Trường Đại Học Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh
Khoa Thương Mại – Du Lịch – Marketing
SVTH : Nhóm 4 – NT234
GVHD : Th.S Nguyễn Thị Hồng Thu
------------------------------------------------------------
TP. Hồ Chí Minh, 5-2010
LỜI MỞ ĐẦU
Đặt vấn đề:
"Khi thời kỳ khó khăn qua đi, vị thế của một ngân hàng so với các đối thủ
cạnh tranh trên đường đua lúc đó sẽ phụ thuộc rất lớn vào khả năng quản trị của
ngân hàng ngay từ lúc này. Tuy nhiên, một thực tế không thể phủ nhận rằng trong
thời kỳ kinh tế phát triển, các ngân hàng thương mại (NHTM) đã quá mải mê chạy
theo các hoạt động tìm kiếm lợi nhuận, tập trung chủ yếu vào các mục tiêu trước
mắt mà lơ là việc xây dựng hệ thống quản trị rủi ro."- Phó Tổng giám đốc
Vietcombank Nguyễn Thu Hà, nhận định như vậy khi đề cập đến vấn đề quản trị
rủi ro của NHTM Việt Nam trước ảnh hưởng của suy thoái kinh tế.
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế tất yếu xuất hiện quan hệ tín dụng
giữa các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế. Sự luân chuyển dòng vốn giữa một bên
CẦN vốn và một bên CÓ vốn nhàn rỗi đã xuất hiện quan hệ tín dụng.
Ngân hàng là một trung gian tài chính có chức năng: Nhận tiền gửi của dân
cư, tài chính kinh tế, tài chính tín dụng… và cho vay lại các thành phần kinh tế với
lãi suất thích hợp. Ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự thanh
khoản trong nền kinh tế.
Do đó công tác quản trị rủi ro tín dụng có vai trò cực kỳ quan trọng và cần
thiết đối với các ngân hàng nói riêng và cả hệ thống tài chính nói chung.
Mục đích nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý thuyết cơ bản của quản rủi ro tín dụng
của ngân hàng. Bên cạnh đó, đề tài còn phân tích và đánh giá quá trình hoạt động
của ngân hàng TMCP Ngoại thương nhằm đưa ra được những cái nhìn đứng đắn về
quá trình hoạt động quản trị rủi ro của doanh nghiệp, để góp phần xây dựng lên một
hệ thống quản trị rủi ro tín dụng hoàn thiện hơn cho doanh nghiệp cũng như đưa ra
được những giải pháp hiệu quả cho quá trình quản trị rủi ro của ngân hàng TMCP
Ngoại thương nói riêng, hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung.
Việc đánh giá, thẩm định và quản lý tốt các khoản cho vay, các khoản dự
định giải ngân sẽ hạn chế những rủi ro tín dụng mà ngân hàng sẽ gặp phải, và tất
yếu sẽ giảm bớt nợ xấu cho Ngân hàng.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu là tình hình hoạt động và quản trị rủi ro tín dụng của
ngân hàng Vietcombank
- Phạm vi nghiên cứu tập trung vào việc tài trợ vốn dưới hình thức tín dụng
tại khu vực thành phố Hồ Chí Minh.
Kết cấu đề tài:
1. Khái quát tình hình hoạt động và những rủi ro có thể gặp của ngân hàng
Vietcombank
1.1 Giới thiệu ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank)
1.2 Tình hình hoạt động Vietcombank
- Tình hình tài chính(vốn, CP, LN...), tình hình kinh doanh (DT, tốc độ
phát triển,khả năng cạnh tranh...)
- Các hoạt động chủ yếu
- Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động kinh doanh của
Vietcombank
- Định hướng phát triển của Vietcombank
1.3 Những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Vietcombank
2. Các phương pháp quản trị rủi ro tài trợ trên lý thuyết
3. Phân tích và lựa chọn phương án tối ưu
3.1 So sánh các phương án, phân tích ưu/nhược điểm
3.2 Lựa chọn phương án tối ưu phù hợp với NH Vietcombank
1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG VÀ NHỮNG RỦI RO
CỦA NGÂN HÀNG ANZ VIỆT NAM:
1.1 Giới thiệu ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) được thành lập trên
cơ sở cổ phần hóa Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thông qua việc bán đấu giá
cổ phiếu lần đầu ra công chúng ngày 26/12/2007 tại Sở giao dịch chứng khoán
thành phố Hồ Chí Minh.
Trải qua 45 năm phấn đấu và phát triển, Vietcombank đã không ngừng vươn
lên, trở thành ngân hang hàng đầu Việt Nam trong nhiều lĩnh vực như quản lý và
kinh doanh vốn, thanh toán quốc tế, dịch vụ thẻ, công nghệ ngân hàng… Với bề dày
kinh nghiệm và đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ, có trình độ cao và tác phong
chuyên nghiệp, Vietcombank luôn là sự lựa chọn hàng đầu cho các tập đoàn lớn, các
doanh nghiệp trong và ngoài nước cũng như đông đảo khách hàng cá nhân. Từ một
ngân hàng chuyên phục vụ trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Vietcombank ngày nay
đã có mạng lưới chi nhánh vươn rộng ra hầu khắp các tỉnh thành lớn trên cả nước
với các sản phẩm ngân hàng đa dạng, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của mọi đối tượng
khách hàng. Hệ thống Vietcombank đến hết năm 2008 bao gồm 1 hội sở chính, 1 sở
giao dịch, 60 chi nhánh và 209 phòng giao dịch trên toàn quốc, 1 trung tâm đào tạo,
3 công ty con tại Việt Nam, một công ty con tại Hồng Kông, 4 công ty liên doanh, 3
công ty liên kết và 1 văn phòng đại diện tại Singapore. Ngoài ra, mạng lưới phục vụ
khách hàng còn được đa dạng hóa với 1.244 máy ATM và 7.800 điểm chấp nhận thẻ
của Vietcombank trên toàn quốc. Hoạt động của ngân hàng còn được hỗ trợ bởi
mạng lưới hơn 1.300 ngân hàng đại lý trên gần 100 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Năm 2008 đánh dấu bước tiến quan trọng trong lịch sử phát triển của ngân
hàng với việc chính thức chuyển mình trở thành ngân hàng thương mại cổ phần có
vốn điều lệ và tổng tích sản lớn nhất Việt Nam. Trong bối cảnh nền kinh tế gặp
nhiều khó khăn, đứng trước thách thức quan trọng là phải vừa chuyển đổi cơ cấu
hoạt động, vừa đảm bảo đạt hiệu quả kinh doanh, toàn hệ thống Vietcombank đã nỗ
lực phấn đấu, hoàn thành xuất sắc kế hoạch đề ra. Với những thành tích nổi bật
trong năm qua, Vietcombank đã được tạp chí Asiamoney bầu chọn là “Ngân hàng
nội địa tốt nhất Việt Nam”.
1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng Vietcombank:
1.2.1 Tình hình tài chính:
Vốn điều lệ của ngân hàng là 12.100.860.260.000 đồng. Trong đó vốn của
Nhà nước là 1.097.800.600 cổ phần (10.00đồng/cổ phần; chiếm 90,72%).
Tính đến 31/12/2009, tổng tài sản của Vietcombank xấp xỉ 255.500 tỷ đồng
(tăng 15% so với năm 2008). Trong đó, vốn chủ sở hữu là hơn 16.700 tỷ đồng.
1.2.2 Tình hình kinh doanh:
a) Kết quả kinh doanh và những hoạt động chủ yếu : trong năm 2009, lợi nhuận
trước thuế đạt 5.004 tỷ đồng, tăng 39,4% so với năm 2008 và vượt 50,4% so với kế
hoạch. Tổng lợi nhuận sau thuế của Vietcombank đạt gần 4.000 tỷ đồng, tỷ suất lợi
nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu bình quân đạt 25,58%, cao hơn năm trước
(19,68%); lãi cơ bản trên cổ phiếu xấp xỉ 2.871 tỷ đồng, tỷ lệ chi trả cổ tức 12%.
Kết quả những hoạt động chủ yếu như sau:
Công tác huy động vốn: Tổng huy động vốn cả hai thị trường (I và II) của
Vietombank năm 2009 vẫn tăng 17,5%. Huy động từ nền kinh tế đạt
169.457 tỷ quy đồng, tăng 5,9% so với cuối năm 2008. Trong bối cảnh
bị cạnh tranh gay gắt, huy động tiền gửi cả các tổ chức kinh tế bi giảm
(-9%), song huy động từ dân cư lại có mức tăng trưởng khá tốt và đều
đặn (+34,5%)
Công tác kinh doanh vốn: Trong năm 2009, Vietcombank duy trì hoạt động
cho vay trên thị trường liên ngân hàng và đóng vai trò ngân hàng chủ lực cho
vay hỗ trợ thanh khoản các ngân hàng bạn. Đối với nghiệp vụ thị trường mở,
Vietcombank tích cực tham gia thị trường mở sử dụng tối đa hóa nguồn giấy
tờ có giá, thực hiện giao dịch bán kỳ hạn với NHNN với tổng doanh số đạt
53.267 tỷ VND.
Hoạt động tín dụng: Dư nợ tín dụng là 141.621 tỷ quy đồng, tăng 25,6%.
Tỷ trọng dư nợ cho vay khách hàng trong tổng sử dụng vốn đạt 55,4%. Tỷ lệ
tăng trưởng tín dụng của Vietcombank thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng
trưởng tín dụng chung của toàn ngành Ngân hàng (37,7%), nhưng đảm bảo
được sự cân bằng giữa an toàn và hiệu quả trong hoạt động tín dụng.
Trong năm 2009, Vietcombank đã theo đuổi chính sách tăng trưởng tín dụng bền
vững, coi trọng việc nâng cao chất lượng tín dụng với các biện pháp : cơ cấu lại
danh mục đầu tư, củng cố quan hệ khách hàng…; áp dụng kỹ thuật hiện đại vào
quản trị danh mục đầu tư, kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng, quản trị rủi ro
v.v.. Kết quả là chất lượng tín dụng của Vietcombank trong năm 2009 được cải
thiện đáng kể. Đến 31/12/09 tỉ lệ nợ xấu của Vietcombank là 2,47% - thấp hơn
nhiều so với mức 4,61% vào cuối năm 2008, thấp hơn mức dự kiến mà Đại hội
cổ đông cho phép là 3,5%.
Hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu: Năm 2009 chịu tác động mạnh
của cuộc khủng hoảng kinh tế và suy thoái toàn cầu, hoạt động xuất nhập
khẩu của cả nước gặp khó khăn và bị sụt giảm. Trong bối cảnh chung, hoạt
động thanh toán của Vietcombank cũng không tránh khỏi sự tụt giảm. Doanh
số thanh toán xuất nhập khẩu của Vietcombank đạt 25,62 tỷ USD, giảm
23,8% so với năm 2008. Mặc dù vậy, Vietcombank vẫn duy trì thị phần lớn
trong hoạt động thanh toán XNK : chiếm 20,4% trong tổng kim ngạch XNK
của cả nước năm 2009.
Hoạt động thẻ: Vietcombank là ngân hàng có số lượng thẻ phát hành và
doanh số thanh toán không ngừng gia tăng qua các năm và luôn giữ vị trí dẫn
đầu về các chỉ tiêu này trên thị trường thẻ Việt Nam. Tổng số lượng thẻ do
Vietcombank phát hành được 966.243 thẻ, tăng 11,7% so với năm 2008.
Doanh số thanh toán thẻ quốc tế đạt 567 triệu USD, đạt 105,5% kế hoạch
năm. Vietcombank hiện chiếm hơn 53% thị phần thanh toán thẻ quốc tế, gần
36% thị phần phát hành thẻ quốc tế, 21% thị phần phát hành thẻ nội địa và
hơn 33% thị phần doanh số sử dụng thẻ các loại.
Kinh doanh ngoại tệ: Năm 2009 là năm rất khó khăn cho hoạt động kinh
doanh ngoại tệ do tình hình tỷ giá và thị trường ngoại tệ có nhiều biến động
lớn, tình trạng căng thẳng cung ngoại tệ kéo dài. Do vậy, tổng doanh số mua
bán ngoại tệ của Vietcombank trong năm 2009 giảm 14,3% so với năm 2008.
Trong năm, Vietcombank đã bám sát thị trường, liên tục đưa ra các chính
sách chỉ đạo để thích ứng với sự thay đổi của thị trường, đồng thời áp dụng
các biện pháp điều tiết mua ngoại tệ để hạn chế rủi ro. Kết quả hoạt động
kinh doanh ngoại tệ trong năm đã đóng góp một nguồn thu đáng kể trong
tổng thu nhập của Vietcombank.
Ngân hàng bán lẻ: Trong năm 2009, Vietcombank đã xây dựng các chính
sách áp dụng cho khách hàng cá nhân, điều chỉnh theo sát diễn biến của thị
trường, từ khuyến mại, chăm sóc khách hàng tới các chính sách giá, phí, lãi
suất, cũng như cung cấp hàng loạt các sản mới. Kết thúc năm, các chỉ tiêu kế
hoạch bán lẻ đã được thực hiện khá tốt và tương đối toàn diện. Tính đến
ngày 31/12/09, huy động vốn từ dân cư tăng 34,5% so với 31/12/08; Tổng dư
nợ cho vay tăng 36% ; Tổng doanh số chuyển tiền đến trực tiếp cho khách
hàng cá nhân trong năm 2009 là 1.016 triệu USD; doanh số chuyển tiền cá
nhân gián tiếp qua các doanh nghiệp và ngân hang làm dịch vụ đạt khoảng
300 triệu USD; Các dịch vụ điện tử được đẩy mạnh và quan tâm.
Dịch vụ Internet B@nking: ; SMS B@nking, VCB-Securities-Online v.v...
đều có số khách hàng sử dụng gia tăng cả về số lượng và doanh số .
Hoạt động góp vốn đầu tư, liên doanh, mua cổ phần: Đến 31/12/2009,
Vietcombank tham gia góp vốn vào 29 đơn vị. Tổng vốn góp đầu tư, liên
doanh, mua cổ phần đạt 3.527 tỷ đồng (không bao gồm phần vốn góp vào
các công ty trực thuộc), chiếm 29,1% Vốn điều lệ. Vốn góp vào liên doanh
với các đối tác nước ngoài chiếm 30,5%, góp vốn cổ phần với các TCTD
trong nước chiếm 55,4%, góp vốn cổ phần với các TCKT trong nước khoảng
14,1%. Tổng thu nhập từ hoạt động góp vốn, mua cổ phần trong năm 2009
đạt 454,7 tỷ đồng.
b)Khả năng cạnh tranh : Được đánh giá là ngân hàng nội địa tốt nhất Việt Nam
trong những năm vừa qua, và với số lượng tài khoản cũng như luôn dẫn đầu về số
lượng thẻ thanh toán quốc tế và nội địa, Vietcombank chứng tỏ khả năng cạnh tranh
của mình trên thị trường.
1.2.3 Đánh giá chung về ngân hang TMCP Ngoại Thương:
1.2.3.1 Thuận lợi:
Ngân hàng luôn có mặt bằng LS cho vay thấp. Hoạt động giải ngân vốn ODA
các NH được chỉ định phục vụ thu được một số lợi ích trong kinh doanh ngoại
tệ, hoạt động tín dụng và thanh toán, đặc biệt là trong huy động vốn vì thông
qua việc rút vốn ODA ngân hàng phục vụ đã thu hút được lượng tiền ngoại tệ
(vốn ODA) và nội tệ (các nhà thầu) khá lớn duy trì trên các tài khoản mở tại
NH phục vụ với chi phí rất thấp.
Bên cạnh đó, các NHTM nhà nước luôn nhận được sự hỗ trợ từ NHNN. Gần
đây, NHNN tuyên bố sẽ đáp ứng nhu cầu vay vốn thiếu hụt thanh khoản tạm
thời của các NHTM nhà nước với LS thích hợp và thời gian phù hợp (chắc LS
thấp hơn khá nhiều so mặt bằng LS huy động thị trường và thời gian dài hơn
cho vay tái cấp vốn và chiết khấu với các NHTM cổ phần). Các NHTM cũng
chủ định hướng khai thác tối đa kênh hỗ trợ của NHNN.
Một trong những thành công nhất trong năm 2009 là hoạt động của hệ thống
các tổ chức tín dụng (TCTD) Việt Nam đảm bảo an toàn, ổn định và có bước
tăng trưởng khá, năng lực tài chính và quy mô hoạt động tăng lên. Tính thanh
khoản của hệ thống được đảm bảo, đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán của nền
kinh tế.
Trong các thời điểm khác nhau, ngân hàng nhà nước (NHNN) cũng linh hoạt
điều chỉnh giảm và tăng các mức lãi suất chủ đạo, lãi suất tái cấp vốn và lãi
suất tái chiết khấu, tạo điều kiện cho các TCTD giảm và tăng lãi suất huy
động, cho vay phù hợp mục tiêu điều tiết lượng vốn huy động và cho vay tín
dụng theo hướng nới lỏng một cách thận trọng.
1.2.3.2 Khó khăn:
Khó khăn lớn nhất của năm nay đó là vốn, kênh dẫn vốn mà các ngân hàng đều
trông chờ hiện nay vẫn nằm ở nguồn tiền gửi của dân cư và tổ chức.
Do tác động của các giải pháp kích thích kinh tế, nhu cầu vay vốn của các
doanh nghiệp, hộ sản xuất tăng cao, kéo theo tăng trưởng tín dụng của hệ
thống ngân hàng ở mức cao, trong khi huy động vốn gặp nhiều khó khăn, ảnh
hưởng đến khả năng cân đối vốn của các TCTD. Lãi suất huy động tăng cao
trong khi trần lãi suất cho vay bị khống chế bởi lãi suất cơ bản làm chênh lệch
giữa lãi suất huy động và cho vay bị thu hẹp, gây khó khăn cho việc trích lập
dự phòng rủi ro và ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của các TCTD. Trong
khi thị trường ngoại hối, thị trường vàng và cán cân thanh toán quốc tế còn
nhiều diễn biến không thuận lợi, nhất là vấn đề cân đối cung - cầu ngoại tệ.
Hạ lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu! Trong khi bản thân nhiều ngân
hàng đang thiếu giấy tờ có giá, tỷ lệ dự trữ bắt buộc hiện là 3% - mức được
các tổ chức quốc tế khuyến nghị là phù hợp. Nếu hạ bớt 1%, các ngân hàng có
thêm vài trăm tỷ đồng, nhưng đây chỉ là con số “muối bỏ biển” so với nhu cầu
vốn của nền kinh tế. Còn nếu cho phép sử dụng vốn liên ngân hàng (vốn có kỳ
hạn rất ngắn) để các ngân hàng cho vay, trong trường hợp một ngân hàng rủi
ro trong thanh toán, trả nợ, sẽ dẫn đến phản ứng dây chuyền, đó sẽ là một
quyết định vô cùng mạo hiểm với NHNN.
1.2.4 Định hướng phát triển:
Căn cứ các Nghị quyết của Chính phủ và định hướng của NHNN trong năm
2010 đối với hoạt động ngân hàng, trên cơ sở kết quả hoạt động kinh doanh đạt
được trong năm vừa qua, Ban Lãnh đạo Vietcombank xác định mục tiêu và nhiệm
vụ trọng tâm trong năm 2010 như sau:
Các chỉ tiêu hoạt động chính
• Tổng tích sản Tăng 15,0%
• Huy động vốn từ nền kinh tế Tăng 23,0%
• Dư nợ tín dụng Tăng 20,0%
• Nợ xấu 1 dưới 3,5%
• Lợi nhuận trước thuế đạt 4.500 tỷ đồng
• Mức chi trả cổ tức (đồng/cổ phiếu) 1.200 đồng
Với phương châm hoạt động “ Tăng tốc - An toàn - Chất lượng - Hiệu quả”,
toàn hệ thống Vietcombank tập trung thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
1. Đột phá mạnh trong huy động vốn. Đặt nhiệm vụ huy động vốn làm nhiệm vụ
trọng tâm và ưu tiên hàng đầu của năm nhằm mở rộng và tăng quy mô hoạt động;
2. Tăng cường hoạt động ngân hàng bán buôn, đẩy mạnh mảng hoạt động ngân
hàng bán lẻ nhằm cải thiện cơ cấu nguồn vốn và sử dụng vốn theo hướng tăng tính
ổn định và phân tán rủi ro;
3. Tăng trưởng trong hoạt động kinh doanh đi đôi với việc bảo đảm tuân thủ các
giới hạn an toàn trong hoạt động ngân hàng; Phát huy tối đa lợi thế của
Vietcombank trong các hoạt động truyền thống; Đảm bảo sự cân đối hài hoà giữa
huy động và sử dụng vốn;
4. Tiếp tục cơ cấu lại tổ chức theo mô hình khối tại HSC cũng như chuyển hoá
cơ cấu tổ chức của các chi nhánh. Thực hiện nghiêm túc kỷ cương điều hành và ý
thức tuân thủ, chấp hành của các cán bộ trong toàn hệ thống;
5. Tiếp tục đổi mới, hiện đại hoá công nghệ nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của khách hàng trong kinh doanh và hỗ trợ công tác quản trị, điều hành;
6. Đẩy mạnh các quan hệ đối ngoại; Thực hiện tốt hoạt động thông tin tuyên
truyền, hoạt động truyền thông về hình ảnh, thương hiệu và sản phẩm của
Vietcombank trong hệ thống cũng như trên thị trường;
7. Ban hành và hoàn thiện các quy trình, quy chế của Vietcombank để phù hợp
với các quy định của pháp luật, đi dần tới chuẩn mực quốc tế và nhằm giảm thiểu
các rủi ro trong hoạt động.
8. Tiếp tục chọn đối tác chiến lược theo tiêu chí đã định, phát hành cổ phiếu tăng
vốn Điều lệ nâng hệ số an toàn (CAR) 10%
1.3 Những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng:
Trong các nghiệp vụ ngân hàng thực hiện hằng ngày có rất nhiều nguy cơ
tiềm ẩn có thể ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng. Theo nghiên cứu
của nhà chuyên môn trong lĩnh vực ngân hàng thì có nhiều loại rủi ro khác nhau
nhưng về bản chất có thể chia ra 4 nhóm rủi ro chính:
• Rủi ro thị trường
• Rủi ro hoạt động (rủi ro tác nghiệp)
• Rủi ro thanh khoản
• Rủi ro tín dụng
• Rủi ro thị trường là rủi ro nảy sinh từ sự mất ổn định liên quan tới những thay đổi
về giá cả thị trường, tỷ giá và lãi suất ví như là rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi
ro chứng khoán, rủi ro hàng hóa.
− Rủi ro lãi suất là nguy cơ biến động nguy cơ thu nhập và giá trị ròng của ngân hàng
khi lãi suất thị trường thị tường có biến động, sẽ tác động bất lợi tiềm ẩn ảnh hưởng
tới lợi nhuận và giá trị kinh tế do các thay đổi về lãi suất. Nguyên nhân chủ yếu là
do có độ lệch lãi suất, rủi ro về biên độ lãi suất tín dung, rủi ro lãi suất cơ bản và rủi
ro quyền chọn.
Ở đây, rủi ro độ lệch lãi suất phát sinh khi có những chênh lệch trên số lượng
tài sản Có, tài sản Nợ và các tài sản ngoại bảng đáo hạn hay được định giá cho một
kỳ hạn định trước theo thỏa thuận với khách hàng. Về rủi ro về biên độ lãi suất tín
dụng xảy ra khi có sự thay đổi về biên độ lãi suất tín dụng do thay đổi quan niệm,
nhìn nhận của thị trường về chất lượng tín dụng và tính thanh khoản ở cấp độ chung
hay ở một khía cạnh cụ thể. Còn rủi ro lãi suất cơ bản phát sinh khi các chỉ số định
giá lãi suất chuẩn định giá sản phẩm thay đổi. Còn lại thì rủi ro quyền chọn xuất
hiện từ ảnh hưởng về lãi suất và thay đổi về giá trị thị trường của quyền chọn trong
danh mục đầu tư.