Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP TRONG THỜI GIAN QUA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.24 KB, 4 trang )

THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC HIỆP HỘI
DOANH NGHIỆP TRONG THỜI GIAN QUA
2.1 Trước khi gia nhập WTO
2.1.1 Tình hình chung
Từ sau khi đất nước giải phóng, Đảng và nhà nước ta đã quan tâm, ban hành
Luật về hoạt động Hội năm 1975. Luật về hoạt động Hội ra đời tạo một điều kiện pháp
lý cho các Hiệp hội ra đời và sự tham gia của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, do tình hình
kinh tế thời gian đó còn rất khó khăn cho nên giải quyết tình hình kinh tế, đưa đất nước
phát triển nói chung và phát triển các doanh nghiệp nói riêng sao cho nâng cao đời sống
của người dân là một nhiệm vụ hàng đầu. Mặt khác, số lượng doanh nghiệp lúc này còn
rất ít chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước. Trong thời gian này, các Hiệp hội doanh
nghiệp chưa được ra đời nhưng vẫn tồn tại các câu lạc bộ, trung tâm tư vấn cho các
thành viên của doanh nghiệp hoạt động nhưng các câu lạc bộ này chiếm số lượng rất ít
đa số tồn tại dưới hình thức sinh hoạt Đoàn, Đảng, Công đoàn.
Trong thời kỳ trước đổi mới, khi cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung được áp
dụng ở nước ta, số lượng doanh nghiệp rất ít, chủ yếu là doanh nghiệp quốc doanh, mà
số lượng lúc cao nhất là thời điểm tháng 1/1990 cũng chỉ đạt trên 12.000 doanh nghiệp.
Kể từ năm 1986, khi Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi
mới tại nước ta, những điều kiện cần thiết cho sự ra đời của giới doanh nghiệp mới từng
bước hình thành. Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng, tháng 12/1990 Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua và ban hành Luật Doanh nghiệp
tư nhân và Luật Công ty, tạo hành lang pháp lý cho sự ra đời của hàng loạt các doanh
nghiệp và theo đó các hội doanh nghiệp cũng bắt đầu hình thành.
Do Chính phủ có chủ trương tạm dừng việc thành lập các Hội mới từ tháng
10/1990 (Thông báo số 5030/CCHC ngày 7/10/1996 của Văn phòng Chính phủ) mà
hàng loạt các Hiệp hội doanh nghiệp đã rất khó khăn trong giai đoạn này. Đây là
nguyên nhân chính khiến công tác đoàn kết, tập hợp doanh nghiệp và hội viên của
doanh nghiệp bị suy giảm, phong trào của các doanh nghiệp trong công tác Hội lúng
túng vì không có lối ra về tổ chức, các hội viên doanh nghiệp hoang mang về tư tưởng,
có người giảm sút lòng tin.
Theo điều tra, thì tốc độ phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam


từ tháng 10/1992 đến tháng 8/1993 đã tăng từ 2027 doanh nghiệp lên 9389 doanh
nghiệp (tăng 4,63 lần).
Số liệu thống kê doanh nghiệp theo Chỉ thị 667/TTg của Thủ tướng Chính phủ
cho thấy tại thời điểm ngày 1/4/1997 cả nước có:
- Gần 6000 doanh nghiệp quốc doanh.
- 25.517 doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
- 1.227.007 cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể.
Sau khi Luật Doanh nghiệp mới có hiệu lực thi hành năm 2000, số lượng doanh
nghiệp ngoài quốc doanh đã có sự phát triển mạnh mẽ. Theo số liệu của Tổng cục thống
kê, tại thời điểm tháng 8/2003 tổng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã lên tới 80.000
(tăng 40 lần so với năm 1992), trong đó có tới 29% tham gia vào các Hiệp hội doanh
nghiệp. Số lượng các Hợp tác xã sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ
đạt trên 20.000, số hộ kinh doanh cá thể đạt trên 2,5 triệu đơn vị. Do việc sắp xếp lại
các các doanh nghiệp quốc doanh, số lượng doanh nghiệp thuộc khối này đã giảm
xuống còn trên 5000 doanh nghiệp, nhưng số lượng các hiệp hội doanh nghiệp tăng lên
có khoảng 150 hiệp hội. Sự hình thành của các Hiệp hội doanh nghiệp nước ta là một
kết quả tất yếu của quá trình đổi mới kinh tế, với những thay đổi cơ bản về cơ chế quản
lý và cơ cấu nền kinh tế.
Năm 2006, Quốc hội thông qua Luật về Hội tạo điều kiện cho Hiệp hội doanh
nghiệp ngày càng phát triển nhất là về số hội viên. Về cơ bản, các Hiệp hội doanh
nghiệp có thể chia ra thành ba nhóm. Nhóm hội doanh nghiệp lớn, nhu cầu quan trọng
nhất là cung cấp thông tin về phương pháp quản lý. Với các hội doanh nghiệp trung
bình, việc gặp mặt đối thoại với cơ quan quản lý nhà nuớc mới được coi là cấp thiết
nhất. Trong khi đó, các hội doanh nghiệp nhỏ cho rằng họ rất cần sự hỗ trợ để phát triển
các dịch vụ mới cho hội viên.
Thời gian qua, một số Hiệp hội doanh nghiệp đã thể hiện rất rõ vai trò của mình
đối với các doanh nghiệp như Hiệp hội Thủy sản, Hiệp hội Dệt may, Hiệp hội da giầy
Việt Nam… Các hiệp hội này đã có nhiều tác động tích cực khi các doanh nghiệp vấp
phải các rào cản thương mại (chống trợ cấp, chống bán phá giá…)nhất là hiệp hội Thủy
sản.

Cho đến nay vẫn chưa có một số liệu thống kê chính xác về số lượng các hiệp
hội doanh nghiệp từ các cơ quan quản lý nhà nước. Con số thường được nhắc đến trong
báo cáo của Bộ Nội vụ là khoảng 320 hội các loại có phạm vi hoạt động trong toàn
quốc (trong đó, có 70 hội của các tổ chức kinh tế) và khoảng 2.150 hội hoạt động trong
phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Riêng trong phạm vi tỉnh, thành phố, theo một khảo sát chưa đầy đủ của Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), đến năm 2005 cả nước có 283 hiệp hội
doanh nghiệp hoạt động. Trong đó, tập trung chủ yếu tại các trung tâm kinh tế lớn như
Hà Nội có 78 hiệp hội (chiếm gần 28%), Tp.HCM: 42 (15%), Bà Rịa-Vũng Tàu: 13
(gần 5%), Đà Nẵng: 12 (4,2%)...
Số lượng hiệp hội tăng nhanh, đặc biệt là từ năm 2003, sau khi Chính phủ ban
hành Nghị định 88 về tổ chức, hoạt động và quản lý hội. Trước thời điểm này, theo ước
tính cả nước chỉ có khoảng 50 hiệp hội doanh nghiệp.
Không chỉ số lượng hiệp hội tăng mà số hội viên của các hiệp hội cũng tăng rất
mạnh. Theo điều tra, đối với 64 hiệp hội doanh nghiệp, trung bình vào thời điểm thành
lập những hiệp hội này có 212 hội viên nhưng đến năm 2006 con số này đã tăng lên 892
(tăng 425%). Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam khi thành lập có 271 hội viên, đến
nay đã có 7.301 hội viên (tăng 2.694%). Hội Nghề cá vào thời điểm thành lập có 7.000
hội viên, sáu năm sau, tức đến năm 2006 đã có 27.000 hội viên. Năm 1989, Hiệp hội
Doanh nghiệp Tp.HCM chỉ có 300 hội viên, đến nay đã có 3.000 hội viên...
Sự tăng nhanh của các hiệp hội doanh nghiệp và số lượng hội viên dù xuất phát
từ nhiều lý do khác nhau, nhưng cơ bản vẫn không nằm ngoài nhu cầu “buôn có bạn,
bán có phường” trong cuộc cạnh tranh kinh tế ngày càng tăng
Để chung sức đưa thị trường nhà đất thoát khỏi tình trạng đóng băng, các doanh
nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này đã lập ra Hiệp hội Bất động sản Tp.HCM. Chỉ
chưa đầy hai năm sau, đã có 300 doanh nghiệp xin tham gia hiệp hội.
Vai trò của Hiệp hội Dệt may Việt Nam cũng “nóng” lên qua những đợt cấp
quota dệt may xuất khẩu (“đấu” với Bộ Thương mại để tìm phương án cấp khả thi). Khi
giá cà phê thế giới tăng, giảm, chao đảo người ta lại hướng về những động thái của
Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam.

Nhưng bước ngoặt lớn nhất trong nhận thức về vai trò của hội nghề nghiệp có lẽ
phải đến năm 2003 với việc Vasep trở thành “bà đỡ” cho các doanh nghiệp bị đơn trong
vụ Mỹ kiện Việt Nam bán phá giá cá ba sa. Một Vasep năng nổ, cáng đáng những công
việc mà từng doanh nghiệp khó có thể kham nổi cũng như Nhà nước không có quyền
bao biện được như thuê luật sư, quyên góp tài chính, tổ chức “lobby”, hội thảo, tranh
thủ các nguồn lực khác... đã tạo nên một hình ảnh lạ, một tư duy mới về hiệp hội.
Các doanh nghiệp bắt đầu thấm thía: làm ăn thời hội nhập, càng không thể thiếu
“bạn”, thiếu “phường”! Tiến xa hơn một bước nữa, đến nay đã có bốn hiệp hội trực tiếp
tham gia với tư cách đại diện ủy quyền của các doanh nghiệp bị đơn trong các vụ kiện
chống phá giá như Hội Nghề cá Việt Nam, Hiệp hội Xe đạp - xe máy Việt Nam, Hiệp
hội Nhựa Tp.HCM, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Cà Mau. Riêng Hiệp hội
Xe đạp - xe máy Việt Nam tham gia tới hai vụ tranh chấp.
2.1.2 Tình hình hoạt động cụ thể
Nhìn chung, số lượng các Hiệp hội doanh nghiệp đã tăng lên nhiều, chất lượng
hoạt động cũng có nhiều thay đổi đáng kể. Các Hiệp hội doanh nghiệp đã dần dần
chứng tỏ vai trò của mình đối với các doanh nghiệpVới nỗ lực nâng cao năng lực tổ
chức hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp, tình hình phát triển mạng lưới của các
Hiệp hội đã có bước tiến nhảy vọt.
2.1.2.1 Về cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức chung của các Hiệp hội doanh nghiệp về cơ bản có một Hiệp hội
doanh nghiệp trung ương quản lý các Hiệp hội địa phương. Hoạt động của các Hiệp hội
địa phương đều thống nhất và có liên quan chặt chẽ với Trung ương. Các Hội trung

×