát triển kinh tế-xã hội ở
những dấu hiệu khác nhau : Theo lứa tuổi, theo kiểu trường giáo dục phổ thông,
giáo dục kỹ thuật nghề, giáo dục CĐ, giáo dục ĐH. Nước ta còn chậm phát triển
do đó trong CNH-HĐH chúng ta không thể chủ yếu theo chiến lược kiểu "dẫn
đầu" như Mỹ, Nhật, Liên Xô (cũ), kiểu "mở rộng và khai thác" (Extender-
Exploiter) như các nước đang phát triển. Còn việc chuyển giao công nghệ thực
chất là những giao dòch thương mại. Về bản chất "chiến lược công nghệ là 1 chiến
lược kinh doanh" [2,10]. Ở nước ta việc chuyển giao công nghệ ở giai đoạn đầu
thời gian qua chủ yếu vẫn là qua đầu tư trực tiếp của nước ngoài, nhập khẩu máy
móc trang bò hỗ trợ kỹ thuật, các dòch vụ tư vấn và mua Patent cùng các hợp đồng
chìa khóa trao tay. Điều này nói lên sự cần thiết việc phát triển nguồn nhân lực
chính là "phát triển tài nguyên con người" được thế giới cho là vấn đề quan
trọng nhất để phát triển kinh tế-xã hội. Trong thế giới cạnh tranh ngày nay,
người ta cho rằng yếu tố nguồn nhân lực đang và sẽ có vai trò chiến lược then
chốt nhất trong phát triển gồm 4 yếu tố : tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, kỹ
thuật và nhân lực. Trong đó kỹ năng và trình độ của lực lượng lao động chiếm vai
trò then chốt nhất có tính chiến lược [2
1
,10]. Ở nước ta, trọng tâm của đào tạo
nguồn nhân lực phục vụ CNH-HĐH trước mắt là đào tạo khả năng về công nghệ
có nghóa là nguồn nhân lực biết áp dụng công nghệ để tạo nên yêu cầu phát triển
sản xuất ở quy mô cao kể cả về số lượng, chất lượng và hiệu quả. Ngay các nước
như Thái Lan, Mỹ, kể cả Hồng Kông cũng có những vấn đề về nhân lực. Thái
Lan phát triển tương đối tốt so với nhiều nước trong khu vực nhưng cũng đang
thiếu cán bộ kỹ thuật có chất lượng. Trước họ chỉ có hơn 20% cán bộ về KHKT,
nay đã tăng tỷ lệ này lên 40%. Còn Hồng Kông được xem là trung tâm về nhiều
2
GS.Phạm Phụ "Về khuôn mặt mới của giáo dục ĐH Việt Nam" – NXB ĐH quốc gia TP.HCM.
Trang 7
phương diện của châu Á nhưng họ có ít công nghiệp hiện đại. Họ cũng nhận ra
rằng không thể tiếp tục dựa vào kinh tế dòch vụ mà phải chuyển sang 1 xã hội lấy
công nghệ làm nền tảng [2,11]. Trong khi đó ở Mỹ về cơ bản gần như hệ thống
giáo dục sau THPT không mạnh cho nên họ cho rằng họ thụt lùi về kinh tế so với
người Nhật. Một phần là do họ chỉ có nền giáo dục tốt hơn so với Nhật cho lớp
trên 10-20% của dân số còn lại để thua người Nhật nền giáo dục cho nửa dưới của
dân số. Tiến só Saburo Okia (Chủ tòch Viện ĐH Quốc tế Nhật Bản) đã nói :
"Một trong những yếu tố làm cho Nhật Bản phát triển kinh tế thành công sau
chiến tranh thế giới thứ hai là nhờ Nhật Bản đã có 1 đội ngũ lao động đông đảo
(kể cả kỹ sư có chất lượng cao và chi phí thấp)" [2,10]. Để thấy rõ ý nghóa về tầm
quan trọng của vấn đề này, trong báo cáo của Hội đồng nhân lực Mỹ có nêu :
"Trong những năm gần đây, người ta (chỉ Liên Xô cũ) đặc biệt chú trọng công tác
đào tạo nguồn nhân lực, vì công tác này đã giúp Liên Xô đạt được những thành
tựu lớn lao trong các lónh vực khoa học, kỹ thuật, kinh tế, quốc phòng.
1/ Nghiên cứu nghề nghiệp 1 số nước trên thế giới :
– Theo Unesco : Thế giới ngày nay biến đổi cực kỳ nhanh chóng với
phát triển mạnh mẽ về KHKT và công nghệ. Tình hình đó đòi hỏi con người phải
thay đổi tư duy kòp thời, cách nhìn và yêu cầu rất cao về sự thích nghi. Unesco chủ
trương đẩy mạnh phát triển giáo dục theo chiến lược mà tư tưởng chủ yếu là :
"Phải xóa bỏ sự phân biệt cứng nhắc giữa các ngành giáo dục phổ thông, KHKT
và công nghệ. Ngay từ bậc giáo dục tiểu học đã phải mang đặc tính kết hợp lý
thuyết, công nghệ, thực hành và thủ công. Giáo dục không chỉ dạy cho HS có học
vấn, phải thực hành, thực nghiệm để có tay nghề, vào đời có thể lao động được
ngay. Giáo dục gắn liền với phát triển kinh tế-xã hội. Phải đặc biệt chú ý đến
giáo dục hướng đònh nghiệp để có thể lập thân lập nghiệp".
Trang 8
Ở các nước có nền giáo dục tiên tiến, công tác tư vấn HN rất được coi
trọng và được bắt đầu ngay từ những năm đầu của bậc trung học.
• Cộng hòa Pháp :
Sau THCS, cấp THPT là quá trình dần đònh hướng HS đi vào trung học
chuyên ban gồm 3 phương thức đào tạo : phổ thông học trong 3 năm cho văn bằng
tú tài phổ thông; công nghệ học trong 3 năm cấp bằng tú tài công nghệ và học
trong 2 năm cấp bằng kỹ thuật viên chuyên nghiệp và tú tài chuyên nghiệp.
[1
2
,263]
• Vương quốc Anh
:
HS của giai đoạn từ 11-14 tuổi và giai đoạn từ 14-16 tuổi có thể lựa chọn
nghề nghiệp của mình theo bảng danh mục (ví dụ như của Ủy ban giáo dục HN
Scotland) và hoàn thành chương trình HN này họ sẽ nhận được 1 chứng chỉ để làm
cơ sở cho việc nhận được bằng quốc gia. Mục đích của giáo dục phổ thông là
nhằm trang bò cho HS vốn kiến thức tiếp thu chương trình đào tạo, HN và giáo dục
ĐH ở những giai đoạn sau. Tất cả HS 16 tuổi đều phải có 2 tuần thử việc ở các
công ty đòa phương như là 1 phần của chương trình đào tạo HN chung. [1,287]
• Trung Quốc
:
Giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp là thời kỳ quá độ để mọi người từ giai đoạn
học tập bước sang giai đoạn lao động là giai đoạn chuẩn bò quan trọng trước khi
người lao động thực hiện giá trò vốn nhân lực tự thân. Trước yêu cầu phát triển
kinh tế ở tốc độ cao, Trung Quốc trong thời gian tới sẽ thiếu nhiều công nhân trẻ
có kỹ năng tương xứng với yêu cầu của ngành sản xuất tập trung nhiều tri thức và
ngành phục vụ vốn là những ngành chủ lực thúc đẩy kinh tế phát triển với tốc độ
1
Phạm Minh Hạc-Trần Kiều- Đặng Bá Lãm-Nguyễn Đình Vỹ "giáo dục thế giới đi vào thế kỷ 21" –
NXB Chính trò quốc gia Hà Nội 2002-2003.
Trang 9
cao. Giáo dục nghề nghiệp không những là trụ cột quan trọng của việc xã hội hóa
sản xuất và hiện đại hóa phát triển mà còn là khâu quan trọng thúc đẩy trình độ
và lực lượng sản xuất không ngừng nâng cao. Trước sự phát triển của KHKT và sự
thay thế ngành nghề nhanh chóng, giáo dục nghề nghiệp phải không ngừng điều
chỉnh phương pháp, nội dung, phương tiện giáo dục để thích ứng với yêu cầu của
sự tiến bộ kỹ thuật và sự điều chỉnh ngành nghề. Sự phát triển của giáo dục nghề
trong giai đoạn chiến lược này sẽ chuyển từ giáo dục nghề nghiệp sơ cấp, trung
cấp là chủ yếu sang giáo dục cao cấp là chính, từ giáo dục mang tính đặc thù sang
giáo dục chung, từ giáo dục cụ thể sang giáo dục thông dụng. [1,317]
• Cộng hòa liên bang Đức
:
Hầu hết thanh niên sau khi tốt nghiệp bậc phổ cập giáo dục đều theo học 2
đến 3 năm rưỡi ở 2 nơi là trong xí nghiệp và tại trường DN được gọi là hệ thống
kép (Duales system).
Cơ sở đào tạo hệ thống kép này là "các nghề đào tạo được công nhận"
(Ausbildemgs berufe), lớp trẻ <18 tuổi chỉ được đào tạo trong những nghề đó.
Xí nghiệp là nơi học nghề chủ yếu ở CHLB Đức. Một xí nghiệp như thế
phải thỏa mãn các yêu cầu sau :
+ Chỉ được phép đào tạo thanh thiếu niên dưới 18 tuổi trong khoảng 370
nghề được công nhận.
+ Có đội ngũ GV phù hợp.
+ Phù hợp với những yêu cầu của các quy chế đào tạo.
Trong khi việc đào tạo nghề ở trường được cấp kinh phí trích phần lớn từ
các bang thì xí nghiệp đảm nhận việc chi phí nói trên cho hoạt động đào tạo nghề
tại xí nghiệp. [1,346]
Trang 10
• Hoa Kỳ :
Bước vào thế kỷ XXI, Hoa Kỳ có nhiều nổ lực để nâng cao hơn nữa chất
lượng giáo dục, tăng cường kết quả học tập của HS nhằm đảm bảo cung cấp 1 lực
lượng lao động có trình độ, có khả năng cạnh tranh và thích ứng linh hoạt trong
điều kiện nền kinh tế toàn cầu. Họ đã đưa ra nhiều hướng giải quyết và đưa ra nội
dung cần tăng cường với các chiến lược quan trọng, trong đó có tăng cường mối
quan hệ giữa trường trung học với doanh nghiệp theo hướng chuyển dần thành
trường đào tạo nghề chuyên nghiệp. Một phần của chiến lược này là tạo cơ hội
cho HS tham gia làm việc bán thời gian tại xí nghiệp. Đây là 1 hình thức giáo dục
HN trong nhà trường là : "Học đi đôi với hành, học gắn liền với LĐSX".
Các trường CĐ kỹ thuật nghiệp vụ cộng đồng 2 năm cấp chứng chỉ về đào
tạo nghề. Trong nhiều lónh vực các CĐ cộng đồng 2 năm tạo cầu nối giữa trường
THPT và ĐH 4 năm cho 1 bộ phận HS. Tại đây họ có thể theo học các môn thuộc
chương trình đào tạo 2 năm đầu của chương trình đào tạo ĐH 4 năm với chi phí
thấp hơn và được ở gần nhà hơn. [1,359]
• Nhật Bản
:
Các trường THPT được chia thành : Chương trình phổ thông, chương trình
DN và chương trình phối hợp toàn diện. Năm thứ nhất của trường THPT được
dành cho giáo dục phổ thông, cho tất cả các HS. Năm thứ hai chương trình được
chia thành dự bò ĐH và DN. Năm thứ ba, chương trình dành cho HS sẽ lên học ĐH
lại được phân thành khoa học nhân văn và xã hội khoa học và công nghệ. Vì vậy,
ngay cả trường THPT chung cũng có 3 chuyên ngành sau khi tốt nghiệp. Các
chương trình DN dành ít thời gian hơn cho các môn văn hóa và tất nhiên nhấn
mạnh các môn hướng vào nghề đặc thù. Khi đủ 15 tuổi các em nhập học THPT và
sẽ quyết đònh sẽ theo tiếp chương trình phổ thông, DN hay chương trình phối hợp
toàn diện. Ngay ở lớp học đầu tiên bậc THPT nền giáo dục Nhật Bản đã quan tâm
Trang 11
đến công tác HN cho các em HS, tùy theo chương trình mà có môn học đặc thù để
các em hướng vào nghề nghiệp tương lai. [1,453]
• Malaysia
:
Giáo dục THPT được phân ban ra : ban văn chương, ban khoa học, ban kỹ
thuật và DN. HS chọn các ban khác nhau căn cứ vào kết quả thi hết lớp 9. Trong
khuôn khổ chương trình thích hợp, ngoài các môn chính ra, HS lớp 10 và 11 ở các
trường THPT được phép chọn lọc học các môn học tự chọn trong các nhóm môn
học khác nhau. Kỳ thi tú tài của Malaysia được tổ chức khi HS học hết lớp 11.
Một số HS trượt kỳ thi này có thể gia nhập TTLĐ. [1,400]
• Hàn Quốc
:
Chương trình của cấp trung học ở bậc trung học gồm có 11 môn cơ sở, các
môn tự chọn, các hoạt động ngoại khóa. Trong các môn tự chọn các khóa đào tạo
kỹ thuật nghề nhằm tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa giáo dục và nghề nghiệp cho
HS. [1,463]
2/ Nghiên cứu nghề nghiệp ở nước ta
:
Trong hoạt động giáo dục ở nước ta, tuy công tác HN đã đưa vào chương
trình giáo dục nhưng còn mang nặng tính hình thức, không thực tế nên hiệu quả
không cao, đôi khi còn phản tác dụng, thay vì tạo cho HS sự hứng thú nghề nghiệp
thì lại làm cho các em chán nản. Do đó, sau khi tốt nghiệp trung học, các em đều
lúng túng bò động trong việc chọn ngành nghề để chuẩn bò khởi nghiệp.
Để không ân hận sau này, khi chọn nghề các em nên theo phương châm đã
được các nước vùng châu Á Thái Bình Dương tổng kết.
"ĐỂ NGHỀ CHỌN MÌNH", Phương châm này có ý nghóa là các em phải
tự hiểu mình có đáp ứng được những yêu cầu cơ bản của ngành nghề mình đònh
theo không ? Nếu đáp ứng được những yêu cầu của nghề nghiệp mình mới nên
Trang 12
chọn theo nghề đó. Chọn ngành nghề là 1 công việc tương đối phức tạp và khó
khăn nhất là đối với các bạn trẻ nên phải được cân nhắc kỹ vì sẽ tác động trực
tiếp đến tương lai sự nghiệp của mỗi người. Hệ THPT là bậc cuối của hệ thống
giáo dục phổ thông, là giai đoạn chuẩn bò tích cực trực tiếp cho thế hệ trẻ đi vào
cuộc sống LĐSX và cuộc sống xã hội, làm nghóa vụ công dân đối với xã hội, đồng
thời là giai đoạn chuẩn bò cho 1 bộ phận thanh niên HS tiếp lên bậc học cao hơn.
Giáo dục HN là 1 bộ phận quan trọng của nền giáo dục phổ thông có 1 vò trí đặc
biệt quan trọng nhằm bồi dưỡng, hướng dẫn HS chọn nghề nghiệp phù hợp với thể
lực, năng khiếu, sở thích, nguyện vọng cá nhân và nhu cầu xã hội. Vấn đề HN
chọn nghề của HS bậc THPT không phải là vấn đề mới. Đây là vấn đề được tất cả
các cấp, ban ngành trong xã hội từ trung ương đến đòa phương, từ các nhà quản lý
đến PHHS và các em HS quan tâm. Nhưng hiện nay, từ cấp độ quản lý, các nhà
giáo dục chưa thực sự quan tâm. Vì thế, đây là vấn đề thực sự nóng bỏng mà các
nhà khoa học giáo dục trong thời gian qua thực sự quan tâm, có nhiều đề tài
nghiên cứu, nhiều hội thảo, báo cáo khoa học, tài liệu bàn về hoạt động HN chọn
ngành như :
• Đề tài : "Nghiên cứu 1 số đặc điểm tâm lý của HS phổ thông trung
học tại TP.Hồ Chí Minh và bước đầu xây dựng bộ trắc nghiệm HN, chọn nghề" do
Quang Dương (chủ nhiệm đề tài) Viện nghiên cứu GD-ĐT phía Nam, TP.Hồ Chí
Minh (1998).
Đề tài được đánh giá thực trạng nguồn nhân lực tại TP ở vào thời điểm cuối
những năm 1990, sự mất cân đối nghiêm trọng về trình độ kỹ thuật, chuyên môn,
nghiệp vụ giữa CĐ-ĐH với công nhân kỹ thuật. Bên cạnh đó, các tác giả cũng
khảo sát thực trạng tâm lý chọn nghề của HS, lúc bấy giờ chủ yếu là thi vào các
trường ĐH. Khi chọn nghề các em còn lúng túng và chọn theo cảm tính, chỉ có số
Trang 13
nhỏ các em có phân tích, cân nhắc, tìm hiểu thông tin trước khi chọn trường. Qua
đó cho thấy công tác HN trong nhà trường phổ thông làm chưa tốt.
• Đề tài : "Nghiên cứu 1 số giải pháp khả thi trong việc ứng dụng triển
khai công tác tư vấn HN cho HS cấp 2-3 ở TP.Hồ Chí Minh. Thực trạng và giải
pháp" do Nguyễn Toàn (chủ nhiệm đề tài) Trung tâm Kỹ thuật và HN Thủ Đức,
TP.Hồ Chí Minh (1998).
Đề tài khảo sát thực trạng chọn nghề của HS phổ thông.
• Đề tài : Đề xuất giải pháp tăng cường công tác tư vấn giáo dục
truyền thông về HN, chọn nghề, triển khai ứng dụng và hoàn thiện 1 số trắc
nghiệm nghề HN cho HS phổ thông theo yêu cầu TTLĐ TP.Hồ Chí Minh. Do Lý
Ngọc Sáng (chủ nhiệm đề tài) Trung tâm tư vấn GD-TL-TC (2/2003).
Ngoài ra, còn có những hội thảo khoa học về :
• Hội thảo khoa học về "Tổ chức giáo dục lao động HN nghề theo yêu
cầu đổi mới giáo dục phổ thông" - Sở GD-ĐT TP.Hồ Chí Minh (11/2002).
• Hội thảo khoa học về "Nhu cầu tư vấn học đường tại các trường
THPT tại TP.Hồ Chí Minh" - Viện Nghiên cứu Giáo dục - Trường ĐH Sư phạm
TP.Hồ Chí Minh (9/2003).
• Ngày hội "Thanh niên với nghề nghiệp" cầu nối giữa bạn trẻ và nghề
nghiệp do Sở GD-ĐT và Thành Đoàn TP.Hồ Chí Minh tổ chức tại Nhà Văn hóa
Thanh niên từ 3/4/2005 đến 6/4/2005 và tháng 3/2007 vừa qua. Mục đích của
ngày hội là để các đơn vò trường học, công ty, xí nghiệp giới thiệu loại hình đào
tạo, ngành nghề đào tạo nhằm khai thông việc phân luồng HN HS trung học, cũng
như đem đến cho HS những cơ hội lựa chọn ngành nghề và tìm việc làm thích hợp
với bản thân sau khi tốt nghiệp trung học (Báo Giáo dục TP.Hồ Chí Minh ngày
7/4/2005).
Trang 14
3/ Những ý kiến chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về hoạt động HN :
Hướng nghiệp cho HS trong trường THPT là nhu cầu khách quan của tuổi
trẻ trước khi vào đời, là trách nhiệm không chỉ của người GV, của CBQL giáo dục
mà còn là trách nhiệm của xã hội vì nó sẽ giúp phân công lao động xã hội, cơ cấu
ngành nghề 1 cách đồng bộ, đáp ứng nhu cầu chuẩn bò cho nguồn nhân lực có kỹ
thuật cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. HN và DN cho HS phổ thông, đó là xu
thế phổ biến trên thế giới và đang trở thành nhu cầu cấp bách của nước ta. Đó là 1
bộ phận thiết yếu trong hệ thống HN-DN của toàn xã hội.
Ngay từ năm 1981 (19/3) Hội đồng Chính phủ đã ban hành Quyết đònh
126/CP về "Công tác HN trong nhà trường phổ thông và việc sử dụng hợp lý HS
các cấp PTCS và PTTH tốt nghiệp ra trường". Trong quyết đònh nêu rõ vai trò, vò
trí, nhiệm vụ công tác HN, phân công cụ thể chính quyền các cấp, các ngành kinh
tế, văn hóa từ TW đến đòa phương có nhiệm vụ tạo mọi điều kiện thuận lợi trực
tiếp giúp đỡ các trường phổ thông trong việc đào tạo, sử dụng hợp lý và tiếp tục
bồi dưỡng HS phổ thông sau khi ra trường và Thông tư 31/TT của Bộ trưởng giáo
dục hướng dẫn thực hiện Quyết đònh 126/CP của Hội đồng Chính phủ. Nội dung
thông tư nêu rõ mục đích, nhiệm vụ và hình thức HN cho HS trong nhà trường phổ
thông, đồng thời phân công trách nhiệm cụ thể cho từng thành viên đang công tác
tại trường phổ thông, cho dù đang đảm nhận chức vụ công tác nào đều phải hoàn
thành nhiệm vụ được giao trong công tác giáo dục HN.
Ngày 6/5/2005 Thủ tướng ra Quyết đònh số 73/2005/QĐ-TTg ban hành
chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghò quyết số 37/2004/QH 11
khóa XI, kỳ họp thứ 6 của Quốc hội về giáo dục. Chương trình xác đònh nhiệm vụ
của Chính phủ trong việc tổ chức thực hiện nghò quyết của Quốc hội về giáo dục
trong giai đoạn 2005-2010, nội dung gồm : "Đổi mới nội dung, chương trình,
Trang 15
phương pháp giáo dục quy hoạch mạng lưới, củng cố hệ thống giáo dục đảm
bảo liên thông, đáp ứng phân luồng ).
• "Một số ý kiến về phân luồng HS phổ thông, mở rộng quy mô đào tạo
nghề" - Tài liệu hội thảo nghề (1999) do chủ nhiệm Nguyễn Văn Ngai - Phó giám
đốc Sở GD-ĐT TP.Hồ Chí Minh.
• Một số vấn đề cần tháo gỡ để phát triển và nâng cao năng lực ngành
nghề trên đòa bàn TP.Hồ Chí Minh - Tài liệu hội thảo nghề (1999) do chủ nhiệm
Nguyễn Duy Tụng nguyên Trưởng phòng nghề - Sở LĐ-TB-XH -TP.Hồ Chí Minh.
• "Phân luồng HS phổ thông vào con đường nghề nghiệp TP.Hồ Chí
Minh" (1999) của TS. Lưu Đức Tiến nguyên Hiệu trưởng trường Trung học Kỹ
thuật Nghiệp vụ Phú Lâm - Q6 - TP.Hồ Chí Minh.
Trên đây, sơ lược 1 số nét về công tác giáo dục HN và DN của 1 số nước
trên thế giới của nước ta và tại TP.Hồ Chí Minh. Phải nói rằng : Công tác HN và
chọn nghề của HS THPT được đông đảo mọi ngành, mọi cấp quan tâm và thực sự
là 1 vấn đề trọng tâm nhằm phân luồng HS vào các trường THCN TP.
4/ Hoạt động HN tại TP.Hồ Chí Minh trong những năm gần đây :
Giáo dục HN tại các trường THPT gồm các hình thức sau :
– Dạy kỹ thuật tổng hợp : Chương trình chính khóa 2 tiết/tuần.
– Dạy thực hành kỹ thuật hoặc LĐSX, 1 buổi = 3 tiết/tuần.
– Sinh hoạt HN, 1 buổi = 3 tiết/tháng.
– Dạy nghề phổ thông theo chương trình tối thiểu 180 tiết (đối với
THPT).
• Giảng dạy môn kỹ thuật tổng hợp : Về nhân sự, cấp THPT số GV
kỹ thuật, trong đó GV công nghiệp, GV nông nghiệp, GV dòch vụ nhiều trường
Trang 16
còn thiếu so với nhu cầu. Về chất lượng hầu hết GV đạt chuẩn trình độ, tuy nhiên
do thực tế chuyên ngành đào tạo hẹp (ĐH Sư phạm Kỹ thuật và Khoa Kỹ thuật
trường CĐ Sư phạm), cấu trúc chương trình giảng dạy gồm nhiều chuyên ngành
khác nhau, GV phải nghiên cứu để có thể giảng dạy trong toàn cấp học. Vì thế
khó giảng dạy môn học đạt chất lượng tốt. Về CSVC, phương tiện và đồ dùng dạy
học còn nhiều thiếu thốn.
• Giảng dạy thực hành kỹ thuật : Phần lớn các trường THPT chưa có
điều kiện để triển khai nội dung thực hành cho HS. Nhìn chung hầu hết HS chưa
thực hành thí nghiệm theo phân phối chương trình.
• Tổ chức lao động sản xuất : Theo hướng dẫn của Bộ GD-ĐT số giờ
lao động là 1 buổi = 3 tiết/tháng. Nhưng hiện nay nội dung môn học này hầu hết
các trường nội dung LĐSX của HS chỉ xoay quanh các hoạt động lao động vệ sinh
môi trường trong khuôn viên trường, lớp học hoặc lao động công ích.
• Sinh hoạt hướng nghiệp : Với yêu cầu giúp HS cuối cấp đònh hướng
được con đường học tập tiếp tục, phần lớn các trường đã có nhiều cố gắng tổ chức
sinh hoạt HN cho HS nhằm giúp cho HS có những hiểu biết nhất đònh trong việc
HN, chọn nghề, nội dung chủ yếu là giới thiệu các trường với các ngành nghề đào
tạo phục vụ cho công tác tuyển sinh. Phải nói rằng việc tổ chức giáo dục HN trong
các trường chưa đủ mạnh, chưa có sự phối hợp công tác giữa các ban ngành có
liên quan. Chương trình, tài liệu HN thiếu sự cập nhật, chưa đáp ứng với tình hình
phát triển kinh tế-xã hội của đòa bàn TP, trình độ của GV kỹ thuật làm nhiệm vụ
giáo dục HN cho HS còn hạn chế.
• Dạy nghề phổ thông : Trước hết nói nghề là 1 thuật ngữ để chỉ 1
hình thức LĐSX nào đó trong xã hội. Hiện nay nhiều trường THPT (công lập, bán
công, tư thục) và những trung tâm kỹ thuật tổng hợp HN quận huyện tổ chức hoạt
Trang 17
động DN phổ thông cho HS. Với trung tâm kỹ thuật tổng hợp cấp TP dù có nhiều
nổ lực hoạt động với nhiều biện pháp, nhưng không thể nào đáp ứng được nhu cầu
giáo dục đến các trường trên 1 đòa bàn rộng với số HS lớn của TP. Nhiều trường
THPT tự trang bò và tổ chức DN phổ thông cho HS, nhưng thường là nghề đơn
giản, không đòi hỏi cao về trang thiết bò. Mặt khác, việc chọn và học nghề phổ
thông chỉ nhằm mục đích được cộng thêm điểm khuyến khích ở kỳ thi tốt nghiệp
cuối cấp. Do đó, cơ cấu chọn nghề của HS ngày càng mất cân đối.
• Giáo dục hướng nghiệp : Về quy mô đào tạo – Giai đoạn từ năm
2000 đến nay, quy mô đào tạo đã tăng gấp 3 lần. Chỉ tiêu tuyển sinh THCN hệ
chính quy được phát triển theo chiều hướng ổn đònh và tăng dần.
Trên đây là sơ lược 1 số nét về công tác giáo dục HN và DN của 1 số nước
trên thế giới, nước ta và tại TP.Hồ Chí Minh. Thời gian qua, tác giả tìm hiểu 1 số
đề tài nghiên cứu khoa học, hội thảo chuyên đề khoa học trên đòa bàn TP.Hồ Chí
Minh, qua đây cũng cho thấy công tác HN và chọn nghề của HS THPT được đông
đảo mọi ngành mọi cấp quan tâm và thực sự là 1 trong vấn đề trọng tâm nhằm
phân luồng HS vào các trường THCN TP.
5/ Giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội
:
Cụ thể hóa Nghò quyết của TW 8, Nghò quyết Đại hội Đảng bộ TP từ lần
thứ 5 đã nêu : "Có kế hoạch giải quyết việc làm cho người lao động, bộ đội xuất
ngũ và HS ra trường", các thông báo của hội nghò BCH Đảng bộ từ năm 2000 đến
nay cũng có nhận xét : Lónh vực văn hóa giáo dục còn nhiều vấn đề diễn ra khá
gay gắt như tình hình thiếu việc làm Điều đó cho thấy vấn đề băn khoăn, lo
lắng hàng đầu được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong các Nghò quyết của Đảng bộ
TP vẫn là giải quyết việc làm cho người lao động. Bởi vì đây là 1 thực tế bức
bách, là tiềm năng, là nội lực, là thò trường sức lao động dồi dào, nếu không
Trang 18
được quan tâm đào tạo, sử dụng, khai thác, phát huy đúng mức thì không thể biến
thành động lực thúc đẩy làm chuyển đổi nền kinh tế-xã hội, không thể giải phóng
sức sản xuất làm tiền đề cho việc tăng năng suất lao động.
Khảo sát từ các trung tâm DN, các cơ sở DN hiện nay là nơi sản xuất ra
hàng hóa sức lao động thì phần lớn chưa đáp ứng yêu cầu, trang thiết bò còn
yếu kém, thời gian đào tạo ngắn hạn, chạy theo thò hiếu người học, đầu tư
lệch, tốn kém, đội ngũ GV DN thiếu và yếu, nặng về lý thuyết ít coi trọng
thực hành, giáo trình chưa có sự thống nhất về mục tiêu, yêu cầu Chính vì
thế sản phẩm đào tạo ra không đồng đều, không chuẩn ở các cơ sở, chưa đáp
ứng nhu cầu và mất cân đối.
• Về nhân tố người lao động :
Nếu nhìn nhận TP ta đang tồn tại 1 TTLĐ. Đó là nguồn nhân lực được đào
tạo cơ bản, có trình độ văn hóa nhưng chưa được quan tâm khai thác. Đó chính là
lực lượng HS phổ thông đang ngồi trên ghế nhà trường. Đây là nổi băn khoăn, lo
lắng của nhiều gia đình có con em thi trượt CĐ-ĐH. Hệ quả đó chính là do
thiếu đònh hướng của nhà trường, gia đình và xã hội hoặc do tâm lý, dư luận
xã hội có những đònh hướng lệch như : chỉ có vào ĐH mới có tương lai, có tiền
đồ. Về phía phụ huynh và HS thì thiếu thông tin, không được tư vấn đầy đủ để
lựa chọn hướng vào đời phù hợp với năng lực bản thân, kinh tế, gia đình và
nhu cầu xã hội.
Trong khi đó, nếu nguồn nhân lực này được đầu tư, có kế hoạch đào tạo,
sử dụng đúng hướng thì đây sẽ là tiềm năng, sức bật lớn của TP ta.
Việt Nam còn là 1 nước kém phát triển và Việt Nam cũng phải dựa vào 4
yếu tố nói trên. Tuy nhiên có thể cho rằng khả năng xây dựng được 1 đội ngũ
lao động cân đối, đồng bộ và có chất lượng là 1 lợi thế so sánh tương đối duy