Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

quá trình hoạt động của các đơn vị tổng công ty 90-91 tại việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.28 KB, 18 trang )

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN: KẾ TOÁN CÔNG
QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC ĐƠN VỊ THUỘC
TỔNG CÔNG TY 90-91 TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
HVTH: Trần Thị Kiều Quyên
Lớp : Cao học kế toán Ngày– K20
MỤC LỤC
Danh mục chữ viết tắt 2
MỞ ĐẦU 4
1. Tính cấp thiết của đề tài 4
2. Mục đích nghiên cứu 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
NỘI DUNG 6
1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu 6
2. Khái quát tổng công ty 90-91 7
3. Quá trình hoạt động của các đơn vị thuộc TCT 90-91 10
4. Quá trình lập các tập đoàn kinh tế theo mô hình CT mẹ-con 12
5. Cổ phần hóa các tổng công ty 14
6. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động 15
KẾT LUẬN 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO 18
2
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TCT: Tổng công ty
TĐKT: Tập đoàn kinh tế
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
3
MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
trong xu thế hội nhập quốc tế, việc tạo lập và phát triển các TCT, TĐKT lớn có đủ
tiềm lực cạnh trạnh cả thị trường trong và ngoài nước là mục tiêu chiến lược của nhà
nước Viêt Nam. đảng và Nhà nước coi đây là chủ trương lớn trong đường lối kinh tế
đất nước. Trong quá trình xây dựng các TCT, TĐKT mạnh quản lý nhà nước có vai
trò quyết định. Quản lý nhà nước tạo ra các chuẩn mực pháp lý, các điều kiện, tiền
đề để các DNNN phát triển thành những TĐKT có tiềm lực đủ mạnh, đóng vai trò
nòng cốt, chủ đạo cho nền kinh tế.
Cho đến nay liên quan đến DNNN lớn trong đó có các TCT và TĐKT đã có nhiều
văn bản pháp luật nhà nước, các tài liệu, công trình khoa học trong và ngoài nước đề
cập đến. Nhằm khẳng định vai trò nòng cốt của DNNN trong nền kinh tế quốc dân,
Chính phủ đã có Quyết định số 91/TTg ngày 7/3/1994 về việc “ Thí điểm thành lập
tập đoàn kinh doanh” và Quyết định số 90/TTg ngày 7/3/1994 về việc “ Tiếp tục sắp
xếp DNNN”. Từ đó ra đời các Tổng công ty 90 - 91. Ở Việt Nam các Tổng công ty
Nhà nước là những doanh nghiệp hoạt động trong những ngành, những lĩnh vực then
chốt của nền kinh tế và đóng vai trò chủ lực trong việc đảm bảo cân đối lớn và ổn
định kinh tế vĩ mô.
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống về quá trình hoạt động của các tổng công
ty là một yêu cầu cần thiết để không ngừng hoàn thiện, đổi mới các TCT 90 - 91 nói
chung cũng như các TCT 90 - 91 và TĐKT nhà nước nói riêng.
2. Mục đích nghiên cứu
Phân tích thực trạng hình thành và hoạt động của các TCT 90 - 91 theo
hướng hình thành TĐKT. Qua đó, chỉ ra những vấn đề cần xử lý trong việc hoàn thiện
QLNN đối với TCT 90 - 91 theo hướng hình thành TĐKT.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là tìm hiểu quá trình hoạt động TCT 90 - 91 hiện
4
nay

- Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chủ yếu tập trung vào chế độ, chính sách cơ chế, nội dung quá trình hoạt động
tổng công ty 90 - 91 trong phạm vi ở Việt Nam hiện nay.
5
NỘI DUNG
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
TĐKT là hình thức tổ chức kinh tế hiện đại ở các nước trên thế giới. Trong cạnh tranh
trên thị trường, TĐKT thể hiện nhiều ưu điểm. Do vậy ở các nước cũng như Việt
Nam, Nhà nước cũng như các nhà khoa học rất quan tâm đến TĐKT cả về lý luận
cũng như tổng kết thực tiễn.
Cho đến nay liên quan đến DNNN lớn trong đó có các TCT và TĐKT đã có nhiều
văn bản pháp luật nhà nước, các tài liệu, công trình khoa học trong và ngoài nước đề
cập đến.
Ở Việt Nam trước hết là những văn bản pháp luật của Nhà nước về TCT nhà nước, về
chuyển đổi TCT nhà nước hình thành các TĐKT theo mô hình công ty mẹ - công ty
con. Những văn bản của nhà nước liên quan đến sự hình thành và phát triển của các
TCT và TĐKT chủ yếu ở Việt Nam bao gồm:
- Nghị định số 388/HđBT, ngày 20/11/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (HđBT) về việc
thành lập và giải thể DNNN.
- Quyết định 90/TTg, ngày 07/03/1994 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục sắp
xếp tại DNNN.
- Quyết định 91/TTg, ngày 07/03/1994 của Thủ tướng Chính phủ về việc thí điểm
thành lập Tập đoàn kinh doanh.
- Nghị định số 39/CP, ngày 27/06/1995 của Thủ tướng Chính phủ về điều lệ mẫu tổ
chức và hoạt động của Tổng công ty Nhà nước.
- Ngày 20/04/1995 Quốc hội thông qua Luật doanh nghiệp nhà nước.
- Chỉ thị 573/TTg, ngày 23/08/1996 của Thủ tướng Chính phủ về việc tạo
điều kiện cho các TCT. Thủ tướng quyết định thành lập sớm đi vào hoạt động
ổn định.
- Chỉ thị 20/1998/CT-TTg, ngày 26/05/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy

mạnh, sắp xếp, đổi mới quản lý DNNN, củng cố và hoàn thiện các Tổng công ty.
- Chỉ thị 15/1999/CT-TTg, ngày 26/05/1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc hoàn
thiện tổ chức hoạt động các Tổng công ty Nhà nước.
- Năm 2003, Quốc hội thông qua luật Doanh nghiệp nhà nước sửa đổi (gọi là luật
6
DNNN năm 2003).
- Nghị định số 153/2004/Nđ-CP ngày 09/08/2004 của Chính phủ về tổ chức, quản lý
tổng công ty nhà nước và chuyển đổi tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước độc
lập theo mô hình công ty mẹ - công ty con.
- Nghị định số 199/2004/Nđ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ Ban hành Quy chế
quản lý tài chính của công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh
nghiệp khác.
- Năm 2005, Quốc hội thông qua Luật Doanh nghiệp.
- Nghị định số 111/2007/Nđ-CP ngày 26/06/2007 của Chính phủ về tổ chức, quản lý
tổng công ty nhà nước và chuyển đổi tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước độc
lập theo mô hình công ty mẹ - công ty con hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
- Nghị định số 101/2009/Nđ-CP ngày 05/11/2009 của Chính phủ về thí
điểm thành lập, tổ chức, hoạt động và quản lý tập đoàn kinh tế nhà nước.
Đặc biệt là Thủ tướng Chính phủ đã có nhiều quyết định về thành lập các tập đoàn
kinh tế theo mô hình công ty mẹ - công ty con (như: Tập đoàn Bưu chính - Viễn
thông Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn điện lực Việt Nam, Tập đoàn
Cao su, Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản,
Tập đoàn Bảo Việt, Tập đoàn Công nghiệp và Xây dựng Việt Nam, Tập đoàn phát
triển nhà và đô thị Việt Nam ). đây là những văn bản pháp luật của nhà nước quy
định những điều kiện pháp lý cho việc hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế
Việt Nam. Chủ yếu quy định về tổ chức bộ máy; về chức năng, nhiệm vụ, các chức
danh quản lý trong tập đoàn và cơ sở pháp lý về mối quan hệ giữa Tổng công ty với
các công thành viên, hoặc công ty mẹ với các công ty con và giữa các công ty con với
nhau trong tập đoàn kinh tế. Những căn cứ pháp lý này có vị trí đặc biệt quan trọng
cho việc tổ chức và hoạt động của các tập đoàn kinh tế.

2. Tổng quan về Tổng công ty 90 – 91
Với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt không chỉ trong nước mà cả với nước ngoài,
Nhà nước Việt Nam đã chủ trương đổi mới DNNN theo hướng xây dựng những
Tổng Công ty nhà nước, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân. điều 43 Luật
7
doanh nghiệp Nhà nước được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá IX thông qua ngày 30/4/1995 quy định về Tổng Công ty Nhà nước:
“Tổng Công ty Nhà nước là tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân, có con dấu,
có tài sản và có các quỹ tập trung theo quy định của Chính phủ, được Nhà nước
giao quản lý vốn, tài nguyên, đất đai và các nguồn lực khác, có trách nhiệm bảo
toàn và phát triển vốn, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực được giao, thực hiện
quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp nhà nước như quy định tại chương II của
Luật doanh ngiệp nhà nước.”
Thực hiện đổi mới xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường, ở Việt Nam vào đầu những năm 90 của thế kỉ XX hàng loạt các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế ra đời. Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
sang nền kinh tế thị trường, nhà nước chủ trương sắp xếp lại các DNNN. Theo các
quyết định số 90 và 91/TTg ngày 7 tháng 3 năm 1994 của thủ tướng chính phủ các
TCT 90 và 91 ra đời trên cơ sở sắp xếp, tổ chức lại các DNNN. đây là những TCT
nhà nước.
Tổng công ty 90 là tên gọi chung phổ biến cho các liên hiệp xí nghiệp và tổng công
ty nhà nước ở Việt Nam được thành lập căn cứ vào Điều 5 của Quyết định số 90/Ttg
của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam về việc sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước.
Tổng công ty 90 phải có ít nhất là 5 đơn vị thành viên quan hệ với nhau về công nghệ,
tài chính, chương trình đầu tư phát triển, dịch vụ về cung ứng, vận chuyển, tiêu thụ,
thông tin, đào tạo; phải có vốn pháp định trên 500 tỷ đồng (đối với một số tổng công
ty trong những ngành đặc thù thì vốn pháp định có thể thấp hơn nhưng không được ít
hơn 100 tỷ đồng).
Các bộ và các ủy ban nhân dân cấp tỉnh được Chính phủ ủy quyền ra quyết định
thành lập tổng công ty 90. Sau khi Quyết định số 90/Ttg được ban hành, hàng loạt

tổng công ty 90 đã được thành lập. Vào thời điểm tháng 2 năm 2000, có 76 tổng công
ty 90, trong đó 12 tổng công ty trong lĩnh vực công nghiệp, 14 trong lĩnh vực nông
nghiệp, 12 trong ngành giao thông vận tải, 11 trong ngành xây dựng, 3 trong ngành
thủy sản, 5 trong lĩnh vực ngân hàng tức là 5 ngân hàng thương mại nhà nước, 2 trong
lĩnh vực y tế, 1 trong bưu chính viễn thông, 1 trong lĩnh vực văn hóa, và có 9 tổng
8
công ty 90 của các địa phương. Đến năm 2004, số lượng tổng công ty 90 đã lên tới
80.
Từ năm 2004 Chính phủ Việt Nam bắt đầu thí điểm rồi từ năm 2005 bắt đầu chính
thức đẩy mạnh cổ phần hóa các tổng công ty 90 bằng cách bán cổ phiếu rỗng rãi song
Nhà nước sẽ vẫn giữ một tỷ lệ cổ phần chi phối. Đồng thời các tổng công ty đã được
hoặc chưa được cổ phần hóa được chuyển đổi sang mô hình công ty mẹ và công ty
con. Một số ít tổng công ty 90 đang có dự định chuyển thành các tập đoàn kinh doanh
đa ngành.
Tổng công ty 91 là tên gọi chung phổ thông cho các nhóm doanh nghiệp nhà nước
của Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 91/Ttg của Thủ tướng Chính phủ
Việt Nam về việc thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh.
Mặc dù tinh thần của Quyết định số 91/Ttg là hướng tới thành lập các tập đoàn kinh
doanh, song vào thời điểm năm 1994, tập đoàn kinh doanh là hình thức tổ chức doanh
nghiệp còn rất mới mẻ ở Việt Nam. Vì vậy, các nhóm doanh nghiệp được thành lập
theo quyết định nói trên không được gọi là tập đoàn ngay mà được gọi chung là các
tổng công ty 91. Cho tới tận năm 2006, các tổng công ty 91 mới được từng bước
chuyển thành các tập đoàn thực sự.
Việc thành lập bất cứ tổng công ty 91 nào cũng đều thuộc thẩm quyền quyết định của
Chính phủ. Hội đồng quản lý của tổng công ty 91 gồm từ 7 đến 9 thành viên do Thủ
tướng Chính phủ bổ nhiệm. Tổng công ty 91 phải có ít nhất 7 thành viên, phải có vốn
pháp định tối thiểu 1000 tỷ đồng.
Khác với một tổng công ty 90, một tổng công ty 91 có thể hoạt động đa ngành tuy
vẫn được yêu cầu theo đuổi một ngành kinh doanh chủ đạo. Mục đích thành lập các
tổng công ty 91 là để phát huy vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo

định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, do năng lực quản lý và vốn hạn chế, các
tổng công ty 91 chưa phát huy được chức năng của mình và chưa làm lợi cho các
công ty thành viên.
Tới năm 2003, có tất cả 18 tổng công ty 91 đã được thành lập. Từ năm 2004, một số
tổng công ty 91 bắt đầu tiến hành cổ phần hóa các công ty thành viên của mình.
9
3. Quá trình hoạt động của các đơn vị thuộc tổng công ty 90 – 91
Đến cuối 2 năm 2008, cả nước có 94 tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước (07
TĐKT và 87 tổng công ty nhà nước). Vốn nhà nước tại 19 tập đoàn kinh tế, TCT
hạng đặc biệt chiếm 84% tổng vốn nhà nước tại 94 TĐKT, TCT nhà nước. Vốn nhà
nước năm 2008 tăng 13% so với năm 2007 chủ yếu từ nguồn lợi nhuận sau thuế, đánh
giá lại tài sản trong quá trình sắp xếp, chuyển đổi và thặng dư vốn từ cổ phần hoá các
doanh nghiệp thành viên.
Hoạt động của DNNN nhìn chung duy trì được tốc độ tăng trưởng (bình
quân 10%); sản xuất, kinh doanh có hiệu quả (lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
khoảng 11 %), bù đắp được các khoản lỗ phát sinh trước đây; luôn giữ vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế, góp phần ổn định và chủ động cho ngân sách nhà
nước và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hiện nay,
DNNN đóng góp gần 40% GDP, tạo ra 39,5% giá trị sản lượng công nghiệp,
trên 50% kim ngạch xuất khẩu và 28,8% tổng thu nội địa (không kể thu từ dầu
thô và thuế xuất nhập khẩu), giải quyết việc làm cho khoảng 1,1 triệu lao động
với mức thu nhập trung bình từ 3,5 đến 4,5 triệu đồng/người/tháng.
Tổ chức hoạt động của các TCT nhà nước được kiện toàn thông qua sắp xếp lại các
doanh nghiệp thành viên, trong đó chủ yếu là cổ phần hoá để hình thành các công ty
con là công ty đa sở hữu (1) và chuyển toàn tổng công ty sang hoạt động theo mô
hình công ty mẹ - công ty con (có 87 tập đoàn, TCT hoạt động theo mô hình này).
Qua đó, xoá bỏ sự quản lý của công ty mẹ bằng mệnh lệnh hành chính, mối quan hệ
kinh tế giữa công ty mẹ với các công ty con được thực hiện thông qua quan hệ sở hữu
về vốn và hợp đồng kinh tế. CSH nhà nước chỉ quản lý công ty mẹ, không can thiệp
đến công ty con.

Một số TCT không đảm nhận được vai trò liên kết với các doanh nghiệp thành viên
về sản xuất, tài chính, công nghệ, thị trường, được giải thể hoặc sáp nhập với tổng
công ty khác để xoá bỏ tầng nấc hành chính trung gian (đã hợp nhất, sáp nhập 07 tổng
công ty và giải thể cơ quan văn phòng 05 TCT, các công ty thành viên tiến hành cổ
phần hoá hoặc chuyển sang hoạt động độc lập). Sự phát triển, kết quả hoạt động của
các TCT nhà nước ở các bộ ngành khác nhau cũng không giống nhau phụ thuộc vào
10
đặc điểm của từng bộ, ngành, lĩnh vực.
Đối với Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn có 3 TCT 91 và 13 TCT 90. Kết
quả sản xuất kinh doanh của các TCT này trong năm 2008:
-
Đã góp phần tích cực cho giá trị sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản của cả nước.
Theo đánh giá của Tổng cục Thống kê giá trị sản xuất nông lâm thủy sản tăng 5,62%
so với năm 2007 vượt chỉ tiêu đại hội đảng đề ra (4,5%), sản lượng lúa cả năm đạt
38,63 triệu tấn tăng 2,7 triệu tấn là mức cao nhất từ trước đến nay.
Việc phát triển các nhà máy tại các vùng nguyên liệu, bình ổn giá cả thị trường, đảm
bảo an ninh lương thực và an sinh xã hội.
- Các khoản nộp ngân sách tăng hàng năm, góp phần thực hiện chính sách xã hội tại
các địa bàn vùng sâu, vùng xa nơi các doanh nghiệp đang hoạt động.
Nhìn chung: mặc dù nền kinh tế nước ta liên tiếp đối mặt với nhiều thách thức do
ảnh hưởng cuộc khủng hoảng nên kinh tế toàn cầu, lạm phát, giảm phát cùng với khó
khăn chung. Sản xuất kinh doanh nông nghiệp gặp nhiều khó khăn do thời tiết diễn
biến bất thường, dịch bệnh đàn gia súc, gia cầm ảnh hưởng đến phát triển đàn, nuôi
trông một số mặt hàng thủy sản (cá tra, cá ba sa…), nhưng Bộ Nông nghiệp Phát triển
nông thôn đã chỉ đạo sát sao, quyết liệt, thực hiện Quản lý nhà nước đối với các
Doanh nghiệp, chỉ đạo, định hướng phát triển, tình hình sản xuất kinh doanh các
Doanh nghiệp của Bộ Nông nghiệp Phát triển nông thôn đã góp phần ổn định kinh tế
chính trị đất nước.
Đối với Bộ Xây dựng: Qua sắp xếp, đổi mới và cổ phần hóa Doanh nghiệp Nhà nước,
hầu hết các Doanh nghiệp thuộc Bộ Xây dựng đều giải phóng được sức sản xuất, làm

việc có trách nhiệm hơn, hiệu quả hơn, đẩy nhanh được quá trình tích tụ, tập trung
vốn để tăng năng lực cạnh tranh trong cơ chế mới, đều có tăng trưởng khá, nộp ngân
sách và lợi nhuận tăng hơn, năm sau cao hơn năm trước, đầu tư phát triển ổn định, có
hiệu quả và bền vững.
Bên cạnh những kết quả trên hoạt động của các TCT nhà nước còn bộc lộ nhiều bất
cập trong việc tích tụ, tập trung vốn, nguồn lực,trong tổ chức quản lý, trong mối quan
hệ giữa các đơn vị trong TCT. điều đặc biệt quan trọng là trình độ tích tụ và tập trung
vốn của các TCT còn thấp làm hạn chế khả năng cạnh tranh nhất là khi Việt Nam đã
11
gia nhập tổ chức thương mại WTO.
4. Quá trình thành lập các Tập đoàn kinh tế theo mô hình công ty mẹ - công ty
con từ các tổng công ty 90-91
Chính phủ có Nghị định số 111/2007/Nđ-CP về tổ chức, quản lý tổng công ty nhà
nước và chuyển đổi tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước độc lập, công ty mẹ là
công ty nhà nước theo hình thức công ty mẹ - công ty con hoạt động theo Luật doanh
nghiệp để điều chỉnh các mối quan hệ giữa công ty mẹ - công ty con.
Hiện nay ở Việt Nam, khác với nhiều nước trên thế giới, các tập đoàn kinh tế thí
điểm đều được chuyển đổi từ các Tổng công ty nhà nước trước đó, do vậy đều là các
Tập đoàn kinh tế Nhà nước. Mọi quyết định liên quan đến quá trình hình thành và
quản lý đối với Tập đoàn đều theo Quyết định của Chính phủ và tuân theo các văn
bản pháp quy do Nhà nước ban hành đối với các tập đoàn kinh tế. Chính vì vậy điều
149 của Luật Doanh nghiệp còn ghi “Tập đoàn kinh tế là nhóm công ty có quy mô
lớn, Chính phủ quy định hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của tập
đoàn kinh tế”.
Quá trình hình thành thí điểm một số tập đoàn kinh tế từ các TCT 90-91 Sau 10
năm thành lập theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, các tổng công ty nhà nước
đã ngày một phát triển. Trên cơ sở lựa chọn trong số những tổng công ty 91, trong 2
năm 2005 - 2006, Thủ tướng chính phủ quyết định phê duyệt đề án chuyển đổi 7
Tổng công ty 91 sang hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh tế, trong đó có nhiều
công ty con là các công ty cổ phần hay công ty liên kết. đến nay chưa có khung pháp

luật đầy đủ về TĐKT, nên để quản lý việc hình thành, tổ chức và hoạt động của các
TĐKT nhà nước, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các văn bản cá biệt để điều chỉnh
từng TĐKT thí điểm. đó là các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt đề
án thí điểm thành lập TĐKT nhà nước; thành lập công ty mẹ Tập đoàn; Bổ nhiệm các
thành viên HđQT công ty mẹ; ngoài ra, quy chế tài chính của công ty mẹ (Bộ Tài
chính, hoặc HđQT công ty mẹ có thoả thuận của Bộ tài chính ban hành) và quy định
141/2007/Nđ-CP về chế độ tiền lương đối với công ty mẹ do nhà nước làm CSH và
các công ty con trong TĐKT nhà nước.
12
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các TĐKT
Kết quả chung: Các Tập đoàn kinh tế đã góp phần chủ yếu trong các DNNN, cùng
với các TCT nhà nước đóng góp 40% GDP, 30% giá trị sản xuất công nghiệp, trên
50% kim ngạch xuất khẩu và 28,8% tổng thu nội địa. Nộp ngân sách năm 2008 đạt
khoảng hơn 200 nghìn tỷ đồng. Nhìn chung các TĐKT đã thể hiện được vai trò nòng
cốt, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Kết quả sản xuất, kinh doanh của các TĐKT có tiến bộ khá rõ, năng lực cạnh tranh
của các TĐKT cơ bản được nâng lên. Các số liệu các chỉ tiêu cơ bản như doanh thu,
lợi nhuận, nộp ngân sách thể hiện mức tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước.
Tuy nhiên, còn có những doanh nghiệp hoạt động chủ yếu nhờ vốn vay, chiếm dụng
vốn, cơ cấu tài chính bấp bênh, dễ phát sinh rủi ro về cân đối dòng tiền, nợ phải trả
cao gấp nhiều lần vốn CSH, khả năng thanh toán thấp ảnh hưởng đến ổn định và phát
triển doanh nghiệp.
Tổng nợ tổ chức tín dụng của 7 tập đoàn kinh tế sản xuất kinh doanh tính đến cuối
năm 2008 tăng 20,5% so với cuối năm 2007, chiếm 10% tổng nợ của các tổ chức tín
dụng đối với toàn bộ nền kinh tế, trong đó nợ trung và dài hạn là chủ yếu (chiếm 85%
tổng nợ).
5. Cổ phần hóa các tổng công ty, tập đoàn kinh tế lớn
Ngày 29/12, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định phê duyệt danh sách các tổng
công ty và tập đoàn kinh tế được cổ phần hóa, trong giai đoạn 2007-2010. Theo đó, sẽ
có 71 tổng công ty nhà nước và tập đoàn kinh tế quan trọng được cổ phần hóa.

Trong danh sách này có 1 tập đoàn kinh tế là Tập đoàn Dệt may Việt Nam, 6 tổng
công ty là các Tổng công ty 91, 6 tổng công ty thuộc Bộ Công nghiệp, 14 tổng công
ty thuộc Bộ Xây dựng, 10 tổng công ty thuộc Bộ Giao thông Vận tải, 3 thuộc Bộ
Thủy sản, 12 tổng công ty thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 1 tổng
công ty thuộc Bộ Y tế, 11 tổng công ty trực thuộc UBNDTP trực thuộc trung ương và
5 ngân hàng quốc doanh.
Năm 2007 có 15 tổng công ty lớn và 2 ngân hàng là Vietcombank và MHB nằm
trong danh sách phải cổ phần hóa. Năm 2008, hai doanh nghiệp lớn phải thực hiện cổ
13
phần hóa là Tổng công ty hàng không Việt Nam và Tập đoàn dệt may Việt Nam .
Theo đánh giá chung của Ban Đổi mới và quản lý doanh nghiệp - Bộ NN&PTNT,
trong năm 2011 và những tháng đầu năm 2012, mặc dù cộng đồng DN cả nước gặp
khó khăn do ảnh hướng của hậu khủng hoảng kinh tế thế giới và khó khăn về kinh tế
vĩ mô trong nước, tuy nhiên các DN sản xuất kinh doanh thuộc Bộ NN&PTNT đã có
nhiều nỗ lực, xốc vác “gắng gượng” vượt qua khó khăn và đạt được những kết quả
khả quan, đặc biệt là công tác sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của DN
nhà nước thuộc Bộ (gọi tắt sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp). Theo đó, công tác này đã
đạt được kết quả quan trọng khi tổng doanh thu cả năm 2011 của 4 DN lĩnh vực nông
nghiệp thuộc các Tổng công ty 91 (công ty mẹ) ước đạt 42.189 tỷ đồng, tăng 14,8%
so với năm 2010, lợi nhuận sau thuế ước đạt 4.838 tỷ đồng.
Trên cơ sở đánh giá, phân tích những khó khăn và thuận lợi trong quá trình sắp
xếp đổi mới DN trong thời gian qua, đồng thời thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ, trong năm 2012 ngành nông nghiệp đặt mục tiêu hoàn thành tiến trình
CPH 4 công ty mẹ thuộc tổng công ty 90. Đây đều là các công ty đã thực hiện xong
công tác sắp xếp các công ty con (gồm mía đường I, mía đường II, chăn nuôi, vật tư
nông nghiệp…)
6. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị thuộc tổng
công ty 90 – 91
Đẩy mạnh tái cấu trúc DNNN, góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế:
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá XI đã xác định rõ: tái cấu trúc

DNNN trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước. Đây là chủ trương
đúng đắn vì phần lớn nguồn lực của DNNN nằm ở các đơn vị này.
Mục tiêu của tái cơ cấu DNNN là phân bố lại và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
của khu vực DNNN, đảm bảo DNNN thực hiện tốt hơn vai trò của mình trong nền
kinh tế nhằm phục vụ cho quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, "nâng cao chất lượng,
hiệu quả và tính bền vững" như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã định hướng.
Để đạt được mục tiêu nói trên, cần thực hiện giải pháp đồng thời và đồng bộ trên
nhiều phương diện, cơ bản là: sắp xếp, tổ chức cơ cấu lại và cổ phần hóa, đa dạng hóa
14
sở hữu DNNN; cải thiện và áp dụng khung quản trị hiện đại cho các DNNN, trước hết
là khung quản lý và giám sát; đổi mới các điều kiện môi trường kinh doanh bên ngoài
theo hướng buộc các DNNN hoạt động theo cơ chế thị trường và cạnh tranh bình
đẳng như các doanh nghiệp khác.
Các giải pháp giám sát hoạt động tập đoàn, tổng công ty nhà nước:
Bộ Tài chính trình Chính phủ ban hành Nghị định hoặc Thông tư hướng dẫn về quy
định quản lý quỹ cố phần hóa Doanh nghiệp nhà nước. Đây là giải pháp, căn cứ pháp
lý quan trọng để thực hiện ngay cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước theo lộ trình và
kế hoạch đặt ra… Đồng thời, thực hiện kiểm tra những DN thuộc đối tượng cần phải
thoái vốn để xây dựng lộ trình thực hiện đạt mục tiêu đúng pháp luật, hiệu quả, không
để sai phạm, không để thất thoát trong quá trình thoái vốn…
Về những giải pháp cụ thể, ngay trong những tháng trước mắt, để tăng cường công
tác giám sát, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ Đề án xây dựng Tổng công ty giám sát
phần vốn tại DN, theo đó, sẽ xây dựng Tổng cục với chức năng, nhiệm vụ phù hợp
với yêu cầu hiện nay, phát triển để giám sát được một cách thường xuyên, định kỳ,
kịp thời phát hiện những bất cập, sai sót để phòng chống Bộ Tài chính đang trình
Chính phủ thông qua Đề án này và dự kiến phương án điều động một số nhân sự của
Bộ, hưởng lương Bộ Tài chính đến làm việc tại doanh nghiệp để thực hiện vai trò
giám sát phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp…
Nhóm cơ chế tài chính buộc các DN, tập đoàn, tổng công ty phải thực hiện minh
bạch, công khai tình hình tài chính, đặc biệt là đưa ra nhóm cơ chế để đảm bảo cho

Doanh nghiệp nhà nước phải cạnh tranh, phải lấy hiệu quả, phải đảm bảo quy định
pháp luật, Doanh nghiệp nhà nước phải cạnh tranh bình đẳng với các DN ngoài nhà
nước.
Tổ chức thực hiện, ví dụ như như thành lập cơ chế thành lập Tổng cục Giám sát vốn
và tài sản nhà nước tại tập đoàn, tổng công ty để quản lý hiệu quả hơn, quan trọng là
phòng chống thất thoát và sai phạm và toàn bộ hệ thống cơ chế đó phù hợp với kinh
tế thị trường có sự quản lý của nhà nước đảm bảo tính bình đẳng, minh bạch, hiệu quả
của phần vốn của Nhà nước.
15
16
KẾT LUẬN
Quá trình thử nghiệm mô hình hoạt động của các tổng công ty (90/91), tập đoàn kinh
tế Nhà nước ở nước ta trong nhiều năm qua đã bộc lộ nhiều lúng túng, vướng mắc cả
về tư duy quản lý lẫn cung cách quản trị doanh nghiệp (DN). Mặc dù tiến trình đổi
mới và cổ phần hóa DN Nhà nước đã khởi động khá lâu, từ con số hơn 12.000 DN
hiện giảm còn khoảng 1.300 DN, nhưng những vấn đề tồn tại, bất cập do khu vực
kinh tế này để lại vẫn rất nhức nhối, gây tác hại nhiều mặt đến hiệu quả tăng trưởng
kinh tế nói chung, đòi hỏi phải tư duy lại vai trò quản lý Nhà nước đối với DN và ứng
xử với thị trường nói chung.
Lựa chọn một mô hình quản lý thực sự hiệu quả cho khu vực kinh tế Nhà nước, trước
hết phải kiên định và đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa nhằm thu hút sự tham gia của
các nguồn lực xã hội hóa vào mở mang phát triển đất nước; thực hiện cơ chế công
khai hóa, minh bạch hóa và kiểm tra giám sát có hiệu lực; tách hẳn vai trò quản lý
Nhà nước ra khỏi vai trò điều hành kinh doanh nhằm hạn chế tình trạng lạm quyền,
thông đồng, lũng đoạn. Trên tinh thần như vậy, cần sớm chấm dứt mô hình bộ chủ
quản đứng ra làm chức năng quản lý DN. Thay vào đó là mô hình chuyên nghiệp thực
sự, thông qua cơ quan quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại DN, thực hiện đầu tư theo
những nguyên tắc của thể chế luật công ty cổ phần và triệt để tôn trọng quy luật thị
trường.
17

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Doanh nghiệp. Ban hành năm 2005.
2. Bộ Chính trị (khóa VII): Nghị quyết 10-NQ/TW.
3. Cải cách DNNN - thực tiễn Việt Nam và kinh nghiệm thế giới, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà nội.
4. Các trang web:
/> /> /> /> /> /> />cong-ty-nha-nuoc.aspx
18

×