Tải bản đầy đủ (.docx) (71 trang)

những giải pháp phát triển quan hệ kinh tế - thương mại vn - nhật bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.49 KB, 71 trang )

Lời nói đầu
Trong vòng hơn 10 năm trở lại đây, cùng với sự chuyển đổi sang nền kinh
tế thị trường hoạt động ngoại thương của Việt Nam với Nhật Bản đã có nhiều
đóng góp đáng kể vào sự nghiệp xây dựng và phát triển nền kinh tế của đất
nước. Nhật Bản ngày càng trở thành đối tác quan trọng của Việt Nam trong
hoạt động buôn bán cũng như các hoạt động khác như đầu tư, cung cấp tín
dụng cho Việt Nam.
Bên cạnh những kết quả khả quan đạt được, trong quan hệ giữa Việt
Nam với Nhật Bản còn một số hạn chế cần được khắc phục và loại bỏ nhằm
phát triển hơn nữa mối quan hệ giữa hai nước và đưa mối quan hệ này lên tầm
cao mới. Việc nghiên cứu những thành tựu đã đạt được và những mặt còn tồn
tại trong mối quan hệ với Nhật Bản là rất cần thiết, đòi hỏi nhiều thời gian,
công sức mới có thể đưa ra được những đánh giá chính xác để từ đó đề ra
những giải pháp hữu hiệu nhất xây dựng mối quan hệ này ngày càng tốt đẹp
hơn.
Qua một thời gian thực tập tại Viện nghiên cứu thương mại - Bộ
Thương mại, tôi được tiếp xúc với nhiều kiến thức thực tế về hoạt động
thương mại trong và ngoài nước ta và thấy rằng đề tài nghiên cứu về Nhật
Bản cũng như mối quan hệ Việt Nam - Nhật Bản hiện tại và tương lai là một
mảng đề tài lớn. Với những kiến thức về lý luận và thực tế có được, tôi muốn
đưa ra một số ý kiến đề xuất dưới góc độ cá nhân nhằm phát triển hơn nữa
mối quan hê kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản, đưa đất nước
ta ngày càng tiến sâu vào quá trình hội nhập và phát triển. Với đề tài “Những
giải pháp phát triển quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam - Nhật Bản”,
định hướng nội dung nghiên cứu gồm:
-Sự cần thiết phát triển quan hệ của Việt Nam với các nước và với Nhật
Bản
1
1
-Mối quan hệ Việt Nam - Nhật Bản trong thời gian qua
-Mục tiêu, phương hướng phát triển quan hệ kinh tế - thương mại Việt


Nam - Nhật Bản trong thời gian tới
-Một số giải pháp phát triển kinh tế thương mại Việt Nam - Nhật Bản.
Cụ thể nội dung gồm:
Chương I: Thương mại quốc tế và sự cần thiết phát triển quan hệ với Nhật
Bản.
Chương II: Phân tích thực trạng quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam -
Nhật Bản trong những năm qua.
Chương III: Những giải pháp phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt
Nam - Nhật Bản trong thời gian tới.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy giáo PGS.TS. Hoàng Minh
Đường đã trực tiếp hướng dẫn tôi, các thầy cô giáo cùng các bác, các anh chị
trong Ban nghiên cứu chiến lược phát triển thương mại - Viện nghiên cứu
thương mại đã giúp tôi hoàn thành tốt Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
2
2
Chương I.
Thương mại quốc tế và sự cần thiết
phát triển quan hệ kinh tế quốc tế
I. Tính tất yếu của thương mại quốc tế

1.Sự cần thiết của thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hóa giữa các nước thông qua
buôn bán nhằm mục đích kinh tế tối đa. Thương mại quốc tế là lĩnh vực quan
trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào phân công lao động quốc
tế, phát triển kinh tế, làm giàu cho đất nước. Thương mại quốc tế có tính chất
sống còn vì lí do cơ bản là ngoại thương mở rộng khả năng sản xuất và tiêu
dùng của mỗi quốc gia. Thương mại quốc tế cho phép một nước tiêu dùng tất
cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới
của khả năng sản xuất trong nước khi thực hiện chế độ tự cung tự cấp, không
buôn bán ra thị trường nước ngoài.

Thương mại quốc tế ngày càng trở nên quan trọng đối với tất cả các quốc
gia trên thế giới. Mục đích của kinh doanh nói chung là nhằm đạt lợi nhuận
tối đa. Vì vậy các quốc gia, các doanh nghiệp cần mở rộng kinh doanh để thu
nhiều lợi nhuận. Khi nhu cầu của con người về các sản phẩm, dịch vụ ngày
càng cao, phong phú về thể loại thì dẫn đến cầu về hàng hoá ngày càng tăng.
Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp,các quốc gia mở rộng khả năng sản xuất,
kinh doanh của mình. Tuy nhiên không một quốc gia nào có thể đáp ứng được
tất cả nhu cầu của thị trường trong nước bởi quy luật khan hiếm các nguồn lực
và sự phân bổ các nguồn lực không đồng đều mà các quốc gia gặp phải. Nhật
Bản, quốc gia này không được ưu đãi về nguồn tài nguyên thiên nhiên nên
thương mại quốc tế đã giúp họ có được nguồn tài nguuyên mà họ cần.
Thương mại quốc tế đã giúp họ có được nguồn tài nguyên mà họ cần. Thương
mại quốc tế giúp con người tiêu dùng các sản phẩm có chất lượng cao, mẫu
mã đẹp, chủng loại phong phú, giá cả phải chăng. Mỹ là nước có nền công
3
3
nghiệp phát triển, mặt hàng ôtô xuất khẩu hàng năm chiếm tỉ trọng lớn trong
tổng kim ngạch xuất khẩu nhưng hàng năm Mỹ vẫn nhập khẩu một lượng lớn
ôtô của Nhật, bởi vì mặt hàng này có khả năng đáp ứng cao nhu cầu sử dụng
của người dân như giá rẻ, tính năng ưu việt Bên cạnh đó, thương mại quốc
tế còn giúp cho các nước kém phát triển, với công nghiệp còn lạc hậu được
tiêu dùng các sản phẩm có hàm lượng kĩ thuật cao, hiện đại mà nước đó chưa
sản xuất được.
Thương mại quốc tế làm thay đổi cơ cấu sản phẩm, cơ cấu ngành nghề, cơ
cấu vật chất của sản phẩm. Trước đây khi nền kinh tế của các quốc gia chưa
phát triển, nền sản xuất còn khép kín theo chế độ tự cấp tự túc thì hầu hết các
nước đều sản xuất những mặt hàng phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của con
người như lương thực, thực phẩm Khi xuất hiện trao đổi, các quốc gia có lợi
thế hơn trong sản xuất thì sản xuất nhiều hơn mức tiêu dùng trong nước để
đổi lấy các sản phẩm khác như may mặc, hàng công nghiệp Những năm gần

đây, khi khoa học kĩ thuật đặc biệt là công nghệ trở thành yếu tố đi đầu của
lực lượng sản xuất thì người ta quan tâm nhiều hơn đến việc chế tạo những
sản phẩm có hàm lượng kĩ thuật cao, giảm càng nhiều càng tốt yếu tố vật chất
của sản phẩm. Trong môi trường cạnh tranh toàn cầu gay gắt như hiện nay,
các sản phẩm như vậy mới có khả năng thu hút khách hàng và bán được hàng
ngày càng nhiều hơn.
Thực tế đã chứng minh rằng, không một quốc gia nào xây dựng được nền
kinh tế hoàn chỉnh mang tính tự cấp tự túc. Bởi vì, muốn làm được điều này
đòi hỏi phải mất nhiều thời gian, tốn kém về vật chất mà trong bối cảnh nền
kinh tế thế giới hiện nay, chi phí cơ hội để làm được điều đó còn lớn hơn
nhiều so với việc mở cửa nền kinh tế, liên kết, hợp tác với tất cả các nước để
cùng nhau phát triển kinh tế. Đối với các quốc gia còn kém phát triển về kinh
tế, nghèo nàn, lạc hậu về công nghệ thì thương mại quốc tế đem đến cho họ
cơ hội hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, tránh nguy cơ tụt hậu. Hầu hết các
quốc gia này đều thiếu vốn, kĩ thuật, thị trường và khả năng quản lí, vì vậy
4
4
cần phải có các chính sách tạo điều kiện thuận lợi trong các lĩnh vực như thu
hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ, sử dụng có hiệu quả các khoản vốn
vay

2. Nguồn gốc của thương mại quốc tế
Có thể nói nhu cầu trao đổi xuất hiện từ thời cổ đại, nhưng chỉ từ khi ra
đời nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa mới dẫn đến sự phá vỡ tính chất
đóng kín của từng đơn vị kinh tế trong từng quốc gia và của từng nước.
Tiền đề xuất hiện sư trao đổi chính là phân công lao động xã hội. Sự tiến
bộ khoa học kĩ thuật, phạm vi chuyên môn hoá ngày càng tăng, số lượng sản
phẩm, dịch vụ để thoả mãn nhu cầu con người ngày càng dồi dào thì sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng lên.
Theo quan điểm của chủ nghĩa trọng thương thì mỗi nước muốn đạt được

sự thịnh vượng phải gia tăng khối lượng tiền tệ, muốn có của cải, các nước
phải phát triển buôn bán với nước ngoài.
Thương mại quốc tế còn bắt nguồn từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên của
các nước. Sự khác nhau về điều kiện sản xuất sẽ dẫn đến sự trao đổi giữa các
nước với nhau về những mặt hàng như dầu lửa, lương thực
Theo lí thuyết lợi thế so sánh của nhà kinh tế học người Anh, David
RicaRdo, cho rằng nếu mỗi nước chuyên môn hoá vào các sản phẩm mà nước
đó có hiệu quả sản xuất so sánh thì thương mại sẽ có lợi cho cả hai bên.
Nguồn gốc của thương mại quốc tế còn do sự chênh lệch giữa các nước về
chi phí cơ hội của hàng hoá tạo ra.
Sự khác nhau về sở thích và mức cầu cũng là một nguyên nhân để dẫn đến
buôn bán. Ngày nay, do những tiến bộ của khoa học kĩ thuật làm cho lượng
sản phẩm sản xuất ra ngày càng nhiều, qui mô sản xuất tăng, cơ cấu đa dạng,
cung gặp cầu dẫn đến có sự trao đổi.
Như vậy, có nhiều lí do làm xuất hiện sự buôn bán giữa các quốc gia.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới hiện nay, xu hướng toàn cầu hoá đang đưa
5
5
các nước ngày càng quan hệ chặt chẽ với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội
3. Khu vực hoá, toàn cầu hoá- mối quan hệ kinh tế quốc tế trong giai
đoạn hiện nay
Trong số các xu hướng mang tính toàn cầu nổi lên trong mấy thập niên gần
đây, xu hướng toàn cầu hoá đang trở thành một đặc trưng phổ biến của sự
phát triển thế giới, nó bao trùm hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống xã hội .
Toàn cầu hoá kinh tế là hệ quả của những biến đổi trong lĩnh vực công nghệ
truyền thông và thông tin và chính ba nhân tố kĩ thuật, thông tin và tiền vốn
lưu chuyển xuyên quốc gia đã trở thành các động lực thúc đẩy quá trình toàn
cầu hoá. Với nền kinh tế toàn cầu hoá, việc tổ chức sản xuất và khai thác thị
trường trong phạm vi một nước đã nhanh chóng chuyển sang tổ chức sản xuất

và khai thác thị trường trên phạm vi thế giới và do vậy, sự phát triển kinh tế
của bất kì nước nào đều vượt ra khỏi biên giới quốc gia.
Toàn cầu hoá là xu hướng tất yếu đã được dự đoán từ lâu. Về logic, xu
hướng này bắt nguồn từ bản chất của hệ thống kinh tế thị trường là hệ thống
“mở” không bị giới hạn bởi các đường biên giới quốc gia. Đây là kết quả của
quá trình phân công lao động quốc tế được đẩy nhanh trong mấy thập niên
gần đây. Phân công lao động quốc tế đã đạt tới trình độ không chỉ chuyên
môn hoá sản phẩm hoàn chỉnh mà là chuyên môn hoá chi tiết sản phẩm cho
từng quốc gia. Trên cơ sở đó xuất hiện hình thái quan hệ hợp tác, ràng buộc
và phụ thuộc lẫn nhau trong phân công lao động giữa các nước. Hiện nay sản
xuất của một nước phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động của một nước khác, bất
kể nước đó là phát triển hay kém phát triển và không còn tình trạng chỉ có
nước nhỏ, nước kém phát triển phụ thuộc một chiều, phụ thuộc tuyệt đối vào
các nước lớn, nước phát triển mà đã xuất hiện và gia tăng xu hướng ngược lại:
nước lớn, nước phát triển cũng phụ thuộc vào nước nhỏ, lạc hậu.
6
6
Về thị trường hàng hoá, từ năm 1950 đến nay, trong khi GDP của toàn
thế giới chỉ tăng 5 lần thì khối lượng thương mại quốc tế tăng 16 lần. Sự khác
biệt về tốc độ này bộc lộ xu thế gia tăng nhanh chóng hơn các mối liên kết
kinh tế giữa các nước so với mức tăng tiềm lực sản xuất. Các quốc gia mở
rộng nhanh chóng quan hệ kinh tế quốc tế, xích lại gần nhau hơn về kinh tế,
và do đó phụ thuộc vào nhau nhiều hơn làm cho quan hệ kinh tế quốc tế trở
nên tự do hơn, bình đẳng hơn.
Một bộ phận quan trọng khác của hệ thống thị trường thế giới là thị
trường tài chính cũngphát triển nhanh chóng. Thậm chí, trình độ toàn cầu hoá
của thị trường tài chính đạt mức cao hơn nhiều so với thị trường sản phẩm.
Hàng ngày, lượng tiền tệ lưu chuyển trên thị trường tài chính thế giới cao gấp
30 lần khối lượng hàng hoá lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Trong khi mậu
dịch quốc tế của giai đoạn 1990- 1997 chỉ tăng 5%/năm thì dòng vốn tư nhân

lưu chuyển tăng 30%/năm. Điều này chỉ ra rằng toàn cầu hoá hệ thống tài
chính đang là mũi nhọn của xu hướng toàn cầu hoá nói chung, đồng thời cho
thấy các nước trên thế giới phụ thuộc rất chặt chẽ với nhau về tài chính.
Sự phát triển nhanh chóng của mạng lưới thông tin toàn cầu tạo ra một số
chuyển biến quan trọng, kết nối tất cả các quốc gia, các vùng địa lí trên trái
đất vào một hệ thống, đồng thời làm đẩy nhanh tốc độ vận động của các qúa
trình kinh tế- xã hội- chính trị- quân sự- văn hoá toàn cầu. Như vậy mạng lưới
thông tin là một khâu của xu hướng toàn cầu hoá, đồng thời đóng vai trò là
công cụ, là phương thức đẩy nhanh xu hướng đó.
Những năm 1996- 1997 là điểm khởi đầu của những nỗ lực toàn cầu
nhằm thử nghiệm và khởi động một số quan hệ hợp tác phù hợp với xu thế
thời đại. Xu hướng tự do hoá thương mại và đầu tư được thúc đẩy bởi sự gia
tăng mạnh mẽ các hoạt động của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực hiện
có cũng như đang hình thành. Các khối, tổ chức kinh tế ngày càng đóng vai
trò quan trọng trong các cuộc thương lượng, sắp xếp và giải quyết các vấn đề
khu vực và quốc tế trong việc thúc đẩy tự do hoá và giao lưu kinh tế toàn cầu.
7
7
Bất kì nước nào muốn phát triển được trong tương lai đều phải tìm cách trở
thành thành viên của ít nhất một tổ chức kiểu như vậy. Quá trình toàn cầu hoá
đã dẫn tới việc hình thành các khối kinh tế- mậu dịch khu vực. Đây là xu
hướng vừa thuận chiều vừa ngược chiều với quá trình toàn cầu hoá. Là thuận
chiều theo nghĩa khu vực hoá là một bước, một khâu đệm trong lộ trình gia
nhập vào hệ thống toàn cầu của mỗi nước. Là ngược chiều ở chỗ trong khuôn
khổ xu hướng toàn cầu, với các qui tắc mở cửa, tự do hoá và quan hệ bình
đẳng giữa các nước thì khu vực hoá lại có nghĩa là phân chia thế giới theo
mảng, khối tạo ra sự phân biệt đối xử mang tính khu vực trong cuộc cạnh
tranh không ngang bằng về thể chế giữa nhóm nước trong khu vực với các
nước và nhóm nước ngoài khu vực. Nhưng dẫu sao khu vực hoá cũng đang là
một xu thế tất yếu, thậm chí là xu thế nổi bật trong giai đoạn hiện nay.

Đối với nước ta, với bước chuyển mình sang nền kinh tế thị trường, xu
hướng này tác động mạnh, có ảnh hưởng sâu sắc, toàn diện đến tất cả các khía
cạnh của đời sống kinh tế -chính trị- xã hội. Hiện nay, càng tiến sâu vào quá
trình hội nhập quốc tế, chúng ta càng cảm nhận rõ hơn những mặt tích cực
cũng như tiêu cực của quá trình này. Nhưng nổi bật lên trên hết là những
thách thức to lớn và gay gắt mà xu hướng này đặt ra. Những ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, những vấn đề về cạnh tranh phải đối mặt
khi gia nhập AFTA hay các thách thức Việt Nam gặp phải khi tham gia các tổ
chức quốc tế khác: APEC, WTO đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu một cách
toàn diện, triệt để những cơ hội và thách thức mà vấn đề toàn cầu hoá đặt ra
để thiết kế đường lối và hoạch định chiến lược phát triển của đất nước trong
thời gian tới.
II. Quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản, sự cần thiết phát triển quan hệ
kinh tế,thương mại Việt Nam-Nhật Bản
1.Một số đặc điểm về đất nước Nhật Bản.
1.1Đất nước Nhật Bản
8
8
Quần đảo Nhật Bản nằm ở phía Tây Bắc lòng chảo Thái Bình Dương, bao
gồm hơn 3300 đảo với tổng diện tích là 378000 km
2
. Nhật Bản là một nước
nghèo tài nguyên nhưng lại giàu phong cảnh.
Về vị trí địa lí, Nhật Bản nằm ngay trên “vành đai lửa” Thái Bình Dương
nên điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như núi lửa, động đất, sóng thần là những
hiểm hoạ mà người dân Nhật luôn phải gánh chịu. Biển cả đóng một vai trò
quan trọng trong đời sống cũng như cho nền kinh tế Nhật. Nhật Bản có những
bãi cá tự nhiên giàu trữ lượng nhất trên thế giới nên ngành công nghiệp đánh
hải sản cũng rất phát triển. Bên cạnh đó, biển còn đóng vai trò quan trọng
trong hoạt động giao thông vận tải, giao lưu thương mại trong nước cũng như

quốc tế.
Nhật Bản có rất ít tài nguyên, khoáng sản. Mặc dù Nhật Bản có một số mỏ
than nhưng chất lượng không tốt và chỉ đáp ứng được 15% nhu cầu trong
nước. Hầu hết các nguyên nhiên liệu chiến lược cần cho công nghiệp hiện đại
và cuộc sống hàng ngày đều phải nhập từ các nước.
1.2 Con người Nhật Bản
Theo số liệu năm 1999 Nhật Bản có 126,7 triệu dân, đứng thứ 7 trên thế
giới. Nhưng với diện tích tương đối nhỏ, mật độ dân số của Nhật Bản là 335
người/ 1km
2
. Dân cư Nhật Bản có độ thuần nhất rất cao và phân bố không
đều. Điều kiện tự nhiên buộc họ phải tập trung ở những vùng đất chật hẹp như
các vùng đồng bằng ven biển, các lưu vực sông.
1.3. Về văn hoá, tôn giáo và phong tục tập quán của người dân Nhật Bản
Đặc điểm nổi bật của văn hoá Nhật Bản là sự tồn tại song song của các yếu
tố truyền thống và hiện đại. Trước đây, tư tưởng của người Nhật Bản chịu
nhiều ảnh hưởng của Khổng giáo nhưng sau phục hưng Minh Trị, các tư
tưởng phương Tây đã được du nhập và hiện nay để lại dấu ấn sâu sắc trong
kiến trúc nhà ở, thói quen ăn uống kiểu châu Âu. Một nét khác về văn hoá
9
9
Nhật Bản được thể hiện trong cách nghĩ và làm việc tập thể. Họ thường gạt bỏ
cái tôi, đề cao cái chung, tìm sự hoà hợp giữa cá nhân và cộng đồng. Về mặt
tôn giáo, ở Nhật Bản có nhiều tôn giáo khác nhau. Có thể thấy Nhật Bản và
Việt Nam có nhiều nét tương đồng, cùng chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung
Quốc, thể hiện ở tư tưởng Khổng giáo và Phật giáo. Đây là một trong những
điều kiện thuận lợi trong quan hệ giữa hai nước không chỉ về mặt văn hoá mà
còn về mặt kinh tế, chính trị.
1.4 Khái quát tình hình phát triển kinh tế Nhật Bản
Bắt đầu từ năm 710, Nhật Bản bước vào giai đoạn phong kiến chủ nghĩa.

Trong thời kì này, kinh tế Nhật Bản chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp trồng
lúa, về cơ bản người ta dễ dàng cho rằng đó là nền kinh tế tự cấp tự túc, hoạt
động trao đổi chủ yếu là hàng đổi hàng, ít dùng tiền tệ. Trên thực tế, do có
nền chính trị ổn định nên vào giai đoạn cuối của thời kì phong kiến chủ nghĩa,
Nhật Bản đã có một nền kinh tế hàng hoá phát triển tương đối rộng khắp, làm
lung lay những nền tảng của chế độ phong kiến. Khi Nhật Bản chuyển sang
giai đoạn cải cách Minh Trị, chính quyền Minh Trị đã thực hiện nhiều cuộc
cải cách sâu rộng trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế - xã hội nhằm hai
mục tiêu chiến lược: hiện đại hoá quân sự và phát triển kinh tế. Thời gian này,
Nhật Bản có chủ trương học tập kinh nghiệm, tiếp thu các thành tựu của
phương Tây và nhờ vậy đã đạt được cả hai mục tiêu chiến lược của mình.
Kinh tế thời kì này phát triển nhanh chóng, thu nhập quốc dân tăng 3 lần từ
năm 1890 đến 1912. Đến cuối thời Minh Trị, những khó khăn ban đầu của
quá trình công nghiệp hoá đã được khắc phục. Tuy đã đạt được nhiều thành
tựu đáng kể trong giai đoạn 1868- 1911 nhưng nền kinh tế Nhật Bản chỉ thực
sự cất cánh kể từ giai đoạn 1912- 1936. Đây là giai đoạn nền kinh tế Nhật Bản
chuyển mạnh từ nền kinh tế nông - công nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp
tư bản, nông nghiệp chỉ giữ vai trò hỗ trợ cho quá trình công nghiệp hoá. Sau
chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế Nhật Bản hoàn toàn kiệt quệ do thiếu
10
10
nguyên - nhiên liệu cơ bản phục vụ cho công nghiệp. Mặt khác Nhật Bản là
nước thua trận nên phải bồi thường chiến tranh cho các nước đồng minh.
Chính phủ Nhật Bản đã tiến hành nhiều cải cách, thủ tiêu độc quyền, dân chủ
hoá lao động và ban hành chính sách về tài chính tiền tệ nhằm khắc phục
tình trạng thất nghiệp( 20%), siêu lạm phát (8000%). Cùng với tác động tích
cực của các yếu tố bên ngoài, đến năm 1951, về cơ bản Nhật Bản đã phục hồi
được mức sản xuất trước chiến tranh và có thể tự quyết định chính sách kinh
tế cuả mình. Giai đoạn 1952- 1973 là thời kì tăng trưởng thần kì của nền
kinh tế Nhật Bản, và đến năm 1968 Nhật Bản trở thành cường quốc kinh tế

lớn thứ hai sau Mỹ.
Tuy nhiên nền kinh tế Nhật Bản vẫn mang tính chất không ổn định do phụ
thuộc gần như hoàn toàn vào nguồn nguyên nhiên liệu nước ngoài. Từ năm
1974, sự thần kì của nền kinh tế Nhật Bản đã thực sự chấm dứt. GDP thời kì
này biến động thất thường và thấp hơn hẳn những kì trước. Nguyên nhân sâu
xa của tình trạng này là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng năng lượng của
thế giới thời kì 1973- 1975. Chính phủ Nhật Bản lại một lần nữa tiến hành cải
cách, mở rộng nhu cầu trong nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp
với nền kinh tế thế giới và những biện pháp này đã tỏ ra có hiệu quả. Nền
kinh tế Nhật Bản đã chuyển từ cơ cấu tăng trưởng chủ yếu dựa vào thị trường
nước ngoài sang cơ cấu tăng trưởng chủ yếu do nhu cầu nội địa thúc đẩy, từ
đó khắc phục được những ảnh hưởng tiêu cực do đồng Yên lên giá gây ra.
Tuy nhiên từ năm 1992 cho đến nay, Nhật Bản luôn chìm sâu vào khủng
hoảng trì trệ. Tăng trưởng kinh tế trung bình thời 1992-1995 đạt 1,4%. Đến
năm 1996, tình hình phát triển kinh tế có khả quan hơn và đạt mức 3,6%.
Năm 1997 tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm mạnh, thậm chí đạt mức tăng
trưởng âm - 0,7% và giảm xuống mức - 1,8% năm 1998. Năm 1999, chỉ tiêu
này của Nhật Bản là 0,5% và năm 2000 là 1,2%.Vài năm trở lại đây, nền kinh
tế Nhật mặc dù chưa lấy lại được vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế của
11
11
các nước trong khu vực nhưng phần nào có dấu hiệu phục hồi và đang dần
khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ xảy ra gần đây.
Khi đề cập đến nền kinh tế Nhật Bản, yếu tố công nghệ không thể không
được nói đến bởi vì công nghệ là thế mạnh và làm nên sức cạnh tranh của các
sản phẩm Nhật trên trường quốc tế. Một số ngành công nghiệp của Nhật như
sản xuất ôtô, sản xuất thép và tự động hoá công nghiệp được coi là đứng đầu
thế giới. Nhưng về các lĩnh vực khác như vũ trụ, năng lượng, viễn thông,
công nghệ bảo vệ môi trường thì Nhật Bản còn kém xa các nước như Mỹ,
Nga

Vấn đề đặt ra đối với kinh tế Nhật Bản là phải chuyển đổi cơ cấu kinh tế
để thích ứng kịp thời với những biến đổi to lớn của tình hình thế giới cũng
như trong nuớc, xứng đáng với vai trò cường quốc kinh tế thứ hai trên thế giới
sau Mỹ.
1.5.Ngoại thương của Nhật Bản
Do những hạn chế về các điều kiện tự nhiên, Nhật Bản không đủ tài
nguyên để đáp ứng nhu cầu trong nước, vì vậy trong lịch sử kinh tế Nhật Bản,
ngoại thương đóng vai trò cực kì quan trọng, là động lực thúc đẩy nền kinh tế
phát triển. Trong thời kì đầu của quá trình công nghiệp hoá, việc xuất khẩu
những sản phẩm công nghiệp nhẹ như hàng dệt, may mặc đã là tiền đề cho
việc nhập khẩu những mặt hàng máy móc, công nghệ phục vụ cho công
nghiệp hoá. Trong thời gian sau đó, việc nhập khẩu nguyên nhiên liệu thô để
tiến hành gia công trong nước sau đó tái xuất khẩu là chính sách đúng đắn và
mang lại thành công to lớn cho kinh tế Nhật. Tuy nhiên, sau khi gặp nhiều
khó khăn bắt nguồn từ tác động của các cuộc khủng hoảng nguyên nhiên liệu,
chính sách ngoại thương của Nhật Bản đã có nhiều thay đổi. Một mặt, Nhật
Bản tiến hành đa phương hoá nguồn cung cấp nguyên nhiên liệu, mở rộng địa
bàn xuất khẩu, tránh tập trung xuất khẩu vào một số nước, một số khu vực, đa
dạng hoá mặt hàng xuất khẩu giảm tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào một số
12
12
mặt hàng. Những biện pháp này đã giúp Nhật Bản giảm bớt được tác động
của yếu tố bên ngoài. Mặt khác, Nhật Bản vẫn tiếp tục bảo hộ nền sản xuất
trong nước bằng các hàng rào thuế quan và phi thuế quan nghiêm ngặt. Vào
những năm gần đây, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới tăng trưởng chậm do
ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực,
ngoại thương của Nhật cũng rơi vào tình trạng trì trệ. Nhìn chung xuất khẩu
giảm sút ở hầu hết tất cả các mặt hàng. Nhập khẩu của Nhật Bản cũng suy
giảm nghiêm trọng. Hầu hết nhập khẩu của Nhật từ các thị trường đều giảm,
trong đó giảm mạnh nhất từ khu vực các nước ASEAN, các nước NICs Châu

á. Đối với các mặt hàng nhập khẩu, dầu thô luôn là mặt hàng chiếm tỉ trọng
lớn trong kim ngạch nhập khẩu giảm mạnh 36%
2.Tình hình phát triển kinh tế Việt Nam những năm qua
Quá trình phát triển và mở rộng thương mại quốc tế của Việt Nam gắn liền
với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc thời kì trước đây và
gắn liền với công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế đi lên theo định hướng xã
hội chủ nghĩa trong mấy chục năm trở lại đây.
2.1 Kinh tế Việt Nam trước cách mạng tháng 8-1945.
Thời kì này, nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế nông nghiệp tự cấp,
tự túc, lại thường xuyên bị nạn ngoại xâm nên không thể có sự phân công lao
động xã hội cao trong nông nghiệp để thúc đẩy thủ công nghiệp phát triển một
cách mạnh mẽ.
Sản xuất hàng hoá mang tính chất giản đơn, trong khi thị trường chật hẹp.
Trong nhiều thế kỷ, tình hình kinh tế trong nước ở trạng thái khan hiếm sản
phẩm. Quan hệ buôn bán của Việt Nam thời kỳ phong kiến chủ yếu là với
Trung Quốc, Nhật Bản, Hà Lan, Bồ Đào Nha Hàng hoá bán ra bao gồm
nông lâm hải sản quý hiếm có sẵn trong tự nhiên như ngà voi, nấm hương ,
13
13
hàng thủ công như lụa, đồ mỹ nghệ Hàng hoá buôn bán với các nước không
phải do công nghiệp sản xuất ra mà chỉ là những sản phẩm thủ công, phụ
thuộc vào người mua đặt hàng. Thời kì này, hàng hoá mua vào chia làm ba
loại: để thoả mãn tiêu dùng xa hoa của vua quan phong kiến như lụa là, gấm
vóc hổ phách , để gìn giữ xã tắc như vũ khí , để phục vụ tiêu dùng trong
nhân dân như gương lược, thuốc men
Nhìn chung, tính chất của thương mại quốc tế thời kì này không có cơ sở
kinh tế bên trong thúc đẩy, hoạt động thương mại quốc tế hầu như chỉ mang
tính bị động.
Sang thời kỳ Pháp thuộc, dưới sự thống trị của thực dân Pháp, Việt Nam là
một thuộc địa kém phát triển nhất trong các thuộc địa ở châu á của Pháp.

Trước chiến tranh thế giới thứ hai, lúc mà Việt Nam đạt mức phát triển cao
nhất dưới thời Pháp thuộc, nền kinh tế nước ta vẫn là một nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu, canh tác theo kĩ thuật cổ truyền. Còn công nghiệp tập trung
vào khai thác tài nguyên thiên nhiên ( chủ yếu là ngành khai khoáng); công
nghiệp chế biến nhỏ bé, tập trung vào những ngành sử dụng nhiều lao động và
nguyên liệu tại chỗ hoặc những ngành đầu tư ít vốn, thu nhiều lợi nhuận, thu
hồi vốn nhanh. Với nền kinh tế như vậy, thương mại quốc tế kém phát triển cả
về quy mô, chủng loại mặt hàng và thị trường. Xuất khẩu chủ yếu của nước ta
thời kỳ này là nông sản và khoáng sản với 3 mặt hàng chủ yếu là gạo, cao su
và than đá. Nhập khẩu chủ yếu là hàng tiêu dùng và một số nguyên liệu như
xăng dầu, bông vải. Máy móc thiết bị cũng có nhập nhưng chiếm tỷ lệ thấp, từ
1,4% đến 8,8%.
2.2. Kinh tế Việt Nam từ 1946 đến 1986.
Sau khi giành được độc lập, chính quyền non trẻ của chúng ta gặp phải rất
nhiều khó khăn về tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế chính trị, xã hội.
Cùng một lúc phải thực hiện hai nhiệm vụ lớn: vừa cải tạo và xây dựng kinh
tế, phát triển văn hoá vừa phải tiến hành chiến tranh chống Mỹ cứu nước, xây
14
14
dựng CNXH ở miền Bắc, đấu tranh độc lập dân tộc ở miền Nam. Chúng ta có
chủ trương mở rộng và phát triển thương mại quốc tế phục vụ công cuộc khôi
phục kinh tế miền Bắc, xây dựng hậu phương vững mạnh cho đấu tranh giải
phóng miền Nam. Với phương châm không ngừng củng cố và phát triển quan
hệ kinh tế với nước ngoài, năm 1955, Việt Nam đã ký với Liên Xô, Trung
Quốc và các nước XHCN khác các hiệp định về viện trợ hàng hoá và kỹ thuật
giúp Việt Nam khắc phục hậu quả chiến tranh. Đặc điểm cơ bản của hoạt
động ngoại thương thời kì này là xuất nhập khẩu tăng chậm, xuất siêu lớn, cơ
cấu hàng xuất khẩu phản ánh trình độ phát triển kinh tế lạc hậu và không ổn
định.
Vào những năm giữa thập kỷ 80, nước ta rơi vào cuộc khủng hoảng

nghiêm trọng, lạm phát ba con số, đời sống của nhân dân rất khó khăn. Bên
cạnh đó, Mỹ và các nước có thái độ thù địch thực hiện chính sách bao vây,
cấm vận, ngừng viện trợ và đầu tư kể cả các khoản đã cam kết với chính phủ
Việt Nam.
2.3. Kinh tế Việt Nam từ 1986 đến nay.
Trước những biến đổi của tình hình thế giới và những khó khăn trong
nước, năm 1986, nước ta đã có bước chuyển đổi cơ bản, từ chỗ đóng cửa nền
kinh tế sang mở cửa nền kinh tế. Cho đến nay, chúng ta đã gặt hái được
những kết quả đáng mừng. Về chính sách thương mại quốc tế được thể hiện
qua những nội dung sau:
-Đẩy mạnh xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu
-Mở rộng, đa dạng hoá và đa phương hoá thị trường
-Đổi mới cơ chế quản lí và chính sách xuất nhập khẩu theo hướng mở
rộng quyền tiếp xúc với bên ngoài, quyền hoạt động xuất nhập khẩu cho các
ngành, các địa phương, các doanh nghiệp, xoá bỏ cơ chế tập trung bao cấp,
chuyển hoạt động thương mại quốc tế sang hạch toán.
15
15
Thị trường xuất nhập khẩu có sự chuyển biến mới. Xuất khẩu thời kỳ này
tăng nhanh, cơ cấu xuất khẩu có sự thay đổi, cán cân mậu dịch được cải thiện
dần. Đến năm 1995, kim ngạch xuất khẩu tăng gấp 6 lần so với năm 1986.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã làm cho bộ mặt đất nước thay đổi
nhiều. Cơ cấu kinh tế chuyển đổi dần theo hướng ngày càng hợp lý, tỷ trọng
ngành nông nghiệp trong GDP giảm dần trong khi tỷ trọng ngành dịch vụ
ngành càng tăng. Đến năm 2000, lao động dịch vụ đóng góp trên 45% vào
GDP.
3. Quan hệ kinh tế Việt Nam-Nhật Bản
Nước ta và một số nước khác đã có lúc xem xét vấn đề độc lập kinh tế và
xây dựng một nền kinh tế hoàn chỉnh mang tính tự cấp tự tuc để tránh sự lệ
thuộc vào bên ngoài. Có thể nói, việc mở rộng thương mại quốc tế và các mối

quan hệ kinh tế đối ngoại khác là vận dụng một trong những bài học kinh
nghiệm quý báu rút ra từ thực tiễn của nước ta trong những năm qua. Trong
báo cáo chính trị của ban chấp hành Trung ương Đảng tại đại hội lần thứ VI
nhấn mạnh: Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng,
đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
Đến Đại hội VII, Đảng tiếp tục khẳng định tính đúng đắn trong hướng đi của
mình và nhấn mạnh: chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với
tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, xã hội trên cơ sở các nguyên
tắc tồn tại hoà bình.
Bối cảnh nền kinh tế thế giới và những những xu hướng phát triển chung
của nó có ảnh hưởng lớn tới mối quan hệ giữa các quốc gia nói chung và giữa
Việt Nam với Nhật Bản nói riêng. Nền kinh tế thế giới hiện nay đang ngày
càng gắn bó chặt chẽ giữa các nước với nhau thông qua việc trao đổi hàng
hoá, dịch vụ và di chuyển vốn giữa các quốc gia. Xu hướng toàn cầu hoá thể
hiện đặc biệt rõ nét trong trường hợp Nhật Bản. Các công ty đa quốc gia của
16
16
Nhật đang chiếm ưu thế trong việc mở rộng, phân bố các chi nhánh ở khắp
nơi trên thế giới. Trong xu hướng toàn cầu hoá như vậy, nhiều quốc gia đang
phát triển trong đó có Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nhờ tác dụng của
đầu tư trực tiếp nước ngoài và mở rộng xuất khẩu.
Việt Nam và Nhật Bản chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào tháng
9/ 1973. Giữa kinh tế và ngoại giao có mối quan hệ bổ sung, tạo điều kiện cho
nhau cùng phát triển: kinh tế mạnh tạo thêm thế cho ngoại giao, còn ngoại
giao tốt giúp phát triển kinh tế hiệu quả hơn. Chính các điều kiện trên đã giúp
cho nền kinh tế đang có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ của nước ta hội nhập sâu
và rộng hơn trên trường quốc tế.
Tiền đề cho mối quan hệ giữa Việt Nam-Nhật Bản chính là ở đường lối,
chính sách của hai nước cũng như xu hướng chung của nền kinh tế thế giới.

Bên cạnh đó, những lợi ích mà hai bên đã, đang và sẽ đạt được là động lực
thúc đẩy hai nước phát triển hơn nữa mối quan hệ này.
4. Sự cần thiết phát triển quan hệ kinh tế-thương mại Việt Nam-Nhật
Bản
Với điều kiện địa lí tự nhiên thuận lợi, cộng với sự tương đồng về văn hoá,
phong tục giữa hai dân tộc, Việt Nam và Nhật Bản có nhiều thuận lợi để phát
triển mối quan hệ kinh tế-thương mại ngày càng tốt đẹp hơn, mang lại nhiều
lợi ích hơn nữa cho cả hai bên. Nhận thức được điều này, trong những năm
qua quan hệ giữa hai nước đã được thiết lập và mang lại những thành công
đáng kể cho cả hai bên.
Trước hết, đối với Việt Nam,việc phát triển quan hệ kinh tế-thương mại sẽ
đem lại nhiều thuận lợi. Trong lĩnh vực ngoại thương, Nhật Bản có một thị
trường tiêu thụ rộng lớn cho các sản phẩm của Việt Nam như: dầu thô, hàng
dệt may, than, cà phê nhờ đó tích luỹ được một nguồn ngoại tệ đáng kể cho
đất nước, góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước. Mặt khác, thông qua
nhập khẩu, nhu cầu tiêu dùng của người Việt Nam sẽ được thoả mãn với
những hàng hoá có chất lượng tốt hơn, mẫu mã đẹp, nhiều tíng năng, tác dụng
17
17
do Nhật Bản sản xuất. Đây cũng là một động lực để nâng cao khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong nước với hàng hoá nhập khẩu từ Nhật Bản.
Hơn nữa khi tham gia vào quan hệ ngoại thương với Nhật, Việt Nam có thể
nhập khẩu máy móc, thiết bị hiện đại từ một nước có công nghệ tiên tiến như
Nhật Bản, để từ đó đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, nâng cao năng suất lao động cho nền kinh tế nói chung. Trong lĩnh vực
đầu tư, do có xu hướng di chuyển sản xuất ra nước ngoài, Nhật Bản đang là
một trong những nhà đầu tư lớn nhất ở Việt Nam. Thông qua hoạt động đầu
tư, Việt Nam đã thu hút được một nguồn vốn lớn cũng như tiếp thu được
những công nghệ mới, kinh nghiệm quản lí tiên tiến của Nhật Bản. Với luồng
vốn đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam sẽ cải thiện phần nào tình

trạng thiếu vốn, thiếu công nghệ mà các nước đang phát triển trong đó có Việt
Nam đang gặp phải. Bên cạnh đó, với công nghệ tiên tiến của Nhật Bản, việc
khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên trở nên có hiệu quả hơn, tiết kiệm
nguồn tài nguyên cho đất nước.
Trong quan hệ kinh tế đối ngoại với Nhật Bản, Việt Nam còn nhận được
những khoản viện trợ phát triển chính thức (ODA) rất lớn. Đây là hoạt động
viện trợ mang tính chất chính phủ, là sự giúp đỡ của chính phủ Nhật Bản đối
với công cuộc khiến thiết, phát triển đất nước của Việt Nam. Hoạt động này
được chính phủ Nhật Bản tiến hành từ khá lâu và đóng một vai trò quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam cho tới nay. Thông qua ODA,
Nhật Bản đã hỗ trợ cho Việt Nam xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội vốn
lạc hậu và hư hỏng nghiêm trọng, với các dự án xây dựng và tu sửa đường sá,
cầu cống, xây dựng hệ thống thông tin liên lạc, khai thác nguồn năng
lượng làm thay đổi bộ mặt của đất nước, đồng thời làm tăng sức hấp dẫn đối
với các nhà đầu tư nước ngoài.
Trong quan hệ kinh tế-thương mại Việt Nam-Nhật Bản, không chỉ mang
lại nhiều thuận lợi cho Việt Nam mà về phía Nhật cũng có nhiều lợi ích, góp
phần đạt được mục tiêu kinh tế-chính trị của mình. Về mặt kinh tế, Việt Nam
18
18
là một thị trường rộng lớn của các doanh nghiệp Nhật Bản, đặc biệt là các mặt
hàng như đồ điện tử, xe máy, ôtô Việt Nam là một nước có nguồn tài nguyên
dồi dào nên sẽ là nơi cung cấp ổn định các mặt hàng nguyên nhiên liệu như
dầu mỏ, than đá, khí đốt , những nguyên nhiên liệu thiết yếu nhưng Nhật
Bản rất khan hiếm. Mặt khác, cùng với sự gia tăng đầu tư sang Việt Nam, một
thị trường lao động rẻ, các doanh nghiệp Nhật Bản cũng tiết kiệm được chi
phí sản xuất, cạnh tranh tốt hơn trong xuất khẩu, gia tăng hiệu quả của nền
sản xuất nói chung. Ngoài những lợi ích về kinh tế, Nhật Bản còn đạt được
những mục tiêu chính trị của mình thông qua việc cung cấp ODA cho Việt
Nam nói riêng và cho các nước Châu á nói chung. Qua đó Nhật Bản muốn có

một vai trò quan trọng hơn, một tiếng nói có trọng hơn đối với nền chính trị
trong khu vực cho tương xứng với tầm vóc kinh tế của mình. Trên thực tế,
mục tiêu này đã dần đạt được.
III. Thuận lợi và khó khăn trong việc mở rộng quan hệ kinh tế -thương
mại Việt Nam - Nhật Bản

1. Những thuận lợi đối với Việt Nam.
Quan hệ kinh tế Việt Nam-Nhật Bản là mối quan hệ tất yếu không chỉ do
xu hướng chung của toàn thế giới mà còn do nội lực kinh tế của mỗi nước.
Nhật Bản là nước ít tài nguyên nhưng giàu về công nghệ trong khi đó Việt
Nam là nước có nguồn tài nguyên phong phú nhưng chậm phát triển. Vì vậy
mối quan hệ Việt Nam-Nhật Bản sẽ bổ sung phần nào những gì mà hai bên
cần có. Việt Nam khi mở rộng quan hệ với Nhật Bản thể hiện ở những mặt lợi
sau đây:
-Việt Nam quan hệ với một nước có tiềm lực kinh tế mạnh về tài chính ,uy
tín trên thị trường quốc tế.
19
19
-Việt Nam tiếp cận được với quốc gia có công nghệ hiện đại. Điều này sẽ
giúp Việt Nam tận dụng lợi thế của các nước đi sau về công nghệ thông qua
chuyển giao công nghệ, “đi tắt đón đường” về công nghệ hiện đại.
-Việt Nam kàm quen, học hỏi được những kinh nghiệm quản lý tiên tiến
của Nhật Bản. Nhật Bản là nước có số lượng lớn các tập đoàn kinh doanh
thành công trên thị trường của nhiều nước. Thông qua hỗ trợ đào tạo của
chính phủ Nhật Bản, các cuộc tiếp xúc với các chuyên gia hay thông qua các
hình thức liên doanh liên kết với Nhật Bản, Việt Nam sẽ học hỏi được kinh
nghiệm quản lý tiên tiến mà ở Việt Nam hiện cón đang thiếu.
-Nhật Bản có thị trường rộng lớn, nhiều tiềm năng để các doanh nghiệp
Việt Nam kinh doanh. Trong nhiều năm nay, trong quan hệ thương mại,
chúng ta luôn xuất siêu sang thị trường Nhật Bản nhưng vẫn được chính phủ

chấp nhận và khuyến khích.
2. Những khó khăn Việt Nam gặp phải.
Bên cạnh những thuận lợi kể trên, Việt Nam còn gặp phải rất nhiều khó
khăn khi quan hệ với Nhật Bản.
-Nhật Bản là nước có nền kinh tế phát triển cao, đời sống người dân cao
vào loại nhất thế giới. Mặt khác Nhật Bản lại là nước công nghệ ứng dụng
hiện đại nên sản phẩm sản xuất ra có mức chuẩn hoá rất cao. Ngược lại, Việt
Nam mới chỉ đang ở giai đoạn đầu của quá trình xây dựng nền kinh tế vững
mạnh. Do đó các sản phẩm của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản thường
gặp khó khăn về vấn đề chất lượng. Để cải tiến được chất lượng hàng hoá như
mức chuẩn hoá của người Nhật đòi hỏi phải mất rất nhiều thời gian và vốn để
đầu tư cho công nghệ. Đây là vấn đề không dễ gì giải quyết được ngay.
-Việt Nam gặp phải nhiều đối thủ cạnh tranh mạnh trong kinh doanh xuất
nhập khẩu với Nhật Bản. Đối tác làm ăn của Nhật Bản gồm nhiều nước là
cường quốc kinh tế như Mỹ, Trung Quốc Việt Nam chỉ là một bạn hàng rất
20
20
nhỏ bé của Nhật Bản, lượng hàng hoá Nhật Bản nhập khẩu từ Việt Nam
chiếm chưa đầy 1% dung lượng thị trường.
-Mặc dù vậy, Nhật Bản lại là đối tác lớn nhất của Việt Nam trong hoạt
động buôn bán. Điều này thể hiện vị thế của Việt Nam trong mối quan hệ này
là rất nhỏ bé.
Có thể nói, mối quan hệ kinh tế-thương mại Việt Nam-Nhật Bản có tầm
quan trọng rất lớn cho phát triển kinh tế của cả hai nước, nó làm nền tảng cho
những mối quan hệ chính trị, văn hoá, xã hội giữa hai nước, hai dân tộc.
Thông qua hợp tác kinh tế, thương mại, hai nước Việt Nam và Nhật Bản đều
đạt được những lợi ích riêng cũng như những lợi ích chung cho một thế giới
hoà bình và phát triển. Vì vậy, việc nghiên cứu chi tiết thực trạng cũng như
triển vọng của mối quan hệ kinh tế-thương mại Việt Nam-Nhật Bản là rất cần
thiết, để trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm phát triển hơn nữa mối

quan hệ này góp phần vào việc đề ra những chiến lược đúng đắn, phục vụ cho
mục tiêu đổi mới của Việt Nam.
Chương II.
Phân tích thực trạng quan hệ kinh tế -thương mại Việt Nam-Nhật Bản
trong những năm qua
I.Điểm lại quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam Nhật Bản

1.Trước năm 1987
Từ cuối chiến tranh thế giới thứ hai, quan hệ của Nhật Bản và Việt Nam
đã trải qua những bước thăng trầm do những thay đổi của tình hình tại bán
đảo Đông Dương. Đến giữa những năm 1970, các nhà lãnh đạo trong chính
phủ và giới kinh doanh Nhật đã biểu thị một phần nào đó sự quan tâm, nhiệt
tình đối với Việt Nam. Nhưng đến năm 1979, quan hệ chính thức giữa hai
nước lại rơi vào bế tắc và hạ xuống mức thấp nhất bởi những sự kiện ở bán
đảo Đông Dương.
21
21
Quan hệ giữa hai nước Việt Nam-Nhật Bản thời kì từ sau chiến tranh thế
giới thứ hai đến trước năm 1987 có thể chia làm hai giai đoạn: trước và sau
khi Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với Nhật
1.1Thời kì trước năm 1973.
Tháng 9-1951, Nhật Bản đã kí hiệp định hoà bình với 48 quốc gia, trong
số đó có chính phủ Bảo Đại do Pháp bảo trợ nhưng không có đại diện nào từ
chính phủ của Việt Nam dân chủ cộng hoà. Vào thời điểm này, Nhật Bản đã
bình thường hoá quan hệ với chính phủ Bảo Đại và chỉ có những mối quan hệ
không chính thức với Bắc Việt Nam. Đây là sự khởi đầu chính sách của Nhật
Bản đối với Việt Nam và kéo dài đến năm 1973. Ban đầu, buôn bán giữa Nhật
Bản với Việt Nam phải thực hiện gián tiếp thông qua trung gian và đến năm
1958, chính phủ Nhật mới cho phép buôn bán trực tiếp. Bất chấp sự do dự hay
cản trở của chính phủ Nhật và sức ép của Mỹ, những quan hệ thương mại của

Nhật với Bắc Việt Nam vẫn được duy trì chủ yếu nhờ vào những cố gắng của
chính phủ Việt Nam và của các công ty tư nhân Nhật Bản thuộc hội mậu dịch
Việt-Nhật. Tổng kim ngạch buôn bán giữa hai nước có xu hướng tăng vào đầu
những năm 1960 do Việt Nam bắt đầu kế hoạch kinh tế 5 năm lần thứ nhất.
Giữa những năm 1960, việc Mỹ ném bom miền Bắc đã làm giảm phần lớn
lượng hàng hoá buôn bán giữa hai nước. Từ 1968 đến 1972, tổng kim ngạch
ngoại thương giữa hai nước tăng giảm thất thường do mỹ tiếp tục bắn phá
miền bắc vào những năm 1970, 1972. Tuy nhiên, thương mại giữa hai nước
còn khiêm tốn cả về giá trị và qui mô.
1.2. Thời kì từ năm 1973 đến năm 1987.
Việc kí kết hiệp định hoà bình Paris vào tháng giêng năm 1973 đã mở ra
một thời kì mới trong chính sách của Nhật đối với các nước Đông Nam á,
trong đó có Việt Nam. Vào thời điểm nay, quan hệ hợp tác giữa Nhật Bản và
Mỹ về vấn đề Đông Dương đã không còn tồn tại, cùng với xu thế chuyển sang
22
22
đối thoại của các nước trên thế giới và trong khu vực, Nhật Bản chuyển sang
bình thường hoá quan hệ với một số nước ở Châu á và Việt Nam. Nhật coi
các nước Châu á có tầm quan trọng hơn trong chính sách ngoại giao và thừa
nhận rằng, ASEAN sẽ là một tổ chức có vai trò quan trọng trong việc khuyến
khích hợp tác khu vực.
Ngày 21/ 9/1973 dã đánh dấu việc thiết lập mối quan hệ ngoại giao chính
thức giữa Việt Nam và Nhật Bản. Quan hệ kinh tế giữa hai nước phát triển
một cách đáng kể trong thời kì 1973-1975. Sau một năm gián đoạn, tháng 4/
1973, Nhật Bản lại tiếp tục nhập khẩu than Hòn Gai. Việt Nam không chỉ
quan tâm đến hàng hoá mà cả công nghệ của Nhật. Cùng với triển vọng phát
triển về thương mại, nhu cầu trao đổi khoa học kĩ thuật giữa Nhật Bản và Việt
Nam cũng tăng lên. Năm 1976, nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật đã đứng thứ
hai sau Liên Xô trong số các nước xuất khẩu vào Việt Nam. Trong thời gian
từ 1976 đến 1978, giữa hai nước đã kí đước những hợp đồng có giá trị lớn về

các khoản cho vay của Nhật, hợp đồng nhập khẩu thép, mua máy kéo, động
cơ thuyền và những mặt hàng khác của Việt Nam. Đây là thời kì đầy hứa hẹn
và lạc quan về các quan hệ thương mại và kinh tế giữa Nhật Bản và Việt
Nam.
Đến những năm 1978-1980, do những bất đồng trong việc giải quyết các
vấn đề ở Đông Dương và của số nước trên thế giới đã ảnh hưởng đến quan hệ
ngoại giao cũng như chính trị, kinh tế, thương mại giữa hai nước. Tình hình
buôn bán gặp một số cản trở nên giảm mạnh cả về giá trị lẫn cơ cấu. Kim
ngạch ngoại thương từ năm 1979 đến năm 1982 liên tục giảm từ 166 triệu
USD năm 1979 xuống còn 128 triệu USD năm 1982.
Vào những năm cuối của giai đoạn này, mặc dù hai nước vẫn chưa đạt
được sự nhất trí trong lĩnh vực chính trị nhưng quan hệ buôn bán có dấu hiệu
khả quan hơn và bắt đàu tăng trở lại. Các mặt hàng xuất nhập khẩu giữa hai
nước thời kì này bao gồm lương thực, nhiên liệu, nguyên liệu,sản phẩm công
23
23
nghiệp nhẹ, máy móc, hàng hoá đã chế biến với tổng kim ngạch năm 1985 là
216 triệu USD và tăng lên 272 triệu USD vào năm 1986.
Như vậy có thể thấy, trước năm 1987 quan hệ thương mại giữa hai nước
vẫn được duy trì nhưng không ổn định và còn ở mức độ thấp. Việt Nam đã cố
thuyết phục các nước trong đó có Nhật Bản áp dụng nguyên tắc tách các vấn
đề chính trị ra khỏi các vấn đề kinh tế nhưng không được các nước chấp
thuận. Vì vậy những bất ổn về chính trị là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự
không ổn định trong quan hệ buôn bán giữa Việt Nam và Nhật Bản. Thời kì
này, Việt Nam thường bị thiếu hụt trong cán cân thương mại với Nhật (trừ hai
năm 1973 và 1974) bởi vì, Việt Nam nhập khẩu từ Nhật Bản máy móc, thiết
bị, thực phẩm, nhiên liệu, quần áo, quặng phi kim loại, hoá chất và các sản
phẩm hợp kim trong khi đó chỉ xuất khẩu sang Nhật các sản phẩm nông
nghiệp với giá trị còn nhỏ bé, chất lượng chưa cao.


2. Thời kì từ 1987 đến nay
Quan hệ kinh tế Việt Nam-Nhật Bản trong thập kỷ 90 đã có sự gia tăng cả
về lượng cũng như về chất. Nhật Bản đã trở thành nhà cung cấp ODA và là
bạn hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam, đồng thời là một trong ba nhà
đầu tư hàng đầu ở Việt Nam. Có được sự chuyển biến trên là do tác động tổng
hợp của nhiều nhân tố, trong đó phải kể đến các nhân tố như sự chuyển đổi
nền kinh tế của Việt Nam từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; sự chuyển hướng trong chính sách kinh
tế đối ngoại của Nhật Bản, ngày càng xem trọng khu vực Đông Nam á -nơi
cung cấp nguyên nhiên vật liệu và là thị trường gần gũi của Nhật Bản; sự tác
động của bối cảnh quốc tế, trong đó nổi bật là xu thế toàn cầu hoá. Có thể nói
trước cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á, quan hệ kinh tế Việt Nam-
Nhật Bản ngày càng được mở rộng. Sau cuộc khủng hoảng này, quan hệ kinh
tế Việt Nam-Nhật Bản đã có biểu hiện chững lại, thậm chí suy giảm trong một
24
24
số chỉ tiêu. Điều này sẽ được phản ánh cụ thể trong phần phân tích thực trạng
quan hệ kinh tế-thương mại Việt Nam-Nhật Bản.
iI. Phân tích thực trạng quan hệ kinh tế-thương mại Việt Nam- Nhật
Bản.

1. Đầu tư và chuyển giao công nghệ.
Đầu tư nước ngoài là một trong những hình thức quan trọng trong quan hệ
kinh tế đối ngoại giữa các quốc gia nói chung và trong quan hệ Việt Nam-
Nhật Bản nói riêng. Do điều kiện kinh tế, khu vực tư nhân của Việt Nam chưa
đủ tiềm lực để đầu tư sang thị trường Nhật Bản, vì vậy, chúng ta chỉ đề cập
đến quan hệ đầu tư một chiều, từ Nhật Bản sang Việt Nam.
Trong quan hệ kinh tế Việt Nam-Nhật Bản, đầu tư trực tiếp ( FDI) từ Nhật
sang Việt Nam được bắt đầu từ năm 1989. So với các đối tác khác, Nhật Bản
là người đầu tư sau vào Việt Nam. Tuy vậy mức đầu tư của Nhật qua các năm

đều tăng và luôn đứng vào nhóm các quốc gia có lượng vốn đầu tư lớn nhất ở
Việt Nam.
 Đặc điểm chung
Nhờ thực hiện đường lối đổi mới với chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng
hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế trên tinh thần muốn làm bạn với tất cả các
nước nên trong những năm qua, Việt Nam đã tranh thủ được các nguồn lực từ bên
ngoài phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, trong đó nguồn đầu
tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản đã đóng góp đáng kể vào việc xây dựng cơ
sở hạ tầng, xây dựng các ngành công nghiệp của Việt Nam.
Do tình hình kinh tế suy thoái sau một thời gian dài tăng trưởng nhanh,
nền kinh tế Nhật Bản đã vấp phải rất nhiều khó khăn trong việc tiếp tục duy
trì và ổn định. Điều này đã phần nào tác động đến tình hình đầu tư ra nước
ngoài của Nhật Bản nói chung. Mặc dù có những khó khăn về nguồn vốn huy
động cho đầu tư và sản xuất nhưng trong giai đoạn 1991-1997, nhưng trong
25
25

×