Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Ôn thi môn Khoa học quản lý có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.17 KB, 16 trang )

Câu 1: Phân tích chứng minh sự cần thiết khách quan vận dụng nguyên tắc tập
trung dân chủ. Liên hệ việc vận dụng nguyên tắc trên?
Trong công tác quản lý, việc nắm vững, vận dụng đúng các nguyên tắc quản lý là
một điều kiện đảm bảo sự thành công. Các nguyên tắc quản lý là các quy tắc chuẩn mực mà
người quản lý phải tuân thủ trong quá trình quản lý, những nguyên tắc ấy do con người định
ra, phản ánh quy luật khách quan nhưng cũng mang dấu ấn chủ quan của con người. Trong
quản lý, các nguyên tắc quản lý có tính chất, thứ bậc khác nhau, do nhiều tổ chức, nhiều cấp
đề ra, trong đó có những nguyên tắc mang tính chất cơ bản, định hướng cho sự hoạt động
của người quản lý và sự vi phạm các nguyên tắc này sẽ gây cho hệ thống một sự tổn thất
nặng nề. Một trong những nguyên tắc cơ bản của quản lý là nguyên tắc tập trung dân chủ.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức phản ánh mối quan hệ giữa chủ
thể và đối tượng quản lý, cũng như yêu cầu và mục tiêu của quản lý, nó quy định sự lãnh
đạo tập trung dựa trên sự tôn trọng và phát huy dân chủ. Về bản chất thì tập trung và dân
chủ là hai xu hướng diễn ra đồng thời cùng một lúc. Tập trung dân chủ là một nguyên tắc
thống nhất, đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ và tối ưu giữa tập trung và dân chủ. Trong
nguyên tắc thống nhất này, tập trung và dân chủ tác động cùng chiều, theo tỷ lệ thuận, đòi
hỏi phải đảm bảo lẫn nhau.
Xu hướng tập trung được biểu hiện ở hai nội dung: Thứ nhất, tập trung là sự thống
nhất về tư tưởng và hành động của tất cả các thành viên trong hệ thống. Thứ hai, tập trung
quyền lực để giải quyết các công việc phát sinh trong hệ thống, tức là phải có đủ quyền lực
để giải quyết mọi vấn đề có sự lãnh đạo, quản lý, điều hành thông suốt, do đó tập trung là
một xu hướng cần thiết. Để đảm bảo yêu cầu tập trung trong quản lý cần có những công cụ
sử dụng như Luật, chính sách, quy chế, hệ thống chiến lược, kế hoạch, chương trình phát
triển…và chế độ một người chỉ huy (chế độ thủ trưởng).
Về xu hướng dân chủ hiện nay có hai quan điểm khác nhau. Thứ nhất, dân chủ là
quyền và trình độ dân chủ tương ứng với quyền lực của đối tượng quản lý, đây là quan điểm
không đúng vì nếu hiểu theo quan điểm này dễ dẫn tới tình trạng dân chủ quá đà, tự do vô
chính phủ. Thứ hai, coi dân chủ là môi trường, là điều kiện để cá nhân có những cơ hội phát
triển, hoàn thiện trong sự phát triển của xã hội, của cộng đồng. Tùy thuộc khả năng và mức
độ ảnh hưởng của các cá nhân tới quyết định chung của cộng đồng, tới việc giải quyết công
việc chung mà có thể thấy một xã hội dân chủ đến mức nào. Ở mỗi nước, trình độ của nền


dân chủ trong xã hội tùy thuộc phần lớn vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ
dân trí, quyền hạn và năng lực thực hiện quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân. Xã hội
ta càng phát triển, càng đòi hỏi và càng có điều kiện mở rộng chế độ dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Để đảm bảo yêu cầu dân chủ, nhà quản lý sử dụng các giải pháp như chế độ tự chủ
trong hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện các chế độ, các hình thức đảm bảo quyền
tham gia quản lý của người lao động. Dân chủ còn thể hiện thông qua việc thực hiện sự bình
đẳng của các thành phần kinh tế trước pháp luật; thông qua việc xác định rõ vị trí, trách
nhiệm, quyền hạn, của các cấp, các ngành; thực hiện chế độ phân công, phân cấp trong quản
lý và thông qua quá trình thực hiện quy chế dân chủ
Trong quan hệ tập trung dân chủ, tập trung bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, định
hướng cho các biện pháp dân chủ để đảm bảo sự tồn tại và tạo ra khả năng phát triển của hệ
thống. Mất đi sự tập trung là mất đi sự thống nhất trong hoạt động của hệ thống dẫn tới tình
trạng tổ chức bị biến dạng, đi chệnh mục tiêu. Tập trung còn là cơ sở định hướng để giải
quyết các nội dung, biện pháp thực hiện dân chủ. Dân chủ có vai trò tạo cơ sở về xã hội,
kinh tế, chính trị, thông qua các giải pháp dân chủ nhà quản lý tạo được sự thống nhất trong
quản lý một cách tốt nhất. Chính nhờ dân chủ các nhà quản lý tạo ra được sự thống nhất về
tư tưởng, ý chí và hành động nhằm đảm bảo tốt cho yêu cầu tập trung trong quản lý. Các
biện pháp dân chủ nhằm bảo đảm cho sự lãnh đạo tập trung, càng mở rộng dân chủ thì yêu
cầu tập trung thống nhất càng cao, khắc phục tình trạng dân chủ quá mức đưa đến tự do vô
chính phủ, cũng như tập trung quá mức dẫn đến chuyên quyền, độc đoán, quan liêu. Tập
trung phải trên cơ sở dân chủ, dân chủ phải được thực hiện trong khuôn khổ tập trung. Nhấn
mạnh tập trung dễ dẫn đến tập trung quan liêu, cứng nhắc, độc đoán; trái lại, mở rộng dân
chủ mà không tập trung thì có thể đi tới phân tán, dân chủ vô tổ chức, vô kỷ luật. Trong bản
chất của nó, dân chủ không đối lập với tập trung, chỉ đối lập với quan liêu, chuyên chế, độc
tài. Tập trung càng không đối lập với dân chủ mà chỉ đối lập với phân tán, cục bộ, bè phái,
tự do vô chính phủ. Tập trung đúng đắn, hợp lý, phù hợp sẽ làm tăng sức mạnh của dân chủ.
Dân chủ lành mạnh phải dựa trên cơ sở tập trung, không tách rời tập trung. Tách rời dân chủ
với tập trung, tuyệt đối hóa mặt này xem nhẹ mặt kia, đối lập chúng với nhau một cách siêu
hình và giả tạo đều làm suy yếu cả dân chủ lẫn tập trung. Lê-nin cho rằng, nguyên tắc tập
trung dân chủ phải là một cái gì đó tránh xa tập trung quan liêu và cũng tránh xa được

tự do vô chính phủ. Muốn có tập trung dân chủ thì phải bảo đảm dân chủ thực chất
đồng thời đề cao kỷ luật, tăng cường chế độ trách nhiệm. Đây là nguyên tắc rất quan trọng
của quản lý, có tính khách quan, phổ quát, song thực hiện không đơn giản, phụ thuộc vào
bản lĩnh, phẩm chất đạo đức, phong cách của người quản lý và từ sự phát triển của trình độ
lực lượng sản xuất mà tương ứng với nó là trình độ phân công lao động và hợp tác lao động.
Nguyên tắc tập trung dân chủ còn do cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển
mạnh mẽ sự phát triển của lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa ngày càng cao đòi hỏi
phải huy động các nguồn tiềm năng và nguồn lực trong nền kinh tế quốc dân, nên vừa phải
có tập trung để tránh mọi thất thoát, lãng phí, vừa phải có tính dân chủ để huy động được
mức tối đa. Chúng ta thấy rằng dân chủ đã được thực tế thừa nhận như điều kiện không thể
thiếu cho tăng trưởng kinh tế nói riêng và phát triển nói chung.
Để đảm bảo hiệu quả hoạt động của hệ thống quản lý thì nguyên tắc tập trung dân
chủ là hết sức cần thiết. Ngày nay, trong hoạt động kinh tế - xã hội, hoạt động quản lý nhà
nước luôn có sự phân công lao động cao từ đó nảy sinh yêu cầu phải tổ chức hợp tác trong
lao động. Trong sự hợp tác lao động, mọi cá nhân, mỗi tổ chức, đơn vị nếu được tự chủ
trong sản xuất kinh doanh thì mới phát huy tối đa tiềm năng vốn có, tính năng động sáng tạo
trong thực hiện. Với sự bùng nổ của khoa học, công nghệ thông tin, việc mở cửa hội nhập,
toàn cầu hóa làm nền kinh tế - xã hội ở các nước biến đổi nhanh chóng, tạo những cơ hội và
thách thức lớn; việc thực hiện dân chủ dưới hình thức phân quyền tự chủ, tự quyết trong
hoạt động kinh tế cũng như trong một số phạm vi quản lý nhà nước còn nhằm gắn trách
nhiệm và quyền hạn cho các cấp, các ngành để có thể nắm bắt, ứng phó kịp thời trước
những cơ hội hoặc rủi ro xảy ra trong thực tế, đồng thời giảm bớt áp lực công việc của cấp
trên, tạo cơ hội cho cấp dưới thể hiện tính tự lập và rèn luyện, nâng cao năng lực quản lý.
Đối với việc quản lý nhà nước, thực hiện quy chế dân chủ với phương châm “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra” còn tạo điều kiện để nhân dân ngày càng tham gia sâu sắc vào
công việc của Nhà nước, đồng thời nhờ thực hiện nguyên tắc dân chủ tại cơ sở nên mới có
thể phát hiện những sai sót, những vi phạm trong hoạt động quản lý, sản xuất kinh doanh
mà những sai sót này đôi khi chỉ mới là dấu hiệu, mầm mống để kịp thời uốn nắn, sửa
chữa. Ngoài ra, trong hoạt động quản lý, để có những quyết định quản lý đúng đắn, khả thi
và hiệu quả, người quản lý không thể có đầy đủ những kiến thức và kinh nghiệm để tự mình

quyết định tất cả, điều đó chỉ có thể thực hiện được nếu nhà lãnh đạo quản lý biết cách
khuyến khích và lắng nghe sự tham gia ý kiến của các đối tượng quản lý, đó chính là thực
hiện sự dân chủ trong quản lý. Để hoạt động của hệ thống quản lý có hiệu quả thì thực hiện
dân chủ còn phải đi đôi với sự lãnh đạo tập trung. Ở đâu có hoạt động của số đông, ở đó cần
đến tổ chức, cần đến sự phân công, phối hợp và cũng cần đến vai trò điều khiển, chỉ huy của
người nhạc trưởng với vai trò lãnh đạo tập trung; có tập trung mới tạo ra được sức mạnh
chung, thống nhất ý chí và hành động vì mục tiêu chung của hệ thống. Chỉ thông qua sự
lãnh đạo tập trung và thống nhất mới đảm bảo mọi hoạt động trong hệ thống quản lý hướng
đến mục tiêu chung nhất, tránh sai lệch trong định hướng đồng thời mới có thể thực hiện
quyền điều động và phân phối nguồn lực, quyền lợi một cách hài hòa trong quá trình hoạt
động. Tập trung còn cần thiết bởi vì nó là cơ sở để định ra giải pháp và nội dung dân chủ
trong quản lý, tập trung còn là nền tản pháp lý cho nội dung dân chủ, định ra những khuôn
khổ, những giới hạn cần thiết để đảm bảo dân chủ đúng hướng, đúng bản chất nguyên tắc
tập trung dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở khách quan của việc hình thành nguyên tắc tập trung dân chủ, khi thực
hiện chúng ta phải đảm bảo sự kết hợp chặt chẽ giữa tập trung và dân chủ trong quản lý;
đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa nội dung lãnh đạo thống nhất của cơ quan quản lý với tính
chủ động sáng tạo của cơ sở, của tập thể người lao động trong hệ thống, nhằm đảm bảo tính
thống nhất, hiệu quả trong hoạt động của hệ thống tổ chức quản lý.
Thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện quy chế dân
chủ gắn với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, Nghị định số 71/1998/NĐ-CP của Chính
phủ về việc thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động cơ quan, cấp ủy và chính quyền ở
địa phương đã có tác động tích cực đến việc củng cố mối quan hệ giữa tổ chức Đảng, chính
quyền và đoàn thể, tạo sự đồng bộ, đoàn kết, nhất quán trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và điều
hành mọi hoạt động của cơ quan, của địa phương, phát huy quyền làm chủ của cán bộ công
chức và quần chúng nhân dân ở cơ sở; nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng
viên, công chức, tạo dựng bầu không khí dân chủ, cởi mở và sự đồng thuận trong xã hội.
Tại cơ quan Văn phòng Tỉnh ủy Long An nơi tôi công tác thời gian qua đã vận dụng
và thực hiện rất căn bản nguyên tắc tập trung dân chủ. Cán bộ, đảng viên thường xuyên
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, phát huy dân chủ, tăng cường kỷ

luật, kỷ cương, không ngừng đổi mới phương thức hoạt động, xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
+ Phát huy tốt dân chủ trong việc tham gia đóng góp các văn kiện của Đảng, pháp
luật của Nhà nước: tổ chức lấy ý kiến, quán triệt các Nghị quyết của Đảng, chủ trương của
Nhà nước theo đúng quy định. Tổ chức tiếp xúc cử tri nơi công tác…
+ Đại hội công nhân viên chức hàng năm đề ra các chỉ tiêu, nhiệm vụ cần thực hiện
trong năm; có sự tham gia, đóng góp của từng thành viên trong cơ quan. Có ký cam kết
trách nhiệm giữa lãnh đạo cơ quan và đại diện công đoàn.
+ Quy định (thể hiện trong quy chế làm việc của Văn phòng Tỉnh uỷ) những việc cán
bộ, đảng viên, người lao động được biết; được tham gia đóng góp… và có niêm yết tại cơ
quan.
+ Thực hiện công khai các khoản chi tiêu nội bộ để tăng cường sự giám sát chéo giữa
các thành viên và giữa các phòng, trung tâm trong cơ quan.
+ Trong tập thể Đảng uỷ, tập thể lãnh đạo có xây dựng quy chế làm việc cụ thể, trong
đó có xác định việc phải do tập thể quyết định, việc phải có ý kiến của tập thể, việc do cá
nhân quyết định và chịu trách nhiệm với cấp có thẩm quyền.
+ Trong phân công, phân nhiệm đối với từng phòng ban và từng cá nhân có sự phân
công cụ thể trách nhiệm, hàng tháng lồng ghép kiểm điểm công việc vào kiểm điểm đảng
viên; 6 tháng kiểm điểm chung và kiểm điểm cuối năm.
Trên cơ sở phát huy truyền thống đoàn kết, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân
chủ, tạo được sự đoàn kết thực sự trong tập thể Đảng uỷ, tập thể lãnh đạo Văn phòng và
trong toàn cơ quan Văn phòng; các vấn đề còn vướng mắc đều được thông tin, xử lý hiệu
quả. Trách nhiệm tập thể, trách nhiệm cá nhân được phân định rất rõ, có sự giám sát chặt
chẽ của cán bộ, công chức trong cơ quan.
- Tuy nhiên qua việc tổ chức thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ ở cơ quan
bản thân nhận thấy còn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục đó là:
+ Cán bộ, đảng viên chưa thật sự mạnh dạn và tích cực tham gia đóng góp những vấn
đề chung của cơ quan, từ đó chưa phát huy hết trí tuệ tập thể.
+ Một số vấn đề phát huy dân chủ còn mang tính hình thức, giữa tổ chức thực hiện và
chủ trương còn có khoản cách, ý kiến đóng góp của tập thể chưa được phát huy triệt để. Một
số văn bản lấy ý kiến đóng góp quá gấp, người góp ý chưa nghiên cứu kỹ nên khó tham gia.

+ Kiểm điểm, rút kinh nghiệm còn mang tính hình thức, thực hiện tự phê bình và phê
bình chưa tốt nên hạn chế việc phát huy nguyên tắc tập trung – dân chủ.
- Giải pháp trong thời gian tới: tiếp tục phát huy những mặt đã làm tốt trong thời
gian qua, đồng thời khắc phục những mặt hạn chế, trong đó tập trung:
+ Tiếp tục triển khai, thực hiện tốt các quy định của Đảng, Nhà nước về phát huy
nguyên tắc tập trung, dân chủ.
+ Quán triệt tầm quan trọng của thực hiện nguyên tắc này trong các mặt công tác;
vận động, khuyến khích sự tham gia của từng cá nhân trong tập thể để thực hiện tốt nguyên
tắc này.
+ Hoàn thiện các cơ chế để mọi người được phát huy quyền làm chủ của mình (cụ
thể hoá nội quy, quy chế, chế độ cung cấp thông tin…).
+ Lãnh đạo phải nêu gương trong việc thực hiện nguyên tắc tập trung, dân chủ; trước
hết phải thực hiện nghiêm túc việc tự phê bình và phê bình.
+ Nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin, tạo điều kiện để tập thể dễ dàng cho
tham gia đóng góp các mặt hoạt động góp phần xây dựng cơ quan ngày một tốt hơn.
Tóm lại, qua những kiến thức đã học về nguyên tắc tập trung dân chủ, liên hệ một số
việc ở cơ quan, địa phương cho thấy nguyên tắc tập trung dân chủ là rất cần thiết trong hoạt
động quản lý. Việc nhận thức, vận dụng đúng đòi hỏi phải xử lý thận trọng từng vấn đề,
từng trường hợp cụ thể. Buông lỏng sự lãnh đạo tập trung sẽ mở đường cho tự do vô kỷ luật,
vừa đẩy dân chủ đến chỗ mất phương hướng, vô giá trị. Thu hẹp dân chủ sẽ làm triệt tiêu
sức mạnh tập thể, mà còn khiến cho sự lãnh đạo tập trung phạm sai lầm. Người quản lý phải
nhận thức sâu sắc điều đó để có phương thức quản lý phù hợp, hiệu quả. Trong thực tế lãnh
đạo đơn vị, muốn điều hành tốt và hiệu quả thì phải lắng nghe, phát huy dân chủ trong thảo
luận, chọn lựa phương án thực hiện nhưng sau cùng người quản lý phải biết chọn lựa ý kiến
tập trung nhất, hợp lý nhất để quyết định cuối cùng và chịu trách nhiệm với quyết định của
mình.
5
Câu 2: Phân tích mối liên hệ giữa các phương pháp trong quản lý. Liên hệ vận
dụng phương pháp kinh tế tại địa phương và đơn vị công tác?
Hoạt động của một cá nhân hay một tập thể đều hướng đến mục tiêu và để điều hành

hệ thống đạt mục tiêu đó, chủ thể quản lý phải tác động vào đối tượng quản lý bằng những
phương pháp quản lý để cho bộ máy dưới sự quản lý của mình đạt được kết quả tốt nhất.
Việc nhận thức và sử dụng các phương pháp quản lý hiệu quả sẽ mang đến những thành
công cho nhà quản lý, cũng như tạo động lực cho các đối tượng quản lý, từ đó tiếp cận và
đạt được mục tiêu đề ra một cách nhanh nhất. Vậy các phương pháp trong quản lý là gì và
mối liên hệ giữa các phương pháp quản lý đó mang lại những hiệu quả gì trong quá trình
vận dụng chúng vào thực tiễn.
Chúng ta biết rằng phương pháp quản lý là cách thức mà chủ thể quản lý tác động
vào đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu nhất định. Nhà quản lý lựa chọn và sử dụng
phương pháp quản lý đúng, hợp lý sẽ tạo động cơ, động lực thúc đẩy người lao động hoàn
thành tốt nhiệm vụ, nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện các chức năng quản lý không
những làm cho các hoạt động quản lý tuân thủ đúng quy luật, nguyên tắc quản lý, sát hợp
với đối tượng mà còn làm hoạt động quản lý mang tính xã hội sâu sắc.
Đối tượng tác động của các phương pháp quản lý là con người, là những thực thể
có cá tính, thói quen, tình cảm nhân cách gắn với hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Con người
không chỉ chấp hành mệnh lệnh của người quản lý mà còn là một chủ thể sáng tạo trong
công việc, có tinh thần độc lập tự chủ; đóng góp vào thành quả chung của tập thể và mong
muốn nhận lại từ thành quả chung đó những lợi ích vật chất, tinh thần thỏa đáng. Con người
với tư cách là đối tượng quản lý còn là những con người - xã hội, trong đó con người không
lao động, làm việc theo cá nhân mà hợp tác, phối hợp công việc với nhau. Vì vậy, chủ thể
quản lý phải biết lôi cuốn, thúc đẩy mọi người tham gia công việc chung, đem hết sức lực,
tài năng làm việc cho tổ chức, có như vậy mới làm cho tổ chức thêm vững mạnh. Tổ chức
vững mạnh sẽ tạo được nhiều thuận lợi cho con người làm việc hơn một tổ chức yếu kém.
Để tác động đến yếu tố con người trong lao động, phải dùng nhiều phương pháp khác
nhau. Dựa trên phương thức tác động, có thể phân thành ba phương pháp quản lý đó là
phương pháp tổ chức hành chính, phương pháp tâm lý giáo dục và phương pháp kinh tế.
Mỗi phương pháp đặc trưng cho một thủ pháp tạo động cơ và động lực thúc đẩy đối tượng
quản lý hoàn thành tốt nhiệm vụ. Phương pháp quản lý làm cho các hoạt động quản lý
tuân thủ đúng các quy luật, nguyên tắc quản lý, đồng thời sát hợp với điều kiện của đối
tượng quản lý; là cơ sở nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện các chức năng quản

lý; làm cho các hoạt động quản lý không chỉ là những tác động mang tính tác nghiệp
đơn thuần mà còn mang tính xã hội sâu sắc.
Phương pháp tổ chức - hành chính là phương pháp dựa vào quyền uy tổ chức của
chủ thể quản lý bắt buộc đối tượng quản lý chấp hành mệnh lệnh quản lý một chiều từ trên
xuống; Cơ sở tác động là quyền lực của chủ thể quản lý ở trong hệ thống quản lý, quyền lực
này được xác lập theo pháp luật, quy chế, cơ chế…Hiệu lực, hiệu quả quản lý phụ thuộc vào
việc thực hiện đúng hay không đúng quyền lực của mình. Ưu thế của phương pháp này so
với các phương pháp khác là tính kỷ cương trong tổ chức thực hiện công việc nhờ đó đem
lại hiệu quả nhanh chóng, thống nhất, triệt để. Phương pháp này thường phù hợp với các
tình huống quản lý cấp bách, khẩn trương, là phương pháp không thể thiếu trong tất cả các
cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên phương pháp này dễ dẫn đến tình trạng quan liêu, độc đoán…
do đó để giảm bớt mức độ quan liêu hóa, nhà quản lý khi xác lập cơ cấu tổ chức và cơ chế
quản lý phải tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, có quan tâm đến điều kiện cụ thể của
các thành viên trong tổ chức.
6
Phương pháp tâm lý - giáo dục là sự tác động tới đối tượng quản lý thông qua các
quan hệ tâm lý, tư tưởng, tình cảm. Phương pháp này dựa vào uy tín của người quản lý để
lôi cuốn mọi người hăng hái, tích cực tham gia công việc. Uy tín được xác lập dựa trên nhân
cách người lãnh đạo quản lý. Công cụ tác động của phương pháp này là vận dụng các quy
luật, nguyên tắc tâm lý và giáo dục, người quản lý nắm được tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu,
mong muốn, tình cảm, đạo đức, lý tưởng của mỗi người và có biện pháp tạo lập trong mỗi
người niềm say mê, phấn khởi, ý thức, trách nhiệm, tinh thần sáng tạo đối với công việc.
Đối tượng quản lý là con người được xem như một thực thể có ý thức, được tôn trọng và
nhận thức được nhiệm vụ của mình, lao động tự giác. Sự thúc đẩy con người làm việc ở đây
chính là sự hiểu biết và tác động đúng vào động cơ làm việc của họ cũng như ảnh hưởng
rộng lớn của uy tín và phẩm chất của người quản lý. Hiệu quả phương pháp này rất lâu bền
và sâu sắc. Đây là phương pháp không thể thiếu trong mọi tổ chức, nhất là các tổ chức xã
hội. Con người không phải ai lúc nào cũng lao động, hành động với đầy đủ ý thức, tự giác
và sự nhiệt tình, nhất là khi nhu cầu lợi ích vật chất của họ không được thỏa mãn hoặc
không công bằng. Vì vậy, để khắc phục hạn chế của phương pháp này người quản lý phải

biết phối hợp với phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế.
Phương pháp kinh tế là phương pháp tác động của chủ thể quản lý tới đối tượng
quản lý thông qua lợi ích kinh tế. Nhà quản lý sử dụng các công cụ đòn bẩy kinh tế như giá
cả, lãi suất, tiền lương, tiền thưởng, lợi nhuận tác động đến điều kiện hoạt động của con
người, điều chỉnh hành vi của đối tượng nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Thông qua các
chính sách, đòn bẩy kinh tế, đối tượng quản lý tự quyết định hành động và tự chủ lấy công
việc của mình không có sự can thiệp trực tiếp của tổ chức. Phương pháp này lấy lợi ích
kinh tế, vật chất làm động lực thúc đẩy con người hành động. Lợi ích đó thể hiện qua thu
nhập của mỗi người được lấy lại từ thành quả chung, phù hợp với đóng góp của mỗi người.
Mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý lúc này là quan hệ kinh tế, là những
giá trị vật chất đầy hấp dẫn, do vậy nếu người quản lý quá coi trọng lợi ích chung, coi nhẹ
lợi ích cá nhân sẽ làm triệt tiêu động lực của họ. Phương pháp này đặc biệt hiệu quả khi thu
nhập thực tế của người lao động chưa cao, nhu cầu vật chất mới đáp ứng được ở mức thấp,
lúc đó khi thực hiện công việc họ đều rất quan tâm đến lợi ích và thu nhập. Người quản lý ở
mọi tổ chức phải hết sức coi trọng việc vận dụng phương pháp kinh tế. So với các phương
pháp quản lý khác, phương pháp kinh tế có ưu điểm là đặt mỗi người vào điều kiện tự mình
quyết định làm việc như thế nào có lợi nhất cho mình và cho tổ chức. Lao động, làm việc
càng hiệu quả thì lợi ích vật chất nhận về càng nhiều. Phương pháp kinh tế có thể giúp
người ta thoát khỏi cơ chế, giấy tờ, thủ tục của chủ nghĩa quan liêu và những rắc rối trong
thể chế tình cảm xã hội. Phương pháp kinh tế cũng có những hạn chế vốn có của nó. Nếu
lạm dụng dễ dẫn người ta đến chỗ chỉ nghĩ đến lợi ích vật chất, thậm chí lệ thuộc vào vật
chất, tiền, của mà quên những giá trị đạo đức, tinh thần, đạo lý, dễ dẫn đến hành vi vi phạm
pháp luật. Động lực từ lợi ích cá nhân của mỗi người nếu không được định hướng và kiểm
soát sẽ dẫn người ta đến chỗ làm ăn phi pháp.
Từ những phân tích trên chúng ta thấy rằng trong hoạt động điều hành quản lý, ba
phương pháp quản lý trên luôn có mối liên hệ với nhau. Sự liên hệ ấy bắt nguồn từ đối
tượng tác động của phương pháp quản lý chính là con người. Mỗi phương pháp quản lý tác
động đến con người theo một hướng nhất định, hiệu quả tạo động cơ, động lực thúc đẩy con
người với các mức độ khác nhau. Phương pháp quản lý này chỉ có thể phát huy hiệu quả nếu
sử dụng cùng với phương pháp khác, vì mỗi phương pháp quản lý chỉ tác động đến một vài

trong rất nhiều nhu cầu của con người, mà con người chỉ làm việc tốt nhất trong điều kiện
có khuôn khổ tổ chức chặt chẽ, rõ ràng; có lợi ích thoả đáng; có sự hiểu biết và niềm say mê
7
với công việc. Phương pháp kinh tế kích thích con người vì thỏa mãn nhu cầu vật chất
nhưng nếu như công việc nhàm chán, không tạo niềm say mê, không có những thách thức,
hứng thú hoặc không nhận được sự quan tâm, công nhận, tôn trọng của người quản lý, của
xã hội thì những lợi ích kinh tế không đủ để lôi cuốn người ta làm việc. Ngược lại nếu
người quản lý có phẩm chất tuyệt vời, quan tâm, gần gủi người lao động, có phong cách và
phương thức quản lý tốt nhưng nếu chỉ áp dụng biện pháp, cơ chế trả lương cho người lao
động theo phương pháp bình quân thì cũng không khuyến khích người lao động toàn tâm,
toàn ý vì công việc. Ngoài ra, đối với những người quá chú trọng đến lợi ích kinh tế hoặc
những người quen dựa dẫm, lười lao động, trình độ nhận thức và tự giác thấp thì nếu không
sử dụng phương pháp tổ chức - hành chính thì khó có thể kiểm soát và điều chỉnh các hoạt
động của họ theo đúng định hướng, đúng mục tiêu của tổ chức đề ra. Ngược lại, nếu chỉ áp
dụng đơn thuần phương pháp tổ chức - hành chính thì đối tượng quản lý chịu sự cưỡng chế
mà không có khuyến khích tinh thần hay vật chất cũng dễ dẫn đến những tiêu cực trong hoạt
động.
Từ mối liên hệ trên cho thấy rằng trong các phương pháp quản lý thì phương pháp
kinh tế mang lại hiệu quả nhanh chóng, nhưng không phải là duy nhất và toàn bộ. Nhà quản
lý thực hiện đồng thời cả ba phương pháp trong hoạt động quản lý, tùy trường hợp và từng
giai đoạn mà sử dụng phương pháp nào là chính. Việc tuyệt đối hoá một phương pháp quản
lý nào đó trong quản lý sẽ làm giảm hiệu lực tác động, không phát huy được ưu thế và khắc
phục hạn chế vốn có của mỗi phương pháp. Đó cũng chính là sự tác động toàn diện, ảnh
hưởng lẫn nhau của các phương pháp quản lý đối với mỗi con người.
Cũng từ mối liên hệ giữa các phương pháp quản lý cho thấy nhận thức và vận dụng
các phương pháp quản lý thế nào còn phụ thuộc vào đối tượng và tình huống quản lý cụ thể.
Nếu người quản lý chủ quan coi nhẹ yêu cầu thực tế khách quan của đối tượng và tình
huống quản lý thì hoạt động quản lý có nguy cơ bị quan liêu hoá. Ai cũng có những ưu và
khuyết điểm, ở từng thời điểm khác nhau nhu cầu của họ cũng khác nhau. Vì vậy, nhà quản
lý phải thấu hiểu những yếu tố tâm lý đó để sử dụng những phương pháp thích hợp nhằm

phát huy ưu điểm, hạn chế nhược điểm, kích thích đúng động cơ, đáp ứng đúng nhu cầu để
họ làm việc có chất lượng và hiệu quả cao.
Ngoài ra, lựa chọn các phương pháp quản lý phải phù hợp, có tác động thiết thực
trong việc điều chỉnh đối tượng quản lý. Phương pháp quản lý khi xác lập và vận dụng phải
có căn cứ khoa học và thực tiễn, bảo đảm cho đối tượng quản lý có thể thực hiện một các tự
giác và tích cực.
Trước đây trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chúng ta đã cường điệu hóa,
tuyệt đối hóa phương pháp quản lý tổ chức hành chính và phương pháp quản lý tâm lý giáo
dục, coi nhẹ phương pháp quản lý kinh tế vì cho đó là nặng về lợi ích cá nhân, điều này làm
cho tình trạng quản lý ở mọi tổ chức đều mang tính chất quan liêu hình thức, hạn chế tính
chủ động sáng tạo của mỗi người. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các quy luật kinh tế
xã hội được nhận thức và vận dụng một cách đầy đủ hơn, trong đó lợi ích kinh tế được coi
trọng. Do đó phương pháp kinh tế trở thành phương pháp tác động chính đến đối tượng
quản lý, lợi ích thiết thân của mỗi người được coi là điểm xuất phát để xác lập hệ thống lợi
ích tập thể, lợi ích xã hội. Việc xác lập, vận hành các phương pháp quản lý ở nước ta hiện
nay là quá trình thực hiện dân chủ hoá toàn bộ quá trình quản lý các tổ chức kinh tế - xã hội
theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Do vậy trong quản lý cũng không thể coi nhẹ phương
pháp tổ chức - hành chính và phương pháp tâm lý - giáo dục. Thực tế đòi hỏi đội ngũ những
người quản lý phải nâng cao trình độ sử dụng tổng hợp các phương pháp quản lý, không
8
ngừng học tập, rèn luyện phẩm chất, trao dồi và nâng cao trình độ quản lý của mình cho phù
hợp với yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
Trong quản lý, việc vân dụng cả ba phương pháp tổ chức - hành chính, tâm lý - giáo
dục và kinh tế một cách khéo léo là chìa khoá để thành công trong quản lý. Bản thân hiện
công tác tại Văn phòng Tỉnh uỷ Long An, thời gian qua, địa phương và cơ quan đều có sự
vận dụng hợp lý các phương pháp này và đạt hiệu quả khá tốt. Cụ thể:
- Áp dụng cả ba phương pháp trong phát huy nguồn nhân lực trong hệ thống
chính trị ở địa phương:
+ Tổ chức-hành chính: Thực hiện quy định về chuẩn hoá cán bộ, tạo động lực cho
cán bộ, công chức chưa đủ chuẩn tích cực đi học. Trong bố trí cán bộ, ưu tiên bố trí cán bộ

đã được đào tạo nâng cao.
+ Tâm lý-giáo dục: Trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng đều nhấn mạnh đến tầm
quan trọng của việc học và học tập suốt đời.
+ Biện pháp kinh tế: Có chính sách khuyến khích đối với các học viên học tập chuyên
sâu, ví dụ ngoài các chính sách hỗ trợ tiền học, học phí, tiền tài liệu, hỗ trợ 20 triệu đối với
học viên làm luận án thạc sỹ, 35 triệu đối với nghiên cứu sinh tiến sỹ.
Qua áp dụng đồng bộ các giải pháp trên, ý thức học tập trong hệ thống chính trị có sự
thay đổi rõ rệt, chất lượng đội ngũ cán bộ được nâng lên.
- Khuyến khích sự tích cực, gương mẫu trong công tác tại đơn vị:
+ Cụ thể hoá nội quy, quy chế của cơ quan, niêm yết công khai làm cơ sở để kiểm tra
việc thực hiện quy chế ra vào cổng, theo dõi việc nghỉ phép, thời gian làm việc…có sự phân
công, kiểm tra cụ thể.
+ Duy trì họp giao ban hàng tháng để nhắc nhỡ, động viên đối với các phòng, bộ
phận trực thuộc trong việc thực hiện nhiệm vụ chung; có biểu dương các tập thể, cá nhân
hoàn thành tốt nhiệm vụ, thực hiện tốt nội quy, quy chế cơ quan.
+ Thực hiện tốt chế độ làm thêm giờ, thực hiện tốt công tác thi đua trong đơn vị, qua
đó có sự kích thích về kinh tế-tinh thần thông qua các hình thức khen thưởng, nâng lương
trước niên hạn…
Qua áp dụng đồng bộ, hài hòa, hợp lý các phương pháp trên, đội ngũ cán bộ công
chức có sự tích cực, gương mẫu hơn trong công tác, phấn đấu hoàn thành tốt công việc được
giao.
Tóm lại, xác định đúng, sử dụng hợp lý, hài hòa các phương pháp quản lý sẽ khơi
nguồn động lực giúp nhà quản lý và người lao động hoàn thành tốt nhiệm vụ, đạt được
những mục tiêu đã xác định; góp phần thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng.
9
Câu 03: Phân tích các mục tiêu, động lực trong quản lý. Liên hệ vấn đề tiền
lương và thu nhập và nêu giải pháp?
Trong hoạt động quản lý thì mục tiêu và động lực là hai vấn đề quan trọng nhất,
quyết định sự vận động và phát triển của hệ thống quản lý. Nắm vững khái niệm, bản chất,
vai trò của mục tiêu, động lực và mối quan hệ của chúng, nhà quản lý sẽ biết cách tác động

hiệu quả nhằm thúc đẩy hệ thống nhanh chóng đạt được những mục tiêu đã được xác định.
Mục tiêu của quản lý là trạng thái tương lai mà chủ thể mong muốn đạt được trong
quá trình vận động của hệ thống tại thời gian và không gian xác định; là tiêu đích mà mọi
hoạt động của hệ thống hướng tới, nó định hướng và chi phối sự vận động của toàn bộ hệ
thống quản lý. Mục tiêu quản lý phải được xác định trước, để chi phối, dẫn dắt cả chủ thể và
đối tượng quản lý trong toàn bộ quá trình hoạt động.
Việc xác định mục tiêu trong quản lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại
và phát triển của toàn bộ hệ thống quản lý bởi vì nếu xác định mục tiêu sai, mọi hoạt động
của hệ thống sẽ trở thành vô nghĩa, thậm chí gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Vai trò
của mục tiêu trong quản lý thể hiện hai mặt tĩnh và động. Về mặt tĩnh, khi xác định cụ thể
các mục tiêu mà tổ chức theo đuổi thì nhà quản lý đặt chúng làm nền tảng của kế hoạch
nhằm xây dựng hệ thống quản lý. Về mặt động, các mục tiêu quản lý không phải là những
điểm mốc cố định mà là linh hoạt phát triển hướng đến mục đích lâu dài của tổ chức với
những kết quả mong đợi ngày càng cao hơn trên cơ sở xem xét các nguồn lực hiện có hoặc
sẽ có của tổ chức. Mục tiêu của quản lý phải đảm bảo tính liên tục và kế thừa của hệ thống;
nội dung phải rõ ràng, cụ thể bằng các chỉ tiêu định lượng là chủ yếu; phải tiên tiến, thể hiện
sự phấn đấu của các thành viên, sự phát triển của hệ thống đồng thời nó cũng phải xác định
rõ về mặt thời gian.
Mục tiêu quản lý có nhiều loại, nhiều cấp, nhiều thứ bậc với những khoảng thời gian
khác nhau có mục tiêu kinh tế, mục tiêu chính trị và mục tiêu xã hội; có mục tiêu cấp thấp
và mục tiêu cấp cao; mục tiêu lâu dài và mục tiêu trước mắt, mục tiêu chủ yếu và mục tiêu
thứ yếu…Trong các mục tiêu quản lý, mục tiêu cấp thấp phải phục tùng, thống nhất và định
hướng vào mục tiêu cấp cao; mục tiêu ngắn hạn phải thống nhất và định hướng vào mục
tiêu lâu dài. Vì vậy, việc cụ thể hóa hệ thống mục tiêu và bảo đảm sự thống nhất của hệ
thống mục tiêu là trách nhiệm của cơ quan quản lý các cấp nhằm tránh tình trạng rối loạn
mục tiêu, mục tiêu cấp thấp và mục tiêu trung gian sẽ không hướng vào mục tiêu cuối cùng.
Trong hệ thống mục tiêu đó, con người luôn là mục tiêu lớn nhất, bao trùm nhất của tất cả
mọi lĩnh vực quản lý.
Động lực trong quản lý là những yếu tố quyết định sự vận động, phát triển của toàn
bộ hệ thống quản lý nhằm hướng đến các mục tiêu đã xác định. Động lực là “cái thúc đẩy

làm cho biến đổi và phát triển”, nó tác động trực tiếp đến hành vi của cá nhân, của tập thể;
từ đó tạo khả năng thực hiện các mục tiêu đã hoạch định. Mác đã từng nói rằng “lợi ích là
động lực của lịch sử", không có động lực, hệ thống sẽ không vận hành và phát triển.
Động lực có nhiều loại khác nhau, tùy theo cách tiếp cận và nghiên cứu, xét trên khía
cạnh quản lý thì người ta chú ý nhiều đến động lực cá nhân trong tổ chức, động lực vật chất
và động lực tinh thần. Động lực cá nhân trong tổ chức là những nhân tố bên trong kích thích
con người nỗ lực làm việc trong điều kiện cho phép nhằm tạo ra năng suất, hiệu quả cao.
Động lực vật chất là khả năng thỏa mãn về vật chất, còn động lực tinh thần chính là sự đánh
giá của tập thể, của xã hội về hoạt động của cá nhân. Nguồn gốc và bản chất của động lực
xuất phát từ nhu cầu của con người. Mặt khác, quản lý suy cho cùng là quản lý con người và
thông qua nỗ lực của con người để thực hiện mục tiêu, mục tiêu đó cũng chính là nhằm
10
phục vụ cho con người. Vì vậy, xét một cách tổng quát thì con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực quan trọng nhất, quyết định toàn bộ sự vận động, phát triển của hệ thống quản lý.
Để phát huy nguồn động lực con người, người ta chia động lực con người ra thành ba
nhóm là động lực hành chính - tổ chức, động lực kinh tế và động lực tinh thần. Căn cứ trên
ba nhóm động lực ấy, chủ thể quản lý phải biết cách tác động để khơi nguồn các động lực,
kích thích sáng tạo, tạo ra sự hăng hái làm việc của từng cá nhân và hợp lực của tổ chức để
hướng vào mục tiêu chung. Tạo động lực không những là trách nhiệm mà còn là mục tiêu
của quản lý và chúng được thực hiện thông qua hệ thống tổ chức bộ máy, cơ chế chính sách
biện pháp và thủ thuật của chủ thể quản lý nhằm làm cho đối tượng thực hiện mục tiêu đạt
hiệu quả cao. Trong thực tế, những chủ trương, biện pháp quản lý đúng đắn của chủ thể
quản lý nhất định sẽ được đón nhận triển khai, thậm chí nhanh chóng biến thành phong trào,
ngược lại những chủ trương, biện pháp quản lý chưa khoa học, không phù hợp thì không tạo
ra động lực, không được hệ thống đón nhận và triển khai.
Chúng ta biết rằng mục tiêu và động lực trong quản lý có mối quan hệ đặc biệt
không tách rời nhau, không có động lực sẽ không tiếp cận được mục tiêu. Mục tiêu tạo ra
động lực và động lực là nhắm đến mục tiêu. Mục tiêu đúng, tự thân nó sẽ trở thành động
lực, ngược lại, mục tiêu sai hoặc không phù hợp sẽ triệt tiêu động lực, không thể tạo ra sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống. Vì vậy, trong hoạt động quản lý, chủ thể quản lý cần phải

kiểm định lại các quyết định quản lý thông qua mối quan hệ giữa mục tiêu và động lực. Một
quyết định đúng đắn, phù hợp nhất định sẽ khơi nguồn động lực tổng hợp trong toàn bộ hệ
thống. Một khi quyết định không được đối tượng tiếp nhận, triển khai, không gây “phản
ứng” gì với hệ thống quản lý thì khi đó nhà quản lý cần phải xem xét lại chính bản thân
quyết định.
Trong thực tế hoạt động quản lý nhất là hoạt động quản lý kinh tế, muốn có động lực
phải giải quyết vấn đề thỏa mãn nhu cầu của người lao động và vì vậy trong mục tiêu phải
chứa đựng những lợi ích về vật chất, tinh thần mà người lao động được hưởng, phải phù
hợp với ý chí, nguyện vọng của người lao động thì mới khuyến khích và tạo ra được động
lực đúng, thúc đẩy khơi dậy mọi tiềm năng của cá nhân, tập thể nhằm đạt những mục tiêu đề
ra. Tuy nhiên việc xác định những yếu tố tạo thành động lực thúc đẩy con người là một việc
khó khăn vì con người là một thực thể phức tạp, động cơ của mỗi cá nhân là khá phức tạp và
thường mâu thuẫn nhau.
Ngày nay, các lý thuyết về động lực cũng đều coi lợi ích kinh tế là một động lực cơ
bản thúc đẩy con người hoạt động bởi vì lợi ích kinh tế chính là nguồn thỏa mãn các nhu
cầu cơ bản và là điều kiện góp phần đáp ứng các nhu cầu tinh thần của con người. Vì con
người là tổng hợp các mối quan hệ xã hội nên lợi ích kinh tế con người không chỉ là lợi ích
cá nhân mà còn là lợi ích tập thể và toàn xã hội. Do vậy, phải coi lợi ích kinh tế không chỉ là
động lực mà trước hết nó còn là mục tiêu và mục tiêu cao nhất của công cuộc xây dựng đất
nước là phát triển sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân. Trong hoạt động quản lý, lợi ích
kinh tế phải được đặt ra ngay từ khi xác định mục tiêu của chiến lược, kế hoạch, chính sách
và trong toàn bộ quá trình xác định biện pháp, tổ chức thực hiện. Đây là tiêu chuẩn để định
hướng, chọn lựa, đánh giá, phân biệt đúng – sai, lợi – hại, hiệu quả hay không hiệu quả
trong khi xem xét, đánh giá các phương án, kế hoạch, chính sách, đánh giá tình hình và kết
quả hoạt động quản lý.
Tuy nhiên, nếu chỉ có lợi ích kinh tế (với tư cách vừa là động lực, vừa là mục tiêu)
thì chưa đủ vì con người ngoài nhu cầu cấp thấp (như nhu cầu sinh lý, an ninh, an tòan) thì
còn có nhu cầu cấp cao (bao gồm nhu cầu xã hội được tôn trọng và tự thể hiện), thỏa mãn
những nhu cầu này chính là từ động lực hành chính tổ chức và động lực tinh thần. Vì vậy,
11

nhà quản lý phải hiểu đối tượng quản lý đang ở cấp độ nhu cầu nào để đưa ra các giải pháp
phù hợp thỏa mãn nhu cầu và tạo động lực cho đối tượng nhằm đạt đến mục tiêu của hệ
thống. Nếu chỉ quá chú trọng, xem lợi ích kinh tế là mục tiêu, động lực cao nhất thì có thể sẽ
dẫn đến sự lệch lạc về mục tiêu và động lực, quá quan tâm đến lợi ích vật chất và thu
nhập, có thể làm phát sinh những hành vi trái pháp luật hoặc tạo ra hiện tượng con người
chỉ làm việc vì tiền, quên đi mục tiêu khác tốt đẹp hơn của con người, vì đồng tiền mà chà
đạp lên đạo lý, tình cảm. Quản lý trong chế độ XHCN thì từ trong bản chất của mình luôn
luôn là vì con người, đề cao và phát huy nhân tố con người, vì vậy xác định mục tiêu và
động lực trong quản lý còn chú trọng đến sự thỏa mãn nhu cầu về tinh thần của con người,
tạo điều kiện cho con người được cống hiến nhiều hơn để được hưởng thụ nhiều hơn,
khuyến khích mọi năng lực sáng tạo của con người, khi đó hiệu quả công việc sẽ được đẩy
lên rất cao. Quan điểm phát triển của Đảng ta là “Mục tiêu và động lực chính của sự phát
triển là vì con người, do con người. Chiến lược kinh tế - xã hội đặt con người vào vị trí
trung tâm, giải phóng sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể
lao động và cả của cộng đồng dân tộc.”
Từ quan điểm trên kết hợp với lý thuyết hai nhân tố (duy trì và động viên) của
Herzberg cho ta thấy rằng đối với các nhà quản lý thì những nhân tố làm thỏa mãn người lao
động là khác với các nhân tố tạo ra sự bất mãn, việc động viên con người đòi hỏi phải giải
quyết thỏa đáng đồng thời cả hai nhóm nhân tố duy trì và động viên, bên cạnh đó việc động
viên kịp thời, gần gủi với cấp dưới, hiểu được hòan cảnh của của các thành viên sẽ kích
thích họ làm việc hăng say, tích cực hơn.
* Để phát huy nguồn nhân lực tại địa phương, Tỉnh đã đề ra mục tiêu và thực hiện
một số giải pháp nhằm tạo động lực để phát huy nguồn nhân lực của Tỉnh, cụ thể:
- Trong hệ thống chính trị: Mục tiêu là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức trong hệ thống chính trị, đảm bảo cán bộ chủ chốt các cấp đạt chuẩn vào năm 2010.
Thực hiện mục tiêu trên, lãnh đạo Tỉnh đã thực hiện các biện pháp kích thích, tạo
động lực như sau:
+ Về hành chính-tổ chức: Quy định đến năm 2010, trong quy hoạch bố trí cán bộ
vào cấp uỷ các cấp, không cơ cấu cán bộ chưa đạt chuẩn về chuyên môn và chính trị theo
quy định. Đồng thời, chỉ đạo cấp uỷ các cấp sớm thực hiện quy hoạch, đào tạo cán bộ đảm

bảo chuẩn hoá.
Mở các lớp tập huấn, bổ sung kiến thức mới nhất là về tư duy đổi mới, hội nhập quốc
tế… để đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt nắm được các vấn đề mới.
Triển khai các đề án của Chính phủ, Ban Tổ chức Trung ương về đào tạo cán bộ sau
đại học ở nước ngoài; có chú trọng đến lực lượng học sinh, sinh viên. Đào tạo dự nguồn…
Thực hiện luân chuyển để đào tạo cán bộ, trong đó, chú ý đến cán bộ trẻ, có tiềm
năng phát triển, được đào tạo bài bản. Sau luân chuyển, có bố trí, đề bạt, qua đó góp phần
động viên đối với lực lượng cán bộ được luân chuyển.
+ Về kinh tế: Quy định các chính sách hỗ trợ đi học; mở các lớp tại chức tại một số
địa phương để đào tạo cán bộ cho một số huyện lân cận để giảm bớt chi phí cho học viên.
Khuyến khích học tập chuyên sâu, có chính sách hỗ trợ làm luận án thạc sỹ (20 triệu), tiến
sỹ (30 triệu); có chính sách hỗ trợ đối với cán bộ điều động, luân chuyển.
+ Động lực tinh thần: Thường xuyên quán triệt trong đội ngũ cán bộ, đảng viên ý
nghĩa, tầm quan trọng của việc học tập, tiếp thu kiến thức mới trong tình hình mới. Đối với
các lớp tập trung tổ chức ở một số nơi, lãnh đạo tỉnh có phân công thăm, động viên học
viên.
12
Qua thực hiện các giải pháp, nhìn chung, chất lượng nguồn nhân lực trong hệ thống
chính trị có bước nâng lên; trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị và kinh nghiệm
thực tiễn của cán bộ chủ chốt các cấp được chuẩn hoá, ngày càng đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ công tác. Tại Đại hội Đảng các cấp năm 2010, tình trạng cán bộ không đạt chuẩn, hụt
hẫng cán bộ không đáng kể.
- Đối với nguồn nhân lực xã hội: Mục tiêu là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
từng bước đáp ứng yêu cầu công cuộc công nghiệp hoá-hiện đại hoá của Tỉnh.
+ Động lực hành chính, tổ chức: Tăng đầu tư cho giáo dục: Nhà nước tăng đầu tư từ
ngân sách Nhà nước để đầu tư mở rộng hệ thống cơ sở giáo dục, đào tạo, đảm bảo đáp ứng
yêu cầu dạy và học. Ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TU ngày 14 tháng 01 năm 2008 của
Tỉnh uỷ Long An về đẩy mạnh xã hội hoá các lĩnh vực văn hoá-xã hội đến năm 2010 và
những năm tiếp theo, trong đó có lĩnh vực giáo dục, đào tạo.
Đưa các chỉ tiêu về giáo dục – đào tạo vào chỉ tiêu nhà nước để chỉ đạo, phấn đấu

thực hiện (đến năm 2010: trường đạt chuẩn quốc gia 20%; đạt chuẩn phổ cập giáo dục bậc
trung học, lao động qua đào tạo 50% ); qua đó chỉ đạo các ngành, địa phương triển khai
thực hiện. Mở các trung tâm học tập cộng đồng tại các địa phương.
+ Động lực kinh tế: Có chính sách hỗ trợ (về thủ tục hành chính, về đất đai…) để thu
hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển giáo dục.
Thực hiện miễn, giảm học phí đối với học sinh nghèo.
Cấp học bổng cho học sinh, sinh viên nghèo, học giỏi; cho vay trong học sinh, sinh
viên để đảm bảo học sinh không bỏ học vì lý do kinh tế.
Thu hút đầu tư các doanh nghiệp sử dụng lao động chất lượng cao về đầu tư trên địa
bàn. Cung cấp thông tin về lao động, việc làm, thu nhập cho người lao động để kích thích
người lao động phấn đấu học tập, nâng cao trình độ, tay nghề.
+ Động lực về tinh thần: Khen thưởng học sinh, sinh viên có thành tích tốt trong học
tập; công nhân sản xuất giỏi…Phân công giáo viên, cán bộ cấp cơ sở nắm tình hình và động
viên gia đình, học sinh bỏ học tiếp tục học tập. Khuyến khích các doanh nghiệp tạo điều
kiện để công nhân tham gia học tập, nâng cao trình độ tay nghề.
- Từ việc triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp, tại Báo cáo Chính trị thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần IX (2011-2015) có đánh giá: Giáo dục và đào tạo có
bước phát triển mới. Chất lượng giáo dục toàn diện được nâng lên, qui mô giáo dục phát
triển theo hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”; mặt bằng dân trí được nâng lên rõ
rệt; phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi được giữ vững; tỉnh được công nhận đạt chuẩn
phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2007. Đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục
được kiện toàn, cơ cấu hợp lý hơn. Cơ sở vật chất được quan tâm đầu tư, đáp ứng ngày càng
tốt hơn yêu cầu dạy và học; toàn tỉnh có 21,1% trường đạt chuẩn quốc gia (chỉ tiêu 20%).
Hoạt động dạy nghề phát triển khá nhanh, bước đầu đáp ứng yêu cầu đào tạo lao động, kể cả
đào tạo chuyển đổi nghề. Hệ thống cơ sở dạy nghề tiếp tục phát triển, mở rộng theo hướng
xã hội hóa, góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 24% năm 2005 lên 50% vào năm
2010. Trung tâm học tập cộng đồng đã hình thành ở 100% xã, phường, thị trấn; hoạt động
khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập được phát động rộng mạnh, xã hội hưởng
ứng tích cực, góp phần nâng cao dân trí trong tỉnh.
Tóm lại, xác định mục tiêu đúng đắn, sử dụng hợp lý các phương pháp để khơi

nguồn động lực và giải quyết tốt mối quan hệ giữa mục tiêu và động lực trên cơ sở vì con
người, do con người chính là những yếu tố giúp chủ thể và đối tượng quản lý đạt được hiệu
quả cao và sớm đạt được những mục tiêu đã xác định. Điều đó cũng góp phần thực hiện tốt
chủ trương của Đảng.
13
Câu 04: Trình bày quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện quyết định quản lý.
Phân tích một quyết định tại địa phương?
Chúng ta biết rằng một trong những chức năng của quản lý là ra quyết định. Quyết
định quản lý liên quan đến thành bại, đến hiệu quả cao thấp của toàn bộ quá trình quản lý.
Quyết định quản lý được xem là sản phẩm của người lãnh đạo quản lý, người lãnh đạo thể
hiện tài năng của mình là ở khâu ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định quản lý. Vì
vậy, để có quyết định chính xác, đúng đắn, khả thi và hiệu quả, người quản lý phải nắm
vững các đặc điểm, vai trò, yêu cầu của quyết định quản lý, phương pháp xây dựng và tổ
chức thực hiện quyết định một cách khoa học.
Quyết định quản lý là hành vi có tính chất chỉ thị do một cơ quan hay một người
đưa ra nhằm định hướng, tổ chức hoạt động cho tập thể lao động thực hiện mục tiêu quản lý.
Ra quyết định quản lý là việc lựa chọn các mục tiêu cũng như nguồn lực và đề ra các
phương pháp thực hiện để đạt được mục tiêu đó.
Quyết định quản lý ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả quản lý, một quyết định đúng
đắn, kịp thời sẽ đem lại sự giàu có, phát triển. Ngược lại, quyết định sai và không đúng lúc
có thể gây trì trệ, ách tắt, nhiều khi dẫn đến phá sản. Chu kỳ sống của một quyết định quản
lý thường trải qua 5 giai đoạn: Giai đoạn mới triển khai, chưa phát huy đầy đủ tác dụng;
giai đoạn quyết định bắt đầu phát huy tác dụng; giai đoạn phát huy tác dụng ở mức cao
nhất; giai đoạn bắt đầu bị hạn chế do tác động của môi trường và thị trường; giai đoạn thể
hiện sự trì trệ, kìm hãm phát triển đòi hỏi phải có quyết định mới. Để phát huy tối đa hiệu
quả của quyết định, người lãnh đạo quản lý phải lựa chọn và ra quyết định kịp thời tại thời
điểm quyết định phát huy tác dụng cao nhất và phải thay đổi quyết định khi quyết định thể
hiện sự trì trệ, kìm hãm phát triển.
Do quyết định quản lý là sản phẩm của chủ thể quản lý nên nội dung của nó thường
chứa đựng ý chí chủ quan chi phối (cá tính, quan điểm, trình độ năng lực nhận thức và vận

dụng quy luật ) của người lãnh đạo quản lý. Để đảm bảo cho các quyết định quản lý có
chất lượng thì khi đề ra các quyết định phải dựa trên các cơ sở khách quan. Đó là yêu cầu
của quy luật khách quan tác động tới đối tượng quản lý; đặc điểm và xu thế phát triển của
đối tượng quản lý; điều kiện vật chất và thời gian có thể thực hiện quyết định. Quyết định
quản lý cũng mang những đặc điểm khác như do chủ thể quản lý ban hành và chỉ đề ra khi
các vấn đề đã chín muồi, quyết định hướng trực tiếp vào tổ chức, hoạt động của đối tượng
quản lý và có liên quan trực tiếp tới quá trình thu nhận, xử lý thông tin, lựa chọn phương
tiện hoạt động, cuối cùng là phải được hình thành trên cơ sở hiểu biết quy luật và sự vận
động của hệ thống quản lý, ra quyết định.
Vì tính chất quan trọng của quyết định quản lý nên nội dung của quyết định quản lý
phải đảm bảo các yêu cầu như phải mang tính khoa học, tính toàn diện, tính khả thi, tính
thống nhất, tính kịp thời, tính hiệu quả, tính linh hoạt và tính hợp pháp. Một quyết định
khoa học là quyết định phù hợp với định hướng, mục tiêu của tổ chức, phù hợp với quy
luật, nguyên tắc, nguyên lý khoa học và xu thế khách quan, phù hợp với điều kiện cụ thể,
với tình huống cần đưa ra quyết định và được xây dựng dựa trên cơ sở vận dụng các phương
pháp khoa học. Một quyết định toàn diện là quyết định có nội dung bao quát được nhiều
vấn đề, thỏa mãn cao các mục tiêu, phù hợp với những ràng buộc nhất định, được sự ủng hộ
của số đông. Quyết định có tính thống nhất cao là quyết định được ban hành bởi các cấp,
các bộ phận chức năng phải thống nhất theo cùng một hướng do mục tiêu chung xác định và
các quyết định được ban hành tại các thời điểm khác nhau thì không được mâu thuẩn, trái
ngược và phủ định (những quyết định nào hết hiệu lực phải được bãi bỏ). Một quyết định
có tính kịp thời là quyết định ban hành vào thời điểm quyết định có hiệu quả cao nhất, đáp
14
ứng được sự mong đợi của đối tượng quản lý. Một quyết định linh hoạt là quyết định phản
ánh được mọi nhân tố mới trong lựa chọn quyết định, phản ánh được tính thời đại, đáp ứng
được sự biến đổi môi trường mà quyết định ra đời và thực hiện. Quyết định hợp pháp, hiệu
quả và khả thi là quyết định đúng thẩm quyền ban hành, thủ tục, thể thức, không trái với
pháp luật quy định; mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội và có khả năng thực hiện được trong
thực tế.
Để tổ chức xây dựng và thực hiện một quyết định, nhà quản lý phải tuân thủ chặt chẽ

những bước trong quá trình ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định.
Quá trình ra quyết định bao gồm hai giai đoạn, mỗi giai đoạn thực hiện nhiều
bước.
Giai đoạn chuẩn bị, nhà quản lý thực hiện việc phát hiện những vấn đề mà yêu cầu
của tổ chức hoặc yêu cầu từ thực tiễn đặt ra, những vấn đề này phải thuộc phạm vi mình
quản lý và thuộc thẩm quyền mình ban hành. Trên cơ sở xác định những vấn đề cần ra quyết
định nhà quản lý sẽ đánh giá tình huống, xác định những mục tiêu nhiệm vụ phải làm và tìm
hiểu những thông tin có liên quan, tác động đến vấn đề đặt ra.
Căn cứ những thông tin liên quan cần phải thu thập và các mục tiêu phải đạt được,
nhà quản lý sẽ dự đoán kết quả, lựa chọn các chỉ tiêu, các tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả
của các phương án và xác định mức độ ưu tiên (trọng số) cho từng tiêu chí đã đặt ra.
Giai đoạn chủ yếu, bước đầu tiên của giai đoạn này thực hiện thu thập thông tin để
làm rõ nhiệm vụ cần giải quyết (bao gồm những thông tin về môi trường, thị trường, công
nghệ, thông tin về các yếu tố mang tính chính trị áp lực của nhóm lợi ích, nghiệp đoàn, nhà
nước ). Trên cơ sở các thông tin đã thu thập, nhà quản lý sẽ chọn và mời những chuyên
gia, những nhà chuyên môn sâu cùng tham gia xây dựng chính thức các nhiệm vụ và các
phương án giải quyết vấn đề, thực hiện việc phân tích, so sánh, đánh giá hiệu quả và khả
năng đáp ứng của các phương án đối với các mục tiêu mong đợi nhằm chọn ra phương án
tối ưu và cuối cùng là ban hành quyết định quản lý. Để chọn lựa phương án tối ưu, trước khi
đưa ra quyết định cuối cùng, người lãnh đạo quản lý cần thiết phải tham khảo ý kiến tập thể,
các chuyên gia, bảo đảm tinh thần dân chủ thực sự và tập trung đúng nghĩa.
Trong thực tế khi ban hành một quyết định quản lý, ít khi gặp những trường hợp vấn
đề đặt ra hoàn toàn mới, do đó, người lãnh đạo trước khi ra quyết định mới cần phải đánh
giá lại nội dung và kết quả thực hiện của các quyết định cũ trên cả hai mặt được và chưa
được, phân tích nguyên nhân, những kinh nghiệm rút ra từ đó, những yếu tố hợp lý nào cần
được giữ lại. Kinh nghiệm thực tế cũng cho thấy rằng một quyết định đúng đắn là quyết
định có căn cứ và sự phân tích tình hình một cách cụ thể, không chỉ phân tích tình huống mà
còn phân tích xu hướng phát triển của vấn đề. Đối với những quyết định mà đối tượng thực
hiện và chịu sự tác động là lực lượng đông đảo trong xã hội thì khi chuẩn bị ra quyết định,
nhà quản lý phải quan tâm nhân tố xã hội ảnh hưởng tới quá trình tổ chức thực hiện quyết

định như điều kiện thực hiện, trình độ nhận thức và thái độ, phản ứng của người thực hiện
Trường hợp ở phạm vi nhỏ, tính chất công việc đơn giản có thể cho phép người lãnh đạo bỏ
qua một số bước nào đó trong các bước kể trên.
Quá trình tổ chức thực hiện quyết định được bắt đầu kể từ khi quyết định được
cấp thẩm quyền phê duyệt. Bước đầu tiên trong quá trình này là lập kế hoạch triển khai
thực hiện quyết định. Sau đó tổ chức tuyên truyền giải thích nội dung, mục đích, ý nghĩa
của quyết định đến những đối tượng thực hiện quyết định. Quá trình triển khai nội dung
quyết định cần làm rõ các vấn đề như: Thực hiện cái gì? Tại sao thực hiện? Ai thực hiện?
Thực hiện ở đâu? Thời gian thực hiện? và Thực hiện bằng cách nào? Việc tuyên truyền giải
thích phải được thực hiện sâu rộng và hướng dẫn thực hiện thống nhất, nhất là đối với
15
những quyết định bao hàm nhiều nội dung và phức tạp. Tiếp theo đó là khâu tổ chức thực
hiện quyết định, kiểm tra thực hiện quyết định. Việc kiểm tra thực hiện quyết định phải
được thường xuyên để kịp thời điều chỉnh quyết định cho phù hợp với tình hình thực tế
nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Cuối cùng là việc tiến hành tổng kết, đánh giá kết quả thực
hiện quyết định tìm ra những sai lệch, nguyên nhân sai lệch, phát hiện những nguồn lực
chưa khai thác, sử dụng hiệu quả để rút ra bài học kinh nghiệm cho công tác quản lý ngày
càng tốt và hoàn thiện hơn.
Trong thực tiễn cho thấy có những quyết định quản lý khi ban hành được triển khai
rộng rãi và được rất nhiều người đồng tình ủng hộ, tham gia thực hiện nhưng cũng có những
quyết định quản lý rất khó tổ chức triển khai thực hiện. Đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai,
vốn là những vấn đề rất nhạy cảm trong quần chúng nhân dân. Pháp luật nói chung và pháp
luật đất đai nói riêng đang trong quá trình điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện để thích ứng với
sự phát triển kinh tế xã hội. Sự phát triển của pháp luật, sự phát triển và vận dụng pháp luật
của thực tế trong giai đoạn này không phải lúc nào cũng đạt được sự đồng bộ mà có lúc, có
nơi còn có khoảng cách mà Nhà nước đã và đang cố gắng khắc phục tình trạng này.
Lấy ví dụ việc ban hành Quyết định 716/QĐ-UBND của UBND tỉnh Long An.
- Cụm Công nghiệp Long Định Long Cang được UBND tỉnh giao Công ty cơ khí
Long An làm chủ đầu tư. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện dự án, Công ty Cơ
khí không đủ vốn phải huy động thêm vốn của Công ty TNHH Tân Lợi Lợi và Công ty

Năm Sao.
- Hợp đồng góp vốn đầu tư giữa 3 công ty là hợp đồng kinh tế, Công ty Cơ khí biết
rằng nếu xảy ra tranh chấp thì Công ty Cơ khí chỉ cần hoàn trả phần vốn góp ban đầu (theo
luật định) cho Công ty TNHH Tân Lợi Lợi và Công ty Năm Sao. Do nhiều nguyên nhân,
nhưng có nguyên nhân do giá đất lên rất nhanh, dự án lại ở vị trí hết sức đắc địa (cặp sông
Vàm Cỏ Đông, gần Quốc Lộ I…), do đó dự án đầu tư lợi nhuận lớn, Công ty Cơ khí muốn
đầu tư toàn bộ dự án để hưởng trọn lợi nhuận.
- Trong quá trình đầu tư Dự án, Công ty Cơ khí đã vi phạm một số vấn đề về tiến độ
đầu tư, công tác giải phóng mặt bằng, tái định cư…chưa tốt. Dân cư trong vùng dự án có
bức xúc.
- Công ty TNHH Tân Lợi Lợi và Công ty Năm Sao nhận thấy bị thiệt hại lớn do đã bỏ
tiền ra đầu tư dự án lúc giá đất còn thấp nên đến UBND tỉnh để đề nghị xử lý.
- Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định 716/QĐ-UBND, ngày 16-3-2007 hủy bỏ
vai trò chủ đầu tư dự án của Công ty Cơ khí và tách dự án ra làm ba với lý do “xảy ra tranh
chấp”; sau đó ban hành nhiều quyết định khác để thu hồi, điều chỉnh xử lý… nhưng vụ việc
chưa được giải quyết. Công ty Cơ khí Long An kiện UBND tỉnh ra toà và UBND tỉnh đã
thua kiện.
Đây là quyết định hợp pháp do được ban hành đúng thẩm quyền, đúng thể thức. Về
mặt tình có thể chấp nhận được, nhưng xét về tính khoa học, tính thống nhất, chính xác thì
có vấn đề. Cụ thể:
+ Công ty Cơ khí Long An đầu tư dự án nhưng không đủ vốn để thực hiện giải phóng
mặt bằng, tái định cư…, tiến độ đầu tư chậm, gây bức xúc dân cư trong vùng dự án. Việc
huy động thêm vốn đầu tư của Công ty TNHH Tân Lợi Lợi và Công ty Năm Sao để đẩy
nhanh tiến độ đầu tư, góp phần ổn định dân cư, thu hút các doanh nghiệp đến đầu tư, phát
triển kinh tế-xã hội tỉnh nhà là rất cần thiết. Công ty Cơ khí Long An muốn chấm dứt việc
hợp tác (xét góc độ nào đó là bội ước); UBND tỉnh đã ban hành các Quyết định hành chính
để giải quyết vụ việc trên (phân chia dự án). Về mặt tình, Quyết định trên chấp nhận được,
do những đóng góp của Công ty Tân Lợi Lợi và Công ty Năm Sao vào dự án; nhưng về mặt
16
lý thì không đúng, do UBND tỉnh không thể xử lý tranh chấp hợp đồng kinh tế của các

doanh nghiệp.
+ Do Quyết định không đúng tính pháp lý nên không thể giải quyết được tranh chấp
giữa các bên dẫn đến kiện tụng kéo dài, UBND tỉnh đã ban hành thêm nhiều quyết định
nhưng vẫn không giải quyết được tốt vụ việc (tính thống nhất không đảm bảo); làm cho thời
gian triển khai thực hiện dự án kéo dài, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế-xã hội của tỉnh, đời
sống nhân dân trong vùng dự án.
- Nếu từ đầu, xét tình, lý, UBND tỉnh căn cứ vào việc Công ty Cơ khí Long An không
đủ vốn đầu tư, thời gian đầu tư kéo dài, gây bức xúc trong dân để quyết định thu hồi toàn
bộ, hay một phần dự án (chi phí đã đầu tư thuê đơn vị định giá tính và các đơn vị được giao
dự án sau trả lại), sau đó cấp cho Công ty Tân Lợi Lợi và Công ty Năm Sao đầu tư thì vụ
việc được giải quyết dứt điểm; thời gian đầu tư dự án sẽ nhanh hơn, dự án sẽ mang lại hiệu
quả về kinh tế-xã hội cho địa phương tốt hơn.
Hoặc khi đã xảy ra tranh chấp, UBND tỉnh để các doanh nghiệp ra toà xử lý hợp đồng
kinh tế, sau đó quy định thời gian để hoàn thành dự án (theo luật định), Công ty Cơ khí
Long An sẽ cố gắng huy động vốn đầu tư để sớm hoàn thành dự án, mang lại hiệu quả về
kinh tế-xã hội cho địa phương tốt hơn. UBND tỉnh tạo điều kiện để Công ty Tân Lợi Lợi,
Công ty Năm Sao tìm cơ hội đầu tư ở nơi khác.
- Từ vấn đề trên, chúng ta thấy, một quyết định dù hợp tình, nhưng không hợp lý thì
không những không giải quyết được vấn đề, còn gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến
hiệu quả kinh tế-xã hội của địa phương; uy tín của cá nhân, uy tín của bộ máy và khó khăn
cho tổ chức.
Tóm lại, vấn đề ra quyết định quản lý và tổ chức thực hiện quyết định là một quá
trình không đơn giản, bao gồm nhiều bước phức tạp, gắn với nó là sự sáng tạo, nhạy bén, tư
duy của nhà lãnh đạo quản lý trên cơ sở kết hợp thực tiễn với các phương pháp khoa học và
các quy luật khách quan. Để có quyết định chính xác, đúng đắn, khả thi và hiệu quả, người
quản lý phải nắm vững các đặc điểm, vai trò, yêu cầu của quyết định quản lý sẽ ban hành,
có phương pháp xây dựng và tổ chức thực hiện quyết định một cách khoa học. Nhiều quyết
định quản lý đúng, phù hợp với nhu cầu thực tiễn góp phần thực hiện tốt chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước.

×