Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

quan hệ thương mại giữa việt nam - trung quốc. thực trạng & triển vọng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.79 KB, 53 trang )

Website: Email:
lời nói đầu
Việt Nam - Trung Quốc là hai nước láng giềng “núi liền núi, sông liền
sông “. Quan hệ ngoại giao, kinh tế, văn hoá, thương mại giữa hai nước đã hình
thành từ lâu là một tất yếu khách quan. Đối với nhân dân hai nước, quan hệ láng
giềng, quan hệ giao lưu văn hoá và thương mại đã trở thành một quan hệ truyền
thống bền vững. Những biến động chính trị xã hội trong lịch sử có những lúc
thăng trầm nhưng chưa bao giờ làm triệt tiêu được mối quan hệ giữa nhân dân
hai nước. Chính vì vậy, quan hệ hai nước đã trở lại bình thường hoá vào cuối
năm 1991. Từ đó đến nay, quan hệ giữa hai nước nói chung và trên lĩnh vực
thương mại nói riêng đã phát triển ngày càng mạnh, ngày càng bền vững và
“đang trở thành một bộ phận quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt
Nam.”
Bước vào thế kỷ XXI, công cuộc đổi mới và cải cách ở cả hai nước Việt
Nam – Trung Quốc đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới . Vì vậy,
việc củng cố và tăng cường mối quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai
Đảng - hai nước theo phương châm 16 chữ vàng: “Láng Giềng Hữu Nghị, Hợp
Tác Toàn Diện, ổn Định Lâu Dài, Hướng tới tương lai ” không những đáp ứng
nguyện vọng và lợi ích cơ bản lâu dài của nhân dân hai nước mà còn phù hợp
vơí xu thế hoà bình và phát triển khu vực cũng như trên thế giới .
Hiện nay, Trong tiến trình hội nhập nền kinh tế thế giới. Trung Quốc đã
trải qua mười năm năm đàm phán, đã gia nhập WTO. Trung Quốc tiến tới mở
cửa thị trường. Quan hệ kinh tế thương mại hai nước Việt Nam - Trung Quốc đã
phát triển mạnh mẽ và toàn diện nhưng cũng cần được củng cố và phát triển lên
một bước mới . Xuất phát từ yêu cầu đó em đã chọn đề tài : “Quan hệ thương mại
giữa Việt Nam - Trung Quốc. Thực trạng và triển vọng” làm luận văn tốt nghiệp ra
trường .
Phương pháp nghiên cứu mà em sử dụng trong quá trình viết luận văn là
sự kết hợp những kiến thức đã tích luỹ trong quá trình học tập với những quan
1
1


Website: Email:
sát đã thu thập từ thực tế, kết hợp tổng hợp sách báo, các số liệu thống kê với
việc đi sâu phân tích tình hình thực tế nhằm tạo ra một hướng đi hợp lý và thống
nhất để giải quyết vấn đề đặt ra trong luận văn này .
Nội dung của luận văn gồm ba chương :
Chương I : Các vấn đề cơ bản về quan hệ kinh tế quốc tế .
Chương II : Thực trạng quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam -
Trung Quốc .
Chương III : Phương hướng và triển vọng phát triển quan hệ thương mại
giữa hai nước .
Do vốn kiến thức có hạn, thời gian nghiên cứu không nhiều, đây lại là vấn
đề lớn đòi hỏi phải có sự tham gia tìm hiểu và nghiên cứu công phu có liên
quan, nhiều ngành,mất nhiều thời gian. Do vậy luận văn của em không tránh
khỏi những thiêú sót, em mong được sự chỉ dẫn, góp ý của các thầy cô cùng bạn
đọc để luận văn của em được hoàn thiện hơn .
Em xin bầy tỏ sự cảm ơn sâu sắc tới tập thể cán bộ Viện Nghiên Cứu
Thương Mại - Bộ Thương Mại . Và đặc biệt là sự hướng dẫn giúp đỡ chỉ bảo
nhiệt tình của PGS.TS Trần Văn Chu - Phó hiệu trưởng - Trưởng khoa thương
mại - Trường đại học QL& KD Hà nội đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
2
2
Website: Email:
chương I : Các vấn đề cơ bản về
quan hệ kinh tế quốc tế
I/ quan hệ kinh tế quốc tế

1. Khái quát về quan hệ kinh tế quốc tế
Lịch sử phát triển kinh tế của các nước từ xa xưa để lại, không một
cộng đồng nào, một quốc gia nào, một dân tộc nào, dù lớn hay nhỏ, dù
tiến bộ lạc hậu mà không có mối quan hệ trao đổi, giao lưu trên mọi lĩnh

vực kinh tế, chính trị văn hoá, xã hội, với cộng đồng các dân tộc, quốc gia
khác. Do đó, quan hệ quốc tế đã xuất hiện từ lâu đời nay. Nó vừa là kết
quả, vừa là đIều kiện cần thiết cho mọi quá trình phát triển của xã hội loài
người. Ngày nay quan hệ quốc tế mang nhiều nội dung mới, hình thức
mới ngày càng phong phú và phức tạp. Quan hệ kinh tế quốc tế diễn ra
sâu sắc và toàn diện hơn cả.

Quan hệ kinh tế quốc tế là mối quan hệ kinh tế của một quốc gia với
thế giới. Thời đại ngày nay quan hệ kinh tế quốc tế là một tất yếu khách
quan - là xu thế phát triển kinh tế của các nước.

Thương mại quốc tế là một trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế đối
ngoại, có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của các nước. Không có
nước nào phát triển bình thường nếu không có thương mại quốc tế. Không
có một nước nào lại tự sản xuất tất cả các mặt hàng và tự cung cấp các
dịch vụ mà đều phải phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ thương
mại, mở rộng giao lưu thương mại và dịch vụ với các nước khác. Với các
3
3
Website: Email:
nước đang phát triển hoạt động thương mại hướng vào công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nền kinh tế. Hoạt động thương mại quốc tế đảm bảo nhập
được các hàng cần thiết như nguyên vật liệu phục vụ trong nước. Thông
qua thương mại quốc tế sẽ xuất khẩu nhiều sản phẩm cho nước khác,
đồng thời nhập khẩu nhiều nguyên liệu để sản xuất.
Điển hình cho quan hệ kinh tế quốc tế là từ sau chiến tranh thế giới
thứ hai, tiền đề ra đời của tổ chức quốc tế là GATT- General Agreement on
Trade and Tariff - Hiệp định chung về thương mại và thuế biểu - được thành lập
01/01/1984 ban đầu có 23 nước tham gia. Qua nhiều vòng đàm phán thương mại
thì GATT trở thành WTO - Word Trade Organization - tổ chức thương mại quốc

tế. Đến 09/1996, WTO có 123 nước thành viên chính thức và hơn 30 nước đang
đàm phán để được tham gia. Tuy vậy, trên thế giới còn tồn tại những nước phát
triển và đang phát triển, mức độ phát triển không đồng đều thì cuộc đấu tranh
phát triển kinh tế trong đó có các hoạt động thương mại quốc tế vẫn còn tiếp
diễn nhưng ở mức độ, qui mô và tính gay gắt từng nơi, từng lúc. ở các khu vực
đã hình thành các khối kinh tế và thương mại. Các nước tự liên kết với nhau để
bảo vệ và che chở cho nhau bằng các cam kết, thoả thuận khu vực của mình.
Điển hình là Liên minh Châu âu ( Cộng đồng châu âu ), sau đó khu vực tự do
thuế quan Bắc Mỹ- NAFFTA - Northern American Free Trade Area, Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam á - Asean Asociation of South - East Asian Nation, Khu
vực thương mại tự do Châu á -AFTA -Asean Free Trade Area, EFTA - Euro Free
Trade Area, CACM - Centrel American Common Market, Diễn đàn hợp tác kinh
tế Châu á - Thái Bình Dương APEC nhằm hợp tác khu vực phát triển thương
mại và kinh tế .
2. Các lĩnh vực quan hệ kinh tế quốc tế
4
4
Website: Email:
Thưong mại quốc tế: là quá trình trao đổi hàng hoá giữa các nước thông
qua buôn bán nhằm mục đích phát triển quan hệ ngoại thương. Trao đổi hàng
hoá là một hình thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hóa riêng biệt của
các quốc gia. Thương mại quốc tế là lĩnh vực quan trọng đã tạo điều kiện cho
các nước tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm
giàu cho đất nước. Sớm nhận được vị trí, vai trò của thương mại quốc tế ngày
càng được mở rộng và đa dạng, trong luận văn này em xin đề cập đến các vấn đề
chủ yếu như: Hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư, hợp tác, liên doanh liên kết ở
một quốc gia cụ thể.
Là một quốc gia liền kề với Trung Quốc, với nhiều điểm tương đồng về văn
hoá, cùng chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN lại là nước

đang ngày càng quan trọng đối với ASEAN . Hơn nữa, tình hình thế giới và khu
vực đòi hỏi chính phủ các cấp, giới doanh nghiệp Việt Nam và Trung Quốc coi
trọng đến quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước nhằm khai thác mọi tiềm
năng, phát huy mọi lợi thế, tạo cơ hội cho nhau duy trì tốc độ tăng trưởng cao,
liên tục, nhất là trong bối cảnh kinh tế thế giới có hai nền kinh tế đầu tàu là Mỹ –
Nhật. Vì vậy hai nước Trung Quốc và Việt Nam cần quan tâm phát triển và chú
trọng đến những lĩnh vực sau đây:
Thứ nhất, về xuất nhập khẩu : Xuất nhập khẩu là việc mua vào trong nước
và bán ra nước ngoài hàng hoá . Hàng hoá xuất nhập khẩu thường rất đa dạng
như hàng công nghiệp, nông nghiệp, hàng tiêu dùng, khoa học kỹ thuật, dịch
vụ Cùng với sự phát triển các mối quan hệ giữa Việt Nam - Trung Quốc, cơ
cấu xuất nhập khẩu cũng phát triển theo hướng ngày càng đa dạng hoá về mặt
hàng và chủng loại, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của hai bên .
5
5
Website: Email:
Thứ hai là vấn đề hợp tác khoa học kỹ thuật, dịch vụ . Hợp tác khoa học
và công nghệ giữa Việt Nam -Trung Quốc trong những năm gần đây chủ yếu
được tiến hành đồng thời trên cơ sở hiệp định song phương giữa chính phủ Việt
Nam với chính phủ Trung Quốc và đa phương trong khuôn khổ Hợp tác diễn
đàn Hợp tác kinh tế Châu á Thái Bình Dương (APEC) - ASEAN cũng như các tổ
chức quốc tế khác .Các hình thức chủ yếu mà hai bên tiến hành như trao đổi
đoàn cấp cao, các chuyên gia,các nhà khoa học, cung cấp cho nhau thông tin
khoa học và công nghệ : Cùng tổ chức hội nghị, hội thảo khoa học, vì thế trong
giai đoạn hiện nay hai bên cần dành ưu thế hợp tác khoa học kỹ thuật trong lĩnh
vực nông nghiệp, chế tạo máy, hoá chất và quản lý khoa học công nghệ .
Vấn đề thứ ba là đầu tư, liên doanh : Đầu tư là hoạt động sử dụng vốn
theo chương trình đã định nhằm mục đích thu lợi nhuận . Trong quan hệ kinh tế
quốc tế thì vấn đề đầu tư thường được gọi là đầu tư nước ngoài, khác với đầu tư
trong nước là các bên tham gia có quốc tịch khác nhau . Tuy nhiên, dù là đầu tư

trong nước hay đầu tư quốc tế thì cũng cùng tiến hành các hoạt động kinh doanh
nhằm đem lại lợi nhuận cho các bên trên cơ sở quyền lợi riêng . Hai nước có
quan hệ kinh tế thương mại phát triển một phần quan trọng chính là đầu tư quốc
tế . Trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc vấn đề đầu tư càng có lợi cho hai
bên. Đối với Trung Quốc họ sẽ nhận được lợi nhuận cao vì môi trường đầu tư
vào Việt Nam hiện nay đã thông thoáng hơn, tình hình an ninh, chính trị ổn định,
Việt Nam có những chính sách ưu đãi đối với nhà đầu tư để họ được đảm bảo
an toàn cả vốn và lãi . Về phía Việt Nam ta có thể tranh thủ vốn, công nghệ, kinh
nghiêm quản lý và vị trí trong phân công lao động quốc tế, qua đó khai thác có
hiệu quả mọi tiềm năng đất nước, tăng tích luỹ, giải quyết việc làm cho người
lao động . Hơn nữa, Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, Chính phủ
hai nước đều có nhiều chính sách để khuyến khích đầu tư vào Việt Nam, về phía
Việt Nam tạo mọi điều kiện để thu hút các nhà đầu tư Trung Quốc.
6
6
Website: Email:
3. Lợi thế so sánh trong quan hệ thương mại VN - TQ
Lợi thế so sánh theo David Ricardo thì một nước chỉ nên tập trung vào
những gì mà mình có lợi thế, dùng nó để trao đổi những gì mà nếu mình tự làm
thì hiệu quả sẽ không cao. Vậy trong quan hệ giữa Việt Nam-Trung Quốc thì lợi
thế so sánh đó là gì ?
- Về phía Trung Quốc
Việc quan hệ kinh tế với các nước láng giềng, trong đó có Việt Nam sẽ tạo
cơ hội cho Trung Quốc tham gia nhiều hơn vào những hoạt động kinh tế quốc tế,
thể hiện qua việc đẩy mạnh quan hệ kinh tế thương mại với các nước để cùng
nhau phát triển. Đối với Việt Nam việc phát triển quan hệ kinh tế thương mại
với Trung Quốc không những phù hợp với đường lối đối ngoại “làm bạn với tất
cả các nước” mà còn phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế của hai nước,
Trung Quốc có hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây tiếp giáp với Việt Nam, bằng
đường biên giới này Trung Quốc mở rộng quan hệ với Việt Nam, vươn ra biển

Đông.
Trung Quốc chuyển đổi sang cơ chế thị trường, là nước lớn, đông dân, có
tiềm lực kinh tế mạnh và có kinh nghiệm trong các hoạt động ngoại thương với
nhiều nước khác trên thế giới. Hơn nữa, nhiều mặt hàng xuất khẩu của Trung
Quốc có năng lực cạnh tranh mạnh do có ưu thế về chất lượng và chủng loại, có
giá thành thấp hơn giá thành của Việt Nam vì các doanh nghiệp Trung Quốc đầu
tư khoa học kỹ thuật có chính sách kinh tế vĩ mô hỗ trợ sản xuất xuất khẩu.
Trung Quốc không bị chiến tranh tàn phá. Về công nghiệp nhẹ, Trung
Quốc có truyền thống và do lực lượng lao động lớn, nhân công rẻ, có kinh
nghiệm, sản xuất ra mặt hàng có giá thành hạ, chất lượng tốt, Trung Quốc có
tiềm năng phát triển công nghiệp do tiếp thu được công nghệ tiên tiến như hàng
điện tử, hàng tiêu dùng. Sự phát triển của Trung Quốc từ khi mở cửa nền kinh tế
7
7
Website: Email:
và thực hiện bốn hiện đại hoá đã có bước tiến bộ lớn. Hàng hoá của Trung Quốc
sản xuất ra chất lượng tốt, chi phí thấp nên có sức cạnh tranh được với nhiều
nước. Trung Quốc có lợi thế về nhiều mặt so sánh với hàng hoá nước ta. Từ khi
Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của WTO. Hàng hoá của Trung
Quốc xuất khẩu vào các nước được hưởng thuế suất thấp, càng có nhiều điều
kiện để cạnh tranh với hàng hoá cùng loại của các nước.
- Về phía Việt Nam :
Hội nhập mở cửa với nền kinh tế thế giới, nước ta sẽ gặp rất nhiều khó
khăn, từ điểm xuất phát thấp, thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa thị trường,
nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn, tham gia vào thị trường thế giới hàng
hoá xuất khẩu của ta giá cả thường cao hơn so với các nước, sức cạnh tranh
kém. Các mặt hàng may mặc, giầy da tuy có điều kiện cạnh tranh với thế giới,
với hàng hoá Trung Quốc, chi phí còn cao hơn các nước nên hiệu quả thấp, sức
cạnh tranh kém.
Tuy vậy, Việt Nam có rất nhiều mặt hàng có lợi thế so sánh do thiên nhiên

ưu đãi ( nông nghiệp nhiệt đới - lúa và một số mặt hàng khác ) nên hàng năm
Trung Quốc vẫn còn phải nhập hàng của ta.
Nước ta sẽ dựa vào nguồn nhân công rẻ, tay nghề khéo léo, cần cù nên có
điều kiện cạnh tranh thuận lợi và là ưu thế đối với Trung Quốc. Hơn nữa, nguồn
nguyên nhiên liệu khoáng sản dồi dào, phong phú, chính trị an ninh ổn định .
Điều quan trọng là Việt Nam gần đây đã có những chính sách khuyến khích và
tạo nhiều diều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
II. Dự báo tương lai quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam Trung
Quốc:
8
8
Website: Email:
- Trung Quốc là thị trường gần 1,5 tỷ dân, GDP bình quân 1000
USD người / năm, đông dân nên sức tiêu thụ hàng hoá lớn - là thị
trường lớn Việt Nam cần phát triển.
- Trung Quốc đang phát triển cần nhiều nguyên nhiên vật liệu mà
Việt Nam nổi tiếng là nước có nhiêù tài nguyên thiên nhiên phong
phú đặc biệt là than, cao su và dầu thô là những mặt hàng mà
Trung Quốc rất cần nhập khẩu.
- Việt Nam gần Trung Quốc, điều này rất có lợi thế cho các nhà đầu
tư và các doanh nghiệp của cả hai nước phát triển buôn bán vì :
Phí chuyên chở thấp, hai nước gần nhau lại có rất nhiều nét tương
đồng về văn hoá, phong tục, tập quán, thói quen vì thế sản phẩm
tiêu dùng để hỗ trợ cho nhau. Trung Quốc tiêu dùng hàng Việt
Nam với số lượng lớn, chất lượng vừa phải, giá cả phù hợp. Còn
Việt Nam tiêu dùng hàng Trung Quốc không những phù hợp về sở
thích, mẫu mã đẹp, hình thức phong phú, giá rẻ, mà Việt Nam ưa
chuộng.
- Ta có lợi thế về rau, quả, về cao su thì Trung Quốc lại có lợi thế về đồ
điện, hàng tiêu dùng nhiều nghành Trung Quốc sản xuất thừa Việt Nam lại sản

xuất thiếu và ngược lại. Là hai nước láng giềng nên có nhiều ngành kinh tế hỗ
trợ được cho nhau.
Hơn nữa, nhiều nhà máy trước đây của Việt Nam do Trung Quốc giúp đỡ
nay lại tiếp tục được đầu tư, cải tạo, nâng cấp. Là tiền đề quan trọng để Trung
Quốc đầu tư vào Việt Nam. Việt Nam là thị trường gần nên chi phí vận chuyển
nguyên nhiên liệu rẻ, khoáng sản ở Việt Nam lại phong phú nên sản xuất giá
thành sẽ rẻ nên tăng sức cạnh tranh hàng hoá.
Trung Quốc phát triển kinh tế có nhiều kinh nghiệm hơn Việt Nam nên
hai nước có thể chuyển giao công nghệ cho nhau, tạo nhiều điều kiện để hai
nước hội nhập vào nền kinh tế quốc tế.
9
9
Website: Email:
Phương hướng phát triển kinh tế thương mại giữa Việt Nam - Trung
Quốc.
Trong bước chuyển giao thế kỷ, tình hình quốc tế và khu vực có những
biến chuyển mới, đòi hỏi hai nước Việt -Trung cần tăng cường hơn nữa mối
quan hệ giao lưu, hợp tác hữu nghị vì lợi ích của nhân dân mỗi nước, vì hoà bình
phát triển trong khu vực và trên thế giới .
Hơn nữa, quá trình toàn cầu hoá kinh tế sẽ dẫn tới những khó khăn, thách
thức cho những nước đang phát triển . Chúng ta đều nhận thức được rằng, toàn
cầu hoá kinh tế là một xu hướng không thể đảo ngược . Toàn cầu hoá kinh tế đối
với các nước đang phát triển sẽ có tác dụng mang tính hai mặt : vừa là cơ hội,
vừa là thách thức . Biết là sẽ có rất nhiều thách thức nhưng các nước đang phát
triển không thể đứng ngoài dòng thác thời đại đó, vì thế cần phải có những biện
pháp để phát huy thời cơ đối phó với thử thách, trong đó hợp tác khu vực có một
vai trò cực kỳ quan trọng . Các học giả Đông Nam á, Nga, Mỹ khi được hỏi họ
đều có chung một nhận định rằng Việt Nam _ Trung Quốc quan hệ tốt với nhau
và cùng thịnh vượng sẽ có lợi thế cho việc duy trì an ninh và ổn định khu vực .
Điều đó cho thấy xây dựng mối quan hệ Việt - Trung mà nền tảng là mối quan

hệ kinh tế không chỉ đáp ứng nguyện vọng và lợi ích cơ bản lâu dài của nhân
dân hai nước mà còn là mong muốn của nhân dân các nước trong khu vực và
trên thế giới .
Phát triển kinh tế, mở rộng giao lưu kinh tế với Trung Quốc góp phần đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo ra một số chuyển biến về đời sống xã hội,
giảm bớt tỷ lệ đói nghèo, tăng tỷ lệ hộ trung bình và hộ giàu có nhất là khu vực
thị xã, thị trấn, cửa khẩu, thu nhập bình quân đầu người đều tăng, tạo điều kiện
giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao dân trí, cơ sở hạ tầng được đầu
tư, nâng cấp nhất là khu vực cửa khẩu, đời sống văn hoá tinh thần được cải
thiện, bộ mặt nhiều vùng nông thôn được đổi mới . Chính vì vậy, hoạt động mậu
10
10
Website: Email:
dịch Việt -Trung từ đòi hỏi tất yếu của việc trao đổi sản vật trên cơ sở gần gũi về
địa lý, văn hoá, tập quán dân tộc đã dần trở thành một hình thức quan hệ kinh tế
được củng cố và phát triển theo bề dầy lịch sử đã hơn 1000 năm.
Quan hệ lâu đời với Việt Nam hiện được bình thường hoá đã khôi phục
nhanh chóng một thị trường truyền thống quan trọng của Trung Quốc . Khu vực
biên giới vốn có quan hệ thân thích, là một thế mạnh tuyệt đối để phát triển
mang lại hiệu quả cao, như chú ý chiếm lĩnh thị trường . Với lợi thế này khu vực
biên giới có thể phát huy vai trò trung chuyển cho các tỉnh sâu trong nội địa .
Hơn nữa, mối liên kết giữa sản xuất và mậu dịch luôn bổ sung cho nhau . Trình
độ sản xuất, công nghệ Việt Nam thấp hơn Trung Quốc nên dễ tiếp nhận hàng
công nghiệp khu vực này . Đồng thời Việt Nam có nguồn nguyên liệu phong phú
có thể bổ sung cho nhu cầu các khu công nghiệp phía Nam Trung Quốc . Thông
Qua hoạt động thương mại tại các cửa khẩu để tăng kim ngạch xuất khẩu của
các địa phương và cả nước, góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất, thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội vùng cửa khẩu cũng như kinh tế cả nước . Phương hướng
phát triển thị trường Trung Quốc được thể hiện bằng 16 chữ vàng: “ Láng giềng
hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai.”

chương II : thực trạng về quan hệ thương mại
việt nam - trung quốc
I/ thực trạng về vấn đề xuất nhập khẩu giữa việt nam - trung quốc
Kể từ khi bình thường hoá hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và
Trung Quốc đã phát triển theo chiều hướng hoàn thiện hơn, tích cực hơn và đã
đạt được những thành tự đáng kể . Trước hết, điều dễ dàng nhận thấy là hoạt
động ngoại thương giữa hai nước được thực hiện thông qua nhiều phương thức
khác nhau như buôn bán chính ngạch, buôn bán tiểu ngạch, tạm nhập tái xuất,
11
11
Website: Email:
trong đó buôn bán chính ngạch và buôn bán tiểu ngạch là hai phương thức chính
. Đa dạng hoá về phương thức trao đổi đã làm cho hoạt động ngoại thương giữa
Việt Nam và Trung Quốc có nhiều nết đặc trưng và cũng là lợi thế của cả hai
bên.
1/ Về xuất nhập khẩu chính ngạch
Thương mại chính ngạch hai chiều tăng từ 32,23 triệu USD là năm 1991
lên 691,6 triệu USD năm 1995 và 2957 triệu năm 2000 . Như vậy là 5 năm đầu
sau khi bình thường hoá quan hệ thương mại chính ngạch tăng lên hơn 20 lần, 5
năm tiếp theo lại tăng gần 6 lần . Trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang Trung
Quốc đạt 1.534 triệu USD (xem bảng 1) . Riêng 5 tháng đầu năm 2002, kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam chính ngạch sang Trung Quốc đạt 1089triệu USD
với mức tăng trưởng 57% so với cùng kỳ năm ngoái . Thương mại chính ngạch
hai chiều có thể tăng thêm 300 triệu USD so với năm 2001, đạt trên 3 tỷ USD /
năm 2002. Cần nói thêm rằng, thương mại Việt Trung trong thống kê chính thức
chưa phản ánh đầy đủ tình hình buôn bán sôi động giữa hai nước vì rất khó đưa
vào thống kê . Nếu tính đầy đủ các con số này thì tình hình buôn bán hai chiều
còn cao hơn, đồng thời con số nhập siêu của Việt Nam cũng lớn hơn so với số
liệu thống kê ở các cửa khẩu.


Bảng 1 : Kim ngạch XNK hàng hoá Việt Nam - Trung Quốc
Thời kỳ 1991 - 2001
Đơn vị: Triệu USD
Năm Tổng kim ngạch Việt Nam xuất Việt Nam nhập
1991 37,7 19,3 18,4
1992 127,4 95,6 31,8
1993 221,3 135,8 85,5
1994 439,9 295,7 144,2
1995 691,6 361,9 329,7
1996 669,2 340,2 329,0
12
12
Website: Email:
1997 878,5 471,1 404,4
1998 989,4 478,9 510,5
1999 1542,3 858,9 683,4
2001 2957,0 1.534,0 1.423,0
5T 2002 1089 52 547
Nguồn : Hải quan Việt Nam ( Trung tâm tin học và thống kê)
Từ số liệu trên cho thấy : Năm 1998, mặc dù có cuộc khủng hoảng tài
chính Châu á, tuy không trực tiếp gây ra những thiệt hại lớn về tài chính, kinh tế
đối với Việt Nam song đã ảnh hưởng tới quan hệ thương mại giữa Việt Nam với
các nước, nhất là các nước Châu á, vậy mà quan hệ thương mại giữa Việt Nam
và Trung Quốc vẫn tăng từ 878,5 triệu USD năm 1997 lên 989,4 triệu USD
năm 1998 . Thời kỳ 1991 -2000 Việt Nam đều xuất siêu sang Trung Quốc tuy số
lượng không lớn nhưng năm 2000 cho thấy kim ngạch buôn bán hai chiều đạt
2,9 tỷ USD trong khi đó kế hoạch thoả thuận và ước tính của hai Chính Phủ là 2
tỷ USD tăng 78 lần so với năm 1991, trong đó Việt Nam xuất khẩu trên 1 tỷ
USD năm 2000 .
Bảng2: Kim ngạch XNK sang Trung Quốc chủ yếu 5 tháng năm 2002

XNK 5 tháng 2001 5 tháng 2002 5 tháng 2002 so với
5 tháng 2001
XK 650535 541981 83%
NK 547511 664324 127%
Nguồn : Báo cáo thực hiện kế hoạch phát triển thương mại - Bộ thương mại
tháng 7 năm 2002
Theo ông Đào Ngọc Vinh, Vụ phó vụ Châu á - Thái Bình Dương, trong
năm 2002 này, kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Việt Nam - Trung Quốc có
13
13
Website: Email:
thể đạt khoảng 3,5 tỷ USD . Chính phủ quyết tâm đưa kim ngạch hai chiều lên 5
tỷ USD vào năm 2005, bằng gần 1/6 tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Việt
Nam hiện nay nhưng thực tế thị trường cho thấy có thể đạt con số này vào năm
2003.
Cùng với sự phát triển các mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, cơ
cấu xuất nhập khẩu cũng phát triển theo hướng ngày càng đa dạng hoá về mặt
hàng và chủng loại, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cả hai bên. Hàng hoá
cuả Việt Nam xuất sang Trung Quốc gồm 4 nhóm chính :
- Nhóm hàng nguyên liệu : than đá, dầu thô, quặng kim loại, các loại dầu,
cao su tự nhiên
- Nhóm hàng nông sản : Lương thực, chè, rau, gạo, sắn lát, hạt điều, các
loại hoa quả nhiệt đới như chuối, xoài, thanh long, chôm chôm
- Nhóm hàng thuỷ sản tươi sống, thuỷ sản đông lạnh : Như tôm, cá, mực,
ba ba
- Nhóm hàng tiêu dùng : Hàng thủ công mỹ nghệ, giầy dép, đồ da dụng
cao cấp
Tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng thuộc 4 nhóm trên cũng tăng dần qua
các năm nhất là ba năm gần đây. Đặc biệt năm 2000 Việt Nam đã xuất sang
Trung Quốc một mặt hàng mới trước đây chưa có đó là linh kiện vi tính .

Bảng 3: Kim ngạch một số mặt hàng VN xuất khẩu sang TQ năm 2001
stt tên hàng tên đơn vị lượng trị giá usd
1 cà phê tấn 6.628 2.606.057
2 cao su tấn 96.159 51.218.570.
3 chè tấn 500 837.626
4 dầu ăn tấn 20.502 6.539.877
5 dầu thô tấn 3.060.515 519.437.443
6 dây điện và dây cáp điện USD 129.843
7 đồ chơi trẻ em USD 37.014
8 đường tinh tấn 84.200 25.028.004
9 gạo tấn 2.240 542.931
14
14
Website: Email:
10 giày dép các loại USD 5.066.700
11 hải sản USD 240.013.277
12 hàng dệt may USD 15.255.840
13 rau quả USD 142.801.348
14 thủ công mỹ nghệ USD 3.481.228
15 hạt điều tấn 9.550 30.647.383
16 hạt tiêu tấn 5.159. 8.540.563
17 lạc nhân tấn 500 318.676
18 máy tính và linh kiện USD 7.934.789
19 sản phẩm gỗ USD 8.372.517
20 sản phẩm nhựa USD 5.319.783
21 than đá tấn 1.029.093 18.694.956
22 thiếc tấn 460 2.391.736
23 xe đạp và phụ tùng xe đạp USD 78.135.
tổng cộng 1.418.092.326
nguồn : cục thống kê hải quan - CNTT-2001

Trong số các mặt hàng nêu trên, nhiều mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu sang
thị trường Trung Quốc đã khẳng định được thị phần và cạnh tranh tốt như dầu
thô, hàng hải sản, hoa quả, cao su, hạt điều Trong 7 tháng đầu năm 2001, Việt
Nam đã xuất khẩu sang Trung Quốc 153 triệu USD hàng hải sản, 126 triệu USD
hàng rau quả, 11 triệu USD hàng dệt may và 3,2 triệu USD hàng giày dép . Đặc
biệt đối với cao su Trung Quốc hiện đang nhập khẩu 60% sản lượng cao su xuất
khẩu của Việt Nam gần 80.000 tấn . Từ tháng 8 trở về trước của năm 2001, Việt
Nam xuất khẩu được 2,92 triệu tấn gạo trị giá 477,18 triệu USD tăng 21,67%về
lượng và tăng 2,04% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái (Báo ngoại thương số
29 - 11/ 10 - 2001 ) . Trong đó thị trưòng Trung Quốc nhập khẩu 351 tấn trị giá
112.007 USD ( vào tháng 8, 2001 ) Cả 8 tháng / 2001 : 1.851 tấn trị giá 439.741
USD .
Theo báo cáo mới nhất của Bộ thương mại, 3 tháng đầu năm 2002 . Trung
Quốc nhập khẩu gần 2,6 triệu tấn, tăng gấp 10 lần so với năm 2001 . Và Trung
Quốc sẽ có thể vẫn tăng nhập khẩu gạo của Việt Nam nhất là các tỉnh phía Nam .
15
15
Website: Email:
Bên cạnh gạo, cao su cũng là mặt hàng được xuất khẩu sang Trung Quốc tăng
khối lượng lớn, nhất là xuất khẩu theo đường biên mậu do nhu cầu tiêu dùng
Trung Quốc tiếp tục tăng. Từ đầu tháng 3 đến nay giá xuất khẩu ổn định ở mức
4.430 NDT / tấn . Cũng theo báo cáo này thì hàng xuất khẩu của Việt Nam sang
Trung Quốc chủ yếu tập trung vào thuỷ sản loại ướp đông, cao su, khoáng sản .
Xuất nhập khẩu biên mậu tăng trưởng nhanh, nhất là ở các cửa khẩu khu vực
Lào Cai, Hà Giang .
Hàng hoá của Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc gồm 5 nhóm mặt hàng
chính là :
- Dây chuyền sản xuất đồng bộ : Dây chuyền sản xuất đường, dây chuyền
sản xuất xi măng lò đứng
- Máy móc, thiết bị : Thiết bị y tế, thiết bị vận tải, máy nông nghiệp

-Nguyên nhiên liệu : Xăng dầu, phân bón, xi măng, sắt thép, vật liệu xây
dựng
- Mặt hàng nông sản : Lương thực, bột mì, Đường, hoa quả ôn đới (lêtáo )
- Hàng tiêu dùng : Sản phẩm điện tử, xe máy, quần áo, đồ chơi trẻ em
Bảng 4: Một số mặt hàngViệt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc năm 2001
stt tên hàng tên đơn vị lượng trị giá USD
1 chất dẻo nguyên liệu tấn 6.625 5.047.225
2 linh kiện điện tử,vi tính USD 21.960.570
3 Máy móc, thiết bị phụ tùng USD 249.362.420
4 NPL dệt may da USD 74.122.246
5 ô tô nguyên chiếc các loại chiếc 337 4.297.67
6 sắt thép các loại tấn 276.076 54.742.280
7 tân dược USD 5.588.850
8 xăng dầu các loại tấn 1.034.914 231.660.560
9 xe máy dạng CKD bộ 1.955.134 433.227.256
10 phân bón các loại tấn 427.433 62.316.320
tổng cộng 1.629.129.924
nguồn : cục thống kê hải quan- CNTT-2001
16
16
Website: Email:
Từ cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hoá nêu trên có thể thấy rõ hoạt động
ngoại thương đã khai thác được thế mạnh của cả hai bên . Hàng hoá xuất nhập
khẩu như trên có tác dụng bổ sung cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân hai nước
và cũng phù hợp với đặc thù về trình độ phát triển kinh tế của hai nước .
2.Về xuất nhập khẩu tiểu ngạch
Buôn bán biên giới là một bộ phận đáng kể trong tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc . Trong 10 năm qua, ở những năm đầu
tỷ lệ dao động giữa buôn bán chính ngạch và buôn bán tiểu ngạch thường ở mức
50-60% . Vào thời gian này, xuất nhập khẩu tiểu ngạch không chỉ chiếm tỷ trọng

lớn mà còn góp phần đáp ứng nhu cầu trao đổi của cư dân hai nước cải thiện
nâng cao đời sống của dân khu vực biên giới, thậm chí một bộ phận dân cư ở
các tỉnh biên giới hai nước đã có thêm việc làm, tăng thêm thu nhập, thoát khỏi
cảnh đói nghèo của thời kỳ trước khi bình thường hoá . Điều này đã góp phần
đáng kể vào việc ổn định và duy trì mối quan hệ giữa hai bên. Buôn bán qua
biên giới cũng diễn ra dưới nhiều hình thức như ký kết hợp đồng giữa các doanh
nghiệp, đổi hàng trực tiếp giữa các doanh nghiệp và cư dân, buôn bán trung gian
và thu hút nhiều đối tượng tham gia, từ các công ty nhà nước, công ty cổ đến
các công ty tư nhân, cư dân vùng biên giới và cư dân ở các tỉnh khác. Việc thanh
toán trong buôn bán biên mậu chủ yếu là bằng tiền mặt và bằng đồng nhân dân
tệ, nên rất nhiều doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn hoặc bị lừa đảo mất hàng và
mất tiền với số lượng lớn .
Đối với các tỉnh biên gới phía Bắc, trong mười năm qua, tiếp tục thực
hiện chính sách mở cửa và đổi mới của Đảng và Nhà nước và đặc biệt từ khi
Chính phủ cho phép thực hiện các chính sách ưu đãi phát triển các khu kinh tế
cửa khẩu, các tỉnh đã nhanh chóng tiếp cận và triển khai thực hiện, thành lập ban
chỉ đạo và giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cấp, từng ngành có liên quan để tổ
17
17
Website: Email:
chức thực hiện đồng bộ các chính sách ưu đãi về đầu tư, các chính sách về tài
chính, các chính sách về xuất nhập khẩu và lập các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng
trong khu kinh tế cửa khâủ để mở rộng các hoạt động kinh doanh thương mại,
xuất nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, kho ngoại quan, chợ cửa
khẩu, cửa hàng kinh doanh hàng miễn thuế, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, các
dịch vụ vận chuyển hàng hoá, kho tàng bảo quản, khách sạn, nhà hàng, khu vui
chơi giải trí, bưu chính viễn thông, ngân hàng bảo hiểm nên đã thu hút hơn
500 doanh nghiệp trong cả nước thường xuyên tham gia buôn bán, đầu tư vào
khu vực kinh tế cửa khẩu, thu hút hàng nghìn hộ thương nhân Trung Quốc thuê
quầy hàng bán hàng tại chợ cửa khẩu Móng Cái, Tân Thanh làm cho các hoạt

động thương mại, dịch vụ và xuất nhập khẩu phát triển mạnh .
Trao đổi hàng hoá qua biên giới đường bộ với Trung Quốc chiếm vị trí hết
sức quan trọng trong quan hệ thương mại giữa các tỉnh biên giới phía Bắc và
Các tỉnh Quảng Tây - Vân Nam Trung Quốc . Hiện nay chính phủ hai nước đang
lập dự án xây dựng hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải
Phòng mở ra khả năng tốt thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại hai nước .
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 5 năm 1996- 2000 của 6 tỉnh biên giới
phía Bắc đạt 3.594 triệu USD, trong đó : xuất khẩu đạt 2.121,2 triệu USD, nhập
khẩu đạt 1.472,8 triệu USD .
Xuất nhập khẩu tiểu ngạch 6 tỉnh cũng có vị trí quan trọng trong 10 năm
qua thực hiện được : 1.690.6 triệu USD chiếm 35-38% trong tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu .
3. Đánh giá về buôn bán tiểu ngạch:
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, quan hệ kinh tế thương mại giữa
Việt Nam -Trung Quốc về xuất nhập khẩu còn rất nhiều khó khăn và tồn tại .
18
18
Website: Email:
a, Quan hệ ngoại thương giữa hai nước chưa tương xứng với tiềm năng
của mỗi nước
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (cả chính ngạch và tiểu ngạch ) chỉ chiếm
tỷ lệ rất khiêm tốn trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của mỗi nước. Kim
ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Trung Quốc chỉ chiếm 5% tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam nói chung và chỉ bằng 0,4% tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu của Trung Quốc .
Là hai nước láng giềng, có truyền thống trao đổi buôn bán từ lâu đời
nhưng Việt Nam mới chỉ là nước xuất khẩu 29 trong tổng số 220 nước xuất khẩu
vào Trung Quốc. Còn Trung Quốc cũng chỉ là nước xuất khẩu lớn thứ 6 vào Việt
Nam .
b. Quan hệ xuất nhập khẩu giữa hai nước trong 10 năm qua phát triển dựa trên

sự chênh lệch rất rõ về trình độ .
Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Trung Quốc có năng lực cạnh tranh do ưu
thế về chất lưọng và chủng loại có giá thành thấp hơn giá thành của Việt Nam vì
các doanh nghiệp Trung Quốc đủ lực và có chính sách công nghệ tích cực .
Hơn nữa, Chính phủ Trung Quốc có nhiều chính sách mạnh mẽ để đẩy
mạnh hoạt động ngoại thương đặc biệt là những chính sách phù hợp với thực tế
của từng nước đối tác . VD : Đối với Việt Nam Trung Quốc có chính sách đặc
biệt khuyến khích các hoạt động xuất nhập khẩu tiểu ngạch qua biên giới (như
chính sách tiểu ngạch hoá ) “ phi thương mại hoá “ giảm 50% thuế đối với hàng
nhập khẩu, chính sách thoái thuế đối với hàng xuất khẩu
Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam có giá trị thấp và thường bị tác động
của giá thị trường thế giới theo xu hướng giảm, trong khi đó, hàng nhập khẩu
19
19
Website: Email:
của Việt Nam từ Trung Quốc lại thường là những mặt hàng có giá trị cao hơn
trên thương trường quốc tế .
Do hạn chế trong qui định về hạn ngạch nhập khẩu dẫn đến việc hạn chế
Trung Quốc nhập khẩu một số mặt hàng mà Việt Nam có ưu thế như gạo .
c.Nạn hàng giả, hàng kém chất lượng và buôn lậu qua biên giới đang rất phổ
biến .
Trốn lậu thuế là hiện tượng phổ biến trong xuất nhập khẩu tiểu ngạch, dẫn
đến thất thu cho nhà nước mỗi năm hàng trăm tỷ đồng (thông qua các thủ đoạn
như nhập nhiều khai ít, nhập những hàng có mức thuế cao như xe đạp 75%, phụ
tùng xe máy khai thành những loại hàng có mức thuế thấp như đồ chơi trẻ em
10%, vật liệu xây dựng 18% )
Gian lận thương mại chạy theo lợi ích cá nhân, cục bộ đã khiến cho nhiều
doanh nhiệp Việt Nam tìm cách xuất khẩu (qua biên giới) những mặt hàng bị
cấm, những mặt hàng quí hiếm gây xáo trộn thị trường, mất lòng tin, ảnh hưởng
đến uy tín và lợi ích quốc gia .

d.Quản lý xuất nhập khẩu của cả hai nước, đặc biiệt là của Việt Nam còn nhiều
yếu kém
Các văn bản pháp luật diều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt
Nam - Trung Quốc chưa đầy đủ, chưa phù hợp .
Quản lý cửa khẩu, hoạt động hải quan còn nhiều khó khăn và tiêu cực .
Gian lận thương mại diễn ra ở nhiều nơi trên dọc tuyến biên giới .
e. Khả năng đáp ứng cũng như năng lực cạnh tranh của hàng hoá và của bản
thân các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam còn hạn chế .

20
20
Website: Email:
Lượng hàng hoá Việt Nam xuất sang Trung Quốc còn nhỏ bé, thậm chí có
mặt hàng cung không đủ cầu .
Một số mặt hàng từng được độc chiếm thị trường TQ nay đang phải cạnh
tranh với một số nước như hạt điều ấn độ.
Các doanh nghiệp Việt Nam chưa có chiến lược xuất khẩu cụ thể cho các
mặt hàng vào thị trường Trung Quốc
Các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu thông tin, từ đó dẫn đến nhiều
doanh nghiệp thiếu hiểu biết cụ thể về thị hiếu người tiêu dùng, về thị trường và
về các doanh nghiệp xuất khẩu của Trung Quốc . Vai trò của các hiệp hội ngành
hàng giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc rất yếu
làm cho các doanh nghiệp chưa chủ động về nguồn hàng xuất khẩu.
II/ Thực trạng về vấn đề liên doanh - hợp tác đầu tư tại Việt Nam.
So với hoạt động XNK thì hoạt động đầu tư giữa hai nước kém sôi động
hơn. ở đây chủ yếu phân tích phần vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam .
Theo thống kê chính thức, tổng số dự án đầu tư trực tiếp của Trung Quốc (không
tính Hồng kông ) vào Việt Nam được cấp giấy phép từ năm1988-2000 là 105 dự
án với tổng số vốn đăng ký 151 triệu USD . Điều này cho thấy, qui mô của các
dự án đầu tư tương đối nhỏ, trung bình 1/5 tr0iệu USD một dự án . Nhìn chung

thời gian hoạt động trung bình của các dự án không dài, đa số từ 10-15 năm, chủ
yếu hướng vào khách sạn, nhà hàng và một số lĩnh vực công nghiệp nhẹ . Mặc
dù qui mô đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam còn hạn hẹp như vậy song tính
đến 9/1999 đã có 39 triệu USD trong tổng số 118,6 triệu USD đầu tư trực tiếp
của các doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam đã đưa vào sử dụng (trên 30%),
thu hút hơn 1.550lao động làm việc trực tiếp, đạt doanh thu 34 triệu USD, trong
đó xuất khẩu được 6 triệu USD .
21
21
Website: Email:
Dưới đây là bảng liệt kê những con số cụ thể về số dự án và kim ngạch
đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam từ tháng
11/1999-11/2001.
Thời gian Tổng số dự án đầu tư Tổng kim ngạch đầu tư theo
giấy phép
Tính đến tháng 12/1999 76 130.000.000USD
Tính đến tháng 12/2000 92 148.000.000USD
Tính đến tháng 12/2001 110 221.000.000USD
Nguồn : Báo đầu tư 11/9/2001
Căn cứ vào thực trạng nhu cầu của thị trường Việt Nam và dựa vào khả
năng tiền vốn và ưu thế kỹ thuật sẵn có . Thời gian qua, các doanh nghiệp Trung
Quốc đã đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh sau đây : Khách sạn, nhà
hàng, sản xuất lắp ráp đồ điện dân dụng, sản xuất phụ tùng và lắp ráp xe máy,
thuốc trừ sâu, gia công gương kính, da giầy, thiết bị liên quan đến ngân hàng,
một số ngành chế biến và nuôi trồng như thực phẩm, hải sản, gia súc ngoài ra
còn có đồ chơi trẻ em, thuốc đông y, đầu tư xây dựng hạ tầng, khu chế xuất
Nhìn chung, đây là những lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà Việt Nam có nhu cầu
phát triển trong thời kỳ xây dựng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cũng là những
lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà phía các doanh nghiệp Trung Quốc có ưu thế
cạnh tranh tương đối, nhất là về giá cả sản phẩm . Hơn nữa, cơ cấu đầu tư của

TQ vào VN có những điểm giống với đầu tư TQ trên thế giới và tại các nước
ASEAN : Chủ yếu đầu tư vào cơ sơ hạ tầng do Trung Quốc có kinh nghiệm tích
luỹ về lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng tại một nước đang phát triển về kinh tế,
có đội ngũ kỹ sư và công nhân xây dựng tinh thông nghiệp vụ được tôi luyện
trong những năm cải cách kinh tế . Hiện nay hơn 5000 doanh nghiệp Trung
Quốc đang hoạt động tại 120 nước và khu vực với tổng số vốn đầu tư trực tiếp là
hơn 5 tỷ USD.
22
22
Website: Email:
Về phía mình do năng lực còn hạn chế nên số lượng đầu tư của Việt Nam
vào Trung Quốc không nhiều, chỉ tập trung tại hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây.
Tại Vân Nam đầu tư của Việt Nam chỉ là 240.000USD.
Nói tóm lại, 10 năm qua đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại VN có sự
tăng trưởng với tốc độ vừa phải tính đến tháng 8/2002 tăng gấp 3,3 lần về số dự
án đầu tư và hơn 3,5lần về tổng kim ngạch đầu tư so với năm 1995. Đến nay, TQ
đứng hàng thứ 22 trên tổng số hơn 60 nước và vùng lãnh thổ nước ngoài có đầu
tư vào VN . Mặc dù vậy, tính đến nay, đầu tư trực tiếp của TQ tại VN còn ít cả
về số lượng dự án lẫn tổng kim ngạch đầu tư như đã nêu trong bảng liệt kê ở
trên, ít hơn rất nhiều so với đầu tư trực tiếp cuả TQ tại Campuchia và các nước
ĐÔng Nam á khác trong cùng thời gian . Tính đến tháng 12/1999 TQ có 129 dự
án dầu tư trực tiếp với tổng kim ngạch đầu tư là 260 triệu USD tại Campuchia,
trong cùng thời gian thì đầu tư trực tiếp của TQ vào VN chỉ có 76 dự án với tổng
kim ngạch đầu tư là 130 triệu USD.
Nhưng cũng phải nói rằng, Tuy đầu tư trực tiếp của TQ vào VN thời gian
qua chưa nhiều, song cũng đã đem lại lợi ích thiết thực cho cả hai phía đầu tư và
tiếp nhận đầu tư . Thông qua các dự án đầu tư trực tiếp mà Việt Nam có thêm
một số xí nghiệp, nhà máy với những thiết bị máy móc, kỹ thuật, công nghệ sản
xuất mới và doanh thu mới cho người lao động VN.
Hợp tác du lịch Việt Nam – Trung Quốc cũng là mặt nổi bật trong quan

hệ kinh tế hai nước Hiệp định hợp tác du lịch mà hai nước ký đã tạo tiền đề
vững chắc góp phần củng cố mối quan hệ hợp tác toàn diện, chặt chẽ hơn giữa
hai nước nói chung và hai ngành du lịch nói riêng . Sau hiệp định, số lượng
khách du lịch tăng vọt, năm 1997 tăng vọt lên 400 ngàn lượt người, 1999 tăng
480 ngàn lượt người chiếm khoảng 27% tổng lượng khách du lịch . Số người
Việt Nam đi du lịch TQ cũng ngày một tăng. Hiện nay hàng năm lên tới 20 ngàn
23
23
Website: Email:
lượt người . Đầu năm 2000 Quốc vụ viện TQ đã quyết định coi VN là thị trường
đưa khách du lịch là công dân Trung Quốc mang hộ chiếu đến du lịch . Đây là
tiền đề mới cho sự tăng cường mức độ hợp tác du lịch hai nước .
Bên cạnh hợp tác du lịch Việt _ Trung, Hợp tác khoa học công nghệ giữa
VN-TQ cũng rất có hiệu quả, góp phần giải quyết một số vấn đề kỹ thuật trong
sản xuất, phục hồi kinh tế . Hai bên đã tiến hành trao đổi các đoàn cấp cao về
khoa học kỹ thuật, các đoàn chuyên gia nhằm thông báo cho nhau về chính sách
phát triển khoa học kỹ thuật của mỗi nước, trao đổi kinh nghiệm quản lý và các
thành tựu về khoa học kỹ thuật . Trong giai đoạn này TQ giúp VN nhiều công
trình quan trọng như khu gang thép Thái Nguyên khu công nghiệp Thượng Đình
phân đạm Bắc Hà TQ đã đào tạo hàng nghìn cán bộ khoa học kỹ thuật cho
Việt Nam tại các trường đại học, các viện nghiên cứu khoa học và các xí nghiệp
TQ . VN & TQ đã tích luỹ được những kinh nghiệm bước đầu và có công nghệ
tương đối cao, tiên tiến trong nghành xây dựng. Do vậy việc liên doanh, liên kết,
thành lập các công ty liên doanh, hợp tác trong đấu thầu xây dựng các đoạn giao
thông vận tải tại Việt Nam là hướng rất có triển vọng trong hợp tác kinh tế Việt
Nam - Trung Quốc.
III/ Nhận xét, đánh giá chung về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.

Những thành tựu trong quan hệ Việt Nam –Trung Quốc thời gian qua cho
thấy lãnh đạo hai nước rất quyết tâm đẩy mạnh các hoạt động giao lưu, nhằm

góp phần phát triển công cuộc xây dựng kinh tế của mỗi nước đồng thời góp
phần củng cố quan hệ hữu nghị toàn diện giữa hai dân tộc . Tuy nhiên bên cạnh
những thành tựu đạt được quan hệ kinh tế thương mại VN-TQ còn gặp rất nhiều
khó khăn đòi hỏi chính phủ hai nước có một loạt chính sách để mở rộng quan hệ
kinh tế thương mại hai nước. Tuy vậy đánh giá về quan hệ hai nước như sau:
24
24
Website: Email:
1/Vấn đề đầu tư - liên doanh - hợp tác giữa Trung Quốc - Việt Nam.
Hiện nay đầu tư của TQ vào VN so với các nước Đông Nam á còn thấp.
Có một số lý do khiến cho đầu tư trực tiếp của TQ tại VN ít về dự án đầu tư đặc
biệt là tổng kim ngạch đầu tư . Phía TQ cho rằng: Trung Quốc vẫn còn là nước
đang phát triển, đang tiến hành xây dựng “Bốn hiện hoá” trên qui mô lớn nên
cần thu hút nhiều đầu tư trực tiếp . Hơn nữa Lĩnh vực mà phía Việt Nam muốn
thu hút đầu tư thì ở Trung Quốc lĩnh vực sản xuất kinh doanh đó vẫn cần đầu tư .
Nhưng theo em nhận thấy, một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho
đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam trong những năm qua còn ít là
giới đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc chưa thực sự tin tưởng và coi
trọng thị trường đầu tư ở Việt Nam .
Lý do thứ hai là trong những năm qua các nhà đầu tư Trung Quốc đến Việt
Nam đầu tư trực tiếp hầu như là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiền vốn có
hạn, kỹ thuật và công nghệ sản xuất chưa thật tiên tiến và hiện đại, do đó sức
cạnh tranh yếu, sản xuất kinh doanh gặp khó khăn .
Thứ ba, Qui mô các dự án đầu tư của Trung Quốc đã thực hiện tại Việt
Nam thời gian qua là nhỏ, tính trung bình khoảng 2 triệu USD cho một dự án
đầu tư, nhỏ hơn nhiều cho các dự án đầu tư của các nước khác tại Việt Nam .
Xin nêu một ví dụ cụ thể để so sánh . Tính đến tháng 8/ 2001 Thái lan có 92 dự
án đầu tư trực tiếp tại VIệt Nam với tổng kim ngạch đầu tư theo giấy phép là
hơn 1 tỷ USD . Tính trung bình qui mô đầu tư của mỗi dự án là trên 10,8 triệu
USD gấp hơn 5,4 lần so với qui mô các dự án đầu tư của Trung Quốc . Qui mô

của các dự đầu tư trực tiếp của các nước khác như Singapore, Malaixia, Nhật
bản, Hàn Quốc, Châu âu còn lớn hơn con số trên .
Thứ tư, về hình thức đầu tư, các dự án đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại
Việt Nam 10 năm qua đều được triển khai dưới hai hình thức chủ yếu là dự án
liên doanh với phía đối tác Việt Nam chiếm đa số và dự án 100% tiền vốn của
phía các doanh nghiệp Trung Quốc .
25
25

×