Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

câu hỏi và đáp án môn triết học duy vật biện chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.13 KB, 18 trang )

1
MƠN TRIẾT:
Câu 1: N.dung cơ bản của q.luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về
chất và ngược lại. Những sai lầm có thể mắc phải nếu vận dụng không đúng q.luật này và sự cần
thiết vận dụng q.luật này trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
BÀI LÀM
Đối với §ảng ta, kiên trì, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác–Lênin là vấn đề có tính
ngun tắc số một. Trung thành với chủ nghĩa Mác–Lênin có nghĩa là nắm vững bản chất cách mạng và khoa
học của chủ nghĩa Mác–Lênin, vận dụng một cách đúng đắn, thích hợp với điều kiện nước ta, góp phần phát
triển chủ nghĩa Mác–Lênin một cách sáng tạo. Nghị Quyết đại hội VIII của Đảng nêu rõ “Đảng làm giàu trí
tuệ của mình bằng cách khơng ngừng nâng cao trình độ lý luận, nắm vững và vận dụng sáng tạo những luận
điểm cơ bản và phương pháp luận chủ nghĩa Mác–Lênin và tư tưởng HCM, đồng thời phải khơng ngừng tổng
kết kinh nghiệm thực tiển sinh động, từ phong trào CM của quần chúng”. NQ ĐH IX của Đảng tiếp tục khẳng
định “Lấy chủ nghĩa Mác–Lênin, tư tường HCM làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước
phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta”. NQ ĐH XI của Đảng tiếp tục khẳng
định “trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên
định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tưởng HCM, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
và CNXH.
Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và
vận dụng tư tưởng, lý luận đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam để đề ra đường lối, cương lĩnh đúng đắn
nhằm lãnh đạo đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Từ Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12/1986) đến nay, Đảng
đã khởi xướng và lãnh đạo cơng cuộc đổi mới tồn diện và sâu sắc trên tồn đất nước, trong đó chủ trương đổi
mới của Đảng được Văn kiện Đại hội IX xác định là “Con đường cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta
cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt”. Chủ trương này
thể hiện sự vận dụng đúng đắn quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất
và ngược lại của triết học Mác-Lênin (gọi tắt là quy luật lượng - chất) vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Việc tìm hiểu quy luật lượng - chất cũng giúp ta tránh được những khuynh hướng sai lầm nếu khơng nhận
thức và áp dụng đúng quy luật này trong thực tiễn.
Quy luật lượng và chất là 1 trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, nó chỉ rõ cách thức
phát triển của sự vật, hiện tượng.
Chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của các sự vật hiện tượng


(SVHT), là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho nó là nó và phân biệt nó với cái khác. Chất của
sự vật phụ thuộc vào những yếu tố cấu thành và phương thức liên kết giữa các yếu tố đó. Mỗi sự vật hiện
tượng có nhiều thuộc tính nhưng chỉ có thuộc tính cơ bản mới quy định “chất” của sự vật, vì chỉ khi nào thuộc
tính cơ bản thay đổi thì chất của sự vật mới thay đổi. Tuy nhiên, việc phân biệt chất và thuộc tính cũng chỉ là
tương đối vì nó còn phụ thuộc vào những mối quan hệ cụ thể của nó với những cái khác và mỗi thuộc tính có
thể coi là một chất trong một quan hệ khác. Chất biểu hiện tính tương đối ổn định của sự vật và là cái khách
quan vốn có khơng tách rời sự vật.
Lượng là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về số lượng, quy mơ, trình
độ, nhịp điệu, tốc độ của sự vận động, phát triển của sự vật cũng như của các thuộc tính, yếu tố cấu thành nên
sự vật. Lượng có thể được biểu hiện thành con số, đại lượng hoặc mức độ … cũng giống như chất, lượng là
cái khách quan vốn có của sự vật. Sự phân biệt giữa chất và lượng cũng là tương đối, nghĩa là có cái ở trong
quan hệ này là chất nhưng trong quan hệ khác lại là lượng và ngược lại.
 Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng:
Trong 1 SVHT, chất và lượng thống nhất quy định lẫn với nhau: chất nào lượng ấy và lượng nào chất
ấy. Chất tương đối ổn định còn lượng thường xun biến đổi. Sự biến đổi về lượng có thể làm thay đổi về
chất và ngược lại, nhưng trong một giới hạn nhất định thì sự thay đổi về lượng khơng làm thay đổi căn bản
chất của sự vật, phạm vi giới hạn ấy gọi là độ. Nói cách khác, khơng phải bất kỳ sự thay đổi về lượng nào
cũng dẫn đền sự thay đổi về chất ngay tức khắc mà chỉ khi lượng thay đổi vượt q giới hạn của độ thì mới
dẫn đến sự thay đổi về chất. Điểm giới hạn mà tại đó bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng đưa ngay tới sự
thay đổi về chất gọi là điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới
và tạo thành độ mới.
Sự thay đổi về chất qua điểm nút gọi là bước nhảy. Bước nhảy là một phạm trù triết học để chỉ ra sự
chuyển hóa về chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó gây ra. Đây là bước ngoặc căn bản kết
thúc một giai đoạn trong sự biến đổi về lượng làm thay đổi chất, là sự gián đoạn trong q trình biến đổi liên
tục của các sự vật. Khơng có bước nhảy tức là khơng có sự thay đổi về chất. Khi chất mới ra đời nó sẽ quy
2
định một lượng mới phù hợp với nó để tạo sự thống nhất giữa chất và lượng ở mỗi độ nhất định và chất sẽ tác
động trở lại lượng, thúc đẩy quy mô, nhịp điệu tốc độ. Sự vật tồn tại trong sự thống nhất ấy, cứ thế một quá
trình tác động mới với quy mô, nhịp điệu mới lại bắt đầu. Do đó có thể nói, phát triển là sự đứt đoạn trong
liên tục, thông qua hình thức những bước nhảy là trạng thái liên hợp của các điểm nút. Cách thức của sự phát

triển chính là những quá trình biến đổi đó:
Thế giới sự vật hiện tượng là đa dạng, phong phú cho nên các bước nhảy cũng vậy. Có bước nhảy đột
biến hoặc dần dần, có bước nhảy toàn bộ hoặc cục bộ, tức là diễn ra với khoảng thời gian khác nhau, quy mô
khác nhau, nhưng dù với hình thức nào mỗi bước nhảy cũng là một sự thay đổi về chất.
Từ mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất, trong đó sự phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ
thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất và chất khi ra đời nó sẽ quy định lại quy mô, tốc độ của lượng,
chúng ta khi muốn cải tạo sự vật về chất phải quan tâm đến quá trình tích lũy về lượng. Đồng thời phải chủ
động tạo những điều kiện cần thiết để quá trình chuyển hóa từ chất cũ sang chất mới được thực hiện hoàn hảo
Khi vận dụng quy luật mối quan hệ giữa chất và lượng vào thực tiễn, ta không được tuyệt đối hóa mặt
nào, nếu tuyệt đối hóa một trong hai mặt này thì chúng ta sẽ rơi vào tư tưởng nôn nóng (tả khuynh) hoặc tư
tưởng bảo thủ (hữu khuynh).
Khuynh hướng nôn nóng tả khuynh là khuynh hướng không quan tâm thực hiện quá trình tích lũy về
lượng mà chỉ chú ý thực hiện những bước nhảy vọt làm thay đổi về chất trong khi chưa có đủ điều kiện tích
lũy về lượng cần thiết. Những người có tư tưởng này trong hoạt động thực tiễn thường nóng vội, chủ quan
duy ý chí, họ cho rằng sự phát triển chỉ gồm toàn những bước nhảy liên tục nên có thể đốt giai đoạn
Khuynh hướng bảo thủ hữu khuynh là khuynh hướng chí chú ý đến quá trình tích lũy về lượng,
không chú ý phát huy nổ lực của nhân tố chủ quan, không dám thực hiện bước nhảy vọt về chất khi đã có sự
tích lũy đầy đủ về lượng hoặc kéo dài sự tích lũy, chỉ nhấn mạnh đến sự biến đổi dần về lượng.
Cả hai khuynh hướng trên đều dẫn đến những sai lầm có tác hại rất lớn làm cản trở hoặc kìm hãm sự phát
triển của sự vật hiện tượng. Trong thực tiễn Việt Nam trước thời kỳ đổi mới, Đảng ta cũng có lúc phạm sai
lầm của 2 khuynh hướng trên. Văn kiện Đại hội VI đã nêu “Do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trãi qua nhiều chặng đường và do tư tưởng chỉ
đạo chủ quan, nóng vội muốn bỏ qua những bước đi cần thiết trên thực tế, chúng ta đẩy mạnh công nghiệp
hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã lỗi thời”.
Văn kiện còn nhận định trong công tác tổ chức thời kỳ này “khuyết điểm lớn nhất là sự trì trệ, chậm đổi mới
công tác cán bộ. Việc lựa chọn, bố trí cán bộ vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp còn theo quan niệm
cũ kỹ và tiêu chuẩn không đúng đắn, mang nặng tính hình thức ” Chính những sai lầm này là một trong
những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng ở nước ta trước thời kỳ đổi mới.
Từ những thất bại trong đường lối chỉ đạo trước thời kỳ đổi mới, Đảng đã có những tổng kết, đánh giá
kịp thời về những sai lầm trên. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đánh dấu bước đột phá đầu tiên của tư duy lý

luận của Đảng trong việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất trong sự
nghiệp đổi mới ở nước ta.
Công cuộc đổi mới mà Đảng đã khởi xướng từ Đại hội VI và từ đó đến nay đang diễn ra trên đất nước ta
có ý nghĩa như là một quá trình mang tính cách mạng bởi nó tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực
đời sống xã hội. Trong quá trình chuyển biến đó thì công nghiệp hóa, hiện đại hóa được xem là nhiệm vụ
trọng tâm và phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu
đề ra, Đảng đã khẳng định “Con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời
gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt”.
Phương hướng này chỉ ra rằng bên cạnh việc thực hiện những giải pháp nhằm tích lũy dần tiềm lực về
khoa học công nghệ, về kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và chuyển biến quy trình sản xuất từ nền sản xuất
lao động thủ công sang lao động với phương tiện và phương pháp tiên tiến có năng suất cao theo những bước
đi phù hợp với quy luật phát triển, chúng ta cần phải biết phát huy những lợi thế của đất nước, tạo điều kiện
và phát huy tối đa nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, chú trọng phát triển giáo dục
và đào tạo, Khoa học và công nghệ để làm nền tảng, động lực thúc đẩy sự nghiệp phát triển CNH-HĐH của
đất nước có những bước nhảy vọt, đột phá. Nhân tố chủ quan có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo sự
đột phá về bước nhảy để rút ngắn thời gian trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, đây là quan điểm đúng đắn
dựa trên cơ sở tác động của chầt đối với lượng để tạo sự đột phá trong bước nhảy. Văn kiện ĐH Đảng lần VIII
đã nhấn mạnh “phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững”. Đó là việc tăng cường phát huy dân chủ, phát huy tiềm năng cán bộ KHKT, đội ngũ cán bộ quản lý
nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước “nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố
phát triển KTXH, từng bước phát triển kinh tế tri thức”
3
Tuy nhiên, quá trình CNH-HĐH cũng phải được xây dựng trên những bước đi tuần tự trong việc xác
định cơ chế kinh tế cũng như xây dựng lực lượng lao động cơ bản trong hệ thống sản xuất tiên tiếncho phù
hợp với điều kiện sản xuất hiện đại, có trình độ khoa học - công nghệ, nghiệp vụ chuyên môn và tay nghề vì
như bất kỳ sự thay đổi về chất nào khác, những bước nhảy trong con đường CNH-HĐH hiện nay cũng chỉ có
thể là kết quả của quá trình thay đổi về lượng, thích hợp ở đây bất kỳ một sự nôn nóng chủ quan, ảo tưởng nào
đều có thể gây ra tổn thất cho cách mạng, cản trở sự nghiệp đổi mới đất nước.
- Sự cần thiết vận dụng quy luật này trong sự nghiệp đ.mới ở nước ta:
Việc nắm vững nội dung q.luật về MQHBC giữa thay đổi về lượng và thay đổi về chất cũng như ý nghĩa

phương pháp luận của nó có vai trò to lớn trong việc xem xét và giải quyết những vấn đề do công cuộc đổi
mới theo định hướng XHCN hiện nay ở nước ta đặt ra. Thật vậy, theo tính chất ý nghĩa và phạm vi bao quát
của nó, đổi mới có ý nghĩa như là một quá trình mang tính cách mạng. Việc thực hiện thành công qua trình
đổi mới trên từng lãnh vực của đời sống xã hội sẽ tạo ra bước nhảy về chất ở đó và tạo điều kiện để thực hiện
thành công quá trình đổi mới toàn diện tất cả các mặt của đời sống xã hội nhằm tạo ra bước nhảy về chất của
toàn bộ xã hội nói chung. Như bất kỳ sự thay đổi về chất nào khác, những bước nhảy trong quá trình đổi mới
hiện nay cũng chỉ có thể là kết quả của quá trình thay đổi về lượng thích hợp, ở đây bất kỳ một sự nôn nóng
chủ quan, ảo tưởng nào đêu có thể gây ra tổn thất cho cách mạng, cản trở sự nghiệp đổi mới đất nước.
2- ý nghĩa và phương pháp luận
- Để có tri thức đầy đủ về sự vật phải nhận thức được cả mặt lượng và mặt chất của nó.
- Để có tri thức đầy đủ về sự vật phải nhận thức được cả mặt lượng và mặt chất của nó.
- Để cải tạo sự vật phải quan tâm tích lũy về lượng đồng thời phải chủ động tạo ra bước nhảy về chất.
- Để cải tạo sự vật phải quan tâm tích lũy về lượng đồng thời phải chủ động tạo ra bước nhảy về chất.
- Tránh hai khuynh hướng sai lầm : Hoặc nôn nóng tả khuynh (tuyệt đối hóa mặt chất) hoặc bảo thủ hữu
- Tránh hai khuynh hướng sai lầm : Hoặc nôn nóng tả khuynh (tuyệt đối hóa mặt chất) hoặc bảo thủ hữu
khuynh (tuyệt đối hóa mặt lượng).
khuynh (tuyệt đối hóa mặt lượng).
- Để thay đổi về chất của sự vật theo nhu cầu, có thể tác động làm thay đổi phương thức liên kết của các yếu
- Để thay đổi về chất của sự vật theo nhu cầu, có thể tác động làm thay đổi phương thức liên kết của các yếu
tố, bộ phận.
tố, bộ phận.
Tóm lại, việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất cũng như ý nghĩa
phương pháp luận của nó có vai trò to lớn trong việc xem xét và giải quyết những vấn đề do công cuộc đổi
mới theo định hướng XHCN hiện nay ở nước ta đặt ra.
Đối với người Đảng viên, công viên chức nhà nước, việc nắm vững quy luật lượng - chất sẽ giúp chúng ta
trong hoạt động chuyên môn cũng như trong quản lý, chỉ đạo: một mặt phải biết phát huy đúng mức vai trò
của nhân tố chủ quan, có quyết tâm và nghị lực cao trong việc thực hiện đột phá trong công việc khi có điều
kiện chín muồi, một mặt phải biết cách phân tích, xác định đúng quy mô, nhịp điệu của các sự việc để có
những biện pháp giải quyết thích hợp, tránh rơi vào khuynh hướng nôn nóng chủ quan duy ý chí hoặc bảo thủ.
Câu 2 : Phân tích quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX và vận dụng để

phân tích những sai lầm khuyết điểm trong việc vận dụng quy luật này thời kỳ trước đổi mới và vận
dụng để phân tích luận điểm sau đây của Đảng ta: “Nếu CNH, HĐH tạo nên LLSX cần thiết cho chế độ
XH mới thì việc phát triển nền KT nhiều thành phần chính là để XD hệ thống QHSX phù hợp” (VK
Đại Hội VIII trang 24).
Bài làm
Văn kiện Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII nêu rõ: “Nếu CNH, HĐH tạo nên LLSX cần thiết cho chế
độ XH mới thì việc phát triển KT nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống QHSX phù hợp”. Đây
chính là sự vận dụng đúng đắn về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX vào sự phát triển
nền KT ở nước ta.
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là một trong những quy luật cơ bản chi
phối sự vận động và phát triển của XH loài người. Sự tác động của quy luật này cùng với các quy luật khác đã
đưa XH loài người phát triển từ thấp đến cao trong sự phát triển của lịch sử nhân loại. Việc nhận thức và vận
dụng đúng đắn quy luật này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mục tiêu, đề ra đường lối và tìm các
biện pháp thực hiện nhằm mang lại hiệu quả cao.
Như chúng ta đã biết, SX vật chất chính là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự
nhiên, cải biến các dạng vật chất cho đời sống XH, Sản xuất vật chất là nền tảng của toàn bộ đời sống XH, là
cơ sở để hình thành nên tất cả các hình thức quan hệ XH khác và cũng là cơ sở cho sự tiến bộ XH, quyết định
sự vận động, sự vận động phát triển XH. PTSX thống trị trong mỗi XH như thế nào thì tính chất của chế độ
XH như thế ấy, các giai cấp, kết cấu giai cấp và tính chất của các mối quan hệ giữa các giai cấp cũng như các
quan điểm về chính trị, pháp quyền, đạo đức… tất cả đều do phương thức sản xuất quyết định.
4
Nền SX xã hội là một thể thống nhất bao gồm nhiều mặt, nhiều mối liên hệ, trong đó nổi lên hai mối quan hệ
cơ bản là LLSX và QHSX.
LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, nói lên năng lực thực tế của con người trong quá
trình SX tạo ra của cải XH. LLSX bao gồm người lao động với kỹ năng của họ và tư liệu SX, trước hết là
công cụ lao động. Trong đó “LLSX hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”. Do đặc
trưng sinh học – XH riêng có của mình, con người ngày càng có ai trò to lớn trong nền SX XH. Đặc biệt trong
điều kiện của KH công nghệ hiện nay, con người đã trở thành nguồn lực cơ bản, nguồn lực đặc biệt của SX.
Cùng với con người lao động, công cụ lao động cũng là một thành tố cơ bản của LLSX. Theo Anghen, thì
công cụ lao động là “khí quan của bộ óc con người”, là “sức mạnh của tri thức đã được vật thể hoá”. Bởi vậy,

khi công cụ lao động đã đạt tới trình độ tin học hoá, tự động hoá… thì vai trò “khí quan vật chất” của nó trở
nên vô cùng quan trọng. Ngày nay, KH đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến
đổi to lớn trong XH và đời sống. Chính vì vậy, KH và công nghệ hiện đại hoàn toàn có thể được coi là cái đặc
trưng cho LLSX hiện đại, có vai trò rất quan trọng trong SX, làm cho LLSX của loài người đạt đến trình độ tự
động hoá cao và mang tính quốc tế hoá sâu sắc.
QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình SX vật chất. QHSX là một chỉnh hể thống nhất bởi ba
quan hệ sau: Các quan hệ sở hữu đối với TLSX, các quan hệ trong tổ chức và quản lý SX, các quan hệ trong
phân phối sản phẩm lao động. Trong hệ thống các quan hệ SX xủa mỗi nền KT-XH xác định, quan hệ sở hữu
về TLSX luôn luôn có vai trò quyết định đối với tất cả các quan hệ XH khác. Quan hệ sở hữu là quan hệ xuất
phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm của các quan hệ XH. Còn các quan hệ về mặt tổ chức, quản lý SX là
các quan hệ quyết định một cách trực tiếp quy mô, tốc độ, hiệu quả và xu hướng của mỗi nền SX cụ thể. Các
quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng là nhân tố có ý nghĩa to lớn đối với sự vận động của toàn
bộ nền KT-XH. Nó có thể thúc đẩy tốc độ, nhịp điệu của SX và cũng có thễ có khả năng kìm hãm SX, kìm
hãm sự phát triển của XH.
LLSX và QHSX là hai mặt của phương thức SX. Chúng quy định, chế ước, tác động qua lại, thúc đẩy lẫn
nhau phát triển, trong đó LLSX luôn giữ vai trò quyết định, QHSX phải phù hợp với trình độ phát trei63n của
LLSX.
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX thể hiện trước hết ở vai trò quyết định
của LLSX đối với QHSX, LLSX là nội dung, QHSX là hình thức. Nội dung quyết định hình thức. LLSX ở
trình độ nào, tính chất nào thì nó yêu cầu cao hơn hoặc thấp hơn.
Trình độ của LLSX nói lên khả năng của con người thông qua việc sử dụng công cụ lao động thực hiện quá
trình cải biến giới tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển của mình, thể hiện ở chổ: trình độ của
công cụ lao động, trình độ tổ chức lao động XH, trình độ ứng dụng KH vào SX, kinh nghiệm, kỷ năng lao
động của con người và trình độ phân công lao động. Còn tính chất của LLSX là khi nền SX được thực hiện
với những công cụ ở trình độ thủ công, LLSX chủ yếu là mang tính chất cá nhân. Còn khi SX đạt tới trình độ
cơ khí hoá, LLSX đòi hỏi phải được vận động trong sự hợp tác XH rộng rãi trên cơ sở chuyên môn hoá thì
tính chất tự cấp, tự túc, cô lập của nền SX nhỏ lúc đó phải được thay thế bởi tính chất xã hội hoá.
Vì vậy, mọi sự hình thành và tồn tại của QHSX phải dựa vào chính cái LLSX hiện có, tính chất loại hình của
QHSX như thế nào phải do chính LLSX đó quyết định chứ không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con
người. Mác khẳng định rằng: “trong sự sản xuất XH ra đời của mình, con người có những quan hệ nhất định,

tất yếu không tùy thuộc vào ý muốn của họ, đó là những QHSX, những QHSX này phù hợp với trình độ phát
triển nhất định của các LLSX vật chất của họ.”
LLSX là yếu tố biến đổi trước năng động hơn, nhanh hơn, liên tục, QHSX cũng biến đổi sau, chậm hơn, ổn
định tương đối hơn, gián đoạn trong liên tục và do sự biến đổi trước của LLSX chứ tự nó (QHSX) không thể
biến đổi trước, vượt lên trên LLSX nếu không có sự đòi hỏi của LLSX. Anghen khẳng định rằng : “Xét đến
cùng thì mọi sự thay đổi từ chế độ chiếm hữu này sang chế độ chiếm hữu khác, từ chế độ XH này sang chế độ
XH khác đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những LLSX mới.”
Tóm lại, mỗi bước phát triển của LLSX luôn luôn đặt ra yêu cầu QHSX cũng phải biến đổi cho phù hợp, sự
phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là một trạng thái mà trong đó QHSX là “ hình thức phát
triển” tất yếu của LLSX. Nghĩa là trạng thái mà ở đó các yếu tố cấu thành QHSX “tạo địa bàn đầy đủ” cho
LLSX phát triển. Ngày nay trong điều kiện của cuộc cách mạng KH và công nghệ hiện đại, khi LLSX của loài
người đã đạt đến trình độ tự động hoá và mang tính chất quốc tế hoá cao, sâu sắc thì nó càng quyết định xu
hướng quốc tế hoá của QHSX, của các quan hệ KT giữa các nước, các khu vực, các tập đoàn KT lớn của thế
giới cũng phải vận động, phát triển phù hợp với trình độ, tính chất mới của LLSX, hình thành một xu thế tất
yếu về KT của thời đại: “Toàn cầu hoá KT”. Điều này đòi hỏi chúng ta phải biết vận dụng sáng tạo quy luật
về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX, phải chống chủ nghĩa chủ quan trong công cuộc
xây dựng và phát triển KT, phải biết điều chỉnh, đổi mới QHSX theo yêu cầu phát trei63n của LLSX. Chủ
5
nghĩa duy vật lịch sử chứng minh vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX, song cũng chỉ rõ rằng QHSX
bao giờ cũng thể hiện tính độc lập tuơng đối với LLSX, quy định mục đích của sx, tác động đến khuynh
hướng phát triển của công nghệ, từ đó hình thành một hệ thống những yếu ố hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự
phát trei63n của LLSX. Sự tác động ấy diễn ra theo hai khả năng.
Trường hợp phù hợp là khi QHSX hình thành và ồn tại góp phần làm cho các yếu tố của bản thân LLSX kết
hợp được với nhau một cách tốt hơn dẫn tới giải phóng được sức sản xuất XH, những tiềm năng sức mạnh của
tư liệu sản xuất, lòng nhiệt tình hăng say sáng tạo của người lao động khá hơn, tăng trưởng KT, đời sống
người lao động được cải thiện, nảy sinh nhiều nhu cầu mới phong phú đa dạng hơn. Trường hợp không phù
hợp: biểu hiện ở hai khía cạnh. Thứ nhất là khi QHSX đã lạc hậu rồi so với trình độ mới của LLSX lúc đó nó
trở thành xiềng xích của LLSX kìm hãm sự phát triển của LLSX trên tất cả các mặt của nó (quy mô, tốc độ,
nhịp độ, khối lượng của LLSX) nhưng không có nghĩa là làm cho LLSX đứng yến tại chỗ mà chỉ làm giảm
khả năng phát triển của LLSX mà thôi. Thứ hai, khi QHSX vừa thiếu đồng bộ vừa có yếu tố “vượt trước” so

với thực trạng của LLSX do chủ thể áp đặt một cách chủ quan. Đại hội VI ghi rõ: “kinh nghiệm thực tế chỉ
rõ : LLSX bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp QHSX lạc hậu mà cả khi QHSX phát triển không đồng bộ,
có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của LLSX“.
Trong mỗi hình thái KT-XH sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX bao giờ cũng thông qua các quy
luật KT cơ bản. Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật phổ biến tác động trong
toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển đi lên của lịch sử XH loài người từ chế độ cộng sản
nguyên thuỷ qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ TBCN và đến XH cộng sản chủ nghĩa,
tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật XH, trong đó quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát
triển của LLSX là quy luật cơ bản nhất.
Khẳng định tầm quan trọng của quy luật để vận dụng thật tốt quy luật này vào thời kỳ quá độ lên CNXH ở
Việt Nam, Đảng ta đã nhận rõ những sai lầm thiếu sót trong việc nhận thức và vận dụng quy luật này thể hiện
trong thời ký trước đổi mới ở quan điểm, chính sách cải tạo XH cũ, XD QHSX mới có lúc chúng ta rất nóng
vội, chủ quan duy y chí bất chấp quy luật khách quan, muốn “bỏ qua giai đọan phát triển TBCN mộc cách
giản đơn máy móc. Văn kiện Đại hội VI đánh giá như sau: “Trong nhận thức cũng như hành động, chúng ta
chưa thật sự thừa nhận cơ cấu KT nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài,
chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX”.
Cụ thể là chúng ta nóng vội muốn nhanh chóng xóa bỏ KT tư bản tư nhân, KT cá thể để sớm có KT XHCN
chiếm ưu thế tuyệt đối là sai. Nhưng cho rằng vì LLSX của ta quá thấp nên không cần thiết phải cũng cố và
phát trei63n Kt quốc doanh, không từng bước đưa người SX nhỏ vào con đường làm ăn tập thể với những
hình thức đa dạng ở các trình độ mức độ khác nhau cũng không đúng. Cương lĩnh xây dựng đất nước đã nêu
rõ : “Trong cách mạng XHCN Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối xác định
đúng mục tiêu và phương hướng XHCN. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật
khách quan, nóng vội cải tạo XHCN, xóa bỏ ngay nền KT nhiều thành phần, có lúc đẩy mạnh quá mức việc
xây dựng công nghiệp nặng, duy trì quá lâu, cơ chế quản lý KT tập trung quan liêu bao cấp, có nhiều chủ
trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương. Công tác tư tưởng và tổ chức các bộ phạm nhiều
khuyết điểm nghiêm trọng”. Đảng ta đã nhận thức sai lầm rằng QHSX XHCN tiên tiến sẽ mở đường tạo địa
bàn rộng lớn cho LLSX lạc hậu phát triển nhanh lên hiện đại do đó trong thực tế đã đưa QHSX lên quá cao so
với trình độ lạc hậu của LLSX ở nước ta làm cho LLSX không phát triển được và SX bị đình trệ.
Qua những thành công cũng như sai lầm vấp vấp trong những năm qua. Đại hội VIII của Đảng đã đề ra chủ
trương : “Nếu CNH, HĐH tạo nên LLSX cần thiết cho chế độ XH mới thì việc phát triển nền KT nhiều thành

phần chính là để xây dựng hệ thống QHSX phù hợp”. Đây là sự vận dụng quy luật QHSX phải phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX vào nước ta.
Nước ta đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, “Đảng ta luôn xác định xây dựng cơ sở vật chất kỷ
thuật của CNXH, thực hiện công nghiệp hoá XHCN là nhiệm vụ trung tâm suốt thời kỳ quá độ” (Đại hội
VIII). CNH, HĐH là để phát triển LLSX và đối với nước ta phát triển LLSX tất yếu phải đi vào CNH, HĐH.
Điều đó có nghĩa là CNH, HĐH sẽ tạo nên LLSX cần thiết cho chế độ Xh mới. XHCN và để xây dựng hệ
thống QHSX phù hợp thì cần phải phát triển nền KT nhiều thành phần.
Chúng ta thấy rằng, sự tồn tại nhiều thành phần trong nền KT thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan. Bởi vì
nền KT trong thời kỳ quá độ ở những nước KT kém phát triển đi lên CNXH là nền Kt có LLSX ở nhiều trình
độ rất khác nhau, cả về trình độ, kỷ thuật, lẫn trình độ XH hoá của SX. Tương ứng với các trình độ phát triển
ấy có các hình thức sở hữu, tổ chức SX và phân phối thích hợp để sử dụng hợp lý và có hiệu quả LLSX ấy. Ở
nước ta, ngay từ Đại Hội Đảng lần thứ 6, đảng ta đã chủ trương phát triển nền KT nhiều thành phần. Chủ
trương này đã khơi dậy tiềm năng SX, khơi dậy năng lực sáng tạo, chủ động của các chủ thể lao động trong
sản xuất kinh doanh, thúc đẩy Sx phát triển. Tuy nhiên nền KT nhiều thành phần tự nó chứa đựng nhiều mâu
6
thuẫn. Có những thành phần KT vì lợi ích của mình có thể hoạt động theo hướng TBCN. Thành phần Kt nhà
nước, Kt hợp tác mang tính chất XHCN nhưng chưa thích nghi với cơ chế thị trường, làm ăn kém hiệu quả
nên ở đây diễn ra quá trình đấu tranh để đảm bảo định hướng rất ngay gắt. Đảng ta xác định rằng nền KT
nhiều thành phần mà Đảng ta chủ trương là nền KT phát triễn theo định hướng XHCN. Chính sách phát triển
nền KT nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ SX nhỏ đi lên CNXH, có tác dụng
to lớn trong việc động viên nhân dân xây dựng nền KT, phát triển LLSX. Việc xây dựng QHSX phải từng
bước từ thấp đến cao với sự đa dạng hoá về hình thức sỡ hữu và bước đi thích hợp làm cho QHSX phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của LLSX. Mỗi thành phần Kt vốn có bản chất riêng nhưng trong SX kinh
doanh không ngăn cách nhau mà có nhiều loại hình hỗn hợp đan xen nhau vừa bổ sung cho nhau vừa cạnh
tranh với nhau trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật.
Tóm lại, Đảng và nhà nước ta chủ trươnmg thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền
KT hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN, đó chinh là nền Kt thị trường định hướng XHCN…” nhằm phát triển KT lực lượng SX phát triển KT
để xây dựng cơ sở vật chất –kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống của nhân dân. Phát triển LLSX hiện đại
gắn liền với xây dựng QHSX mới phù hợp cả 3 mặt sở hữu, quản lý và phân phối” (VK 9 trang 86-87) và

đường lối KT của Đảng ta là: “Đẩy mạnh CNH, HĐH xây dựng nền KT độc lập tự chủ, đưa nườc ta trở thành
một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển LLSX đồng thời xây dựng QHSX phù hợp theo định hướng XHCN”
(VK Đại Hội 9 trang 89). Đây cũng chính là sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX trong
giai đọan Cách mạng hiện nay.
CÂU 3.1: Phân tích quy luật về sự phù hợp của QHSX với sự trình độ phát triển của LLSX. Phân tích
sai lầm khuyết điểm trong việc vận dụng quy luật này thời kỳ trứơc đổi mới và vận dụng để phân tích
luận điểm sau đây của Đảng ta: “Phù hợp với sự phát triển của LLSX , thiết lập từng bước QHSX
XHCN từ thấp đến cao với dự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế quản lý thị trường có sự quản lý của Nhà nước “.
(Cương lĩnh ĐH VII trang 9_10).
Bài Làm
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá đô lên XHCN đã nêu rõ :”Phù hợp vói sự phát triển của
LLSX , thiết lập từng buớc QHXH XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu .Phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN , vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước “cương lĩnh này chính là sự vận dụng đúng đắn về sự phù hợp của QHSX với trình độ của
LLSX vào sự phát triển nền kinh tế ở nước ta .
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triểnn của LLSX là một trong những quy luật cơ bản chi
phối sự vận động và phát triển của XH loài người .Sự tác động của quy luật này cùng với các quy luật khác đã
đưa XH loài người phát triển từ thấp đến cao trong sự phát triển của lịch sử nhân loại .Việc nhận thức và vận
dụng đúng đắn quy luật này có ý nghĩa quan trong trong việc xác định mục tiêu , đề ra đường lối và tìm các
biện pháp thực hiện nhằm mang lại hiệu quả cao.
Như chúng ta đã biết ,SX vật chất chính là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự
nhiên , cải biến các dạng vật chất của tự nhiên để tạo ra của cải vật chất cho đời sống xã hội, là cơ sở để hình
thành nên tất cả các QHXH khác và cũng là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội Phương thức sản xuất là nhân tố quyết
định tính chất kết cấu của XH, quyết định sự vận động, phát triển của XH. Phương thức SX thống trị tring
mỗi XH như thế nào thì tính chất của các mối quan hệ giữa các giai cấp cũng như các quan điểm về chính trị,
pháp quyền , đạo đức … tất cả đều do phương thức sản xuất quyết định .
Nền SX XH là một thể thống nhất bao gồm nhiều mặt, nhiều mối liên hệ, trong đó nổi lên hai mối quan hệ cơ
bản là LLSX và QHSX.
LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiện, nói lên năng lực thực tế của con người trong quá

trình SX tạo ra của cải XH.
LLSX bao gồm người lao động với kỉ năng lao động của họ và TLSX, trước hế là công cụ lao động. Trong đó
“LLSX hàng đầu của toàn thể nhận loại là công nhân lao động “. Do đặc trưng sinh học _XH riêng có của
mình con người ngày càng có vai trò to lớn trong nền SX XH. Đặc biệt trong điều kiện của KH CNghệ hiện
nay, con người đã trở thành nguồn lực cơ bản , nguồn lực đặc biệt của SX.
Cùng với con người lao động, công cụ lao động cũng là một thành tố cơ bản của LLSX. Theo Anghen thì
công cụ lao động là : “khí quan của bộ óc con người “, là “sức mạnh của tri thức đã được vật thể hoá”. Bởi
7
vậy, khi công cụ lao động đã đạt tới trình độ được tin học hoá, được tự động hoá… thì vai trò “khí quan vật
chất” của nó trở nên vô cùng quan trọng. Ngày nay, khoa học đã phát triển đấn mức trở thành nguyên nhân
trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất và đời sống. Chính vì vậy, khoa học và công nghệ hiện đại
hoàn toàn có thể coi là cái đặt trưng cho LLSX hiện đại, có vai trò quan trọng trong SX.
QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình SX, bao gồm: các quan hệ sở hữu đối với TLSX, các
quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, các quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động. Trong hệ thống
các QHSX của mỗi nần KT-XH xác định, quan hệ sở hữu về TLSX luôn luôn có vai trò quyết định đối với tất
cả các quan hệ XH khác, quan hệ sở hữu là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm của các
QHXH. Còn các quan hệ về mặt tổ chức, quản lý sản xuất là các quan hệ quyết định một cách trực tiếp quy
mô, tốc độ hiệu quả và xu hướng của mỗi nần sản xuất cụ thể. Các quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao
động cũng là những nhân tố có ý nghĩa to lớn đối với sự vận động của toàn bộ nền KT-XH. Nó có thể thúc ẩy
tốc độ, nhịp điệu của sản xuất và cũng có thể có khả năng kìm hãm sản xuất, kìm hãm sự phát triển của XH.
LLSX và QHSX là hai mặt của PTSX. Chúng quy định, chế ước, tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau phát
triển, trong đó LLSX luôn giữ vai trò quyết định, QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX thể hiện trước hết ở vai trò quyết định
của LLSX đối với QHSX. LLSX là nội dung của PTSX còn QHSX là hình thức xã hội của nó. Mỗi bước phát
triển của LLSX luôn luôn đặt ra yêu cầu QHSX cũng phải biến đổi cho phù hợp. Sự phù hợp của QHSX với
trình độ phát triển của LLSX là một trạng thái mà trong đó QHSX là “hình thức phát triển” tất yếu của LLSX.
Ngày nay trong điều kiễn của cuộc CMKH và công nghệ hiện đại, khi sự phát triển LLSX của thời đại đã
mang tính quốc tế hoá rộng lớn và sâu sắc thì nó càng quyết định xu hướng quốc tế hoá của QHSX, của các
quan hệ kinh tế giữa các nước. Điều này đòi hỏi chúng ta phải biết vận dụng sáng tạo quy luật về sự phù hợp
của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX, phải chống chủ nghĩa chủ quantrong công cuộc xây dựng và

phát triển KT, phải biết điều chỉnh, đổi mới QHSX thao yêu cầu phát triển của LLSX.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chứng minh vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX, song cũng chỉ rõ rằng
QHSX bao giờ cũng thể hiện tính độc lập tương đối với LLSX, quy định mục đích XH của SX, tác động đến
khuynh hướng phát triển của công nghệ, từ đó hình thành một hệ thống những yếu tố hoặc thúc đẩy hoặc kim
hãm sự phát triển của LLSX. Trong mỗi hình thái KT-XH sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX bao
giờ cũng thông qua các quy luật KT-XH khác, đặc biệt là quy luật KT cơ bản. Quy luật QHSX phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX là quy luật phổ biến, tác động trong toàn bộ tiến trìnhlịch sử nhân loại. Sự thay
the,á phát triển đi lên của lịch sử XH loài người từ chế độ cộng sản nguyên thuỷ qua chế độ chiếm hữu nô
lệ,chế độ Phong Kiến, chế độ TBCN và đến XH Cộng Sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy
luật xã hội, trong đó quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển cùa LLSX là quy luật cơ bản nhất.
Khẳng định tầm quan trọng của quy luật để vận dụng thật tốt quy luật nàyvào thời kỳ quá độ lên CNXH ở
VN, Đảng ta đã nhận rõ những sai lầm thiếu sót trong việc nhận thức và vận dụng quy luật này thể hiện
trong thời kỳ trước đổi mới ở quan điểm, chính sách cải tạo QHSX cũ, xây dựng QHSX mới. Có lúc chúng
ta rất nóng vội chủ quan duy ý chí bất chấp quy luật khách quan, muốn bỏ qua giai đoạn TBCN một cách
đơn giản, máy móc. Cụ thể là chúng tanóng vội, muốn nhanh chóng xoá bỏ kinh tế tư bản tư nhân, KT cá
thể để sớm có KT XHCN chiếm ưu thế là sai. Nhưng cho rằng, vì LLSX của ta quá thấp nên không cần
thiết phải củng cố và phát triển KT quốc doanh, không từng bước đưa những người sản xuất nhỏ vào con
đường làm ăn tập thể với những hình thúc đa dạng ở các trình độ, mức độ khác nhau cũng không đúng.
Qua những thành công cũng như những sai lầm vấp váp trong những năm qua, Đại hôi lần thứ VII của
Đảng ta đã đề ra chủ trương: “ phù hợp với sự phát triển của LLSX, thiết lập từng bước QHSX XHCN từ
thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tho
định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị ttrường có sự quản lý của nhà nước”. Đây là sự vận dụng
sáng tạo quy luật qhsx phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX và cũng là kết quả của việc tổng kết
thực tiễn nhiều năm tiến hành công cuộc cải tạo XHCN ở nước ta. phương hướng này định hướng cho
việc sử lý những vấn ề hết sức cơ bản của qhsx như : hình thức sở hữu, cơ chế quản lý, quan hệ phân
phối với mức độ hìnhy thức phương pháp bước đi thích hợp.
Chúng ta thấy rằng, sự tồn tại nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu trong nền KT của thời kỳ quá độ là
một tất yếu KQ. Bởi vì nền KT trong thời kỳ quá độ ở những nước KT kém phát triển đi lên CNXH là nền KT
có LLSX ở nhiều trình độ rất khác nhau cả về trình độ kỹ thuật, lẫn trình độ xã hội hoá sản xuất. Tương ưng
với các trình độ phát triển ấy có các hình thức sở hữu, tổ chức sản xuất và phân phối thích hợp, để sử dụng

hợp lý và có hiệu quả LLSX ấy. Ơû nước ta ngay từ Đại hội Đảng lần VI, Đảng ta đã chủ trương phát triển
nền KT nhiều thanh phần. Chủ trương này đã khơi dây tiếm năng sản xuất, khơi dậy năng lực sáng tạochủ
động của các chủ thể lao động trong sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sản xuất phát triển.
8
Tuy nhiên , nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần tự nó chứa đựng nhiều mâu thuẫn .Có những
thành phần KT vì lợi ích của mình có thể hoạt động theo hướng TBCN . Thành phần KT Nhà nước , KT hợp
tác mang tính chất XHCN nhưng chưa thích nghi với cơ chế thị trường , làm ăn kém hiệu quả , nên ở đây
diễn ra quá trình thực hiện chính sách KT nhiều thành phần theo định hướng XHCN , cần có những nhận
thức rất cơ bản .Đó là chính sách KT hàng hoá nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài có tính quy
luật từ SX nhỏ đi lên XHCN , có tác dụng to lớn trong việc động viên ND XD KT , phát triển LLSX . Việc xây
dựng QHSX phải từng bước từ thấp đến cao , với sự đa dạng hoá về hình thức sở hữu và bước đi thích hợp ,
làm cho QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX .Mỗi hình thức sở hữu về TLSX vốn có
bản chất riêng nhưng trong SX , kinh doanh không ngăn cách nhau mà có nhiều loại hình hỗn hợp đan kết
nhau vừa bổ sung nhau , vừa cạnh tranh với nhau trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật.
Điều quan trọng nhất trong quá trình XD QHSX mới ở nước ta là xác lập cho được một quan hệ sở hữu với
nhiều hình thức sở hữu khác nhau trong đó hình thức sở hữu nhà nước giữ vai trò chủ đạo như cưởng lĩnh đã
xác định: nếu không đa dạng hoá về hình thức sở hữu sẽ không giải phóng được sức SX, động viên được mọi
nguồn lực bên trong và bên ngoài cho phát triển KT; nhưng nếu không xác lập được vai trò chủ đạo của sở
hữu nhà nước thì không đảm bảo nền KT phát triển theo định hướng XHCN. Đa dạng hoá các hình thức sở
hữu trong đó cò hình thức sở hữu giữ vai trò chủ đạo là vấn đề có tính phổ biến của mọi chế độ XH trong lịch
sử. Từ xa xưa bên cạnh chế độ công xã nguyên thủy còn có chế độ sở hữu tư nhân tuy mới manh nha. Đến sau
này, trong chế độ TBCN bên cạnh chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX còn có nhiều hình thức sở hữu
khác. Tuy nhiên do điều kiện phát triển của LLSX và cá điều kiện lịch sử khác, trong cơ cấu cá hình thức sở
hữu ấy bao giờ cũng có một hình thức sở hữu giữ vai trò chủ đạo.
Chúng ta thừa nhận tính tất yếu sự tồn tại của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ. Đại hội VIII của
Đảng khẳng định : phải nắm vững định hướng XHCN trong việc xây dựng nền KT nhiều thành phần.
Giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho Công nghiệp hoá, Hiện
đại hoá nâng cao hiệu quả KT và XH, cải thiện đời sống của nhân dân.
Chủ độngđổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KT Nhà nước, KT hợp tác. KT nhà nứơc đóng vai trò chủ
đạo cùng với KT hợp tác xãdần dần trở thành nền tảng. Tạo điều kiện KT và pháp lý thuận lợi để các nhà linh

doanh tư nhân yên tâm đầu tư lâu dài, mỏ rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa KT nhà nứơc với các
thành phần KT khác cả trong và ngoài nước.
Xác lập củng cố nâng cao địa vịlàm chủ của người lao động trong nền sản xuất XH.
Thực hiện nhiều hình thức phân phối theo kết quảlao động hiệu quả KT làm chủ yếu.
Tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của nhà nước để khai thác những mặt tích cực và hạn chế những những
tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.
Giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ KT với nước ngoài.
Như vậy Đảng ta đã chỉ ra những định hướng rất rõ để thực hiện nền KT nhiều thành phần , XD QHSX mới
phù hợp với trình độ phát triển của LLSX .
Văn kiện ĐH VIII của Đảng viết : “ Đảng ta luôn luôn xác định xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH
thực hiện CNH XHCN là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ “ CNH , HĐH là để phát triển LLSX
và đối với nước ta phát triển LLSX tất yếu phải đi vào CNH, HĐH. “Nếu CNH, HĐH tạo nên LLSX cần thiết
cho chế độ XH mới thì việc phát triển nền KT nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống QHSX phù
hợp”
Và Đại Hội IX cũng ghi rõ: “đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nền kinh tế tự chủ, đưa nước ta trở thành một
đất nước công nghiệp, ưu tiên phát triển LLSX, đồng thời xây dựng QHSX phù hợp theo định hướng XHCN”
Đây cũng chính là sự vận dụng đúng đắn quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX
trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Câu 3.2 : Quan diểm Mác - xít về mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT và vận dụng để phân
tích những sai lầm khuyết điểm trong việc nhận thức và vận dụng mối quan hệ này thời kỳ trước đổi
mới và dể phân tích bài học kinh nghiệm sau đây của Đảng ta:"kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới
kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị"
(VK8 trang 71).
Bài làm
Tổng kết chặng đường đổi mới 10 năm (1986 - 1996), Đại hội VIII rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu
trong đó có bài học: "kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế
làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị". Đây chính là sự vận dụng đúng đắn mối quan hệ biện
chứng giữa CSHT và KTTT vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay.
9
Mỗi xã hội trong lịch sử có một kiểu những quan hệ vật chất cơ bản nhất định đó là những QHSX. Phù hợp

với kiểu QHSX đó là một hệ thống những quan hệ về chính trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật Những quan
hệ chính trị, tinh thần này được thể hiện thông qua những thiết chế xã hội tương ứng như: Nhà nước, Đảng
phái, tòa án, giáo hội và các tổ chức xã hội khác Sự liên hệ và tác động lẫn nhau giữa những quan hệ kinh tế
của xã hội và các quan hệ kinh tế đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử phản ánh trong các phạm trù CSHT và
KTTT, trong nguyên lý về quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT.
CSHT là toàn bộ những QHSX của một xã hội trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh
tế của xã hội đó. Toàn bộ QHSX hợp thành cơ cấu Kinh tế của một xã hội nhất định bao gồm QHSX thống
trị, những QHSX mầm mống, những QHSX tàn dư. Trong những QHSX đó, QHSX thống trị giữ địa vị chi
phối, có vai trò chủ đạo và tác dụng quyết định với toàn bộ CSHT. CSHT của một xã hội cụ thể được đặc
trưng trước hết bởi kiểu QHSX thống trị tiêu biểu cho xã hộ ấy.
KTTT là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những tư tưởng xã hội: Chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn
giáo cùng với những thiết chế xã hội tương ứng với chúng như nhà nước, các đảng phái, các đoàn thể xã
hội được hình thành, được xây dựng trên nền tảng của một CSHT nhất định. Trong xã hội có giai cấp,
KTTT bao gồm quan điểm tư tưởng và thể chế của giai cấp thôÙng trị, tàn dư của các quan điểm của xã hội
trước để lại; quan điểm tổ chức của các giai cấp và tầng lớp mới ra đời.Tính chất cơ bản của KTTT trong một
chế độ xã hội nhất định do tính chất hệ tư tưởng của giai cấp thống trị quyết định. Đồng thời trong xã hội này
Nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có quyền lực mạnh nhất tiêu biểu cho chế độ thống trị hiện đang tồn
tại. Chính nhờ nhà nước đó, giai cấp thống trị gắn cho xã hội hệ tư tưởng của mình.
CSHT với tư cách là cơ cấu kinh tế hiện thực của xã hội sản sinh KTTT tương ứng, quy định tính chất của
KTTT. Tính chất của CSHT như thế nào thì tính chất của KTTT như thế ấy. QHSX nào giữ vị trí thống trị sẽ
tạo ra KTTT tương ứng. Giai cấp nào thống trị xã hội về kinh tế cũng chiếm địa vị thống trị xã hội về chính
trị. Tất cả những yếu tố của KTTT đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào CSHT, do CSHT quyết định.
Nếu CSHT thay đổi thì KTTT sớm hay muộn cũng sẽ diễn ra. Sự thay đổi đó không chỉ diễn ra từ xã hội nay
sang xã hội khác mang tính cách mạng, mà còn diễn ra ngay trong một xã hội, như lịch sử phát triển của xã
hôi đã chứng minh. Khi CSHT cũ mất đi thì KTTT do nó sinh ra cũng mất theo. Khi CSHT mới ra đời thì
KTTT mới phù hợp với nó cũng xuất hiện.
Sự thay đổi của CSHT dẫn đến sự thay đổi của KTTT là quá trình diễn ra hết sức phức tạp. Có những yếu tố
của KTTT cũ còn tồn tại day dẵng sau khi CSHT sinh ra nó đã bị diệt vong; có những yếu tố của KTTT cũ
được giai cấp thống trị mới duy trì, kế thừa,bổ sung để xây dựng KTTT mới. Sự biến đổi đó xét đến cùng là
do sự phát triển của LLSX quy định. Song sự phát triển của LLSX chỉ trực tiếp gây ra sự biến đổi của CSHT

và tác động đến sự biến đổi của KTTT thông qua CSHT sinh ra nó.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chứng minh vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT song cũng chỉ rõ KTTT
cũng như các yếu tố của nó có tính độc lập tương đối. Sự phụ thuộc của chúng vào CSHT thường không trực
tiếp và không giản đơn. KTTT không phải là sản phẩm thụ động của CSHT mà chúng có khả năng tác động
trở lại rất mạnh mẽ đối với cơ cấu kinh tế của xã hội và bản thân các yếu tố của KTTT có tác động qua lại lẫn
nhau, tác động đến CSHT.
Thực tế của đời sống xã hội chỉ ra rằng, không chỉ Nhà nước, pháp luật mới tác động to lớn đến CSHT mà các
yếu tố khác của KTTT cũng đều có khả năng gây ra những biến động không nhỏ tới CSHT. Các yếu tố đó tác
động đến CSHT bằng nhiều hình thức khác nhau, theo những cơ chế khác nhau. Tác dụng của KTTT sẽ là
tích cực, thúc đẩy sự phát triển, nếu nó tác động cùng chiều với sự vận động của những quy luật kinh tế. Trái
lại, nếu tác động ngược chiều với sự vận động của những quy luật kinh tế thì KTTT sẽ là trở lại gây những tác
hại cho sự phát triển của sản xuất, cho sự phát triển của xã hội. Đương nhiên trong mỗi chế độ xã hội, sự vận
động của các yếu tố của KTTT không phải bao giờ cũng theo cùng một xu hướng. Cũng có khi KTTT nảy
sinh tình trạng không đồng bộ giữa các yếu tố, khả năng mâu thuẫn với nhau, chống đối lẫn nhau giữa chúng.
Sự tác động tích cực trở lại của KTTT đối với CSHT thể hiện ở chức năng cơ bản của KTTT là xây dựng, bảo
vệ và phát triển CSHT hiện tồn, chống lại những nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại sự tồn tại của chế độ
kinh tế - xã hội đang tồn tại. Trong việc thực hiện chức năng xã hội đó, Nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan
trọng; nó chi phối và trong nhiều trường hợp quyết định khả năng tác động của các yếu tố khác của KTTT đến
toàn bộ đời sống xã hội nói chung và đến CSHT nói riêng. Trong KTTT cũng diễn ra sự biến đổi phát triển có
tính độc lập tương đối. Quá trình đó diễn ra càng phù hợp với CSHT thì sự tác động của nó đối với CSHT
càng có hiệu quả.
Tóm lại, KTTT có nhiệm vụ duy nhất, bảo vệ và phát triển kinh tế. Tuy nhiên sự tác động của nó đến kinh tế
phụ thuộc vào trình độ năng lực chủ thể và lợi ích của giai cấp cầm quyềøn, thậm chí phụ thuộc vào cả hoàn
cảnh tâm lý dân tộc và cả đặc điểm mới của thời đại. Do đó KTTT có thể tác động đúng, có hiệu quả đối với
kinh tế hoặc trái với tính tất yếu kinh tế và kìm hãm sự phát triển kinh tế.
10
Nhưng nếu chúng ta quá nhấn mạnh vai trò của sự tác động đó đến mức phủ định sự tác động quyết định của
những quy luật kinh tế, phủ địng tính tất yếu của sự vận động xã hội thì sẽ rơi vào duy tâm chủ quan, không
thấy được tiến trình khách quan của lịch sử. Đồng thời sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống xã hội là nhân tố
quyết định nếu xét đến cùng đối với lịch sử trong đó có cả lĩnh vực văn hóa tinh thần nói chung. Không nên

tuyệt đối hóa sự thống nhất giữa kinh tế và chính trị, giữa chính trị và tinh thần trong CNXH đặc biệt là thời
kỳ quá độ. Chống lại hai khuynh hướng duy ý chí và chủ nghĩa duy kinh tế tầm thường.
Trong cách mạng XHCN, thời kỳ trước đổi mới, Đảng ta đã có nhiều cố gắng tìm tòi, nghiên cứu, vận dụng
mối quan hệ biện chứng giữa CSHT vàKTTT. Nhưng Đảng ta đã có nhiều sai lầm chủ quan, duy ý chí, vi
phạm quy luật khách quan, nóng vội trong cải tạo XHCN, xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, có lúc
đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng, duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương. Mặt khác trong KTTT đã
buông lõng chuyên chính vô sản, bộ máy nhà nước nặng nề, nhiều tầng, nhiều nấc, cồng kềnh kém hiệu lực,
vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.
Tóm lại, những sai lầm trên,đã làm cho CSHT XHCN ở nước ta bị biến dạng với một KTTT quan liêu, bảo
thủ. Công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta trên tất cả các lĩnh vực Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, là nhằm
xây dựng lại CSHT XHCN với một KTTT tương ứng.
Tổng kết chặng đường đổi mới 10 năm (1986 - 1996). Đại hội VIII đã rút ra 06 bài học chủ yếu. Một trong
những bài học chủ yếu đó là: " kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới
KT làm trọng tâm đồng thời từng bứơc đổi mới chính trị”.
Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định
đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại, không có sự đổi mới đó thì không có sự đổi mới khác. Song,
Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới KT, khắc phục tình
trạng khủng hoảng KT- XH, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây
dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội.
KT và chính trị là hai mặt cốt lõi của mối quan hệ giữa CSHT và KTTT. Trong mối quan hệ giữa KT và chính
trị thì KT giữ vai trò quyết định vì KT là nội dung vật chất của chính trị còn chính trị là biểu hiện tập trung
của nền KT. Cơ sở KT với tính cách là kết cấu hiện thực sản sinh ra hệ thống chính trị tương ứng và quy định
hệ thống đó. Nói cách khác, tính chất xã hội, giai cấp của chính trị bao giờ cũng phản ánh tính chất xã hội và
giai cấp của CSHT. Từ đó dẫn đến sự biến đổi căn bản của KT, sự biến đổi căn bản của chính trị. Tuy nhiên
chính trị cũng có sự tác động trở lại đối với KT. Chính trị được biểu hiện tập trung ở nhà nước có sức mạnh
vật chất tương ứng. Nhà nước có tác động quyết định năng lực, hiện thư ïc hóa những tất yếu KT. Anghen
nói: " bạo lực ( nghĩa là quyền lực nhà nước) cũng là một lực lượng KT" ( Mác - Anghen, Tuyển tập, tập 02,
NXB Sự Thật, Hà Nội, 1971, trang 604).
Sau khi giành được chính quyền thì bất cứ giai cấp nào cũng muốn thống trị vững chắc toàn xã hội cho nên

giai cấp đó phải đưa ra đường lối mở rộng, phát triển KT trên quy mô toàn xã hội để từng bước thống trị KT
đối với toàn xã hội. KT vững mạnh thì Nhà nước được tăng cường, Nhà nước được tăng cường lại tạo thêm
phương tiện vật chất để củng cố địa vị KT- XH của giai cấp thống trị.
Trong công cuộc đổi mới xã hội hiện nay, chúng ta cần tiến hành đổi mới đồng bộ. Trước hết là đổi mới KT:
đổi mới cơ cấu KT, đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới phương thức phân phối, đổi mới mục tiêu của sản xuất,
đổi mới quy trình công nghệ nhằm đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và
các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật của CNXH, làm cho nền KT nước ta phát triển hòa
nhập với trình độ phát triển KT của thế giới và coi đó là điều kiện, là tiền đề quan trọng để tiến hành thuận lợi
đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Để làm được điều đó ngay từ Đại hội lần VI, Dảng ta đã đề ra chủ trương cho
phép sử dụng nhiều hình thức KT, khai thác mọi khả năng của các thành phần KT, trong đó KT quốc doanh
giữ vai trò chủ đạo, coi đây là một giải pháp có ý nghĩa chiến lược góp phần giải phóng mọi khả năng để phát
triển lực lượng sản xuất. Đến Đại hội VII, cương lĩnh của Đảng khẳng định: phát triển nền KT hàng hóa nhiều
thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trên cơ sở
mô hình này Đại hội lần IX đã xác định đường lối phát triển KT của đất nước ta trong thời kỳ qua độ là: Đẩy
mạnh CNH, HĐH, xây dựng nền KT độc lập tự chủ đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp và tiếp tục
thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền KT nhiều thành phần định hướng XHCN nhằm phát
triển LLSX và xây dựng QHSX phù hợp theo định hướng XHCN.
Đổi mới KT làm cơ sở, tiền đề cho đổi mới chính trị, song muốn đổi mới KT trước tiên Đảng và Nhà nước
phải đổi mới quan điểm nhận thức. Cho nên cùng với đổi mới KT phải tiến hành đổi mới chính trị. Điều đó có
nghĩa là đồng thời với đổi mới KT phải từng bước đổi mới tổ chức, đổi mới bộ máy, đổi mới con người, đổi
mới phong cách lãnh đạo của Đảng và các cơ quan nhà nước, chống tham nhũng trong các cơ quan Đảng và
11
Nhà nước phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trong tất cả các lĩnh vực
KT, chính trị, văn hóa, xã hội, làm cho Nhà nước ta thật sự là một Nhà nước mạnh với đúng nghĩa của từ đó.
Trong CNXH, mọi quyền lực thuộc về nhân dân; Đảng là người lãnh đạo để nhân dân thực hiện quyền lực của
mình bằng cương lĩnh, chiến lược, đường lối. Nhà nước là người đại diện nhân dân, được nhân dân giao cho
quyền điều hành quản lý mọi mặt đời sống xã hội trong thực tiễn đổi mới bằng pháp luật. Các đoàn thể nhân
dân vừa chăm lo bảo vệ lợi ích,vừa giáo dục nâng cao trình độ cho các thành viên, vừa tham gia quản lý xã
hội, quản lý nhà nước. Đảng Cộng Sản và Nhà nước XHCN có cùng mục đích nên nếu Đảng mất vai trò lãnh
đạo đối Nhà nước thì Nhà nước không còn là của nhân dân. Nghệ thuật lãnh đạo của Đảng là ở chỗ biết kết

hợp đúng đắn sự lãnh đạo của Đảng với khả năng quản lý của Nhà nước và sức mạnh của các đoàn thể nhân
dân. Cho nên cần gắn chặt công tác xây dựng Đảng với việc cải cách bộ máy nhà nước và đổi mới công tác
quần chúng. Càng nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, càng tăng cường hiệu lực quản lý của
nhà nước thì càng thực hiện được tốt quyền lực của nhà nước và càng thực hiện tốt quyền lực của nhân dân.
Cần phải tìm những cơ chế, những phương thức thực hiện tốt mối quan hệ đó ở các cấp từ trung ương đến cơ
sở.
Qua đó ta thấy đổi mới chính trị sẽ tạo tiền đề thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới KT. Cứ như thể đổi mới KT và
đổi mới chính trị gắn bó hữu cơ với nhau trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Do đó phải" kết hợp chặt chẽ
ngay từ đầu đổi mới KT với đổi mới chính trị, lấy đổi mới KT làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới
chính trị".
Muốn tiến hành đổi mới thì phải bảo đảm sự ổn định chính.Song muốn ổn định phải đổi mới và ổn định để
đổi mới. Do đó trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị chúng ta đã đi những bước
thận trọng và vững chắc, bắt đầu từ giải quyết những vấn đề cấp bách nhất và đã chín muồi, với nhận thức,
đây là việc rất cấn thiết nhưng đặc biệt phức tạp, nhạy cảm và nếu vội vã để xảy ra sai lầm sẽ phải trả giá rất
đắc có khi không còn cứu vãn được. Vì chính trị đụng chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy
cảm trong xã hội nên việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị
rất nghiêm túc không gây mất ổn định chính trị dẫn dến sự rối loạn. Nhưng không vì vậy mà tiến hành chậm
trễ đổi mới hệ thống chính trị nhất là về tổ chức bộ máy và cán bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các
đoàn thể nhân dân bởi đó là điều kiện để thúc đẩy phát triển KT - XH và thực hiện dân chủ. Mục tiêu chủ yếu
của đổi mới hệ thống chính trị được Đại hội VIII xác định là nhằm: thực hiện tốt dân chủ XHCN, phát huy
đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Bài học lớn là dân chủ nhất thiết phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, khắc
phục những hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời chống khuynh hướng dân chủ cực
đoan, quá khích. Dứt khoác bác bỏ mọi mưu toan lợi dụng " dân chủ" " nhân quyền" nhằm gây rối về chính
trị, chống phá chế độ hoặc can thiệp vào nội bộ nước ta. Không chấp nhận đa nguyên, đa Đảng.
Đảng ta khẳng định đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là quan niệm đúng đắn hơn về CNXH
và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp, kết hợp sự kiên định về
nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt sáng tạo trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới. Và
đổi mới phải được thực hiện trên cơ sở bảo vệ, kế thừa và phát huy truyền thống quý báu của dân tộc và
những thành tựu cách mạng đã đạt được. Phê phán nghiêm trị sai lầm, khuyết điểm phải đi đôi với khẳng định
những việc làm đúng không phủ nhận sạch trơn quá khứ, không hoang mang dao động mất phương hướng từ

thái cực này chuyển sang thái cực khác. Mà phải giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong quá trình
đổi mới; nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác-LêNin và
tư tưởng Hồ Chí Minh.( ĐH IX).
Ngoài ra, gắn với quá trìng đổi mới hệ thống chính trị là quá trình chống quan liêu, tham nhũng chống
những hành vi xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân. Tệ quan liêu,tham nhũng làm biến dạng và xói mòn
mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Đó là những vật cản to lớn và thường xuyên của quá trình dân chủ hóa về tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị. Vì vậy chống quan liêu và tham nhũng là những yêu cầu cấp bách, thường xuyên cần căn cứ vào
những yêu cầu dân chủ để ra øsoát lại cơ chế và bộ máy Đảng, Nhà nước và đoàn thể để phát hiện những cơ
sở của cơ chế và chính sách mà những cán bộ xấu có thể lợi dụng. Đấu tranh chống tệ tham nhũng, quan liêu
là một quá trình phức tạp đòi hỏi phải kiên quyết, bền bỉ nghiêm minh từ trên xuống dưới, nghiêm trị mọi kẻ
vi phạm dù ở bất cứ cương vị nào.
Tóm lại," phải kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới KT với đổi mới chính trị, lấy đổi mới KT làm trọng
tâm đồng thời từng bước đổi mới chính trị" chính là sự vận dụng đúng đắn mối quan hệ biện chứng giưã
CSHT và KTTT vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay./.
12
CÂU 4: Học thuyết Mac-xít về con người và về vai trò của quần chúng ND trong lịch sử và vận dụng để
phân tích luận điểm sau đây của Đảng ta: Trong toàn bộ hoạt động của mình Đảng phải “lấy dân làm
gốc, xây dựng quyền làm chủ của NDLĐ” (Văn kiện 6 trang 29)
Bài làm:
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, đã tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau, xung quanh vấn đề nguồn gốc và
bản chất của con người. Trước Mác, vấn đề con ngừoi vẫn chưa được giải đáp một cách thực sự khoa học.
Không những chủ nghĩa duy tâm mà cả chủ nghĩa duy vật trực quan, siêu hình cũng không nhận thức đúng
bản chất con người. Đã từng có ý kiến cho rằng triết học Mác Lênin coi nhẹ vấn đề con người. Ngược lại, chủ
nghĩa Mác Lênin nói chung, triết học Mác Lênin nói riêng xem vấn đề con người là trung tâm của mọi khoa
học xã hội và nhân văn. Chủ nghĩa Mác lênin ra đời xuất phát từ con người và mục đích cuối cùng của nó là
soi sáng cho sự nghiệp giải phóng cho mỗi con ngừoi và cho cả loài người.
Các nhà triết học trước Mác coi bản chất con người từ sự sáng tạo và chi phối của thần thánh hoặc từ ý thức
trừu tượng (chủ nghĩa duy tâm tôn giáo) hoặc từ giác độ sinh vật thuần túy tự nhiên không phân biệt được con
người với tính tầm thường của động vật (chủ nghĩa duy tâm siêu hình). Ngược lại triết học Mác coi “trong

tính hiện thực của nó, bản chất con ngừoi là tổng hoá các QHXH” và bản chất đó cũng biến đổi với sự phát
triển của xã hội. Triết học Mác xem bản chất con người xuất phát từ hoạt động vật chất của con người tức
hoạt động của con người thực tiễn. Vì vậy con người là một động vật có tính xã hội với tất cả nội dung văn
hoá lịch sử của nó. Vạch ra bản chất con người từ QHXH nhưng triết học Mác không tuyệt đối hoá mặt xã hội
trong con ngừoi mà cho rằng con ngừơi là thực thể thống nhất của mặt sinh vật và mặt xã hội.
Mặt sinh vật là toàn bộ các quá trình sinh vật diễn ra trong con ngừoi và cấu tạo chung cửa cơ thể con người
còn mặt xã hội là các phẩm chất xã hội của con người được hình thành và phát triển từ các mối quan hệ xã
hội trong hoạt động lao động, ngôn ngữ, giao tiếp, tư duy…Mặt sinh vật và mặt xã hội của con người thống
nhất với nhau trong sự vận động của bản chất con người. Mặt sinh vật là tiền đề, đều kiện của mặt xã hội.
Thiếu mặt tự nhiên (sinh vật) thì mặt xã hội không thể tồn tại và biểu hiện ra được. Song mặt tự nhiên trong
con người bị biến đổi, chi phối bởi mặt xã hội nên mang tính xã hội.
Với quan điểm khoa học coi con người là một thực thể sinh vật, triết học Mác Lênin đã khắc phục được cả
hai khuynh hướng sai lầm trong vấn đề con người: hoặc là đề cao mặt tự nhiên không thấy vai trò quyết định
của mặt xã hội hoặc là giản đơn con người, tuyệt đối hoá nguồn gốc duy tâm xã hội, không thấy được tiền đề
tự nhiên – mặt sinh vật của con người.
Quan hệ giữa cá nhân (một con người cụ thể) và xã hội là vấn đề có vị trí quan trọng đặc biệt trong học thuyết
Mác. Các tác phẩm của các nhà kinh điển Mác Lênin đã đề cập đến vấn đề này một cách toàn diện sâu sắc có
hệ thống trên cơ sở CN DVLS. Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng mang tính tất
yếu khách quan, vừa là tiền đề, vừa là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của xã hội và cá nhân. Cơ sở của
mối quan hệ ấy là quan hệ lợi ích. Cá nhân chỉ có thể tồn tại trong các mối quan hệ xã hội ngược lại sự phát
triển của xã hội được đánh dấu bằng sự trưởng thành của mỗi cá nhân bởi chức năng xã hội mà cá nhân đó
thực hiện.
Môi trường xã hội có thể tạo điều kiện cho cá nhân phát triển hoặc có thể làm thui chột sự phát triển của
con người. Hoàn cảnh xã hội, QHXH tạo nên bản chất con người . Tuy nhiên điều đó không phải là con người
thụ động trước hoàn cảnh và tiếp nhận nó một cách có ý thức. Do đó con người có thể làm chủ trước hoàn
cảnh và có khả năng tác động lại hoàn cảnh cải biến nó cho phù hợp với nhu cầu của con người. Vì thế cá
nhân có vai trò thúc đẩy xã hội phát triển. Vai trò của cá nhân ảnh hưởng tới xã hội tuỳ thuộc vào trình độ
phát triển của nhân cách. Những cá nhân có nhân cách lớn: phẩm chất tốt, tài năng cao và có trách nhiệm cao
với xã hội. Ngược lại những cá nhân suy thoái về nhân cách thì gây hậu quả xấu đến xã hội, là gánh nặng cho
xã hội.

Như vậy, cá nhân vừa là sản phẩm, vừa làchủ thể xã hội. Sự phát triển của cá nhân góp phần thúc đẩy
tiến bộ xã hội phát triển, xã hội càng phát triển, thì mỗi cá nhân lại tiếp nhận được ngày càng nhiều giá trị vật
chất, tinh thần do xã hội đáp ứng. Thõa mãn nhu cầu chính đáng của cá nhân là động lực liên kết mọi thành
viên xã hội, và là mục đích của sự liên kết đó. Do đó cơ sở của mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội chỉ có thể
phát triển tốt đẹp khi quan hệ lợi ích được giải quyết một cách hài hoà. Tuỳ theo trình độ phát triển của nền
SXXH và tính chất của chế độ XH cùng sự nhận thức vận dụng quy luật về sự kết hợp lợi ích mà mối quan hệ
lợi ích giữa cá nhân và xã hội được giải quyết một cách khác nhau. Bảo đảm công bằng về quyền lợi và nghĩa
vụ đối với mọi công dân, phát huy nhân tố con người lấy việc phục vụ lợi ích vì con người là mục đích cuối
cùng của mọi hoạt động và là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là yêu cầu bức thiết trong công cuộc xây
dựng và đổi mới xã hội ta ngày nay.
Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử.
Hoạt động SX ra của cải vật chất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội mà quần chúng nhân
13
dân là những người trực tiếp tham gia vào hoạt động đó, đồng thời là lực lựơng có vai trò to lớn trong SX tinh
thần. Đồng thời điểm khởi đầu và cũng là mục đích cuối cùng của các hành động cách mạng là lợi ích của
quần chúng nhân dân. Họ là chủ thể của mọi hoạt động , cải tạo các quá trình KT, CT, XH là người sáng tạo
ra lịch sử nhưng vai trò đó trong từng cụ thể không giống nhau. Vai trò ấy được phát huy đến mức nào còn
tuỳ thuộc vào tính tích cực, vào tri thức, vào trình độ SX, trong một hoàn cảnh lịch sử, một chế độ XH, một
phương thức SX nhất định. Cùng với sự phát triển của XH thì vai trò sáng tạo của QCND ngày càng tăng và
xét trên mọi phương diện từ kinh tế đến chính trị, từ thực tiễn đến tinh thần nhân dân luôn đóng vai trò quyết
định trong lịch sử.
Nhận thức và vận dụng CN MLN và tư tưởng HCM về vấn đề con người và vai trò của QCND trong
lịch sử, Đảng ta khẳng định: “Trong toàn bộ hoạt động của mình Đảng ta “lấy dân làm gốc”, XD quyền làm
chủ của QCND”.
Điều này đã được giai cấp phong kiến thống trị ở Phuơng Đông cũng như ở nước ta trải nghiệm. Người
xưa xem “dân là gốc nước”. Gốc ở đây mang ý nghĩa là nếu dân có cuộc sống yên bình, ổn định thì một triều
chính được xây dựng trên đó sẽ được bền vững.
Người anh hùng Lý Thường Kiệt đã nêu rõ tư tưởng : “người làm vua của dân, cốt phải nuôi dân”. Với
Lý Thường Kiệt, nuôi dân thì phải bỏ các kế sách tham tà, loại trừ sự sách nhiễu, làm hại dân, phải ngăn chặn
sự đục khoét dân để làm giàu cho mình. Còn Hưng Đạo Vương chủ trương: “khoan sức cho dân, để làm kế

sâu rễ bén gốc, đó là thượng sách của việc giữ nước”. Nguyễn Trãi lại thể hiện nội dung này bằng triết lý
“việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”, “chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Đối với các nhà chí sĩ yêu
nước Phan Bội Châu thì đã có tư tưởng tiến bộ hơn nhiều: “nước lấy dân làm chủ, dân coi việc nước như nhà
hay dân là dân nước, nước là nước dân”. Tiếp thu tinh hoa truyền thống dân tộc, chủ tịch HCM khẳng định :
“ND là gốc, công nông là gốc của CM”
“Gốc có vững cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền ND”
Người nói: “nếu không có nhân dân giúp sức, thì Đảng không làm được việc gì hết” rằng “trong toàn bộ
hoạt động của mình , Đang phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, XD và phát huy quyền làm chủ của
NDLĐ”, “Phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu, ắc phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành
công”. Theo quan điểm đó thì mọi chủ trương đường lối, chính sách của Đảng muốn trở thành hiện thực, hiệu
quả trong cuộc sống đều doND tham gia, thực hiện.
Nhận thức được đều đó Đảng ta xác định chỉ có thể dựa vào QCND, được QC ủng hộ thì sự nghiệp đổi
mới của Đảng mới thành công. Ngoài một số công việc mang tính nội bộ, Đảng không có điều gì “bí mật” với
ND. Trong điều lệ Đảng cũng như trong Nghị quyết, chỉ thị khác Đảng luôn chủ trương phải dựa vào dân để
xây dựng Đảng, cán bộ, Đảng viên phải liên hệ mật thiết với ND, là đầy tớ thật trung thành của ND. Mọi
quyết định, chỉ thị của Đảng phải xuất phát từ lợi ích , nguyện vọng và khả năng của NDLĐ, phải khơi dậy
sự đồng tình hưởng ứng của QC, phát huy quyền làm chủ của NDLĐ… Trải qua bao khó khăn và thử thách
dưới sự sự lãnh đạo của Đảng khối đại đoàn kết của nhân dân được cũng cố và phát triển. Song bên cạnh
những thành tựu đã đạt , Đảng ta đã mạnh dạn đánh giá những thiếu sót khuyết điểm của mình mà biểu hiện là
nhiều lúc chưa thực sựcoi dân là gốc của CM, nhiều cấp ủy, tổ chức Đảng, nhiều cán bộ, Đảng viên coi công
việc của Đảng là một cái gì đó không dính dáng đến ND, chưa coi trọng việc XD và phát huy vai trò, chức
năng của các Đoàn thể QC, một số cơ quan nhà nước mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh cửa quyền, vi phỵam
quyền làm chủ của ND, một bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng viên rthoái hoá biến chất , lợi dụng chất quyền
ức hiếp QCND làm tổn thương đến uy tín của Đảng và Nhà nước… Gần đây, Đảng ta đưa ra chủ trương : “
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” hay phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra”, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, cách thức thực hiện các chủ trương, phương châm đó như thế nào
thì vẫn còn lúng túng, chưa thgống nhất, ít nơi làm một cách méo mó, hình thức…
Tổng kết quá trình lãnh đạo CM của mình một trong những bài học kinh nghiệm được Đảng rút ra là :
“Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tửơng của mình lấy dân làm gốc, xây dựng và

phát huy quyền làm chủ của NDLĐ”, ngày nay để đưa công cuộc đổi mới tới thắng lợi phải phát huy được
tính chủ động sáng tạo tham gia một cách tích cực tự giác của ND. Đổi mới là một sự nghiệp mới mẽ chưa có
tiền lề. Nhiều vấn đề mới nảy sinh, nhiều khó khăn xuất hiện cần có nhận thức mới, giải pháp mới. Chính ở
đây, việc dựa vào nhân dân , qua thực tiển phong phong của ND tiến hành tổng kết từng bước tìm ra quy luật
của các mặt cuộc sống để đi lên đó là chìa khoá của thành công. Từ thực tế khó khăn của thời kỳ chống lại
cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, ND Quãng Bình đã đưa ra một tổng kết vô cùng
quý giá: “Dễ mười lần không dân cũng chịu, Khó trăm lần dân liệu cũng xong”.
HCM hết sức tâm đắt với sự tổng kết đó và đã không ít lần sử dụng lại các bài viết, bài nói chuyện của
mình. Ngày nay bài học đó vẫn giữ nguyên giá trị.
14
Quá trình hình thành đường lối đổi mới cũng như trong suốt quá trình triển khai, thực hiện đường lối đó,
Đảng ta luôn quán triệttư tưởng dựa vào dân, lấy dân làm gốc, lắng nghe ý kiến của dân, tổng kết những điển
hình tiến tiến và những kinh nghiệm hay của ND ta trong quá trình thực hiện đường lối chính sách.
Sự ra đời của chỉ thị 100 của Ban Bí Thư (01/1981) về khoán trong nông nghiệp, quyết định 25 của
chính phủ (1981) về quyền chủ động SX và tự chủ về tài chánh trong xí nghiệp quốc doanh, chủ trương phát
triển kinh tế theo mô hình VAC hay nghị quyết của Bộ Chính trị Khoá VIII về kinh tế trang trại… là những
minh chứng sinh động về bài học dựa vào nhân dân , vì ND, từ ND, xuất phát từ thực tiễn và phù hợp với thực
tiễn. Bên cạnh đó Đảng phải động viên được các tầng lớp ND tích cực thực hiện đường lối chủ trương chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước với tư cách là người làm chủ công việc của đất nước.
ĐẠI HỘI 9: “Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân” và “Đổi mới là sự nghiệp của
nhân dân và vì nhân dân . để công cuộc đổi mới thành công phải động viên được mọi tần lớp nhân dân và các
thành phần kinh tế tham gia (trang 81 - 82)”
Câu 4.2: Quan điểm Mác-xít về con người, về vai trò của quần chúng ND trong lịch sử và vận dụng để
phân tích luận điểm sau đây của Đảng ta : “Sự nghiệp phát triển KT đặt con người vào vị trí trung
tâm thống nhất giữa tăng trưởng KT với công bằng và tiến bộ XH” (VK 7 trang 115).
Bài làm
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển KT của đất nuớc ta hiện nay, con người đóng một vai trò quan trọng
đó là cơ sở quyết định sự thành bại của công cuộc XD CNXH trên đất nuớc ta. Để khẳng định tầm quan trọng
đó trong văn kiện đại hội Đảng lần thứ VII ghi rõ: “Sự nghiệp phát triển KT đặt con người vào vị trí trung
tâm thống nhất giữa tăng trưởng KT với công bằng và tiến bộ XH”.

Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề nguồn gốc và
bản chất của con người. Trước Mác vấn đề bản chất con người vẫn chưa được giải đáp vấn đề một cách khoa
học. Không những chủ nghĩa duy tâm mà cả chủ nghĩa duy vật trực quan, si6eu hình cũng không nhận thức
đúng bản chất con người. Đã từng có những ý kiến cho rằng triết học Mác-Lênin nói riêng xem vấn đề con
người là trung tâm của mọi KHXH và nhân văn. CN Mác_Lênin ra đời xuất phát từ con người và mục đích
cuối cùng của nó là soi sáng cho sự nghiệp giải phóng chomỗi con người và cho cả loài người.
Các nhà triết học trước Mác coi bản chất con người từ sự sáng tạo và chi phối của thần thánh hoặc từ ý thức
trừu tượng (chủ nghĩa duy tâm tôn giáo) hoặc từ giác ngộ sinh vật thuần tuý tự nhiên không phân biệt được
con người với tính tầm thường của động vật (chủ nghĩa duy tâm siêu hình). Ngược lại, triết học Mác coi
“trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoá các QHSX” và bản chất đó cũng biến đổi cùng
với sự phát triển của XH. Triết học Mác xem bản chất con người xuất phát từ hoạt động của con người thực
tiễn. Vì vậy con người là một động vật có tính XH với tất cả nội dung VH-LS của nó. Vạch ra bản chất con
người từ QHSX nhưng triết học Mác không tuyệt đối hoá mặt XH trong con người mà cho rằng con người là
thực thể thống nhất của mặt sinh vật và mặt XH.
Mặt sinh vật là toàn bộ các quá trình sinh vật diễn ra trong con người và cấu tạo chung của cơ thể con người.
Còn mặt XH là các phẩm chất XH trong hoạt động lao động, ngôn ngữ, giao tiếp, tư duy… Mặt sinh vật và
mặt XH của con người thống nah61TBCN với nhau trong sự vận động của bản chất con người. Mặt sinh vật
là tiền đề, điều kiện của mặt XH. Thiếu mặt tự nhiên (sinh vật) thì mặt XH không thể tồn tại và biểu hiện ra
được. Song mặt tự nhiên trong con người bị biến đổi, chi phối bởi mặt XH nên mang tính XH.
Với quan điểm KH coi con người là một thực thể sinh vật – xã hội, triết học mác đã khắc phục được cả hai
khuynh hướng sai lầm trong vấn đề con người : hoặc là đề cao mặt tự nhiên không thấy vai trò quyết định của
mặt XH hoặc là giản đơn con người , tuyệt đối hoá nguồn gốc duy tâm XH, không thấy được tiền đề tự nhiên
– mặt sinh vật của con người.
Quan hệ giữa cá nhân (một con người cụ thể) và XH là vấn đề có vị trí quan trọng đặc biệt trong học thuyết
Mác. Các tác phẩm của các nhà kinh điển Mác-Lênin đã đề cập đến vấn đề này một cách toàn diện, sâu sắc có
hệ thống trên cơ sở chủ nghĩa duy vật lịch sử. Mối quan hệ giữa cá nhân và XH là mối quan hệ biện chứng,
mang tính tất yếu khách quan, vừa là tiền đề vừa là điều kiện cho sự tồn tại và pt1 của XH và cá nhân. cơ sở
của mối quan hệ ấy là quan hệ lợi ích. Cá nhân chỉ có thể tồn tại trong ccác mối quan hệ XH ngược lại sự phát
triển của XH được đánh dấu bằng sự trưởng thành của mỗi cá nhân đó thực hiện.
Môi trường XH có thể tạo điều kiện cho cá nhân phát triển hoặc có thể làm thui chột sự phát triển của con

người. Hoàn cảnh XH, quan hệ XH tạo nên bản chất con người. Tuy nhiên điều đó không phải là con người
thụ động trước sự tác độngcủa hoàn cảnh và tiếp nhận nó một cách có ý thức. Do đó con người có thể làm chủ
trước hoàn cảnh và có khả năng tác động lại hoàn cảnh, cải tiến nó phù hợp hơn với nhu cầu của con người.
15
Vì thế cá nhân có vai trò thúc đẩy XH phát triển. Vai trò của cá nhân ảnh hưởng tới XH tuỳ thuộc vào trình độ
phát triển của nhân cách. Những cá nhân có nhân cách lớn, phẩm chất tốt, tài năng cao và con người trách
nhiệm cao với XH thì có tác dụng tích cực đến XH. Ngược lại, những cá nhân bị suy thoái về nhân cách thì
gây hậu quả xấu đến XH, trở thành gánh nặng cho XH.
Như vậy, cá nhân vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của XH. Sự phát triển của cá nhân góp phần thúc đẩy tiến
độ XH phát triển. Xã hội càng pt1 thì mỗi cá nhân lại tiếp nhận được ngày càng nhiều những giá trị vật chất,
tinh thần do XH ấy đáp ứng. Thoả mãn nhu cầu chính đáng của cá nhân là động lực liên kết mọi thành viên
XH và là mục đích của sự liên kết đó. Do đó, cơ sở của mối quan hệ giữa cá nhân và XH chỉ có thể phát triển
tốt đẹp khi quan hệ lợi ích được giải quyết một cách hài hoà. Tùy theo trình độ phát triển của nền SX XH và
tính chất của chế độ XH cùng sự nhận thức vận dụng quy luật về sự kết hợp lợi ích mà mối quan hệ lợi ích
giữa cá nhận và XH được giải quyết một cách khác nhau. Bảo đảm công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ đối
với mọi công dân, phát huy nhân tố con người, lấy việc phục vụ lợi ích con người là mục đích cuối cùng của
mọi hoạt động và là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là yêu cầu bức thiết trong công cuộc xây dựng và đổi
mới XH ta hiện nay. Ngoài cá nhân, quần chúng ND đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc cũng như Xây dựng đất nước. Bởi vì theo chủ nghĩa Mác-Lênin quần chúng ND là những
người lao động SX ra của cải vật chất, tinh thần cho XH và các lực lượng tiến bộ XH thống qua hoạt động của
học lịch sử sẽ biến đổi.
Quần chúng ND là người sáng tạo ra lịch sử, là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử. Hoạt động SX
ra của cải vật chất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của XH mà quần chúng ND là những người
trực tiếp tham gia vào hoạt động đó đồng thời còn là lực lượng có vai trò to lớn trong SX tinh thần. Quần
chúng ND chính là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng XH. Đồng thời điểm khởi đầu và cũng là mục
đích cuối cùng của hành động cách mạng là lợi ích của quần chúng ND. Họ là chủ thể của hoạt động cải tạo
các quá trình KT, chính trị, XH, là người sáng tạo ra lịch sử nhưng vai trò đó trong từng thời kỳ cụ thể không
giống nhau. Vai trò ấy được phát huy đến mức nào còn tuỳ thuộc vào tính tích cực, vào tri thức, vào trình độ
tổ chức của quần chúng… trong một hoàn cảnh lịch sử, một chế độ XH, một PTSX nhất định.
Cùng với sự phát trei63Nhà nước của XH thì vai trò sáng tạo của quần chúng ND ngày càng tăng và xét trên

mọi phương diện từ KT đến Chính trị, từ thực tiễn đến tinh thần tư tưởng thì quần chúng ND luôn đóng vai
trò quyết định trong lịch sử.
Khẳng định vai trò quyết định của quần chúng ND đối với sự phát triển của XH không có nghĩa là phủ nhận
vai trò của vĩ nhân-lãnh tụ. Trái lại, vai trò đó có mối quan hệ khăng khít với nhau.
Lãnh tụ là người nắm bắt được xu thế phát triển của dân tộc, của thoi72 đại để đề ra đường lối chiến lược và
phương pháp cách mạng đúng đắn, là người tổ chức tập hợp quần chúng để thực hiện giải quyết những nhiệm
vụ do thực tiển lịch sử đề ra. Một phong trào muốn thành công đòi hỏi có một lãnh tụ giàu kinh nghiệm lãnh
đạo là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên không nên tuyệt đối hoá vai trò của vĩ nhân lãnh tụ, sùng bái cá
nhân dẫn đến xem thường ý kiến tập thể, độc đoán chuyên quyền xa rời quần chúng, làm cho quần chúng mất
tin tưởng vào sức mạnh của mình dẫn đến thụ động, tuân thủ một cách mù quáng và bảo vệ uy tín lãnh tụ vì
uy tín của lãnh tụ là uy tín của phong trào.
Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM về vấn đề con người, Đảng ta khẳng định : “Sự nghiệp phát
triển KT đặt con người vào vị trí trung tâm, thống nhất tăng trưởng KT với công bằng và tiến bộ XH”. Con
người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp CNH, HĐH, của sự nghiệp XD CNXH. Vì nó xuất phát
từ mục tiêu chung của chủ nghĩa Mác là giải phóng con người .
Con người là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và CH của các quốc gia. Con người phát
triển về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự
nghiệp XD XH mới đồng thời là mục tiêu của CNXH.
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu bắt đi vào CNH, HĐH chúng ta chưa có những chỉ số cao về phát triển con
người như mong muốn. Nhiều năm qua tốc độc nâng cao dân trí ở nước ta quá chậm. Cùng với mặt bằng dân
trí còn thấp số người được đào tạo có trình độ tay nghề cao cũng như số người có học vấn đại học, sau đại học
đều đang còn ít. Đến nay, còn nhiều người lao động chưa được đào tạo nghề nghiệp.
Đó là những khó khăn hết sức to lớn cho việc tiếp thu KH và công nghệ mới nhằm đạt tới những mục tiêu của
CNH, HĐH. sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đang đòi hỏi rất cao về bản lĩnh chính trị, tính năng động và tầm
cao trí tuệ của toàn dân. Cuộc chiến “ai thắng ai” trong đua tranh trên thị trường thế giới và khu vực hiện nay
chủ yếu phụ thuộc vào chất lượng của nguồn lực con người. Nguồn lực ấy chính là động lực của sự nghiệp
XD XH mới : dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, cùng với việc tạo ra nguồn
lực vật chất, tài chính và phát huy các nguồn lực đó điều quan trọng nhất hiện nay là chăm lo phát triển nguồn
lực con người VN, tạo ra lực lượng lao động với trình độ mới, khả năng mới phù hợp yêu cầu đẩy nhanh sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước.

16
Chúng ta nhận thức rõ mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người
trước hết là người lao động. Cương lĩnh của Đảng ta chỉ rõ : chính sách XH đúng đắn vì hạnh phúc con người
là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp XD CNXH.
Hiện nay, có hàng loạt vấn đề đặt ra trước mắt chúng ta hoặc do hậu quả nặng nề của nhiều năm chiến tranh,
của nền KT kém phát triển hoặc mới nảy sinh trong quá trình chuyển sang cơ cấu thị trường và mở rộng giao
lưu quốc tế. Không thể cùng một lục giải quyết mọi vấn đề trong lúc năng suất lao động XH còn thấp, nguồn
thu ngân sách còn hạn hẹp lại phải tích lũy cho CNH, HĐH đất nước. Vì vậy, Đảng ta chủ trương: cần phải
lấy việc phát triển nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, phải khơi dậy
trong ND lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của con người VN, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi
nghèo nàn lạc hậu…
Giải phòng con người là mục tiêu tự thân của CNXH là đặc trưng cơ bản của XH CNXH . Giá trị của XH
XHCN lá phát triển con người. Toàn bộ các hệ thống quan hệ XH phải phục vụ cho sự phát triển con người.
CNXH có mục đích là tạo ra những điều kiện KT-XH, chính trị cho phép con người ở vào vị trí trung tâm của
đời sống CH. Phát triển KT theo con đường XD CNXH ở nước ta hiện nay là quá trình giải phóng sức SX,
khơi dậy mọi tiềm năng, động viên và tạo điều kiện cho mọi người VN phát huy ý chí tự lực tự cường, cần
kiệm XD và bảo vệ tổ quốc. Mục đích của cơ chế thị trường định hướng XHCN là phát triển LLSX, phát triển
KT để XD Cơ sở vật chất kỷ thuật của CNXH nâng cao đời sống ND và tăng trưởng KT gắn liền với tiến bộ
XH.
Xuất phát từ lý luận triết học Mác – Lênin về giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người và
thực tiễn phát triển KT nước ta, Đảng ta đã khẳng định: “Sự nghiệp phát triển KT đặt con người vào vị trí
trung tâm”.
Muốn phát huy nguồn lực con người phải có hệ thống chính sách XH đúng đắn, “thống nhất giữa tăng trưởng
KT với công bằng và tiến bộ XH”. Do đó phải kết hợp chính sách KT với chính sách XH trong từng bước
phát triển đất nước. Phát triển KT là điều kiện vật chất , là cơ sở ban đầu cho việc XD và thực hiện các chính
sách XH . Những chính sách XH đúng đắn tạo ra sự ổn định và tạo ra động lực cho sự phát triển KT vững
chắc .Tăng trưởng KT gắn liền với công bằng và tiến bộ XH trong từng bước và trong suốt quá trình phát
triển .Công bằng XH phải thể hiện ở khâu phân phối TLSX và khâu phân phối kết quả SX. Ở việc tạo điều
kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình . Khuyến khích làm giàu hợp
pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo .Thu hẹp dần khoản cách về trình độ phát triển , về mức sống giữa các

vùng , giữa các DT, các tầng lớp dân cư .Từng bước hoàn thiện và thực hiện tốt các chính sách bảo đảm XH
và hoà nhập XH
Bảo đảm XH là chăm lo , giúp đỡ để bảo đảm cuộc sống của mọi cá nhân và cộng đồng XH trong điều kiện
KT thị trường , Nhà nước cần quan tâm đến các đối tượng chính sách và gia đình có công với nước .Hoà nhập
XH là giúp giảm nhẹ khó khăn của các gia đình và cá nhân gặp hoàn cảnh khó khăn , giúp đỡ những người
tàn tật , trẻ em mồ côi , nạn nhân chiến tranh , để những người này có cuộc sống vật chất và tinh thần phù hợp
với điều kiện của cộng đồng .
Theo trình độ phát triển KT , Nhà nước tăng dần nguồn đầu tư cho các vấn đề XH đồng thời khai thác mọi
tiềm năng của ND , của địa phương , của các hội , các đoàn thể , tranh thủ các nguồn viện trợ từ trong và
ngòai và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ấy để chăm lo cho con người và XH
Chăm lo cho con người và cộng đồng XH là trách nhiệm của Nhà nứơc , của toàn XH , của mỗi đơn vị, của
từng gia đình , là sự nghiệp của toàn dân .Đảng ta chủ trương giải quyết các vấn đề XH , thực hiện công bằng
XH và công bằng XH theo tinh thần XH hoá trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt.
Tóm lại , khẳng định : ‘’ Sự nghiệp phát triển KT đặt con người vào vị trí trung tâm , thống nhất giữa tăng
trưởng KT với công bằng và tiến bộ XH’’. Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp CNH ,
hiện đại hoá , của sự nghiệp xây dựng CNXH đã thể hiện sự nhận thức và quán triệt quan điểm Mác- Xít về
con người của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới, phát triển KT của nước ta. Vì thực tiển cho thấy một trong
các yếu tố để phát triển nhanh và bền vững của Đất nước , của nền KT thì nguồn lực con người là yếu tố cơ
bản nhất . Bởi lẻ nguồn nhân lực của Việt Nam với đức tính cần cù sáng tạo khi đã có trình độ văn hoá , kỹ
thuật nghiệp vụ cao có tay nghề vững sẽ làyếu tố quyết định để tạo ra những phương pháp công nghệp và
công nghệ hiện đại .Nguồn nhân lực này lại sử dụng các phương pháp , các phương tiện công nghệ tiên tiến ,
hiện đại để đạt được năng suất lao động XH cao , hàng hoá nhiều và tốt . Như vậy , nguồn lực này vừa là
người sáng tạo ra , vừa là người sử dụng các phương tiện, phương pháp công nghệ để đạt được lợi ích KT cao
nhất cho XH , cho tập thể và cho bản thân. Do đó , cùng với việc tạo ra những nguồn lực vật chất , tài chính
thì điều quan trong nhất hiện nay là phải phát huy nguồn lực con người Việt Nam đủ khả năng đáp ứng được
nhu cầu của sự nghiệp CNH , HĐH đất nước .Để làm được điều đó thì GD và đào tạo cùng với khoa học và
17
công nghệ phải thực sự là quốc sách hàng đầu nhằm đào tạo ra nguồn lao động mới phát triển toàn diện :
Cường tráng về thể chất , phát triển cao về trí tuệ, trong sáng về đạo đức , phong phú về đời sống tinh thần .
Bên cạnh đó , chúng ta cần phải thực hiện nhiều hình thức phân phối trong đó lấy hình thức phân phối dựa

trên kết quả lao động và hiệu quả KT là chủ yếu …tiến hành công tác xoá đói giảm nghèo , thu hẹp dần về
trình độ , mức sống giữa các vùng dân cư, giải quyết tốt vấn đề vịêc làm , hạn chế tình trạng thất nghiệp và
thiếu việc làm ở nông thôn . Chăm lo sức khỏe , nâng cao thể chất cho nhân dân…Để nhằm thực hiện mục
tiêu phát triển KT phải : “ thống nhất giữa tăng trưởng KT với công bằng và tiến bộ XH ” và chỉ có như vậy
mới tạo ra điều kiện để thúc đẩy nền KT VN phát triển nhanh và đạt hiệu quả KT-XH cao.
18

×