Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Đề cương ôn tập ngữ văn 9 học kỳ 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.1 KB, 18 trang )

Đề cương ôn tập Học kì I ( phần Tập làm văn) Lớp 9
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP : VĂN – HỌC KÌ I
NĂM HỌC 2013 – 2014
Phần 1: VĂN THUYẾT MINH
I. THUYẾT MINH VỀ MỘT LOẠI CÂY
A. Mở bài: Giới thiệu về loài cây
Ví dụ : Từ thuở còn nằm trong nôi, những câu ca dao về quê hương đã vang vọng mãi
trong lòng tôi cho đến tận bây giờ :
Công đâu , công uổn, công thừa
Công đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan
Quả đúng như vậy, cây dừa quê tôi đã gắn bó với người dân từ bao đời mà khó có ai có
thể hiểu hết được , nó là một phần nguồn sông của quê tôi. Vậy nó là một loại cây như
thế nào, ta thử tìm hiểu xem.
B. Thân bài :
1. Nguồn gốc lịch sử của loài cây :
- Thuộc họ nào.
- Xuất xứ từ đâu.
- Hiện nay đang trồng nhiều nhất ở địa phương nào.
2. Cách trồng và chăm sóc.
3. Giá trị của loài cây đó.
4. Ý nghĩa nghĩa của loài cây đó
C. Kết bài : Nêu cảm nghĩ.
Sen đi vào ca dao, thơ phú như một hình ảnh đẹp :
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn
Chắc chắn ai cũng điều yêu thích sen, cảm nhận về sen phải có cảm giác thanh thản, hạnh
phúc, để vơi đi mọi nỗi lo âu của cuộc đời
Đề1 : Cây lúa Việt Nam
A. Mở bài : Giới thiệu cây lúa trong đời sống con người người nói chung, người Việt


Nam nói riềng.
Ví dụ : Ai ơi bưng bát cơm đầy – Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Cây lúa, từ bao đời nay, đã gắn liền với từng bữa cơm, gắn liền với nỗi vất vả khó nhọc
của người dân Việt Nam.
B. Thân bài :
1. Nguồn gốc :
- Thuộc họ nào.
- Nguồn gốc , đặc điểm của cây lúa Việt Nam.
2. Cấu tạo của cây lúa.
Ví dụ : Cây lúa là loại cây thân cỏ, tròn, có nhiều gióng và đốt. Gióng thường rỗng, chỉ
đặc ở đốt. Lá dài, có bẹ ôm lấy thân, gân lá song song. Rễ chùm. Hoa nhỏ …
3. Các giống lúa:
- Có nhiều loại giống khác nhau
4. Các vụ lúa trong năm.
- Lúa chiêm , gieo vào tháng 10 , gặt vào tháng 6 – 7
Trường THCS Hoài Châu
1
Đề cương ôn tập Học kì I ( phần Tập làm văn) Lớp 9
- Lúa xuân : gieo vào tháng 1 – 2 , gặt vào tháng 5 -6
- Lúa hè thu : thường là tháng 3 – 4 gặt vào tháng 7 -8
- Lúa mùa : gieo vào tháng 7 -8 gặt vào tháng 10 – 12
Hiện nay thường có ba vụ chính : Đông xuân, hè thu, lúa mùa
5. Cách gieo trồng và chăm sóc :
- Làm đất.
- Gieo mạ
- Cấy và chăm sóc.
6. Cây lúa với đời sống văn hóa Việt Nam
- Cây lúa nuôi sống con người, giúp xã hội phát triển.
- Sản phẩm từ cây lúa
- Hình ảnh cây lúa trên quốc huy Việt Nam

- Cây lúa trong thơ ca, nhạc họa
7. Sự đóng góp của cây lúa trong sự phát triển kinh tế.
C. Kết bài :
- Cảm nhận về sự gắn bó với cây lúa với đất nước, với con người Việt Nam
II. THUYẾT MINH VỀ MỘT ĐỒ VẬT
Đề : Thuyết minh về cái quạt điện.
A. Mở bài :
- Giới thiệu cái quạt là một vật dụng rất cần trong đời sống con người.
Ví dụ : Trên thế giới, dân tộc nào cũng từng tạo ra cho mình một vật dụng , có khi để làm
đẹp, có khi để trang trí, cũng có khi để dùng vào một việc khác , …
B. Thân bài :
1. Cấu tạo
- Quạt gồm hai phần chính :động cơ điện và cánh quạt
- Cánh quạt được lắp với trục động cơ điện. Cánh quạt làm bằng nhựa hoặc bằng kim
loại, được tạo dáng để làm ra gió khi quay.
- Ngoài ra, quạt còn có lưới để bảo vệ, các bộ phận điều chỉnh tốc độ, thay đổi hướng gió
và hẹn giờ.
2. Nguyên lí làm việc :
- Quạt điện thực chất là động cơ điện cộng với cánh quạt
- Khi đóng điện vào quạt, động cơ quay, kéo cánh quạt quay theo, tạo ra gió làm mát.
3. Các loại quạt :
- Quạt điện có nhiều loại : quạt trần, quạt bàn, quạt treo tường, quạt cây , …
4. Sử dụng :
- Khi sử dụng quạt điện, ngoài những yêu cầu riêng về kiến thức động cơ điện, còn cần
chú ý :cánh quạt quay nhẹ nhàng, không bị rung, không bị lắc, không bị vướng cánh , …
5. Tác dụng của cái quạt điện.
5. Cách bảo quản :
- Luôn lau chùi sạch sẻ , để nơi khô ráo.
C. Kết bài :
- Nê cảm nhận của em về loại đồ vật đó

Trường THCS Hoài Châu
2
Đề cương ôn tập Học kì I ( phần Tập làm văn) Lớp 9
III. THUYẾT MINH VỀ MỘT CON VẬT
ĐỀ : Thuyết minh về con vật nuôi
A. Mở bài : Giới thiệu chung về con vật nuôi
Ví dụ : Xin tự giới thiệu với bạn, tôi là chim bồ câu. Họ bồ câu là một trong vô vàn các
nhà họ chim trên trái đất, Nhưng chúng tôi là loài chim khá đặc biệt. Mắt của chúng tôi
khá trong sáng, đẹp. Bởi thế mà những cô thiếu nữ có đôi mắt xinh đẹp nhất được ví với
loài bồ câu chúng tôi, …
B. Thân bài :
1. Giới thiệu nguồn gốc.
- Thuộc họ nào
Ví dụ : Chúng tôi là tổ tiên của loài bồ câu núi, hiện đang còn sống và làm tổ trong điều
kiện hoang dã ở nhiều vùng núi châu Âu, châu Á, bà Bắc Phi
- Được thuần hóa và nuôi tự bao giờ
2. Cấu tạo :
- Hình dáng
Ví dụ : Thân chúng tôi được cấu tạo theo kiểu hình thoi, Hình dáng này có tác dụng làm
giảm sức cảng không khí bay. Chúng tôi có lớp da khô được bao bọc bởi một lớp lông
dày. Lớp lông này cũng có cấu tạo đặc biệt. Sát da là lớp lông vũ phủ toàn thân, áp sát
vào lông vũ là lông tơ. Lông tơ là chùm sợi lông mảnh, tạo thành một lớp xóp giữ nhiệt
và làm cho thân chúng tôi nhẹ
3. Sự phát triển của nó.
- Theo từng giai đoạn , từng chu kì
4. Chăm sóc và nuôi dưỡng
- Chăm sóc như thế nào ?
- Nuôi dưỡng ra sao ?
5. Vai trò và ích lợi của nó đối với đời sống của con người.
- Về vật chất

- Về tinh thần
c. Kết bài :
- Cảm nghĩ về con vật đó
IV. THUYẾT MINH VỀ MỘT DANH LAM THẮNG CẢNH
HAY MỘT DI TÍCH LỊCH SỬ
A. Mở bài : Gới thiệu về danh lam thắng cảnh hoặc di tích lịch sử
B. Thân bài :
1. Vị trí địa lí .
2. Về nguồn gốc lịch sử
3. Về kiến trúc.
4. Những hoạt động nổi bật thường diễn ra.
C. Kết bài :
- Tương lai, vai trò của di tích, danh lam thắng cảnh đó trong sự phát triển của địa
phương.
- Cảm nghĩ của em
Trường THCS Hoài Châu
3
Đề cương ôn tập Học kì I ( phần Tập làm văn) Lớp 9
IV. THUYẾT MINH VỀ MỘT TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM ĐÃ HỌC
ĐỀ : Thuyết minh về nhà thơ Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều
A. Mở bài : Giới thiệu chung về tác giả và tác phẩm
- Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc và là danh nhân văn hóa thế giới . Với tác phẩm
Truyện Kiều là đỉnh cao của văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX.
Con người ấy , thơ ấy , đã trở thành niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Đúng như lời thơ
ngợi ca của Tố Hữu :
Tiếng thơ ai động đất trời,
Nghe như non nước vọng lời nghìn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày.
B. Thân bài :

* Giới thiệu về Nguyễn Du (1765 – 1820)
1. Nguyễn Du tên tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên ; quê làng Tiên Điền, huyện Nghi
Xuân, tỉnh Hà Tĩnh ; sinh trong một gia đình quý tộc có truyền thống văn học : cha là tiến
sĩ Nguyễn Nghiễm , tể tướng của chúa Trịnh , anh là Nguyễn Khản , nổi tiếng là hào
hoa , mẹ là Trần Thị Tần – người Kinh Bắc . Đã có truyền ngôn :
Bao giờ ngàn Hống hết cây
Sông Lam hết nước, họ này hết quan.
2. Thời đại xã hội : cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX hết sức sôi động, bão táp : chế độ
phương kiến khủng hoảng trầm trọng : bão táp của cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn,
đỉnh cao là diệt Nguyễn, diệt Trịnh, diệt Xiêm , đại phá quân Thanh nhưng rồi nhanh
chóng bị thất bại. Nguyễn Ánh đánh tan nhà Tây Sơn , thiết lập nên vương triều phong
kiến cuối cùng.
Một phen thay đổi sơn hà
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu
Thời đại xã hội như thế đã ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc đời, sự nghiệp và tâm
hồn, tính cách của Nguyễn Du.
3. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Du :
a) Giai đoạn ấu thơ và thanh niên : Mồ côi cha năm 9 tuổi, mồ côi mẹ năm 12 tuổi. Sống
và học tập ở Thăng Long trong gia đình quan lại quý tộc phong gấm rủ là, trướng rủ màn
che , hào hoa phong nhã ; học giỏi nhưng đi thi chỉ đỗ tam trường
b) Những năm lưu lạc sống cuộc đời gió bụi ở quê vợ Thái Bình (1786 – 1796) , ở Hà
Tĩnh từ năm 1796 – 1802 khi kiêu binh nổi loạn , mưu chống Tây sơn (vì lòng trung
thành với nhà Lê) không thành . Giai đoạn này Nguyễn Du có điều kiện nắm trải và gần
gũi với đời sống của nhân dân.
c) Giai đoạn làm quan với nhà Nguyễn : Được triều đình nhà Nguyễn tin dùng, thăng từ
cai bạ quảng Bình lên Tham tri bộ Lễ rồi chánh sứ tuế cống Thanh triều, nhưng Nguyễn
Du vẫn cảm thấy bất đắc dĩ , gò bó :
Bó thân về với triều đình
Hàng thần lơ láo , phận mình ra đâu !
Tính tình trầm lặng , ít nói. Năm 1820 , Nguyễn Du nhận lệnh đi sứ Trung Quốc lần thư

hai, chưa kịp đi thì bệnh mất tại Huế. Khi ốm nặng , vẫn không chịu uống thuốc , rồi qua
đời.
Trường THCS Hoài Châu
4
Đề cương ôn tập Học kì I ( phần Tập làm văn) Lớp 9
d) Hiểu biết sâu rộng về cuộc sống con người, có tấm lòng nhân ái : Chữ tâm kia mới
bằng ba chữ tài
“Tố như có con mắt trong khắp sáu cõi, có tấm lòng nghĩ đến nghìn đời , …”
4. Tác phẩm :
a) Chữ Hán : Các tập thơ : Thanh hiên thi tập , Bắc hành tạp lục, Nam trung tạp ngâm
(thơ chữ Hán gồm : 243 bài)
b) Chữ Nôm : Truyện Kiều , Văn chiêu hồn , Thác lời trai phường nón , Văn tế sống hai
cô gái Trường Lưu , …
* Giới thiệu Truyện Kiều :
- Truyện Kiều (còn có tên gọi Đoạn trường tân thanh : tiếng kêu đau đớn đứt ruột mới) là
một truyện thơ viết bằng chữ Nôm theo thể lục bát. Toàn truyện dài 3254 câu.
- Cốt truyện không phải của Nguyễn Du mà ông mượn từ tiểu thuyết chương hồi văn xuôi
chữ Hán : Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân – một nhà văn Trung Quốc ở
đời nhà Thanh.
- Nhưng Truyện Kiều không phải là tác phẩm dịch mà là sáng tạo của Nguyễn Du, bằng
thiên tài nghệ thuật và tấm lòng nhân đạo sâu xa, nhà thơ Việt Nam đã thay máu đổi hồn,
làm cho tác phẩm trung bình trở thành một kiệt tác vĩ đại.
- Tóm tắt Truyện kiều :
+ Gặp gỡ và đính ước
+ Gia biến và lưu lạc
+ Đoàn tụ.
5. Giá trị của tác phẩm
a) Nội dung :
- Giá trị hiện thực :
+ Bức tranh hiện thực về xã hội phong kiến Việt Nam bất công, tàn bạo chà đạp lên

quyền sống con người.
+ Số phận bất hạnh của người phụ nữ đức hạnh, tài hoa trong xã hội phong kiến.
- Giá trị nhân đạo :
+ Lên án chế độ phong kiến vô nhân đạo.
+ Cảm thương trước số phận bi kịch của con người.
+ Khẳng định, đề cao tài năng, nhân phẩm và ước mơ , khát vọng chân chính của con
người.
b) Giá trị nghệ thuật :
- Kết tinh thành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên tất cả các phương diện ngôn ngữ và
thể loại
+ Về ngôn ngữ : Tiếng Việt văn học trở nên giàu và đẹp với khả năng miêu tả, biểu cảm
vô cùng phong phú.
+ Về thể loại : Thể thơ lục bát đạt đến đỉnh cao điêu luyện, nhuần nhuyễn. Nghệ thuật kể
chuyện, miêu tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh ngụ tình. Đặc biệt là miêu tả tâm lí của nhân
vật.
C. Kết bài :
Năm 1820, ông đã vào cõi vĩnh hằng, nhưng đối với những yêu thơ, yêu Truyện Kiều
thì Nguyễn Du bao giờ cũng sống mãi. Ông được dân tộc tôn vinh là đại thi hào của dân
tộc , Được thế giới công nhận là danh nhân văn hóa.
Trường THCS Hoài Châu
5
Đề cương ôn tập Học kì I ( phần Tập làm văn) Lớp 9
V- THUYẾT MINH VỀ MỘT MÓN ĂN
A. Mở bài : Giới thiệu về món ăn
B. Thân bài :
1. Đặc điểm .
2. Nguyên liệu
3. Cách làm.
4. Công dụng
5. Cách thưởng thức

C. Kết bài :
- Cảm nghĩ của em
VI- THUYẾT MINH VỀ MỘT THỂ LOẠI VĂN HỌC
VD: Thuyết minh về thơ: Thất ngôn bát cú; thất ngôn từ tuyệt; Lục bát; Truyện ngắn
A. Mở bài : Giới thiệu về thể loại
B. Thân bài :
1. Đặc điểm nhận diện
2. Cấu trúc
3. Công dụng.
4. Những tác phẩm để chứng minh
C. Kết bài :
Vị trí của nó trong văn học tương lai.
- Cảm nghĩ của em
-
Ghi chú: Ở lớp 9, các em cần phải chú ý đến các yếu tố nghệ thuật, miêu tả lồng ghép
để bài thuyết minh sinh động, hấp dẫn
Phần 2: VĂN TỰ SỰ ( trọng tâm)
I. DÀN Ý CHUNG:
A. Mở bài :
- Thường giới thiệu sự nhân vật và tình huống xảy ra câu chuyện.
B. Thân bài : Kể lại diễn biến của câu chuyện theo một trình tự nhất định :
- Câu chuyện diễn ra ở đâu ?
- Câu chuyện diễn ra khi nào ?
- Câu chuyện xảy ra như thế nào ?
C. Kết bài :
- Thường nêu kết cục và cảm nghĩ của người trong cuộc (người kể chuyện hay một nhân
vật nào đó)
II- MỘT SỐ ĐỀ BÀI ÔN TẬP
II. Kể sáng tạo (kể theo ngôi)
Đề 1: Nhập vai Trương Sinh ( Vũ Nương) để kể “ Chuyện người con gái Nam Xương

Đề 2: Nhập vai Thúy Kiều để kể lại tâm trạng lúc ở lầu Ngưng Bích
Đề 3: Nhập vai Lục Vân Tiên ( Kiều Nguyệt Nga) kể lại đoạn trích “ Lục Vân Tiên cứu
Kiều Nguyệt Nga.
Đề 4: Người lính kể lại những kỉ niệm về tình đồng chí, đồng đội ( Đồng chí- Chính
Hữu)
Đề 5: Kể về kỉ niệm giữa người cháu và bà trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt.
Trường THCS Hoài Châu
6
Đề cương ôn tập Học kì I ( phần Tập làm văn) Lớp 9
Đề 6 : Tưởng tượng gặp gỡ những người lính trong tiểu đội xe không kính
Đề 7: Nhập vai nhân vật trữ tình để kể lại câu chuyện theo bài thơ: “Ánh trăng”
Đề 8: Dựa vào nội dung tác phẩm “Làng” của Kim Lân , hãy đóng vai nhân vật ông Hai
để kể lại đoạn truyện miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của ông Hai khi nghe
làng chợ Dầu theo giặc.
Đề 9: Nhập vai anh thanh niên( ông họa sĩ- cô kĩ sư) để kể lại cuộc gặp gỡ theo truyện “
Lặng lẽ SaPa”
Đề 10: Đóng vai nhân vật bé Thu ( Ông Sáu) kể lại đoãn trích “ Chiếc lược ngà”
III- Kể chuyện đời thường
Đề 1: Kể một kỉ niệm đáng nhớ giữa mình và thầy (cô) giáo cũ, trong đó có sử dụng yếu
tố nghị luận và miêu tả, độc thoại nội tâm.
Đề 2: Tưởng tượng 20 năm sau về thăn trường
Đề 3: Kể lại những kỉ niệm vui( buồn) của mình
GỢI Ý MỘT SỐ ĐỀ BÀI
Đề 1: Đóng vai nhân vật Vũ Nương để kể lại nỗi oan của mình qua tác phẩm “Chuyện
người con gái Nam Xương) của Nguyễn Dữ
A. Mở bài :
Như các bạn đã biết , trong xã hội phong kiến , người phụ ít khi được coi trọng mặc dù
có nhan sắc và tài năng . Hạnh phúc có được là đa số do người đàn ông ban cho . Tôi là
Vũ Nương hay còn là Vũ Thụ Thiết, quê ở Nam Xương, nổi tiếng là xinh đẹp nhưng lại
sống trong gia đình nghèo khó. Có một một người đàn ông giàu có làng bên vì mến dung

hạnh của tôi nên nên mang tram lạng vàng cưới về làm vợ.
B. Thân bài :
1. Cuộc sống gia đình
- Sự việc 1 : Tôi lấy chồng tên là Trương Sinh vốn tính đa nghi hay ghen tuông . Biết
thế , nên tôi luôn giữ gìn khuôn phép, không để vợ chồng xảy ra chuyện thất hòa.
2. Tôi là người phụ nữ đảm đam, hiếu thảo, thủy chung son sắt
- Sự việc 2 : Cuộc sum vầy chưa được bao lâu, chồng tôi đi lính, khi tiễn chồng ra trận,
tôi rót chén rượu đầy và nói những lời dặn dò đượm tình thủy chung :”Thép chẳng dám
mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo hai
chữ bình yên là đủ … “ Điều ước ao của tôi không phải là danh vọng, tiền bạc mà là cuộc
sống gia đình đầm ấm yên vui.
- Sự việc 3 : Trong thời gian xa chồng, một mình tôi phải chèo lái con thuyền gia đình
thật là vất vả mọi bề. Tôi vừa nuôi con vừa chăm sóc mẹ chồng đang ốm đau, bệnh tật.
- Sự việc 4: Nhưng mẹ chồng tôi vì quá thương con, không qua được và đã qua đời, một
mình tôi lại lo liệu ma chay, tế lễ cho thật chu toàn.
- Sự việc 5 : Thương chồng, nhớ chồng, thương con và lo cho con tôi thiếu thốn bóng
dáng của người cha. Đêm đêm , tôi chỉ cái bóng của tôi trên tường và tôi nói nói với đứa
con của tôi đó là cha của nó.
3. Nỗi oan của tôi khi chồng trở về
- Sự việc 6 : Qua một năm sau, việc quân kết thúc, chồng tôi trở về. Tôi rất vui mừng vì
gia đình tôi được đoàn tụ và có được cuộc sống như xưa. Nhưng điều tôi hằng mong ước
và chờ đợi lại không đến mà sóng gió lại nổi lên trong cái gia đình bé nhỏ này. Chồng tôi
đã nghe lời con nhỏ hồn nhiên , ngây thơ và quá mập mờ. Nên chàng mắng nhiếc tôi
Trường THCS Hoài Châu
7
Đề cương ôn tập Học kì I ( phần Tập làm văn) Lớp 9
thậm tệ và còn đuổi tôi ra khỏi nhà , không cho tôi giải thích một lời nào . Tôi thật sự vô
cùng thất vọng
- Sự việc 7 : Bao nhiêu năm tôi chờ đợi để mong có được một ngày hạnh phúc. Tôi chưa
làm gì sai trái để đến nỗi phải hư thân mất nết như chồng tôi nghĩ . “ngõ liễu tường hoa

chưa hề bén gót “ , “tô son điểm phấn thiếp đã từng nguôi lòng” . Tôi thất vọng đến tột
cùng, chán chường vô hạn. Tôi đành tìm đến cái chết để thanh minh cho bản thân . Tôi
tắm gội xong, gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Sinh ra là kiếp đàn bà dù giàu
nghèo hay sang hèn không từ một ai, lời “bạc mệnh” cũng đã trở thành lời chung mà
Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều :
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
4. Tôi được minh oan
- Sự việc 8: May mắng tôi được người cứu giúp và đưa tôi về sống với thủy cung . Tại
đây tôi gặp lại người cùng với tôi là Phan Lan , nhân tiện đó tôi hỏi thăm về con và
chồng của tôi và đưa cho Phan Lan đôi hoa tai vàng , khi gặp chồng tôi và nói rằng lập
đàn giải oan trên bến Hoàng Giang là tôi sẽ trở về.
- Sự việc 9 : Tôi trở về dương thế và đứng ở giữa sông nói vọng vào với chồng tôi . Thiếp
đa tạ tình chàng, thiếp chẳng về với nhân gian được nữa.
C. Kết bài : Câu chuyện của tôi là như thế đó các bạn. Hạnh phúc một khi đã tan vỡ thì
khó có thể hàn gắn được. Trong cuộc sống hiện đại, đọc câu chuyện về nỗi oan của Vũ
Nương mà cảm thấy bất bình trước những đối xử bất công , vô lí của người đàn ông mà
xã hội phong kiến đã tôn vinh họ, được coi trọng.
Đề 3 : Đóng vai Lục Vân Tiên để kể lại chuyện đánh tan bọn cướp hung dữ giữa đường
để cứu dân lành qua đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”.
A. Mở bài :
Ví dụ : Lục Vân Tiên là một tác phẩm được nhân dân ta trân trọng. Người đọc yêu quý
tác phẩm không chỉ văn chương của nó mà còn bởi tìm thấy ở đó biết bao lí tưởng của
chính mình . Người đọc tất thích thú với những nhân vật như ông Ngư, ông Tiều, ông
Quán, những Hớn Minh, Vương Tử Trực, Kiều Nguyệt Nga và tất nhiên đã dành cho tất
cả tình yêu . Vậy Các bạn có biết tôi là ai không ? Tôi chính là Lục Văn Tiên mà cụ đồ
nho Nguyễn Đình Chiểu đã gửi gắm vào tôi bao điều khát vọng, hoài bảo lớn lao.
B. Thân bài :
1.Trên đường xuống núi về thăm cha mẹ, rồi ra kinh đô để dự thi .
- Tôi tên là Lục Vân Tiên, tuổi vừa đôi tám , quê ở quận Động Thành, theo thầy học đạo

trên núi đã lâu năm.
- Nghe tin triều đình mở hội khoa thi, tôi liền xin phép thầy xuống núi để dự thi và cũng
mong được treo ấn phong hầu, vinh quy bái tổ, võng lọng. Để tôi mang tài năng của mình
thực hiện một cách có hiệu quả việc phò vua giúp nước, giúp đời cứu dân.
2. Ra tay đánh tan bọn cướp hung dữ .
- Tôi trên đường lều chõng đi thi, tôi chợt nghe tiếng kêu cứu, tôi liền ra tay cứu giúp
người lương thiện đang trong cơn gặp hoạn nạn. Tôi hành động thức thì, không một giấy
lưỡng lự, ghé ngay vào bên đàng, bẻ cây làm vũ khí và xông vào bọn cướp hưng dữ và
gọi chúng là bọn hung đồ, cướp bóc dân lành
Trường THCS Hoài Châu
8
Đề cương ôn tập Học kì I ( phần Tập làm văn) Lớp 9
- Chính khát vọng hành đạo cứu người đã khiến cho tôi có một sức mạnh vô song . Tôi
“tả đột hữu xông – Khác nào Triệu Tử mở vòng Đương Dang” . Bọn lâu la , gươm giáo
đều vỡ tan, bỏ chạy. Tên cầm đầu, bị tôi đánh một gậy đã thác rày thân vong.
3. Hỏi thăm người gặp nạn :
- Dẹp xong “lũ kiến chòm ong” . Tôi nghe tiếng khóc mà động lòng, thương xót. Tôi lần
đến hỏi han ai đã than khóc trong xe này, Tôi đã an ủi họ và đáp rằng tôi”Ta đã trừ dòng
lâu la” cô hãy yên tâm, không sợ gì nữa. Cô gái ấy đã mời tôi lên xe để trả ơn nhưng tôi
không nhận.
- Đối với tôi làm việc nghĩa là một điều tự nhiên, ai cũng phải làm, và làm một cách tự
nguyện, một cách vô tư. Làm việc nghĩa vì người chứ không phải vì mình, làm không
phải là để được tiếng khen, để được trả ơn, nếu cần cũng có thể hy sinh vì nghĩa.
- Vì thế tôi đã từ chối lời cảm ơn của Nguyệt Nga một cách chân thành và khảng khái :
- Thế là tôi lại thanh thản ra đi, không một chút bận tâm. Đối với tôi, thấy chuyện bất
bình mà không ra cứu giúp , không làm việc nghĩa thì không phải là anh hùng
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người như thế cũng phi anh hùng.
C. Kết bài :
Qua những lời tâm sự của Lục Vân Tiên, ta không thể không yêu mến ở nhân vật này,

một con người tiêu biểu cho khát vọng cho nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu mà cuộc đời
cũng là bài học về đạo đức và nghị lức. Yêu quý Lục Vân Tiên bao nhiêu, ta càng yêu
quý nhân dân ta, những mẫu hình sinh động của cuộc đời thật mà từ đó Lục Vân Tiên là
sự kết tinh.
Đề 4 : Kể về người lính qua hai cuộc kháng chiến qua hai bài thơ “Đồng chí” và “Bài thơ
về tiểu đội xe không kính”
A. Mở bài :
Đoàn giải phóng quân một lần ra đi
Nào có sá chi đâu ngày trở về …
Khúc ca quen thuộc từ xa chợt vọng lại gợi lên trong lòng tôi hiện tại và cả những quá
khứ năm nào. Làm cho tôi như được sống lại một thời hòa hùng của dân tộc theo tiếng
hát sôi nỗi trẻ trung và cũng thật bình dị như cuộc đời người lính. Không biết bao nhiêu
bà ca nói về họ và cũng không biết bao nhiêu bài thơ ca ngợi về người lính. Nhưng sao
mỗi lần tôi đọc lại những trang thơ lại hiện lên cu hai chặng đường kháng chiến vừa qua.
Tôi lại thấy hình ảnh người lính đẹp hơn, hiên ngang hơn với những câu thơ chân tình,
giản dị mà xúc động lòng người , mà nhất là đỗi với thế hệ như tôi hôm nay.
B. Thân bài :
- Khi nhắc đến đến người lính trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, thôi
chợt nghĩ đến những con người bình dị, mộc mạc . Họ là những người nông dân quanh
năm lam lũ với con trâu, cái cày, mảnh ruộng. Sống ở những miền quê nghèo khổ, nghe
theo tiếng gọi thiêng liêng của non sông đất nước, các anh đã tình nguyện từ giã quê
hương đi chiến đấu và trở thành người lính. Các anh đã bỏ lại sau lưng lũy tre, mảnh
ruộng quen thuộc và mái tranh nghèo và cả những người thân.
- Trong Trong trận chiến gay go ác liệt, các anh phải chịu biết bao nhiêu khó khăn, thiếu
thốn. Cùng chịu đựng những cơn sốt rừng hành hạ, sốt run người. Cái cảnh mặc áo thì vá
vai, quần thì vài mảnh vá, chân thì không giày trong những cuộc hành quân hay đứng
dưới chiến hào sâu chờ giặc.
Trường THCS Hoài Châu
9
Đề cương ôn tập Học kì I ( phần Tập làm văn) Lớp 9

- Nhưng chính cái tinh thần đồng đội, đồng chí yêu thương gắn bó giữa những người lính
mà họ đã vượt qua tất cả. Cùng nắm tay nhau, siết chặt tay nhau đứng vững giữa chiến
hào. Cũng chính tình đồng chí, lòng yêu nước đã sưởi ấm họ giữa cảnh rừng hoang sương
muối.
- Đẹp biết mấy là nụ cười lạc quan của người chiến sĩ. Cười trong buốt giá là thái độ coi
thường khó khăn, gian khổ là niềm tin vững chắc vào ngày mai chiến thắng.
- Đẹp làm sao giữa đêm rừng hoang sương muối có người chiến sĩ vẫn ôm súng canh
quân thù trong đêm trăng sáng. Đó là một biểu tượng đẹp của hình ảnh người lính, biểu
tượng cao quý của mối tình đồng chí đã khắc sâu trong tâm trí tôi. Xa hơn nữa là biểu
tượng đẹp cho thơ ca cách mạng việt nam trong thời kì kháng chiến chống pháp.
Còn người lính trong thơ Phạm tiến Duật là những người lính trẻ vừa rời ghế nhà
trường hay các giảng đường đại học gác lại ước vọng tương lai để lao vào cuộc chiến đấu
theo tiếng gọi của miền Nam thân yêu. Nơi núi rừng Trường Sơn nắng cháy kia lại xuất
hiện người lính mới con mang màu áo thư sinh nhưng không thiếu lòng dũng cảm. Bất
chấp tất cả, họ sẵn sàng :
Xẻ dọc Trường Sơn đí cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lại.
- Họ hiện lên trên những trang thơ của những thi sĩ là người lính thật dí dỏm, thật yêu
đời. Gian khổ tưởng chừng như họ không thể nào vượt qua, cái chết như kề bên. Vậy mà
lúc nào các anh cũng nở một nụ cười rất ngang tàng, rất nghịch ngợm.
- Họ ngồi vào những chiếc xe không kính, bị bom Mỹ phá hủy hết , tưởng như không thể
sử dụng được thế mà các anh lại cứ ung dung mà lái, cứ nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
mà chạy. Qua khung cửa không có kính chắn gió, không chỉ thấy mặt đất mà còn nhìn
thấy bầu trời đầy sao, cánh chim như ùa vào buồng lái . Cứ vượt qua đèo cao suối sâu ,
vượt qua mưa bom bão đạn mà đi tới mà thẳng tiến.
- Đường Trường Sơn gập gềnh, hiểm trở. Mùa mưa, thì mưa như thác đổ. Mùa khô. Xe
chạy bụi bay mù trời. Ngày nào trời quang mây tạnh thì bom đạn giặc Mỹ trút xuống
những đoàn xe cứ nối nhau ra mặt trận. Tôi cũng không sao hiểu nổi xe có kính người lái
đã vất vả rồi, xe không kính mà làm sao họ lái được mà có lái được thì chắc cũng vất vả
biết chừng nào. Khi xe chạy gió lùa mạnh vào ca bin khiến người lính lái xe chỉ còn nhìn

thấy gió và bụi. Gió thì làm cay mắt, nước mắt chảy ra. Còn bụi thì phủ đầy mặt, đầy tóc
có màu trắng trong giống như người già, mà họ đâu có già, họ là người lính trẻ kia mà.
Hết gió bụi rồi đến mưa , mưa cứ như tuôn, như xối vào mặt vào người, người ướt hết,
quần áo cũng ướt. Mặc kệ nó , gió lùa mưa ngừng thì khô mau thôi. Họ thật là dũng cảm,
hiên ngang, bất khuất.
- Ở họ không chỉ hiên ngang, dũng cảm, bất chấp coi thường khó khăn, nguy hiểm của
người lính trẻ. Ở họ còn có tinh thần lạc quan, yêu đời, tếu táo, trên miệng phì phèo hút
thuốc, khi nhìn mặt nhau ai cũng đầy bụi rồi cùng nhau mà phá lên cười ha ha . Tiếng
cười sảng khoái hồn nhiên vô tư trong sáng. Đó là những kỉ niệm đẹp về người lính thật
khó quên trên đường ra trận và cũng như một lời thử thách đối với quân thù.
- Tình đồng đội của người lính thật bền chặc và thiêng liêng, với những cái bắt tay qua
cửa kính vỡ rồi cũng đủ để học san xẻ cho nhau. Trên những đoạn đường dài hành quân ,
khi dừng xe lại, họ hợp nhau lại thành một gia đình dầm ấm, vui vẻ. Dựng bếp Hoàng
Cầm giữa trời cùng nhau ăn cơm, cùng nhau nói chuyện, cùng chia sẻ ngọt bùi, đắng cay
sau những giờ phút ngắn ngủi ấy. Họ lại tiếp tục lên đường vì miền Nam thân yêu, vì sự
nghiệp thống nhất Tổ quốc.
Trường THCS Hoài Châu
10
Đề cương ôn tập Học kì I ( phần Tập làm văn) Lớp 9
C. Kết bài :
Nhìn lại những chặng đường lịch sử đã qua, đọc lại những bài về người lính, trong tôi
bỗng dấy lên niềm xúc động lẫn tự hào. Hình ảnh người lính ấy bỗng trở nên bất tử và
đẹp rực rỡ. Dù lớp bụi thời gian có phủ đầy những trang sách và những đổi mới của cuộc
sống làm biến chuyển đi tất cả, nhưng hình ánh lính cụ Hồ, anh giải phóng quân đến các
anh chiễn sĩ Trường Sơn vẫn sống mãi mãi trong lòng mọi người với niềm cảm xúc dâng
trào mạnh mẽ.
Đề 5 : Đóng vai nhân vật người cháu để kể lại tình bà cháu qua bài thơ Bếp lửa của Bằng
Việt
A. Mở bài :
Trong cuộc đời của mỗi người, kỉ niệm của tuổi thơ bao giờ cũng đẹp đẽ, thân thương và

chứa chan tình nghĩa. Bởi những kỉ niệm ấy thường gắn bó với những người ruột thịt, gần
gũi : mẹ ta, cha ta, anh chị em, ông bà , bạn bè. Còn đối với tôi người cháu trong bài thơ
Bếp lửa, kỉ niệm về bà và tình cháu đối với tôi là vô cùng sâu nặng.
B. Thân bài :
1. Những hồi tưởng về bà và tình bà cháu :
- Trong những năm tôi đang du học ở nước ngoài, với nền công nghiệp hiện đại, chỉ toàn
bếp ga, bếp điện, với những ống khói con tàu mà khi nhìn thấy nó tôi lại nhớ da diết về
cái bếp lửa của người bà đang “chờn vờn” trong sương sớm và cũng từ bếp lửa ấy tôi lại
nhớ đến hình ảnh người bà đầy thân thương : Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
- Cả một hồi ức kỉ niệm lại hiện về trong tâm trí tôi. Suốt quảng đời vất vả bà và tôi bên
nhau. Mới bốn tuổi, tôi đã quen mùi khói. Làng thì đói kém, bố đi đánh xe thật vất vả.
Khi nghĩ sóng mũi của tôi còn cay.
- Những năm tháng tôi cùng bà sớm hôm có nhau. Bà kể cho tôi nghe chuyện những ngày
ở Huế, rồi bà dạy tôi làm, bà chăm tôi học, bà dặn dò khi viết thư cho bố tôi đang công
tác ở chiến khu thì đừng có kể này kể nọ, vẫn bảo ở nhà vẫn được bình yên. Tôi rất nhớ
kĩ những lời dặn dò đó, . Bà là thế đấy ! Bà có khác nào là những bà tiên trong chuyện
đời xưa, lúc nào cũng che chở, yêu thương luôn tận tụy vì tôi .
- Hình ảnh bếp lửa, gợi cho tôi một liên tưởng nữa. Đó là tiếng chim tu hú kêu khi mỗi độ
hè về, tiếng chim như giục giã, như khoắc khoải một điều gì da diết mà tôi chưa lí giả
được. Nó gợi ra tình cảnh vắng vẻ và nỗi nhớ mong của tôi và bà
- Nó còn gợi lên trong kí ức bao nhiều điều xót xa mà tôi không thể nào quên được là
năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi. Tôi được sống trong sự cưu mang của bà, vì vậy tôi
đã sớm tự lập được, sớm phải lo toan , chia sẻ cùng bà tôi gánh nặng khó nhọc trên đôi
vai gầy.
- Tôi cứ mỗi ngày một lớn, tôi càng hiểu rõ tấm lòng cao quý của bà, nghị lực của bà vẫn
bền vững. Bếp lửa bà nhen mỗi buổi sáng sớm mai không chỉ bằng nhiên liệu bên ngoài,
mà là từ ngọn lửa trong lòng bà- ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thương, niềm tin
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.
2. Những suy ngẫm về bà :

- Trong lòng tôi , người cháu bây giờ đã lớn khôn, đã trưởng thành lúc này mới thấu hiểu
hết sự tần tảo và đức hy sinh của bà danh cho tôi nói riêng và cho mọi người nói chung.
Trường THCS Hoài Châu
11
Đề cương ôn tập Học kì I ( phần Tập làm văn) Lớp 9
- Mấy chục năm rồi, bà tôi vẫn giữ thói quen dậy sớm, với đôi bàn tay khéo léo của bà đã
nhóm lên trong lòng tôi niềm yêu thương, niềm vui sưởi ấm, san sẻ và còn nhóm dậy cả
tâm tình tuổi nhỏ
- Tôi – đứa cháu năm xưa , nay đã lớn khôn, đã được chắp cánh bay xa, được làm quen
với khung trời rộng lớn, những niềm vui rộng mở ở chân trời xa “Có ngọn khói trăm nhà
– Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” nhưng vẫn không bao quên quên ngọn lửa của bà
và hình ảnh của bà, tấm lòng đùm bọc và ấp iu của bà.
- Tôi rất yêu bà, nhờ tôi hiểu bà mà hiểu thêm về dân tộc mình và nhân dân mình . Cũng
từ bà – hình ảnh bếp lửa mà tôi đã cảm nhận được trong hình ảnh bếp lửa bình dị kia mà
thân thuộc sự kì diệu, thiêng liêng.
Oâi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa !
C. Kết bài :
Tôi bước vào đời với khung trời rộng mở, con đường tương lai mà tôi có được như ngày
hôm nay . Đó chính là người bà mà tôi muôn vạn lần biết ơn, kính trọng. Chính vì vậy mà
tôi đã thấm thía một điều :Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa
sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời.
Đề 7 : Tưởng tượng mình là tác giả hay là người lính, viết bài thơ thành dòng tâm sự
Ánh trăng
A. Mở bài :
Xin chào các bạn ! Trăng vốn là vẻ đẹp trong trẻo tròn đầy, đó là cái lãng mạn nhất
trong cuộc đời, nhất là trong hai trường hợp : khi con người ở tuổi ấu thơ và khi con
người lớn lên cần phải chia và giải bày. Từ hôm nay mà nhìn lại để thấy cái hôm qua là gì
phải không các bạn !Câu chuyện mà tôi sắp kể cho các bạn nghe, nó như là một lời tâm
sự, đời tư có ý nghĩa như một hối hận, ăn năn tạo nên một đợt sóng ngầm đằng sau một
câu chuyện kể.

B. Thân bài :
1. Vầng trăng của tuổi thơ và vầng trăng của thời chiến tranh.
- Tuổi thơ của tôi thật là bao la, được hạnh phúc mà tôi đã cảm nhận được từ vẻ đẹp của
thiên nhiên, tôi được ngắm trăng trên đồng quê thật là thảo thích, rồi trên dòng sông và cả
trên bãi bể nữa . Cùng quấn quýt , chia sẻ , cảm thông như những người bạn vô từ.
Những điều đó như một chút hoài niệm xa vời thời thơ ấu của tôi.
- Khi tôi lớn lên vác ba lô , cầm cây súng, rời quê hương và đã trở thành người lính để
chiến đấu cho nền độc lập dân tộc, cho tổ quốc yêu thương.
- Trăng thật hồn nhiên, tươi mát cùng tôi trên mọi nẻo đường hành quân , giữa rừng
khuya sương muối. Trăng chia ngọt sẻ bùi, cùng tôi hân hoan trong niềm vui chiến
thắng , và tất nhiên trăng đã thành tri kỉ với tôi từ bao giờ. Khiến tôi thấy cảm nhận được
rất rõ cái tình cảm gắn bó giữa trăng – người lính .
- Đối với tôi như một cái chớp mắt, cái còn lại lúc này vầng trăng thật là đơn sơ nhưng
chung tôi thủy. Nó gieo vào tâm hồn tôi và tưởng như nó sẽ là mãi mãi . Bởi vì nó quá
trần trụi, quá hồn nhiên, mộc mạc như có cây. Tôi cứ nghĩ rằng, thiên nhiên là luôn vĩnh
hằng và không bao giờ quên được cái vầng trăng tình nghĩa ấy.
- Trăng đã chiếu sáng cả đôi mắt lẫn tâm hồn, chiếu sáng cho đường đi, lẫn cả đường đời
2. Hoàn cảnh sống hiện tại .
Trường THCS Hoài Châu
12
Đề cương ôn tập Học kì I ( phần Tập làm văn) Lớp 9
- Sau ngày toàn thắng, miềm Nam được giải phóng, đất nước được thống nhất. Tôi lại
tạm gác ba lô và cây súng, trở về với cuộc sống hòa bình, cuộc sống đời thường. Sống
trong thành phố hiện đại, với nhà cao cửa rộng, ánh điện cửa gương. Hoàn cảnh sống của
tôi đã có sự đổi thay. Tất nhiên tôi cũng nằm trong quy luật ấy cũng thay đổi. Hiện tượng
tâm lí và cũng là đạo lí này vẫn thường xảy ra khi nay đã khác xưa. Bởi thế ca dao mới
lên tiếng hỏi từ lâu “Thuyền về có nhớ bến chăng” ?
- Thế thì cần trăng mà làm gì nữa, trăng còn có ích gì cho tôi chăng ! Thế là hết, cái vầng
trăng tình nghĩa của ngày xưa đã không còn nguyên venï như xưa, nó chỉ là như một
khách xa lạ qua đường mà thôi ! Tình cảm của tôi đâu có còn son sắt, thủy chung như

ngày nào. Tôi đã thay lòng đổi dạ.
- Quy luật ở đời vốn lạnh lùng như vậy, tàn nhẫn đến như vậy ? Tôi cảm thấy hình như
chính lòng tôi cũng như vậy ? Thật đau xót biết dường nào.
Xin đừng tham đó bỏ đăng
Có lê quên lựu, có trăng quên đèn !
3. Sự xuất hiện trở lại của vầng trăng .
- Sống giữa lòng thành phố với đầy đủ tiện nghi , mấy ai nghĩ đến vầng trăng hoài cổ.
Tôi cũng vậy. Và trong một tình huống bất ngờ – tình huống rất đời thường và đột ngột
đã xảy ra. Điện bật tắt, căn phòng của tôi tối om. Tôi vội đứng lên và bật tung cửa sổ để
tìm lấy ánh sáng từ bên ngoài vào. Tôi Đâu có ngờ cái vầng trăng tròn năm xưa đột ngột
lại hiện ra. Nó không khuyết chút nào, nó còn là tròn đầy, tròn trịa, nó còn là trọn vẹn
như cái đẹp toàn bích của cuộc đời.
- Chính cái vẻ tròn đầy ấy của vầng trăng đã làm cho tôi có cảm xúc đến cao độ. Tôi
trong một tư thế đối mặt :mặt người và mặt trăng, khuôn mặt của hai linh hồn sống.
Không phải chỉ là mặt người với mặt trăng đâu, đó chính là đối diện với người tri kỉ . Tôi
không nói được lời nào, ngôn ngữ bây giờ là nước mắt dưới hàng mi. Tình cảm của tôi
chừng như nén lại nhưng nó cứ trào ra đến thổn thức , đến xót xa. Cuộc gặp gỡ không
“tay bắt mặt mừng” , nó đã lắng xuống độ sâu cảm nghĩ.
- Tôi thấy trăng vẫn như ngày xưa, vẫn vô tư, vẫn phóng khoáng, vẫn độ lượng. Cùng
một lúc cái quá khứ lại hiện về, mọi kỉ niệm đẹp đã ùa về như đánh thức tôi . Vầng trăng
thật là kì diệu. Trăng là sông, là đồng, là bể, là rừng. Trăng là tuổi thơ, trăng là quá khứ.
- Hóa ra tôi đã tự đánh mất mình mà không hay biết . Nhiều khi tôi thử nhìn lại tôi. Tôi
đã làm chuyện gì sai ? Tôi đâu có sai ? Do hoàn cảnh đổi thay mà tôi đã lãng quên đi. Rồi
có giây phút nào đó, tôi sẽ nghĩ lại.
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
4. Đạo lí uống nước nhớ nguồn.
- Tôi dứng nhìn trăng và suy nghĩ, đã phát hiện ra những giá trị mới của nó. Nếu như
ngày xưa trăng chỉ là trăng hồn nhiên, trăng tri kỉ, thì nay, trăng đã là vầng trăng tròn. Tôi
nhìn rất rõ, trăng thì mãi cứ tròn, viên mãn, nguyên vẹn như ngày xưa không bao giờ đổi

thay.
- Tôi tự hỏi . Tại sao tôi lại đổi thay. Trăng thì cứ im lặng, vô ngôn không nói một lời
nào, trăng cứ lạng lẽ, là sự bao dung , độ lượng , nghĩa tình thủy chung , trong sáng .
Chính điều đó đã làm cho tôi giật mình . Giật mình là để tôi tự hoàn thiện mình.
C. Kết bài :
Trường THCS Hoài Châu
13
Đề cương ôn tập Học kì I ( phần Tập làm văn) Lớp 9
- Bài thơ chính là tiếng nói của trái tim tôi. Và hơn thế nữa, đó cũng là tiếng chung của
trái tim người đọc. Tôi muốn nói rằng : phải chung thủy trọn vẹn, phải nghĩa tình sắt son,
đừng bao giờ quên đi đạo lí “uống nước nhớ nguồn” thủy chung cùng quá khứ.
Đề: Dựa vào nội dung tác phẩm “Làng” của Kim Lân , hãy đóng vai nhân vật ông Hai để
kể lại đoạn truyện miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của ông Hai khi nghe làng
chợ Dầu theo giặc.
Dựa vào nội dung tác phẩm “Làng” của Kim Lân , hãy đóng vai nhân vật ông
Hai để kể lại đoạn trích mà em đã học.
I Mở bài :
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nỗi thành người.
Quê hương tôi là làng chợ Dầu - một cái làng nổi tiếng khắp vùng Kinh Bắc, tôi
yêu nó bằng một tình yêu máu thịt, nhưng “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất
rồi thì phải thù”. Có người hỏi : “Sao lại phải thù” ? Tôi sẽ kể cho các bạn nghe về lòng
yêu thương, tự hào xen lẫn nỗi đau khổ tuyệt vọng khi nghe làng mình theo Tây và tin
làng được cải chính.
II Thân bài :
-Tôi là một người nông dân nghèo, sinh ra và lớn lên trong một cái làng nổi tiếng
nên tôi rất lấy làm hãnh diện, đi đâu tôi cũng khoe về cái làng của mình bằng một cái
giọng say mê náo nức lạ thường. Nào là làng của tôi nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh;

nào là đường làng toàn lát đá xanh, trời mưa đi đến đầu làng cuối xóm không hề lấm gót,
ngày mùa mà bà con phơi thóc, phơi rơm thì tốt thượng hạng … Yêu mến , hãnh diện về
làngmình, nên mắc một cái tật hay khoe. Đối với tôi cái gì của làng tôi cũng hơn hẵn
thiên hạ. Lắm lúc tôi nghĩ mình làm như thế có ai khen hay đồng tình với mình không.
Dù sao tôi khoe cho sướng miệng cũng chẳng cần ai khen gì cả.
-Cuộc kháng chiến bùng nổ, cuộc sống của gia đình tôi có nhiều thay đổi. Theo
lệnh của kháng chiến, tất cả bà con làng chợ Dầu phải đi tản cư và tôi cũng cũng nằm
trong số đó. Ở nơi tản cư, lúc nào tôi cũng nghĩ về cái làng của mình, nghĩ đến những
ngày cùng làm việc với anh em ,đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá … Chao ôi ! tôi nhớ
cái làng, nhớ cái làng quá !
-Vì nhớ làng nên tôi luôn theo dõi tin tức kháng chiến, tôi nghe được nhiều tin hay,
ruột gan tôi cứ múa cả lên, vui quá !
-Trong lúc tôi đang hồ hởi với những chiến tích kháng chiến, những gương dũng
cảm anh hùng của quân và dân ta thì tôi như bị sét đánh về cái tin “dữ” cả làng Dầu “Việt
gian theo Tây” Cổ tôi lúc này tự nhiên nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tôi tê rân rân. Tôi
lặng đi, tưởng như đến nổi không thở được. Một lúc lâu mới rặng è è, nuốt cái gì vướng
ở cổ. Nhưng tôi vẫn ngờ ngợ, chưa tin việc đó là đúng, tôi lại hỏi tiếp “Liệu có thật hở
không bác ? hay chỉ là … “ nhưng rồi người tản cư đã kể rành rọt, rõ ràng , lại khẳng
định một lần nữa vừa ở dưới ấy lên, khiến tôi không thể không tin được.
-Từ lúc ấy, trong tâm trí của tôi, cái tin ấy đã trở thành một nỗi ám ảnh day dứt. Cứ
nghe tiếng bà con chửi bọn Việt gian, là tôi cúi gằm mặt xuống mà đi. Về đến nhà , tôi
không thiết ăn, thiết uống gì hết, nằm vật ra giường. Nhìn đàn con trẻ ngây thơ đang chơi
Trường THCS Hoài Châu
14
Đề cương ôn tập Học kì I ( phần Tập làm văn) Lớp 9
mà tôi cảm thấy tủi thân . Nước mắt của tôi cứ chảy ra . Tôi tự hỏi : Chúng nó cũng là
trẻ con của làng Việt gian đấy ư ? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư ?
- Tôi ở trong nhà, mà lúc nào cũng nơm nớp lo sợ người ta để ý, bàn tán về dân
làng chợ Dầu theo giặc. Tôi sống trong bi kịch triền miên. Vợ con vừa buồn vừa sợ
“Gian nhà lặng đi hiu hắt”. Mụ chủ nhà thì đuổi gia đình tôi đi không cho ở nữa. Tôi bị

đẩy vào tình thế bế tắt, tuyệt vọng có lúc tôi lại nghĩ quẩn “hay là quay về làng”
nhưng rồi tôi lại kiên quyết: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải
thù!”.
- Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắt ấy, tôi chỉ còn biết trút nỗi lòng mình vào
những lời thủ thỉ tâm sự với đứa con nhỏ còn rất ngây thơ.
- À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai ?
- Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm !
Nghe con ngây thơ nói mà nước mắt tôi chảy ròng ròng trên hai má Lòng trung
thành của cha con tôi, của hàng triệu nông dân Việt Nam đối với lãnh tụ, với kháng chiến
là thế đấy.
-Cho nên, khi cái tin thất thiệt “cả làng Dầu Việt gian theo Tây” được cải chính thì
tôi là người sung sướng nhất. Tôi “tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”, “mồm bỏm bẻm nhai trầu,
cặp mắt hung hung đỏ ” Tôi mua quà cho con. Tôi chạy sang nhà bác Thứ để “khoe” cái
tin làng Dầu đánh giặc, nhà tôi bị Tây đốt . Tôi cũng không hiểu tại sao cái nhà của mình
bị Tây nó đốt sạch mà tôi không buồn, không đau đớn, xót xa mà còn khoe .
Hình như tôi khoe như vậy là muốn khẳng định, chứng minh một điều là làng của
tôi không theo giặc dù có mất cả cơ nghiệp mà tôi đã gầy dựng cũng không hề buồn
tiếc, thậm chí tôi còn cảm thấy rất sung sướng và hạnh phúc . Bởi lẽ, trong sự cháy rụi
ngôi nhà của riêng tôi là một sự hồi sinh về cái danh dự của làng chợ Dầu anh dũng
kháng chiến. Đó là một niềm vui kì lạ, thể hiện một cách đau xót và cảm động tình yêu
làng , yêu nước, tinh thần hy sinh vì cách mạng của tôi nói riêng và của người nông dân
Việt Nam nói chung trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược.
III. Kết bài :
Theo tôi nghĩ, mỗi người dân Việt Nam đều yêu thương, gắn bó với quê hương
mình bởi đó là nơi tổ tiên , ông cha đã sinh cơ lập nghiệp từ bao đời; là nơi chôn nhau cắt
rốn; nơi có những người thân đang cần cù một nắng hai sương. Vì vậy, lòng yêu mến
làng quê đã trở thành một tình cảm truyền thống của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là người
nông dân Việt Nam. Yêu làng cũng là yêu nước. Tôi đã buồn vui sướng khổ, đã kiêu
hãnh, tự hào về cái làng chợ Dầu của mình. Vì vậy, nhà thơ Chế Van Viên đã nói :
Khi ta ở là nơi đất ở

Khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn.
Đề 9 : Đóng vai nhân vật anh thanh niên để kể lại cuộc gặp gỡ ngắn ngủi gữa anh và các
nhân vật khác trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa.
A. Mở bài :
Có những âm thanh rất nhỏ, gần như là lặng im nhưng lại vang đi rất xa và tạo nên
nhiều tiếng vang khác. Có con người nói rất ít (nhất là nói về mình) lại được hiểu rất
nhiều, rất sâu sắc. Các bạn có biết là ai không ? Chính là tôi – mà tác giả gọi là anh thanh
niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trên đỉnh Yên Sơn với độ cao 2600 mét.
Tôi sẽ kể cho các bạn nghe về câu cguyeenj của tôi với cuộc gặp gỡ đầy thú vị ấy.
B. Thân bài :
Trường THCS Hoài Châu
15
Đề cương ôn tập Học kì I ( phần Tập làm văn) Lớp 9
- Sự việc 1 : Tôi sốùng và làm việc trên đỉnh cao của Sa Pa , quanh năm chỉ làm bạn với
cây cỏ và mây mù Sa Pa, không có một bóng người, không có ai để trò chuyện, thật là cô
đơn đến nỗi rất “thèm người”.
- Sự việc 2 : Tôi mới nghĩ ra một việc là dùng khúc cây chắn ngang đường để được nói
chuyện với mọi người. Sau đó là tôi được làm quên với bác lái xe . Cứ mỗi lần xe lên đến
thì dừng lại, tôi lại biếu cho bác lái xe những thứ tôi làm ra được và ngược lại bác lái xe
trao cho tôi nào là sách báo cần thiết.
- Sự việc 3 : Trong lần ấy tôi được làm quên với hai người khách nữa là bác họa sĩ và cô
kĩ sư mới ra trường và mời hai người lên nhà tôi chơi cho biết . Tôi cắt hoa tặng cho cô
gái và mời mọi người vào nhà uống nước chè
- Sự việc 4 : Tôi gới thiệu về công việc của mình cho mọi biết vì thời gian còn quá
ngắn . Công việc mà ít ai biết đến là “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động
mắt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất , phục vụ chiến đấu.
Tôi kể với mọi rằng , có lần tôi đã phát hiện ra chiếc may bay trong đám mây khô ấy và
đã giúp cho không quân ta bắn rời . Tôi cảm thấy vô cùng hạnh phúc và tự hào vì mình
đã góp một phần nhỏ cho cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước
- Sự việc 5 : Tôi tâm sự với các vị khách rằng, công việc của tôi ngày nào cũng như ngày

ấy, lặp đi lập lại, đôi lúc cũng cảm thấy chán. Nhưng cất nó đi thì tôi buồn đến chết mất.
Cái gian khổ nhất là nửa đêm “gió tuyết và lặng im ở bên ngoài như chỉ chực đợi mình ra
là ào ào xô tới” , nhưng cũng phải dậy để làm công việc theo quy định , mà tôi gọi đó là
giờ “ốp” . Cái im lặng thật là đáng sợ : nó như bị chặt ra từng khúc , xong công việc rồi ,
trở vào thì không thể ngủ được nữa.
- Sự việc 6: Tôi tâm sự tiếp , hồi mới vào nghề thi chưa quen cảm thấy lẽ loi như những
ngôi sao xa xôi kia. Bây giờ thì đã quen rồi. Và khi ta làm việc, ta với với công việc là
đôi, sao gọi một mình được chứ ? Huống chi việc của tôi gắn liền với bao anh em ở dưới
kia. Công việc tuy có gian khổ nhưng cất nó đi thì buồn đến chết mất. Tôi lại quay sang
trò chuyện với cô kĩ sư, cô thấy dấy, lúc nào tôi cũng có người để trò chuyện đó là sách
- Sự việc 7: Tôi làm việc như thế ấy nhưng khi bác họa sĩ muốn vẽ về tôi thì tôi từ chối,
tôi không muốn ai biết về tôi và tôi đã giới thiệu người xứng đáng để được bác vẽ .
- Sự việc 8 : Tôi chia tay với mọi người. Tuy thời gian vô cùng ngắn nhưng đối với tôi thì
thật là hạnh phúc vì được trò chuyện với mọi người,
C. Kết bài :
Khi nói đến Sa Pa, thì người ta nghĩ đó là nơi nghỉ mát . Thế nhưng trong cái im lặng
ấy vẫn có những con người ngày đêm âm thầm làm việc và cống hiến cho tổ quốc . Đọc
truyện, là học sinh luôn nghĩ rằng : học là mãi mãi, thời nào cũng vậy, xã hội, đất nước,
nhân dân lúc nào cũng cần, cũng yêu mến, trân trọng, cảm phục và học tập những phẩm
chất tốt dẹp của anh thanh niên.
Đề 10 : Kể lại cuộc gặp gỡ (từ lúc mới gặp đến lúc chia tay) của cha con ông Sáu trong
đoạn trích Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng theo ngôi kể thứ nhất của bé Thu.
A. Mở bài :
Ví dụ : Nhà tôi ở gần Vàm kinh nhỏ đổ ra sông Cửu Long. Má tôi nói năm tôi lên một
tuổi thì ba tôi thoát li đi kháng chiến. Ba tôi tên Sáu. Suốt mấy năm kháng chiến, má tôi
có đi thăm ba tôi mấy lần nhưng do đường xá xa xôi, cảnh đi thăm chồng ở chiến trường
Trường THCS Hoài Châu
16
Đề cương ôn tập Học kì I ( phần Tập làm văn) Lớp 9
miền Đông không đơn giản nên má tôi không đưa tôi theo. Vì thế, ba con tôi chỉ biết

nhau trên tấm hình.
B. Thân bài :
1. ông Sáu về thăm nhà :
- Năm tôi lên tám tuổi, khi hòa bình lập lại thì ba tôi về thăm nhà , thăm gia đình và nhất
là thăm tôi nhưng lại tôi không nhận người ấy là ba. Hôm ấy, tôi đang chơi tyrước nhà
thì
2. Trong ba ngày ở nhà của ông Sáu :
- Suốt ba ngày, người ấy chẳng đi đâu xa , lúc nào cũng vỗ về tôi. Nhưng càng vỗ về tôi
lại càng tránh né. Dứt khoát không gọi người đàn ông ấy là ba.
- Trong bữa ấy , người ấy gắp một cái trứng cá bỏ vào chén cho tôi . Tôi dùng đũa xoi
vào chén, để đó, rồi bất thần hất cái trứng ra, cơm văng tung tóe cả mâm. Người ấy giận
quá và vung tay đánh vào mông tôi và hét lớn.
- Tôi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm cơm, nhảy xuống xuồng rồi bơi qua sông sang
nhà ngoại . Và trong đêm ấy được ngoại giảng giải chi tôi biết vì sao trên gương mắt
người ấy lại có một vết sẹo. Lúc đó tôi mới hiểu người đàn ông đó chính là ba của tôi.
3. Cuộc chia tay :
- Sáng hôm sau, tôi nói ngoại đưa tôi về , tôi đứng vào một cái góc để lặng lẽ quan sát và
tôi cảm thấy như tôi đã bị bỏ rơi . Đến lúc ấy , người ấy quay lại phía tôi và nói “Thôi !
Ba đi nghe con !” và khi ấy , tình cha con như bỗng trỗi dậy trong lòng tôi, tôi thét lên và
gọi ba.
- Tôi không cho ba tôi đi và đòi ba tôi mua cho tôi một cây lược và ông đã hứa.
C. Kết bài :
- Lớn lên , tôi làm giao liên , đưa các cán bộ qua Đồng Tháp mười vào mùa nước nổi. Có
thể nói tình cảm mà tôi đã dành cho ba của tôi trong cuộc tay hôm đó thật là sâu nặng mà
mãi sau này khi lớn lên tôi không bao giờ quên được trong giây phút thiêng liêng ấy
được.
- Câu chuyện kể thật là cảm động về tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo
le của chiến tranh.
Trường THCS Hoài Châu
17

Đề cương ôn tập Học kì I ( phần Tập làm văn) Lớp 9
Trường THCS Hoài Châu
18

×