Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học tại trường cao đẳng sư phạm hà nội trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 91 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

BÙI CHÍNH

QUẢN LÝ ĐÀO TẠO HỆ VỪA LÀM VỪA HỌC TẠI TRƢỜNG CAO
ĐẲNG SƢ PHẠM HÀ NỘI TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI GIÁO DỤC
HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

THÁI NGUYÊN – 2014

1


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

BÙI CHÍNH

QUẢN LÝ ĐÀO TẠO HỆ VỪA LÀM VỪA HỌC TẠI TRƢỜNG CAO
ĐẲNG SƢ PHẠM HÀ NỘI TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI GIÁO DỤC
HIỆN NAY


Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số: 60.14.01.14

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS Đặng Quốc Bảo

THÁI NGUYÊN – 2014

2


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Thực hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục (GD) và đào
tạo (ĐT): “GD cho mọi người”;“Cả nước trở thành một xã hội học tập”, nền
GD đại học Việt Nam còn phải đáp ứng nhu cầu học tập, học thường xuyên,
học suốt đời ngày càng cao của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Văn kiện
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ: “Đẩy mạnh GD trong nhân dân bằng
các hình thức chính quy và khơng chính quy, thực hiện GD cho mọi người, cả
nước trở thành một xã hội học tập”. Luật Giáo dục khẳng định “Chương trình
giáo dục để lấy văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân theo hình thức vừa học
vừa làm, học từ xa, tự học có hướng dẫn”. Như vậy, cùng với GD đại học chính
quy, GD đại học khơng chính quy (trong đó có hệ VLVH) đã đóng vai trị quan
trọng trong việc thực hiện thắng lợi mục tiêu của chiến lược phát triển GD của
đất nước.

Giáo dục cao đẳng, đại học hiện nay hướng đến đạt mục tiêu “Đổi mới cơ
bản và toàn diện giáo dục đại học, tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng, hiệu
quả và qui mô, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa
(CNH-HDDH) đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và nhu cầu học tập của nhân
dân. Đến năm 2020, giáo dục đại học Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu
vực và tiếp cận trình độ tiên tiến trên thế giới, có năng lực cạnh tranh cao, thích
ứng với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (Trích Nghị quyết 14
của Chính phủ). Trong số nhiều nhiệm vụ và giải pháp dành cho giáo dục đại
học, có giải pháp đổi mới nội dung, phương pháp và qui trình đào tạo. Triển khai
đổi mới phương pháp đào tạo đại học theo 3 tiêu chí: “trang bị cách học, phát
huy tính chủ động của người học; sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông
trong hoạt động dạy và học; khai thác các nguồn tư liệu giáo dục mở và nguồn tư
liệu trên internet; lựa chọn, sử dụng các chương trình, giáo trình tiên tiến của các
nước v.v.” Tất cả những điều trên đều là thách thức không nhỏ đối với đào tạo
3


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>
đại học, trong đó có đào tạo hệ vừa học vừa làm (lâu nay vẫn gọi là đào tạo tại
chức). Không chỉ thế, việc Việt Nam gia nhập WTO vừa qua cũng tạo cho giáo
dục đại học Việt Nam những cơ hội và thách thức mới. Cơ hội của giáo dục đại
học có thể là:
-Được tiếp cận với các nền giáo dục đại học tiên tiến, có khả năng học hỏi,
tiếp thu những yếu tố tiên tiến phù hợp với truyền thống của giáo dục đại học
Việt Nam, làm cơ sở cho sự nghiệp đổi mới giáo dục đại học Việt Nam, hội nhập
với giáo dục đại học thế giới.
-Việc Việt Nam gia nhập WTO cũng thúc đẩy tiến trình đổi mới giáo dục đại
học nhanh hơn, đồng bộ hơn và hiệu quả hơn. Những thách thức của giáo dục

đại học dường như cũng lớn hơn:
- Cạnh tranh trong lĩnh vực giáo dục đại học sẽ gay gắt hơn, với nhiều đối
thủ hơn ngay trênđất nước Việt Nam.
-Trong bối cảnh mới đầy biến động, giáo dục đại học Việt Nam vẫn phải gìn
giữ bản sắc dân tộc, định hướng xã hội chủ nghĩa trong đào tạo nguồn nhân lực
phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Hệ đào tạo vừa học vừa làm hiện
tại cũng đang nỗ lực phấn đấu hướng tới mục tiêu chung của ngành giáo dục đào
tạo.
Là một trường cao đẳng có uy tín và truyền thống lâu đời, Trường Cao
đẳng Sư Phạm Hà Nội (CĐSPHN) có sứ mệnh là một trong những trung tâm đào
tạo, bồi dưỡng giáo viên Trung học cơ sở, giáo viên Tiểu học, giáo viên Mầm
non có chất lượng cao của Thủ đô; là cơ sở nghiên cứu khoa học, ứng dụng,
chuyển giao công nghệ, cung cấp nguồn nhân lực cho sự nghiệp giáo dục và các
lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội phục vụ sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước. Bên cạnh nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng giáo viên
Trung học cơ sở, giáo viên Tiểu học, giáo viên Mầm non có trình độ Cao đẳng
hệ chính qui. Trường cịn đào tạo, liên kết đào tạo, bồi dưỡng các nguồn nhân
lực có trình độ Trung cấp, Cao đẳng, Đại học các chuyên ngành sư phạm và các
4


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>
chuyên ngành khác hệ vừa làm vừa học (VLVH). Công tác đào tạo hệ VLVH là
một nhiệm vụ quan trọng của trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội cần phải được
tổ chức tốt và không ngừng nâng cao chất lượng nhằm đáp ứng nhu cầu của
xã hội về nguồn nhân lực. Tuy nhiên nhìn từ góc độ khoa học quản lý đối với
hệ VLVH, trong bối cảnh đổi mới GD hiện nay, cịn có nhiều vấn đề cần được
nghiên cứu, khảo sát như tư duy quản lý, chu trình quản lý, các thành tố quản

lý, năng lực quản lý v.v...

Mặt khác, công tác quản lý ĐT hệ VLVH ở

Trường CĐSPHN còn bộc lộ những bất cập như đội ngũ cán bộ quản lý chưa
đồng bộ, thiếu những chính sách nhất quán trong QLGD, còn hạn chế trong việc
tiếp cận với khoa học công nghệ hiện đại như ứng dụng công nghệ thông tin vào
quản lý trường học v.v…
Xuất phát từ tình hình thực tế trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Quản lý
đào tạo hệ vừa làm vừa học tại Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội trong bối
cảnh đổi mới giáo dục hiện nay” với hy vọng đề xuất được một số biện pháp
cơ bản nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác quản lý đào tạo hệ
vừa làm vừa học ở Trường Cao đẳng sư phạm Hà Nội.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học tại trường
Cao đẳng Sư phạm Hà Nội trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Quá trình đào tạo hệ vừa làm vừa học ở Trường
Cao đẳng Sư phạm.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học ở Trường Cao
đẳng Sư phạm Hà Nội.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Việc quản lý quá trình đào tạo hệ vừa làm vừa học ở trường Cao đẳng Sư
phạm Hà Nội trong những năm qua đã đáp ứng được yêu cầu cơ bản của loại
hình đào tạo này, song chất lượng chưa thực sự đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
5


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


/>
của xã hội. Nếu đề xuất được các biện pháp quản lý theo hướng đổi mới, tăng
cường liên kết đào tạo sẽ nâng cao hiệu quả đào tạo hệ vừa học vừa làm ở trường
Cao đẳng Sư phạm Hà Nội trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay.
5.Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
5.1.Nhiệm vụ nghiên cứu:
-Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học
-Phân tích, đánh giá thực trạng về công tác đào tạo và quản lý đào tạo hệ
vừa làm vừa học tại trường CĐSPHN
-Đề xuất giải pháp quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học tại trường
CĐSPHN
5.2. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu khảo sát thực trạng công tác quản lý đào tạo hệ VLVH tại
Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội 03 năm gần đây (2010-2013).
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu, phân tích, hệ thống hóa
các tài liệu, các vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn : tìm hiểu, khảo sát, điều tra, tổng
kết kinh nghiệm thực tiễn…sau đó phân tích, tổng hợp đánh giá thực trạng vấn
đề nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu khác: phương pháp chuyên gia, phương pháp
tổng kết kinh nghiệm, phương pháp thống kê xử lý số liệu.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài Phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học
Chương 2: Thực trạng quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học tại trường Cao đẳng
Sư phạm Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học tại trường Cao
đẳng Sư phạm Hà Nội.


6


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ ĐÀO TẠO HỆ VỪA LÀM VỪA HỌC

1.1. Sơ lƣợc lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu ngoài nƣớc
Xuất phát từ quan điểm nền giáo dục thời đại mới phải dựa trên 4 yêu cầu:
học để biết, học để làm, học để xây dựng nhân cách và học để chung sống với
đồng loại. Ủy ban quốc tế về giáo dục thế kỉ XXI đã vạch ra nguyên tắc xây
dựng nền giáo dục trước mắt và cho những năm sắp tới đó là học suốt đời hay
nói khác đi là giáo dục suốt đời.
Bản tuyên ngôn tại Hội nghị thế giới lần thứ V về giáo dục người lớn, giáo
dục vừa làm vừa học, tổ chức tại thành phố Hamburg Cộng hòa liên bang Đức
tháng 7 năm 1997 đã khẳng định: giáo dục người lớn (hệ vừa làm vừa học) tuy
khác nhau về tổ chức, tùy theo sự phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục ở
mỗi nước, song giáo dục người lớn đều là những bộ phận quan trọng, cần thiết
của quan niệm mới về giáo dục và học tập suốt đời.
Unesco, với tư cách là một cơ quan của Liên Hiệp Quốc, trong lĩnh vực
văn hóa, khoa học, giáo dục đã khuyến nghị “Giáo dục cần giữ vai trò chủ đạo
trong việc đẩy mạnh giáo dục hệ vừa học vừa làm như một bộ phận không thể
thiếu của hệ thống giáo duc mỗi quốc gia” [ 58,38].
Hội nghị lần thứ III, khu vực Châu Á - Thái Bình Dương về giáo dục
thường xuyên do Unesco tổ chức tại KualaLumpur, Malaysia từ ngày 19 đến
ngày 28 tháng 8 năm 1996, qua đó đã thể hiện sự quan tâm của các nước về

giáo dục hệ vừa làm vừa học. Hội nghị đã thừa nhận sự đóng góp to lớn của hệ
VLVH đối với việc nâng cao dân trí và đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển
kinh tế xã hội, phát triển cá nhân, xóa đói giảm nghèo và bảo vệ mơi trường,
đồng thời khẳng định vai trị của giáo dục vừa học vừa làm là chìa khóa bước
vào thế kỷ XXI.
7


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>
Thực tế, ngay từ năm 1949 tại Ensinore (Đan Mạch) người ta đã bàn đến
giáo dục cho người lớn. Năm 1960 tại Montreal (Canada) đã mở hội nghị bàn
nhiều về việc làm thế nào để xóa mù chữ cho người lớn tuổi ở các nước mới
dành được độc lập và tạo cho người lớn tuổi vừa đi làm vừa có thể được học.
Năm 1972 tại Tokyo (Nhật Bản), người ta bàn nhiều về dân chủ trong giáo dục
và giáo dục cho người lớn là một nhân tố quan trọng cho việc đẩy mạnh sự phát
triển kinh tế - xã hội cho từng quốc gia. Năm 1997 tại Hamburg (Đức) trong xu
thế tồn cầu hóa, người ta lại bàn nhiều đến giáo dục cho người lớn với các ý
tưởng: Giáo dục người lớn vừa làm vừa học để thừa nhận chân giá trị của con
người; Giáo dục vừa làm vừa học khơng chỉ để tạo điều kiện bình đẳng giữa
người và người mà còn coi đây là nguồn lực lao động có chất lượng giúp cho
KT-XH phát triển và vừa làm vừa học cũng chính là để cải tạo xã hội hướng
đến việc học suốt đời trong xây dựng xã hội học tập.
1.1.2. Nghiên cứu trong nƣớc
Đào tạo theo hình thức vừa làm vừa học là một vấn đề đang được
cả xã hội quan tâm, đặc biệt là đào tạo vừa làm vừa học tại các cơ sở liên
kết của các trường đại học nói chung. Trong thời gian qua đã có rất nhiều
cuộc hội thảo cấp quốc gia và cấp vùng miền cũng như tại các trường đại học,
có cả sự tham gia của các tổ chức nước ngoài về thực trạng đào tạo hệ vừa

làm vừa học nói chung và hệ vừa làm vừa học tại các cơ sở liên kết nói riêng
để từ đó tìm ra giải pháp nâng cao chất lượng của hệ đào tạo này.
Đã có rất nhiều bài báo hoặc những bài viết của trực tiếp những
người đang công tác trong ngành giáo dục được đăng tải đề cập đến chất
lượng của việc đào tạo hệ vừa làm vừa học tại các trường đại học và tại các
cơ sở liên kết.
Bộ Giáo dục và đào tạo vẫn thường xuyên tổ chức tổng kết rút kinh
nghiệm đào tạo tại chức (vừa làm vừa học). Đã có rất nhiều ý kiến xung
quanh vấn đề này được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng.
8


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>
Nhiều ý kiến phản đối yêu cầu giảm thiểu đáng kể tiến tới loại bỏ hồn tồn
loại hình đào tạo này. Bên cạnh đó là đại đa số ý kiến ủng hộ chủ trương của
Bộ Giáo dục và đào tạo tiếp tục cho đào tạo và phát triển loại hình đào tạo này
được đưa ra. Giáo sư Phạm Phụ -Thành viên Hội đồng Giáo dục Quốc gia,
trong bài trả lời phỏng vấn của phóng viên đài RFA đã nói: "Tôi không nghĩ
dừng lại việc đào tạo tại chức để củng cố đại học chính quy đã là tốt vì tơi
nghĩ đây là nhu cầu rất chính đáng của xã hội, vì bên cạnh những người
theo học cần bằng cấp để lên chức thì cũng có một số khá đơng có nhu cầu
học tập thực sự, cho nên khơng nên đặt vấn đề là ngưng đào tạo tại chức
nhưng phải có ngay một loạt các chính sách để quản lý có hiệu quả".
Liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu quản lý đào tạo hệ VLVH, đã có
nhiều tác giả đã bàn nhiều đến vấn đề công tác quản lý đào tạo, chú ý đến
các biện pháp bồi dưỡng những kỹ năng nghề nghiệp cho cán bộ quản lý và
các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng đào tạo của hệ VLVH v.v...
Đó là các bài báo, các luận văn thạc sĩ nghiên cứu về vấn đề này, có thể kể tên

một số cơng trình như sau: Nâng cao chất lượng đào tạo tại chức/ Phan Huy
Hiền - Nhân dân - 2002 - Số 17028 - Tr.1; Nhu cầu và biện pháp cho phương
thức GD khơng chính quy / PGS.TS.Trịnh Minh Tứ, Th.s. Lê Hải Yến – Giáo
dục & Đào tạo CN - 2002 - Số 11 - Tr. 1 & 5; Biện pháp quản lý quá trình đào
tạo hệ vừa học vừa làm ở trường CĐSPHN - Luận văn Thạc sĩ khóa 2007 2009 của Vũ Thị Gấm - Trường Cao đẳng Kinh tế Công nghiệp Hà Nội; Biện
pháp quản lý đào tạo hệ vừa làm vừa học tại các cơ sở liên kết đào tạo của
trường ĐH Nơng nghiệp Hà Nội - Luận văn thạc sĩ khóa 2007 - 2009 của
Nguyễn Khánh Thọ - Trường ĐH Nông nghiệp Hà Nội; Hồn thiện quy trình
đào tạo cử nhân hệ Tại chức ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền - Luận văn
Thạc sĩ khóa 2004-2006 của Phạm Trung Kiên – Học viện Báo chí và Tuyên
truyền v.v...
Trong phạm vi cho phép, tác giả chỉ đề cập đến vấn đề quản lý đào tạo
9


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>
hệ VLVH tại Trường Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội. Đây là một vấn đề chưa có
tác giả nào nghiên cứu. Từ thực tế của hoạt động đào tạo và những kết quả
nghiên cứu đạt được, tác giả hy vọng có thể đưa ra những biện pháp quản
lý đào tạo hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo hệ VLVH của
Trường Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Khái niệm về quản lý
Quản lý là một hiện tượng xã hội đặc biệt xuất hiện từ rất sớm và là một
nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội. C.Mác đã nói: “Bất cứ lao động xã
hội trực tiếp hay lao động chung nào mà tiến hành trên một qui mô khá lớn đều
yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân. Sự chỉ
đạo đó phải là những chức năng chung, tức là những chức năng phát sinh từ sự

khác nhau giữa sự vận động chung của cơ thể sản xuất với những vận động cá
nhân của những khí quan độc lập hợp thành cơ thể sản xuất đó. Một nhạc sĩ độc
tấu thì tự điều khiển lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì cần phải có một nhạc
trưởng”. [37, 5].
Sự phát triển của xã hội loài người dựa vào ba yếu tố cơ bản, đó là tri thức,
sức lao động và trình độ quản lý. Quản lý là sự tổ chức, điều hành, kết hợp vận
dụng tri thức với việc sử dụng sức lao động để phát triển sản xuất xã hội.
Tuy tư tưởng về quản lý đã có từ rất lâu, từ khi con người được xã hội
hóa nhưng khoa học quản lý lại chỉ mới phát triển thành một khoa học thực sự từ
đầu thế kỷ XX. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm quản lý, tùy theo
góc độ, quan điểm và phương pháp tiếp cận.Nhiều nhà nghiên cứu đã xem quản
lý là cai quản, cai trị, quản trị, lãnh đạo, chỉ huy, chỉ đạo, kiểm soát, điều khiển,
điều chỉnh v.v...Sau đây là một số định nghĩa tiêu biểu:
- Frederick Winslow Taylor (1856 – 1915) là người đề xuất thuyết “Quản
lý khoa học” cho rằng: “Quản lý là biết được chính xác điều mình muốn người
10


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>
khác làm và sau đó thấy được rằng họ đã hồn thành cơng việc một cách tốt nhất
và rẻ nhất” [37, 21].
- Các nhà khoa học Harold Koontz, Cyril Odonell và Heinz Weihrich
trong cuốn “Những vấn đề cốt yếu của quản lý” [18] cho rằng: “Quản lý là hoạt
động thiết yếu của nhà quản lý đảm bảo sự phối hợp, sự nỗ lực của mỗi cá nhân
trong tổ chức nhằm đạt đến một mục tiêu nhất định trong những điều kiện thời
gian, cơng sức và kinh phí bỏ ra ít nhất nhưng đạt hiệu quả cao nhất”.
- Pall Hersey và Ken Blanc Hard trong cuốn “Quản lý nguồn nhân lực”
[47]: Quản lý như là một quá trình làm việc cùng và thơng qua các cá nhân, các

nhóm cũng như các nguồn lực khác để hình thành các mục đích của tổ chức.
Theo Đại bách khoa tồn thư Liên xơ, 1977, quản lý là chức năng của
những hệ thống có tổ chức với bản chất khác nhau (xã hội, sinh vật, kỹ thuật), nó
bảo tồn cấu trúc xác định của chúng, duy trì chế độ hoạt động, thực hiện những
chương trình, mục đích hoạt động [37, 7].
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu về khoa học quản lý đều nhấn mạnh các
yếu tố: chủ thể quản lý, khách thể và mục tiêu quản lý, đồng thời khẳng định
rằng: Quản lý là một hoạt động mà trong đó con người vừa là chủ thể vừa là
khách thể quản lý. Trong cuốn “Tâm lý học trong quản lý nhà nước”- Học viện
hành chính quốc gia 1993, tác giả Mai Hữu Khuê nêu rõ “ Hoạt động quản lý là
một dạng lao động đặc biệt của người lãnh đạo, mang tính tổng hợp của các
dạng lao động trí óc liên kết bộ máy thành một chỉnh thể thống nhất, điều hoà,
phối hợp các khâu quản lý và các cấp quản lý hoạt động nhịp nhàng đưa đến
hiệu quả cao”. [33]
Theo tác giả Nguyễn Bá Sơn: “ Một số vấn đề cơ bản về khoa học quản
lý” 2000 - NXB chính trị quốc gia Hà Nội thì “Quản lý là sự tác động có hướng
đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý bằng một hệ thống các giải pháp

11


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>
nhằm thay đổi trạng thái của đối tượng quản lý, đưa hệ thống tiếp cận mục tiêu
cuối cùng, phục vụ mục đích của con người”[52, 5].
Như vậy, khi bàn về quản lý , các tác giả đều có quan điểm thống nhất
chung là: Quản lý là quá trình tác động có mục đích của chủ thể quản lý đối với
khách thể (đối tượng) quản lý về mặt chính trị, văn hoá, kinh tế xã hội…bằng
một hệ thống các luật lệ, chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các

biện pháp có thể nhằm tạo ra mơi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối
tượng.
Hoạt động quản lý về bản chất là tác động (bằng tổ chức, điều khiển và chỉ
huy) hợp qui luật của chủ thể quản lý đến đối tượng và khách thể quản lý nhằm
làm cho tổ chức vận hành đạt mục tiêu đã đề ra với hiệu quả mong muốn. Hoạt
động quản lý được thể hiện qua sơ đồ 1.1 dưới đây, trong đó :
- Khách thể quản lý: Các đối tượng được quản lý.
- Công cụ quản lý: Các quyết định quản lý, thông tin quản lý.
- Phương pháp quản lý: Các cách thức tác động của chủ thể lên khách thể
quản lý.
- Mục tiêu quản lý: Là trạng thái được xác định trong tương lai của đối
tượng quản lý.
- Chủ thể quản lý: Có thể là một cá nhân, một nhóm, một tổ chức.
Công cụ
quản lý
Đối tượng, khách
thể quản lý

Chủ thể
quản lý

Phương pháp
quản lý
Sơ đồ 1.1: Mơ hình hoạt động quản lý.
12

Mục
tiêu



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>
Quản lý có bốn chức năng: Kế hoạch hóa; tổ chức; chỉ đạo, điều hành
;kiểm tra: Các chức năng trên, có mối liên quan chặt chẽ với nhau, đan xen lẫn
nhau tạo thành một chu trình quản lý. Khi thực hiện chức năng này, thường cũng
có mặt các chức năng khác ở mức độ khác nhau.
Kế hoạch
hố

Thơng
tin

Kiểm tra

Tổ chức

Chỉ đạo
Sơ đồ 1.2: Mối quan hệ giữa các chức năng quản lý
1.2.2. Giáo dục và quản lý giáo dục
1.2.2.1. Giáo dục
Giáo dục (theo nghĩa rộng) là quá trình tác động có mục đích, có tổ
chức, có kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa học của nhà giáo
dục tới người được giáo dục tại các cơ sở giáo dục nhằm hình thành nhân cách
cho họ.
Giáo dục (theo nghĩa hẹp) là quá trình hình thành cho người được giáo
dục lí tưởng, động cơ, tình cảm, niềm tin, những nét tính cách của nhân cách,
những hành vi, thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội thông qua việc tổ chức
cho họ các hoạt động và giao lưu.
1.2.2. Quản lý giáo dục

QLGD là một bộ phận của hệ thống quản lý xã hội. QLGD là những tác
động có hệ thống có ý thức hợp quy luật của chủ thể quản lý ở các cấp khác
nhau lên tất cả các mắt xích của hệ thống giáo dục nhằm đảm bảo cho hệ thống
giáo dục vận hành bình thường và liên tục phát triển, mở rộng cả về số lượng
cũng như chất lượng.
13


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>
1.2.3. Đào tạo và quản lý đào tạo
1.2.3.1. Đào tạo
Đào tạo và bồi dưỡng là hai quá trình tác động đến con người, nhằm trang
bị mới hoặc trang bị thêm kiến thưc, kỹ năng cho mỗi con người với mục đích
hồn thiện, nâng cao khả năng hoạt động nghề nghiệp và các hoạt động sống cho
mỗi con người, với mục đích hồn thiện hoạt động thực tiễn trong mỗi lĩnh vực
nhất định.
Theo Mạc Văn Trang, trong đề cương bài giảng Quản lý nhân lực “Đào
tạo là quá trình hình thành kiến thưc, thái độ, kỹ năng chuyên môn, nghề nghiệp
được huấn luyện có hệ thống theo chương trình qui định (chuẩn quốc gia hoặc
quốc tế) để người học sau một khoảng thời gian đào tạo có được trình độ chuyên
môn, năng lực và kiến thức đáp ứng yêu cầu công việc được giao”
Đào tạo là một hoạt động được tổ chức có hệ thống để trang bị cho người
lao động nhận thức, kỹ năng tay nghề và động lực thực hiện công việc. Đào tạo
giúp trang bị cho con người cách thức và kỹ năng thực tiễn, nó giúp cho người
lao động thực hiện tốt hơn các công việc hiện tại.
Như vậy đào tạo theo nghĩa trên, cần phải có lượng thời gian phù hợp và
kinh phí đầu tư thích hợp, do đó cần phải có lộ trình, kế hoạch đào tạo hợp lý,
nhất là kinh phí và các chính sách của Đảng và Nhà nước.

Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, kiến thức con
người ngày càng được nâng cao để nắm bắt tri thức mới, đào tạo trở thành nhiệm
vụ quan trọng của các nhà quản lý.
1.2.3.2. Quản lý đào tạo
a)Quản lý đào tạo là một hệ thống những tác động có mục đích, có kế
hoạch hợp với qui luật của chủ thể quản lý, nhằm làm cho hệ thống giáo dục
đào tạo vận hành theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước.
Quản lý đào tạo là quá trình “quản lý các hoạt động của giáo viên và học
14


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>
sinh sinh viên trong việc thực hiện kế hoạch và nội dung chương trình đào tạo
của nhà trường” [56,11], nhằm làm cho con người hướng đến việc nắm vững
những tri thức, kĩ năng, kỹ xảo…một cách có hệ thống, nhằm chuẩn bị cho
người học thích nghi với cuộc sống, để chuẩn bị đảm nhận công việc phân
công lao động mới, góp phần vào việc phát triển chung cho xã hội.
Đối tượng của quá trình quản lý đào tạo : “là hoạt động của giáo viên,
học sinh sinh viên và các tổ chức sư phạm của nhà trường trong việc thực hiện
các kế hoạch và chương trình đào tạo nhằm đạt được mục tiêu đào tạo đã qui
định”[56,9]. Quá trình đào tạo ở đây được xem là quá trình dạy học và quá
trình giáo dục (theo nghĩa hẹp), là bộ phận cấu thành chủ yếu nhất trong toàn
bộ hoạt ddộng của nhà trường. Do đó, quản lý q trình đào tạo là một bộ phận
chủ yếu trong tồn bộ cơng tác quản lý nhà trường.
Như vậy, quản lý đào tạo về thực chất là quản lý: Mục tiêu đào tạo, nội
dung đào tạo, phương pháp đào tạo, lực lượng đào tạo, đối tượng đào tạo, hình
thức tổ chức đào tạo, điều kiện đào tạo, môi trường đào tạo, quy chế đào tạo,

bộ máy tổ chức đào tạo.
Quản lý đào tạo có nội hàm rộng hơn quản lí quản lý q trình đào tạo.
Nếu quản lý quá trình đào tạo được bắt đầu từ khâu xác định mục tiêu đào tạo và
kết thúc ở sản phẩm đào tạo thì quản lý đào tạo bắt đầu từ khâu tuyển sinh (theo
yêu cầu xã hội) và kết thúc ở sản phẩm đào tạo. Quản lý đào tạo bao gồm quản lí
khâu tuyển sinh và quản lí các thành tố của q trình đào tạo. Nhân lõi của quản
lý đào tạo chính là quản lí q trình đào tạo. Như vậy: quản lý đào tạo là quản lí
hệ thống các thành tố có liên quan mật thiết đến đào tạo từ khâu tuyển sinh đến
sự vận hành của tổ hợp các thành tố bao gồm: mục tiêu đào tạo, xác định nội
dung chương trình đào tạo, tổ chức hoạt động đào tạo diễn ra trong môi trường
đào tạo nhằm đạt được kết quả đào tạo đáp ứng yêu cầu xã hội.
b) Biện pháp quản lí đào tạo
* Biện pháp: Theo Từ điển Tiếng Việt: “Biện pháp là cách thức xử lí cơng
15


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>
việc hoặc giải quyết vấn đề” [56]. Biện pháp được hiểu là: Cách thức xử lí một
cơng việc hoặc giải quyết một vấn đề, làm cho nó trở nên tốt hơn, hồn thiện
hơn.
* Biện pháp quản lí đào tạo: Là cách thức quản lí hệ thống các thành tố có
liên quan mật thiết đến đào tạo từ khâu tuyển sinh đến quản lí sự vận hành tổ
hợp các thành tố từ mục tiêu đào tạo, xác định nội dung chương trình đào tạo, tổ
chức hoạt động đào tạo diễn ra trong môi trường đào tạo nhằm đạt được kết quả
đào tạo đáp ứng yêu cầu xã hội.
c)Các thành tố của quản lí đào tạo
Chúng tơi cho rằng quản lí đào tạo là quản lí một hệ thống tồn vẹn gồm
12 thành tố (trong đó thành tố Người dạy trở thành Hoạt động dạy, thành tố

Người học trở thành Hoạt động học trong quản lí đào tạo); các thành tố này có
mối quan hệ tương tác với nhau, có thể biểu diễn trong sơ đồ 1.3 dưới đây:

HT
HĐD

YCXH

ĐK

MT

HĐH

QUẢN

QC, MTr



KTĐG

NDCTr

SPĐT

PP

BM


YCXH: Yêu cầu xã hội

QLĐK: Quản lí điều kiện (vật lực, tài lực,

QLMT: Quản lí mục tiêu đào tạo

thơng tin lực, lực lượng ngồi đội ngũ

QLNDCTr: Quản lí nội dung, chương giảng dạy)
trình đào tạo

QLQC,MTr: Quản lí quy chế, Mơi trường

QLPP: Quản lí phương pháp đào tạo

đào tạo

QLHĐD: Quản lí hoạt động dạy

QLBM: Quản lí bộ máy tổ chức đào tạo.
16


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>
QLHĐH: Quản lí hoạt động học

QLKTĐG: Quản lí kiểm tra, đánh giá đào


QLHT: Quản lí hình thức đào tạo

tạo
QLSPĐT: Quản lí sản phẩm đào tạo

Sơ đồ 1.3: Mối quan hệ giữa các thành tố của QLĐT
1.3. Tầm quan trọng của hệ vừa làm vừa học và quản lý đào tạo hệ vừa làm
vừa học ở các trƣờng cao đẳng, đại học sƣ phạm
1.3.1.Tầm quan trọng của hệ vừa làm vừa học
Hệ đào tạo VLVH là hình thức đào tạo có lịch sử ra đời khá lâu ở Việt
Nam cũng như trên thế giới. Hình thức đào tạo này vừa đáp ứng nhu cầu học tập
suốt đời, nâng cao chuyên môn, tay nghề của người học vừa đáp ứng nhu cầu
của các ngành nghề trong xã hội, góp phần nâng cao dân trí. Lịch sử đào tạo hệ
VLVH ( hệ tại chức cũ) của Việt Nam đã có thâm niên gần 50 năm. Đ ng như
tên gọi của nó, thành tích đào tạo của bậc khơng chính quy này đã góp phần
gi

đất nước có thêm nhiều cán bộ nâng cao năng lực, trình độ chun mơn

trong q trình cơng tác. Trong điều kiện kinh tế, xã hội Việt Nam những năm
chiến tranh và sau khi thống nhất đất nước thì đây là giải pháp tốt cho việc nâng
cao trình độ nguồn nhân lực phục vụ cho việc kiến thiết đất nước. Cũng từ đó
đến nay, hệ đào tạo này ngày càng phát huy khả năng vốn có của nó, mà ưu thế
lớn nhất là tạo điều kiện cho mọi người được tham gia học tập suốt đời, hình
thành xã hội học tập.
Trước xu thế và nhịp độ phát triển nhanh chóng về kinh tế xã hội của đất
nước hiện nay, ngành Giáo dục - Đào tạo đang đứng trước nhiều thách thức lớn,
đó là, đào tạo được nguồn nhân lực đảm bảo về số lượng và chất lượng cao,
chuẩn bị nguồn nhân lực cho đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hệ VLVH là một mơ hình giáo dục nhằm tạo cơ hội học tập thuận lợi cho toàn

xã hội, đào tạo nguồn nhân lực cho địa phương. Nhờ cách làm này nhiều người
ở vùng sâu, vùng xa, nhiều người ở mọi lứa tuổi, mọi hoàn cảnh cũng có thể
tham gia học tập, học thường xuyên, học suốt đời nhằm mở rộng nâng cao tầm
17


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>
hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên mơn, nghiệp vụ để cải thiện chất
lượng cuộc sống, có điều kiện làm việc và thích nghi với đời sống xã hội.
Đối với xã hội và các địa phương, với quy mô đào tạo ngày càng tăng, hệ
vừa làm vừa học đã đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực của sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, là hình thức để chính quyền quản
chẽ nguồn đào tạo, đảm bảo sau khi tốt nghiệp người học sẽ ở lại phục vụ tại
chỗ, cải thiện nguồn nhân lực cho địa phương. Hệ vừa làm vừa học cịn góp
phần khuyến khích học tập, hình thành “ xã hội học tập” tại địa phương.
Đối với người học, hệ đào tạo vừa làm vừa học tạo cơ hội học tập suốt
đời cho tất cả mọi người trong xã hội, góp phần nâng cao trình độ đội ngũ cán
bộ, viên chức trong bộ máy nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội; tạo cơ hội
cho những người không có điều kiện theo học hệ chính quy được học tập theo
nguyện vọng của mình. Đây là hình thức học tập phù hợp với hoàn cảnh cụ thể
của từng người, vừa thực hiện nguyện vọng nâng cao trình độ vừa có thể cơng
tác, tiết kiệm thời gian và tiền bạc cho quá trình học tập khi các lớp đào tạo hệ
vừa làm vừa học được mở tại các địa phương hay địa bàn công tác.
Đối với các trường đại học, cao đẳng, bên cạnh giảm được áp lực về cơ
sở vật chất vốn còn thiếu thốn hiện nay, đào tạo hệ vừa làm vừa học là một dịp
để các trường gắn đào tạo với nhu cầu xã hội, trường học gần hơn với thực tiễn
địa phương, đáp ứng nhu cầu nghề nghiệp và nhu cầu nâng cao trình độ của
nhân dân. Các trường đại học, cao đẳng đã nhờ vào nguồn kinh phí đào tại tại

chức mà cải thiện được thu nhập cho cán bộ, giảng viên trong điều kiện ngân
sách nhà nước còn eo hẹp như hiện nay.
1.3.2. Những đặc điểm chính của hệ đào tạo VLVH
Đào tạo VLVH thuộc phương thức giáo dục khơng chính quy trong hệ
thống giáo dục quốc dân. Đây là hình thức đào tạo mà trong đó phần lớn thời
gian học viên vừa phải học, vừa phải làm, đòi hỏi người học tự giác, kiên trì và
quyết tâm cao để hồn thành chương trình học tập của mình.
18


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>
Sự phối hợp này được thực hiện trên cơ sở cơ chế phân công nhiệm vụ và
hợp đồng đào tạo đối với từng khâu của quá trình đào tạo: tuyển sinh, đào tạo,
sau đào tạo.
Về chương trình đào tạo theo hình thức VLVH thì Quy chế đào tạo Đại
học và Cao đẳng hình thức VLVH số 36/2007/QĐ-BGDĐT điều 2 có nêu:
Chương trình VLVH trình độ đại học

cao đẳng được các trường xây dựng

trên cơ sở chương trình hệ chính quy. Nội dung chương trình VLVH phải đảm
bảo các yêu cầu về nội dung của chương trình hệ chính quy cùng trình độ đào
tạo.
Mục đích của đào tạo đại học hình thức VLVH bao gồm:
- Tạo nguồn nhân lực có trình độ đại học, có năng lực nhận thức tốt cả về
lý luận và thực tiễn; cung ứng, bổ sung kịp thời nguồn nhân lực cho những yêu
cầu mới trong phát triển Kinh tế - xã hội của địa phương; nâng cao kiến thức khoa học kỹ thuật - nghiệp vụ cho mọi đối tượng trong xã hội.
- Khẳng định hiệu quả đào tạo của bất cứ hình thức nào (chính quy hay phi

chính quy) là phải đáp ứng được yêu cầu của xã hội, của người sử dụng lao
động (đây cũng là mục tiêu, yêu cầu đổi mới cả cách giáo dục nói chung, đào
tạo Đại học nói riêng thông qua việc thực hiện quản lý đào tạo bằng hình thức
học chế tín chỉ).
- Xây dựng một xã hội học tập theo tư tưởng của Hồ Chí Minh; theo quan
điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ phát triển hội nhập; đồng
thời phù hợp với quan điểm của tổ chức giáo dục khoa học và văn hóa Liên hợp
quốc UNESCO với 4 mục đích của giáo dục: Học để biết, Học để làm việc,
Học để tự khẳng định mình, Học để cùng chung sống.
1.3.3. Thực trạng đào tạo hệ VLVH tại các trƣờng cao đẳng, đại học
Việt Nam
Việt Nam đã chính thức cơng bố: tiến tới một xã hội học tập. Nói cho dễ
hiểu, đó là một xã hội mà người dân có cơ hội học tập suốt đời. Trong bất cứ giai
19


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>
đoạn nào của cuộc đời, người dân cũng có điều kiện học tập, để nâng cao trình
độ nghề nghiệp theo kịp với đà tiến như vũ bão của công nghệ thông tin hiện
đại. Hệ đào tạo tại chức các cấp học trở thành cái xương sống cho xã hội học
tập phát triển, và chính hệ đào tạo này ở Việt Nam lại bị xã hội xem nhẹ,
rung trong đời sống đương đại.Tại nhiều quốc gia, hệ VLVH được xem như một
hệ đào tạo thực hành độc lập, tách bạch khỏi hệ chính quy. Hệ đào tạo này đi từ
bậc sơ cấp, trung cấp đến đại học (ĐH) và cả sau ĐH, với một nội dung chương
trình đào tạo

về thực hành, phục vụ trực tiếp cho chuyên môn, nghề


nghiệp, khác hẳn hệ đào tạo chính quy,

ng về nội dung nghiên cứu. Mục tiêu

của hệ VLVH phục vụ cho những người đang đi làm muốn nâng cao trình độ
nghề nghiệp (chứ khơng phải trình độ nghiên cứu), hay muốn đổi nghề mới cho
phù hợp hơn

khơng có khả năng về thời gian và kinh tế để theo đuổi học

hệ chính quy. Và khi đang ở hệ đào tạo thực hành muốn chuyển sang hệ
nghiên cứu chính quy thì dù ở bậc học nào cũng phải trải qua một kỳ học lấy
chứng chỉ

văn bằng bổ

Việt Nam thời gian q

kiến thức. Nhìn lại hệ VLVH - hệ tại chức ở
thấy gì? Bậc thấp nhất là Bổ

văn hóa trong

khối kiến thức phổ thơng. Trước đây bậc học này chỉ dạy bốn môn và “đỉnh
cao” một thời là học 2 năm 3 lớp. Tức chỉ cần 2 năm sẽ kết
bổ

bậc trung học

! Gần như 100 người vào học thì trên 90% tốt nghiệp. Dư luận kêu ca về


lỗ hổng kiến thức của những

tài bổ

kiểu này. Bộ Giáo dục Đào tạo vội sửa

bằng cách gần như bê ngun si chương trình của hệ phổ thơng và
một số kiến thức, thế là thành chương trình b

! Với bằng

ngắn bớt

tài bổ

như

vậy, học sinh thoải mái đi vào các trường đại học chính quy với một lỗ hổng
kiến thức phổ thông khá lớn. Mục tiêu của đại học VLVH là nhắm tới một bộ
phận người lao động đang đi làm muốn nâng cấp trình độ, nhưng lại có một
bộ phận sinh viên khơng có khả năng theo bậc học chính quy lại theo học hệ
này? Tuy nhiên, với tư duy “đơn giản”, nội dung chương trình dạy ở hệ VLVH
bậc đại học – cao đẳng- trung cấp chuyên nghiệp cũng chỉ là sự rút ngắn bớt
20


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

chương trình mang


/>
ng màu sắc nghiên cứu của hệ chính quy, khơng đáp ứng

cho những người đang đi làm.

ng ta thử hình dung một nguồn nhân lực mà

có kiến thức ở bậc phổ thông thiếu một
lượng sẽ như thế nào? Rõ ràng,

, lên đại học lại bớt một ít, thì chất

ng ta đã sai từ quan điểm khi hình thành hệ

đào tạo này. Với hệ VLVH, nhất thiết nội dung chương trình đào tạo phải
hướng kiến thức người học đến gần với thế giới nghề nghiệp chuyên môn
mà họ đang làm

sẽ chọn sau này. Họ không thể và càng khơng phải là cái

“bóng mờ”của hệ đào tạo chính quy. Với yêu cầu của thời đại, đại học hôm nay
không thể chỉ dừng lại ở mơ hình đào tạo tinh hoa nữa, yêu cầu phổ cập đại học
là chuyện không thể tránh được trong bối cảnh của nền kinh tế tri thức, hội
nhập tồn cầu. Do đó, đất nước nào dù giàu có đến đâu cũng khơng đủ sức phát
triển chỉ một loại hình đại học tinh hoa (nghiên cứu), vừa lãng phí về đầu tư,
vừa khơng thể đáp ứng được khả năng học tập của người dân. Bởi năng lực học
tập và hoàn cảnh học tập cũng như định hướng tương lai nghề nghiệp của mỗi
người mỗi khác.[29]
Thay đổi tên gọi từ hệ “tại chức” sang hệ VLVH từ thực trạng biến

tướng. Đào tạo hệ VLVH nở rộ từ năm đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, và bị
biến tướng khi đối tượng đi học khơng chỉ cịn là những người đang đi làm,
được cơ quan cử đi học để nâng cao trình độ chun mơn và hồn thiện bằng
cấp. Để phù hợp với thực tế, khái niệm "hệ tại chức" được chuyển thành "hệ
VLVH" với đối tượng học cho cả những người chưa đi làm. Đã có thời kỳ, các
trường đại học ồ ạt mở rộng quy mơ đào tạo đại học tại chức, đến mức có
những trường có cơ sở trên tất cả các tỉnh thành trong cả nước. Khi nhìn nhận
thực tế về chất lượng đào tạo, đã có những ý kiến đề nghị xiế

xóa bỏ

hệ này, nhưng vì là "nồi cơm" của các trường đại học nên khơng thể bỏ như câu
nói của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân. Bên cạnh đó, vấn nạn học để lấy
bằng cấp với mục đích khơng trong sáng, vơ hình trung tiếp tay cho hiện
tượng tiêu cực trong giáo dục. Hiện tượng thuê người đi thi, mua điểm, bán
21


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>
điểm,... theo kiểu "bỏ tiền để mua bằng". Chất lượng giảng dạy bị buông lỏng
và hầu hết những người đứng lớp là những "thợ dạy" theo cả nghĩa đen lẫn
nghĩa bóng. Khơng cịn nhiều những người đi học theo

nghĩa tại chức,

nghĩa là (những người đang làm việc và được cơ quan, tổ chức cử đi học). Chưa
có cuộc điều tra xã hội học về những người học VLVH trong một lớp, một
trường có bao nhiêu cán bộ, người lao động được cơ quan, tổ chức cử đi học,

số còn lại là những học sinh thi trượt ĐH, cho dù chỉ 5 điểm cũng có thể đi
học đại học. Thế mới thấy, đầu vào của hệ đại học VLVH thấp như thế nào.
có Bộ, Ngành, địa phương đề nghị nhà trường đào tạo riêng cho cán bộ
công nhân viên của họ một lớp học VLVH theo yêu cầu ... Khi vào lớp
VLVH, người dạy rất ngạc nhiên vì các sinh viên cịn rất

, như các sinh viên

hệ chính quy. Tìm hiểu thì được biết, đây là con cháu của các cán bộ công
nhân viên trong cơ quan do thi trượt đại học nên đi học tại chức, để sau này vào
làm việc trong các đơn vị của Bộ, Ban, nghành địa phương, khi bố mẹ các sinh
viên này nghỉ chế độ theo suất ưu tiên. Với đầu vào như thế, với sự buông lỏng
quản lý như thế, với những tiêu cực như thế,... thì ai dám chắc chắn rằng chất
lượng của những tấm bằng đại học “hệ VLVH” với tấm bằng ngang bằng chất
lượng của tấm bằng đại học hệ chính quy? Và ai có thể đảm bảo những người có
bằng đại học hệ tại chức - hệ VLVH có thể đáp ứng u cầu chun mơn ở trình
độ đại học trong cơng việc được giao?[29]
Về chương trình đào tạo, với tư duy tiếp cận là đầu vào của hệ VLVH thấp
hơn hệ chính quy, vì thế nhiều trường

đã

gọn chương trình đào tạo.

Lượng kiến thức trong mơn học được giản lược bớt để phù hợp với thời gian
giảng dạy. Thông thường, các cơ sở đào tạo VLVH thườ
lượng dạy và học, vì thế khối lượng kiến thức cũng phải

ngắn 1/3 thời
ngắn theo. Ví dụ


một mơn học có khối lượng là bốn đơn vị học trình (hệ niên chế), tương đương
với 60 tiết giảng. Sinh viên hệ chính quy sẽ được học đầy đủ 60 tiết, tuy nhiên
sinh viên hệ VLVH "được"

ngắn xuống cịn từ 38 đến 42 tiết (tùy mơn học).
22


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>
Thời gian đào tạo đối với những lớp VLVH học tại cơ sở ĐT, dù
ngắn 1/3 thời gian học, nhưng vẫn được học trong thời gian 6 đến 7 tuần (trung
bình mỗi tuần 06 tiết). Nhưng đối với những lớp học được tổ chức tại địa
phương, đ

biệt các lớp liên kết đào tạo, để tiết kiệm chi phí và tạo điều kiện

thuận lợi (cho cả người học lẫn người dạy). Thời gian học được

ngắn đến

mức tối đa mà không có sự quản lý và kiểm sốt của cơ sở đào tạo cũng như
cơ sở liên kết. Ví dụ mơn học 60 tiết giảng nêu trên, thời lượng giảng dạy trung
bình khoảng 40 tiết, và sẽ được dạy trong 08 ngày, mỗi ngày 05 tiết. Tuy nhiên:
lớp đề nghị,

thầy đề nghị học cả ngày, nghĩa là thời gian dạy chỉ còn


04 ngày (mỗi ngày 10 tiết). Với thời gian như vậy, đến sinh viên chính quy
chỉ ăn và học cịn khơng tiếp thu nổi, chứ đừng nói gì đến sinh viên VLVH.
Khi các cơ sở đào tạo được tự chủ trong tuyển sinh các ngành học, được
xây dựng chương trình học và thi riêng, được mở lớp và liên kết mở lớp tại
các địa phương cũng như đào tạo VLVH là "nồi cơm" của các trường thì quy
mơ mở rộng là điều tất yếu. Tất cả các cơ sở đào tạo đều mở rộng quy mô bằng
cách mở lớp tại các địa phương. Có những trường ĐH, 64 tỉnh thành thì có đủ
64 cơ sở đào tạo tại chức. Có những trường đại học cịn có 2-3 cơ sở trong cùng
một tỉnh thành. Tình trạng trăm hoa đua nở, trường trường mở lớp tại chức,
người người nộp tiền đi học tại chức. Và m

có tới 50% số thi sinh dự thi

hàng năm đỗ vào các trường ĐH, CĐ, nhưng không vì thế mà số lượng sinh viên
hệ VLVH giảm xuống. Thực trạng đó dẫn đến chất lượng cán bộ cơng chức làm
việc kém hiệu quả. [ 2 9 ]
Tuy nhiên, có rất nhiều người theo học hệ VLVH vẫn thành đạt để chứng
minh thành kiến “học VLVH là năng lực kém, là làm việc khơng hiệu quả” hồn
tồn sai lầm. Theo chủ trương của Đảng và các văn kiện của Nhà nước, trong
đó có cả Luật Giáo dục đại học mà Quốc hội mới thông qua, chủ trương tiếp tục
phát triển hệ thống giáo dục thường xuyên hay là phi chính quy để mọi người
muốn học đều được đi học, hay tư tưởng thời đại là: Học suốt đời. Nhưng trong
23


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Ngun

/>
thực tế thì có chuyện về đầu vào, đầu ra, nhiều địa phương tỉnh, thành không
tuyển dụng


ng nghĩa VLVH và không nhận người tốt nghiệp hệ VLVH vào

làm việc. Như thế là trở thành một vấn đề xã hội lớn và vấn đề quản lý Nhà
nước đối với hệ đào tạo VLVH. Hiện nay nhưng người từng học hệ VLVH
câu hỏi tại sao các cơng ty nước ngồi khơng phân biệt chính quy, tại chức, mà
các nhà tuyển dụng Việt Nam lại chối bỏ sản phẩm của giáo dục nước
nhà.
Chia sẻ của một vài người đã từng trải qua hai hình thức đào tạo VLVH và
chính quy thì cho rằng khơng chỉ riêng gì tại chức, đào tạo chính quy bây giờ
cũng “nhan nhản chạy điểm, copy bài, sử dụng tài liệu..., và một số vấn đề tế
nhị khác. Một cán bộ quản lý hiện đang làm việc tại một cơ quan Nhà nước của
một tỉnh, đưa ra nhận định có phần khách quan: “Tại ngành tơi quản lý, có
những em tốt nghiệp chính quy nhưng sau khi được tuyển dụng không phát
huy được năng lực, chất lượng công tác chưa đạt u cầu, có trường hợp phải bố
trí làm việc khác do tư duy trong một văn bản quá yếu. Nhưng ngược lại, có
những em học VLVH được tiếp nhận về đến nay đã phát huy tốt năng lực sở
trường và đã được giao những vị trí quan trọng. Vì vậy khi đọc thơng tin tuyển
dụng cơng chức của các tỉnh, thành trong nước thấy mà buồn…”. Thực tế, vẫn có
những người m

dù học VLVH nhưng vẫn làm việc xuất sắc, thành đạt trong

sự nghiệp. Tuy nhiên, vẫn khơng ít ý kiến cho rằng khơng thể phụ nhận m
bằng chung của hệ VLVH yếu kém.
Từ đó chúng tơi thấy tố chất của người học mới là mấu chốt của vấn đề
chứ không phải là các yếu tố khác”. Thời gian qua, các trường Cao đẳng, Đại
học được mở ra, các địa phương hình thành nhiều trung tâm, cơ sở liên kết đào
tạo và đã đem lại lợi ích cho nhiều bên. Tuy nhiên, việc phát triển quá nhanh
hình thức đào tạo này nhưng khơng kiểm sốt chăt chẽ điều kiện, quy trình đào

tạo nên chất lượng đào tạo ngày càng xuống cấp; việc tổ chức thi tuyển, quản lý
đào tạo, dạy không đủ giờ, không đủ nội dung của giáo viên cũng góp phần làm
24


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

/>
chất lượng đào tạo giảm sút.
Trong số sinh viên hệ VLVH hiện nay cũng có nhiều người có ý thức và
học tập tốt nên xã hội cần phải bảo vệ quyền được học cho những người này.
Đây là hình thức đào tạo nên được duy trì để tạo cơ hội học tập suốt đời cho
nhiều người chưa có ho

ưa đủ điều kiện để học đại học chính quy và là một

nhu cầu chính đáng.
Khả năng nhận thức, tư duy và vốn kiến thức phổ thông của mỗi người học
khác nhau, do đó, có một số ít người học có thể dùng mánh khóe khác nhau
trong q trình học để đạt được mục tiêu kiếm được tấm bằng cử nhân, trong
khi đó, hoạt động này rất khó kiểm sốt. Đây cũng là một trong nhiều nguyên
nhân làm ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo Đại học Cao đẳng hệ VLVH.
Hệ đào tạo này chất lượng còn kém là do chưa đảm bảo từ chất lượng đầu
vào, chưa

ý đến đối tượng chính là cán bộ - viên chức muốn học để nâng

cao chun mơn; chưa tổ chức lại quy trình đào tạo, xem nhẹ thời gian biểu,
xem nhẹ việc bố trí giảng viên.
Đơn vị sử dụng lao động chưa có sự thay đổi nhiều về tư duy trong bằng

cấp khi tuyển dụng người lao động, do đó người học Đại học hệ VLVH ln
mang những nỗi m

cảm của mình so với hệ chính quy. Bên cạnh đó nhiều

người học hệ VLVH có năng lực học nhưng suy nghĩ tiêu cực rằng có đầu tư vơ
việc học bao nhiêu thì kết quả cũng là tấm bằng cử nhân để có tiếng học đại học
và lên lương thôi chứ không được trọng dụng vì hiện nay các đơn vị hầu như chỉ
cơ cấu đại học chính quy.
Trong q trình đào tạo tổ chức lớp cần phải có một Ban cán sự lớp đủ
mạnh để làm cầu nối giữa sinh viên với người quản lý lớp của trường và cơ sở
liên kết đào tạo. Song trên thực tế có một số người học khơng sẵn sàng nhận
nhiệm vụ khi được lựa chọn, có trường hợp khi được lựa chọn vào Ban cán
sự lớp thì khơng tỏ rõ trách nhiệm

cịn có tư tưởng cầm chừng đối với

công việc của lớp.
25


×