Tải bản đầy đủ (.pdf) (158 trang)

nghiên cứu khả năng áp dụng hệ thống thâm canh lúa cải tiến sri (system of rice intensification) cho vùng đất không chủ động nước tại thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 158 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



NGUYỄN THỊ THU HÀ


NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
HỆ THỐNG THÂM CANH LÚA CẢI TIẾN SRI
(SYSTEM OF RICE INTENSIFICATION)
CHO VÙNG ĐẤT KHÔNG CHỦ ĐỘNG NƯỚC
TẠI THÁI NGUYÊN

Chuyên ngành: TRỒNG TRỌT
Mã số: 60. 62. 01



LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP


Người hướng dẫn khoa học: PSG.TS. HOÀNG VĂN PHỤ



THÁI NGUYÊN - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




NGUYỄN THỊ THU HÀ



NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
HỆ THỐNG THÂM CANH LÚA CẢI TIẾN SRI
(SYSTEM OF RICE INTENSIFICATION)
CHO VÙNG ĐẤT KHÔNG CHỦ ĐỘNG NƯỚC
TẠI THÁI NGUYÊN




LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP






THÁI NGUYÊN - 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng mọi kết quả nghiên cứu đã được trình bày trong luận
văn này hoàn toàn do bản thân tôi thực hiện, mọi số liệu đảm bảo trung thực, khoa
học và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin đảm bảo là mọi sự giúp đỡ để hoàn thành luận văn này đã được cảm ơn
và các thông tin trích dẫn đều được chú thích 1 cách cụ thể và chỉ rõ nguồn gốc.


Thái Nguyên, ngày 30 tháng 8 năm 2010
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Thu Hà













Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa học và thực hiện đề tài, ngoài sự nỗ lực của bản thân tôi
còn nhận được sự dạy bảo tận tình của các Thầy cô giáo, sự giúp đỡ của gia đình,
các tập thể, các nhân, cùng bạn bề đồng nghiệp.
Nhân dịp này, tôi xin trân trọng cảm ơn PSG.TS. Hoàng Văn Phụ - Giám đốc
trung tâm hợp tác quốc tế - Đại học Thái Nguyên, là Thầy hướng dẫn khoa học đã
tận tình, tâm huyết hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Ban lãnh đạo, các Thầy cô giáo, cán bộ viên chức trường Đại học Nông lâm
Thái Nguyên đã tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận l để tôi hoàn thành chương
trình học tập và đề tài.
Luận văn này khó tránh khỏi còn có những thiếu sót, tôi rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp của đồng nghiệp, bạn đọc và xin trân trọng cảm ơn.

Thái Nguyên, ngày 30 tháng 8 năm 2010
Tác giả luận văn



Nguyễn Thị Thu Hà







Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU Trang
1. Đặt vấn đề…………………………………………………………………. 1
2. Mục đích nghiên cứu………………………………………………………. 2
3. Mục tiêu nghiên cứu……………………………………………………… 2
4. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………………………2
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài………………………………… 3
1.2. Những nghiên cứu về bộ rễ và phương thức bón phân cho cây lúa 5
1.3. Những nghiên cứu về mật độ, tuổi mạ và số dảnh cấy 9
1.4. Tình hình nghiên cứu và ứng dụng hệ thống thâm canh lúa cải tiến SRI ở
Việt Nam 14
1.5. Tình hình nghiên cứu và ứng dụng hệ thống thâm canh lúa cải tiến SRI
trên thế giới 20
1.5.1. Tình hình nghiên cứu ở Trung Quốc 21
1.5.2. Tình hình nghiên cứu ở Thái Lan 23
1.5.3. Tình hình nghiên cứu ở Campuchia 24
1.5.4. Tình hình nghiên cứu ở Iran 25
1.5.5. Tình hình nghiên cứu tại một số nước khác 27
Chƣơng 2
ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu 30
2.2. Địa điểm và thời gian tiến hành nghiên cứu 30
2.3. Nội dung nghiên cứu 30
2.4. Phương pháp nghiên cứu 30
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2.4.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm 30

2.4.2.Điều kiện thí nghiệm 32
2.4.3. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi 33
2.4.4. Phương pháp sử lý số liệu 36
Chƣơng 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Điều kiện thời tiết khí hậu tại Tỉnh Thái Nguyên 37
3.2. Kết quả thử nghiệm kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI trên vùng đất không
chủ động nước tại Thái Nguyên trong vụ mùa 2009 37
3.2.1. Thời gian sinh trưởng 38
3.2.2. Một số chỉ tiêu sinh trưởng của giống lúa khang dân 18 40
3.2.3. Một số chỉ tiêu về bộ rễ 43
3.2.3.1. Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa SRI đến số rễ 43
3.2.3.2. Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa SRI đến chiều dài rễ 45
3.2.3.3. Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa SRI đến đường kính rễ 48
3.2.3.4. Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa SRI đến trọng lượng khô của
rễ ở tầng đất 0 – 5 cm. 51
3.2.3.5. Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa SRI đến trọng lượng khô của
rễ ở tầng đất 6 – 10 cm 53
3.2.3.6. Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa SRI đến trọng lượng khô của
rễ ở tầng đất 11 – 20 cm. 56
3.2.4. Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa SRI đến khả năng tích lũy vật
chất khô của thân lá 58
3.2.5. Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa SRI đến bệnh khô vằn……. 60
3.2.6. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất thực thu 63
3.3. Kết quả thử nghiệm kỹ thuật thâm canh lúa SRI trên đất không chủ động
nước tại Thái Nguyên trong vụ xuân 2010 68
3.3.1. Thời gian sinh trưởng 68
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3.3.2. Một số chỉ tiêu sinh trưởng của giống lúa khang dân 18 69

3.3.3. Một số chỉ tiêu về bộ rễ 71
3.3.3.1. Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa SRI đến số rễ 71
3.3.3.2. Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa SRI đến chiều dài rễ 73
3.3.3.3. Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa SRI đến đường kính rễ 75
3.3.3.4. Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa SRI đến trọng lượng khô của
rễ ở tầng đất 0 – 5cm 77
3.3.3.5. Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa SRI đến trọng lượng khô của
rễ ở tầng đất 6 – 10cm 79
3.3.3.6. Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa SRI đến trọng lượng khô của
rễ ở tầng đất 11 – 20cm 81
3.3.4. Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa SRI đến khả năng tích lũy vật
chất khô của thân lá. 83
3.3.5. Khả năng chống chịu 84
3.3.6. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất 86
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận 91
2. Đề nghị 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO 93









Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

SRI: System of Rice Intensification
TGST: Thời gian sinh trưởng
Đ/c: Đối chứng
LSD: Least Significant Difference (Sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa)
Cv: Caefficienct of Variance (Hệ số biến động)
Cs: Cộng sự
CSB: Chỉ số bệnh
TLB: Tỷ lệ bệnh
MĐ: Mật độ
TM: Tuổi mạ
P: Phân bón
NSLT: Năng suất lý thuyết
NSTT: Năng suất thực thu












Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



DANH MỤC CÁC BẢNG

Stt
Số bảng
Tên bảng
Trang
1.
Bảng 1.1
Năng suất lúa có áp dụng SRI trên Thế giới………………
27
2.
Bảng 1.2
Kết quả thử nghiệm SRI tại Bopitiya, Srilanka…………….
28
3.
Bảng 3.1
Một số yếu tố khí hậu, thời tiết qua các tháng, trung bình
trong 5 năm (2008-2009)……………………………………

37
4.
Bảng 3.2
Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI đến thời
gian sinh trưởng của giống lúa Khang dân 18 trong vụ mùa
2009 trên đất không chủ động nước tại Thái Nguyên………


39
5.
Bảng 3.3

Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI đến một số chỉ
tiêu về sinh trưởng của giống lúa khang dân 18 trong vụ mùa 2009
trên đất không chủ động nước tại Thái Nguyên………………….


41
6.
Bảng 3.4
Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI đến số
rễ của giống Khang Dân 18 trong vụ mùa 2009 trên đất
không chủ động nước tại Thái Nguyên…………………….


44
7.
Bảng 3.5
Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI đến
chiều dài rễ của giống Khang Dân 18 trong vụ mùa 2009
trên đất không chủ động nước tại Thái Nguyên…………….


46
8.
Bảng 3.6
Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI đến
đường kính rễ của giống Khang Dân 18 trong vụ mùa 2009
trên đất không chủ động nước tại Thái Nguyên…………….


49

9.
Bảng 3.7
Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI đến
trọng lượng khô của rễ ở tầng đất 0- 5cm của giống Khang
Dân 18 trong vụ mùa 2009 trên đất không chủ động nước


52
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

tại Thái Nguyên
10.
Bảng 3.8
Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI đến
trọng lượng khô của rễ ở tầng đất 6- 10cm của giống Khang
Dân 18 trong vụ mùa 2009 trên đất không chủ động nước
tại Thái Nguyên……………………………………………



55
11.
Bảng 3.9
Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI đến
trọng lượng khô của rễ ở tầng đất 11- 20 cm của giống
Khang Dân 18 trong vụ mùa 2009 trên đất không chủ động
nước tại Thái Nguyên……………………………………….




57
12.
Bảng 3.10
Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI tới khả năng
tích luỹ vật chất khô của giống Khang Dân 18 trong vụ mùa 2009
trên đất không chủ động nước tại Thái Nguyên…………………


59
13.
Bảng 3.11
Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI đến khả năng
chống chịu bệnh khô vằn của giống Khang Dân 18 trong vụ mùa
2009 trên đất không chủ động nước tại Thái Nguyên……………


61
14.
Bảng 3.12
Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI đến các
yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của giống lúa
khang dân 18 trong vụ mùa 2009 trên đất không chủ động
nước tại Thái Nguyên……………………………………….



64
15.
Bảng 3.13
Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI đến thời

gian sinh trưởng của giống lúa Khang dân 18 trong vụ xuân
2010 trên đất không chủ động nước tại Thái Nguyên………


68
16.
Bảng 3.14
Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI đến một số
chỉ tiêu về sinh trưởng của giống lúa khang dân 18 trong vụ
xuân 2010 trên đất không chủ động nước tại Thái Nguyên……


70
17.
Bảng 3.15
Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI đến số

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

rễ của giống Khang Dân 18 trong vụ xuân 2010 trên đất
không chủ động nước tại Thái Nguyên……………………

72
18.
Bảng 3.16
Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI đến
chiều dài rễ của giống Khang Dân 18 trong vụ xuân 2010
trên đất không chủ động nước tại Thái Nguyên…………….



74
19.
Bảng 3.17
Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI đến
đường kính rễ của giống Khang Dân 18 trong vụ xuân 2010
trên đất không chủ động nước tại Thái Nguyên…………….


76
20.
Bảng 3.18
Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI đến
trọng lượng khô của rễ ở tầng đất 0- 5 cm của giống Khang
Dân 18 trong vụ xuân 2010 trên đất không chủ động nước
tại Thái Nguyên……………………………………………



78
21.
Bảng 3.19
Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI đến
trọng lượng khô của rễ ở tầng đất 6- 10cm của giống Khang
Dân 18 trong vụ xuân 2010 trên đất không chủ động nước
tại Thái Nguyên……………………………………………



80
22.

Bảng 3.20
Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI đến
trọng lượng khô của rễ ở tầng đất 11- 20 cm của giống
Khang Dân 18 trong vụ xuân 2010 trên đất không chủ động
nước tại Thái Nguyên……………………………………….



82
23.
Bảng 3.21
Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI tới khả năng
tích luỹ vật chất khô của giống Khang Dân 18 trong vụ xuân
2010 trên đất không chủ động nước tại Thái Nguyên…………


83
24.
Bảng 3.22
Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI đến khả
năng chống chịu bệnh khô vằn của giống KD 18 trong vụ
xuân 2010 trên đất không chủ động nước tại Thái Nguyên


85
25.
Bảng 3.23
Ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI đến các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của giống lúa
khang dân 18 trong vụ xuân 2010 trên đất không chủ động
nước tại Thái Nguyên……………………………………….


87
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


DANH MỤC CÁC HÌNH

Stt
Số hình
Tên hình
Trang
1.
Hình 3.2
Năng suất của các công thức thí nghiệm trong vụ mùa
2009 tại Thái Nguyên……………………………………

68
2.
Hình 3.3
Năng suất của các công thức thí nghiệm trong vụ xuân
2010 tại Thái Nguyên……………………………………

90




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Thái Nguyên là một tỉnh thuộc vùng núi và trung du phía Bắc, có tổng diện
tích đất trồng lúa nước là 59.831 ha (chiếm 16,92%), tuy nhiên tình hình sản
xuất lúa tại tỉnh Thái Nguyên còn gặp nhiều khó khăn, nguyên nhân chủ yếu là
do điều kiện đất đai, khí hậu, đặc biệt là do lượng mưa hàng năm không đều, tập
trung chủ yếu vào các tháng mùa mưa (từ tháng 4 đến tháng 10), dẫn đến một
thực trạng rất phổ biến trong sản xuất đó là chỉ có những nơi chủ động được
nguồn nước tưới mới có thể sản xuất được 2 vụ lúa/năm, còn lại ở những vùng
sản xuất lúa mà nguồn nước không chủ động được và phụ thuộc hoàn toàn vào
nước mưa (chiếm diện tích khoảng 11.000 ha) thì sản xuất lúa gặp nhiều khó
khăn. Khi trồng lúa thì cho năng suất không ổn định, phụ thuộc rất lớn vào điều
kiện khí hậu thời tiết (đặc biệt là lượng mưa), và khi trồng các loại cây trồng
khác thì hiệu quả kinh tế cũng không cao, làm cho hệ số sử dụng đất còn thấp
gây lãng phí nguồn tài nguyên đất. Vấn đề đặt ra là phải tăng hệ số sử dụng đất,
ngoài việc nghiên cứu và tuyển chọn những giống chịu hạn để có thể đưa vào
ứng dụng trong sản xuất thì việc nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật để thâm
canh cây lúa trên vùng đất không chủ động nước tưới cũng đang là một vấn đề
cấp thiết mà thực tiễn sản xuất đang đặt ra.
Kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI (System of Rice Intensification - SRI)
do Fr.Henri de Laulanníe, S.J. phát triển ở Madagascar từ năm 1961-1995, sau
đó trở thành một sáng kiến trong khuôn khổ của chương trình an ninh thu nhập
và sinh kế do tổ chức Oxfam thực hiện tại Campuchia, Lào, Việt Nam. Nguyên
tắc thực hành của SRI là sử dụng cây mạ non tuổi (2-2,5 lá), giảm thiểu chế độ
nước tưới (chế độ nước SRI là không để ngập nước mà chỉ để nước lớp nước
láng mỏng sâm xấp từ khi cấy đến vào chắc rồi tháo cạn), khoảng cách cấy thưa

và cấy 1 dảnh.
SRI bắt đầu được nghiên cứu ở Việt Nam từ vụ xuân 2004, khi áp dụng kỹ
thuật SRI làm chi phí hạt giống giảm từ 56-76%, tiết kiệm nước 62%, giảm công

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
cấy và thuốc trừ sâu (Hoàng Văn Phụ, 2005) [26]. Hiện nay kỹ thuật thâm canh
lúa SRI đã được Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn công nhận là một tiến
bộ khoa học kỹ thuật mới, cho đến nay đã có trên 24 tỉnh thành áp dụng và đã
đem lại hiệu quả nhiều mặt về kinh tế, xã hội cho người nông dân.
Tuy nhiên kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI mới chỉ được nghiên cứu và
áp dụng trên những đất chủ động nước tưới, còn trên những đất không chủ động
nước tưới hiện chưa được nghiên cứu, do đó yêu cầu nghiên cứu để áp dụng SRI
trên loại đất này là rất cần thiết.
Với những lý do trên chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu
khả năng áp dụng hệ thống thâm canh lúa cải tiến SRI (System of Rice
Intensification) cho vùng đất không chủ động nước tại Thái Nguyên’’
2. Mục đích nghiên cứu
Áp dụng cách tiếp cận kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI vào sản xuất lúa
trên đất không chủ động nước, cho năng suất lúa cao và ổn định.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu ảnh hưởng của kỹ thuật thâm canh SRI đến sinh trưởng, phát
triển và năng suất của giống lúa Khang dân trên đất không chủ động nước tại
Thái Nguyên.
- Đưa ra được khuyến cáo cải tiến quy trình thâm canh lúa trên đất không
chủ động nước.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Trên đất không chủ động nước tại Thái Nguyên.
- Các nhân tố thí nghiệm là tuổi mạ, mật độ cấy và phương thức bón phân.

- Sử dụng giống khang dân 18.



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
Cách mạng xanh đã được thực hiện với việc mở rộng thêm diện tích lúa
được tưới, sử dụng những giống lúa mới, thấp cây, sử dụng nhiều phân hóa học
và thuốc hóa học trừ sâu bệnh, trừ cỏ, làm cho không những đầu vào tăng lên so
với hệ thống canh tác lúa cổ truyền mà đa dạng sinh học, đa dạng di truyền ở
đồng lúa bị phá vỡ và cũng tác động không tốt đến môi trường xã hội.
Sau những cái được của cách mạng xanh (như đưa năng suất lúa trung bình
của thế giới từ 1,5 tấn/ha lên 4,0 tấn /ha như hiện nay, tiết kiệm được 250 triệu
ha do phá rừng trồng lúa để nuôi đủ số dân đang tăng trưởng với tốc độ nhanh)
đã xuất hiện những cái không được, hay là cái mất, đó là môi trường đồng ruộng
bị suy thoái, tính đa dạng dinh học, đa dạng di truyền bị phá vỡ, hoạt động của
vi sinh vật đất bị hạn chế vì phân hóa học, hóa chất trừ sâu bệnh, cỏ dại (Bùi
Huy Đáp, 1999)[7].
Năm 2009 đánh dấu sự kiện 1,002 tỷ người bị đói do hạn hán, lũ lụt, hơn 1
tỷ người rơi vào tình cảnh đói nghèo. Những thách thức trước mắt đặt ra đó là
diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, tình trạng thiếu nước, giá đầu
vào tăng (chủ yếu là nhiên liệu và phân bón), sự thoái hóa của đất trồng, đói
nghèo và tình trạng biến đổi khí hậu sẽ làm thay đổi mức thiệt hại của khô hạn,
ngập úng, mặn, và mức độ gây hại của sâu bệnh [17].
Hiện nay thế giới có tình trạng nước ngọt không còn dồi dào cho sản xuất
nông nghiệp, công nghiệp và cả sinh hoạt ở nhiều nơi. Nước là yêu cầy số 1 của

cây lúa nước, ở các vùng trồng lúa có tưới, nhiều tính toán cho biết phải mất
5000l nước mới sản xuất ra được 1kg thóc, như vậy 1 vụ lúa cho 50-60 tạ/ha thì
cần phải có bao nhiêu lít nước. Mà hiện nay trên 45% diện tích trồng lúa chỉ dựa
vào nước trời nên năng suất và sản lượng không ổn định, thậm chí là bấp bênh,
ảnh hưởng đến an toàn lương thực ở nhiều nước. Gần đây lại có những nhận xét
về hiện tượng giảm năng suất của những giống lúa mới ngay cả trên đất có tưới.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
Vấn đề đặt ra là phải xây dựng một nền sản xuất lúa ổn định và bền vững ngày
càng cấp thiết hơn bao giờ hết (Bùi Huy Đáp , 1999) [7].
Hệ thống thâm canh lúa cải tiến SRI (system of rice intensification) do nhà
khoa học người Pháp Fr. Laulaniere giới thiệu tại Madagasca vào những năm
1980, sau đó được tiến sỹ Norman Uphoff thuộc viện quốc tế về lương thực,
nông nghiệp và phát triển của trường đại học Cornell (Hoa Kỳ) phổ biến rộng
rãi. SRI đang được đánh giá là kỹ thuật thâm canh đầy triển vọng tại hơn 30
nước, bởi nó thỏa mãn được cả 2 mục tiêu là đạt được hiệu quả kinh tế và phát
triển nông nghiệp bền vững. Cơ sở kỹ thuật của SRI là thay đổi một số hoạt
động canh tác chủ yếu và thông qua tác dụng tương hỗ của chúng tạo điều kiện
cho tiềm năng di truyền của lúa được phát huy, và qua đó thúc đẩy quá trình sinh
trưởng, phát triển của lúa để tạo năng suất cao [18], [19].
Fr. Laulaniere và các đồng nghiệp của ông gọi SRI là một phương pháp,
một nguyên lý dựa trên những kết quả, và kết luận rút ra từ những quan sát thực
tế. Những nguyên tác cơ bản của SRI đó là:
- Cấy mạ non : 8-15 ngày tuổi chỉ có 2 lá nhỏ thay vì mạ 21 ngày tuổi hoặc
già hơn, việc này sẽ giúp cho cây lúa có khả năng đẻ nhánh nhiều hơn và hệ rễ
sinh trưởng tốt hơn.
- Cấy 1 dảnh: cấy 1 dảnh/ khóm với các khoảng cách cấy thưa khác nhau
tùy vào đất. Khoảng cách rộng như vậy sẽ tạo điều kiện cho bộ rễ có khoảng

không để phát triển. Đây là một nhân tố quyết định thành công của SRI.
- Cấy cẩn thận: Do cấy mạ non nên cây mạ thường bị tổn thương, nhưng
khả năng phục hồi của nó rất nhanh, cấy theo SRI làm giảm lượng hạt giống so
với cấy mạ thường. Khi cấy mạ thường, rễ cây mạ bị tổn thương khi nhổ cấy, có
thể bị chết nếu gặp điều kiện thời tiết bất thuận.
- Sử dụng phân chuồng: Đây là loại phân có hàm lượng dinh dưỡng cao, có
khả năng cải tạo đất, loại phân này nên ủ cho hoai mục. Phân hóa học thường
làm ccho đất bị chai cứng lại, vi sinh vật đất hoạt động kém, bón nhiều làm giảm
năng suất. Do đó bón nhiều phân hữu cơ là một chiến lược của SRI giúp tăng
năng suất.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
Hệ thống canh tác lúa cải tiến SRI đã được áp dụng (chưa phổ biến trên
diện rộng) tại 24 tỉnh thành của Việt Nam kể từ năm 2003. Kết quả của hệ thống
này rất hứa hẹn về mặt hiệu quả kinh tế cũng như sản xuất nông nghiệp bền
vững. Mục đích chính của SRI là phát triển một hệ thống sản xuất lúa bền vững
bao gồm nhóm các ý tưởng. Nguyên tắc và các ứng dụng thực tiễn dựa trên quản
lý hiệu quả việc canh tác lúa để tối đa hóa năng suất. SRI đã được thử nghiệm
thành công trong những điều kiện đa dạng tại một số địa phương ở Việt Nam,
đặc biệt là những hộ nông dân có ít ruộng. Người dân, các cán bộ nông nghiệp
và các nhà nghiên cứu đã nhận thấy rằng SRI tạo ra sản lượng cao hơn cũng nhờ
giảm nhu cầu của vật tư đầu vào, như giảm phân bón hóa học, thuốc trừ sâu,
nước tưới. SRI cũng làm cho đất giữ được độ phì nhiêu và bảo vệ môi trường
khỏi ô nhiễm [19].
Mặc dù đây là một phương pháp trồng lúa hiệu quả và thân thiện với môi
trường, nhưng để nông dân áp dụng và nhân rộng phải làm thay đổi nhận thức
của họ, những người đã quá quên thuộc với phương pháp canh tác truyền thống.
Một khi người nông dân đã chấp nhận thay đổi thì SRI có thể mang lại nguồn

thu nhập đáng kể cho những người trồng lúa, đặc biệt là những người nghèo.
Điều này đã được minh chứng qua nhiều nước Châu Á khi mà các tổ chức cộng
đồng hỗ trợ người dân áp dụng phương thức canh tác này [20].
1.2. Những nghiên cứu về bộ rễ và phƣơng thức bón phân cho cây lúa
Trong quá trình sinh trưởng, phát triển của cây lúa, rễ đóng vai trò rất quan
trọng, nó là cơ quan hút dinh dưỡng và vận chuyển chất dinh dưỡng nuôi cây.
Rễ lúa thuộc loại rễ chùm, có cấu tạo sơ cấp, sau khi lúa nảy mầm, rễ mầm xuất
hiện, tồn tại 5-7 ngày rồi rụng đi. Từ các đốt trên thân mọc ra các rễ phụ, phát
triển nhanh tạo thành rễ chùm, ăn nông.
Số lượng và trọng lượng rễ tăng dần theo thời gian sinh trưởng từ cấy, đẻ
nhánh, làm đòng và đạt cao nhất lúc trỗ bông, sau đó giảm dần đến khi lúa chín.
Tốc độ hút nước của bộ rễ đạt cao ở thời kỳ làm đòng và trỗ bông.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
Sự phát triển và phân bố của bộ rễ lúa cũng tuân theo một quá trình nhất
định. Giai đoạn sinh trưởng dinh dưỡng rễ lúa ăn nông tập trung chủ yếu ở tầng
đất 0-10cm. Khi cây lúa bước sang giai đoạn sinh trưởng sinh thực, rễ lúa phát
triển mạnh về số lượng, trọng lượng và ăn sâu xuống tầng 30-50 cm để hấp thu
dinh dưỡng ở tầng sâu và giữ cho cây bám chắc vào đất, tránh đổ ngã khi mang
đòng và mang hạt nặng. Đây là cơ sở kho học của cách bón phân lót sâu ở đất.
Thông qua màu sắc, độ lớn của rễ lúa, chúng ta biết được đời sống của cây
lúa ra sao. Cây lúa khoẻ mạnh thì rễ trắng, vàng, to, mập, nhiều lông hút. Gặp
điều kiện bất lợi, cây lúa sinh trưởng còi cọc, rễ thường nhỏ, số lượng ít, có màu
đen. Nếu trong đất có độc tố, ít oxy thì rễ sẽ bị thối, tanh.
Hoạt động của bộ rễ lúa chịu ảnh hưởng của nhiệt độ (rễ phát triển tốt nhất
ở nhiệt độ 28-32
0
c ), để điều hoà nhiệt độ cho đất, giúp rễ phát triển tốt cần bón

đủ phân hữu cơ và điều tiết nước hợp lý.
Ngoài ra sự hoạt động của rễ lúa còn chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện
dinh dưỡng và đất đai. Đất giàu chất hữu cơ, thoáng khí, đủ ẩm, rễ sẽ phát triển
tốt. Đất giàu dinh dưỡng, lượng phân và vị trí bón phân chi phối hướng phát
triển của bộ rễ. Dinh dưỡng đầy đủ, bón phân cân đối, bón phân sâu, pH trung
tính, đất không có độc tố thì bộ rễ phát triển tốt, hút được nhiều dinh dưỡng
(Nguyễn Thị Lẫm và cs, 2003) [25].
Theo Togari-matsuo đại bộ phận rễ phân bố ở lớp đất trồng trọt từ 12-15
cm, dưới lớp đất cày số rễ rất ít. Trồng lúa trong chậu để quan sát sự phân bố
của rễ đến 91cm thì thấy ở lớp đất 20 cm có trên 30% tổng số rễ, lớp đất sâu
dưới 50cm chỉ có 1-2% rễ. Vì vậy trong thực tế người ta coi như phạm vi hoạt
động của rễ lúa nằm trong lớp đất cày, nghĩa là 20 cm đất mặt (Togari-Matsuo,
1977) [35].
Ở ruộng không bị ngập nước, không khí trong đất đầy đủ nên rễ hô hấp
thuận lợi, sinh trưởng mạnh và cây lúa phân nhánh nhiều. Ở ruộng nước đất
thiếu không khí cây phải hút oxy từ trên không nhờ các bộ phận trên mặt đất để

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
vận chuyển đến rễ làm cho rễ lúa hô hấp được thuận lợi. Ruộng nước nếu thiếu
oxy rễ sinh trưởng kém, ăn nông, phát triển theo chiều ngang. Do đó cây hút kali
và silic kém (Togari Matsuo, 1977) [35].
Một đặc điểm của hệ rễ cây lúa là luôn luôn tìm đến môi trường có thế hiệu
oxy hóa khử thích hợp. Trong ruộng lúa nước nói chung tầng đất mặt nhiều
nước, thức ăn và oxy, nên ở thời kỳ đầu (từ lúc bắt đầu sinh trưởng đến giai
đoạn giữa ), rễ lúa thường phân bố ở tầng đất trên. Hệ rễ lúa lúc đó có hình bầu
dục nằm ngang. Sau đó cùng với quá trình sinh trưởng, hệ rễ ăn sâu hơn, vì nước
tưới đưa thức ăn và oxy xuống sâu hơn, làm cho lớp đất cũng tốt lên, rễ lại phát
triển sâu xuống tầng đất dưới nên lúc này hệ rễ có hình quả trứng để lộn ngược.

Hình dạng của hệ rễ ngoài ảnh hưởng của tính di truyền còn phụ thuộc nhiều vào
nhiệt độ đất, chiều sâu của lớp đất cày và tình hình bón phân, sự phân bố của
phân bón (Togari Matsuo, 1977) [35].
Rễ cây lúa chủ yếu phát triển ở nơi mà rễ thấy có ẩm và nhiều chất dinh
dưỡng. Chúng ta có thể làm cho rễ ăn sâu và đều khi rải phân ở những lớp đất
khác nhau, mục đích là làm cho rễ sử dụng được một khối lượng dinh dưỡng lớn
nhất. Ngược lại rễ cây có khuynh hướng chỉ tập trung nhiều ở trên mặt khi có
các nguyên tố dinh dưỡng ở đó, và như vậy sẽ làm cho cây trồng dễ bị hạn hơn (
Gross Andre, 1967) [11].
Từ trước đến nay có rất nhiều nghiên cứu về bón phân cho cây lúa, và các
nghiên cứu này đều khẳng định là hiệu quả sử dụng phân đạm đối với lúa nước
không cao. Nguyên nhân của hiệu quả sử dụng phân bón thấp là do đạm trong
đất lúa bị mất đi qua các con đường sau:
- Do bốc hơi dưới dạng NH
3
.
- Do rửa trôi bề mặt.
- Do rửa trôi theo chiều sâu, nhất là dạng nitrat (NO
3
-
).
- Bay hơi dưới dạng N
2
do hiện tượng phản nitrat hóa (Nguyễn Tất Cảnh,
2005) [2],[29].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
Theo kết quả nghiên cứu của trung tâm phát triển phân bón quốc tế (IFDC)

thì
Cây lúa chỉ hút được 30% lượng đạm bón cho lúa nếu bón theo phương pháp
bón vãi trên mặt ruộng. Trên đất phù sa sông hồng, hệ số sử dụng đạm chỉ đạt từ
35-45% và trên đất bạc màu là 39-49%. Đối với lúa nước lượng đạm bón vào có
thể bị mất đị, cây lúa chỉ sử dụng được 30-40% lượng đạm bón vào. Vì vậy có
thể tối ưu hóa việc dùng phân đạm cho lúa bằng cách bón đúng thời kỳ cây lúa
có nhu cầu cao và vùi phân đạm vào trong đất (Nguyễn Tất Cảnh, 2005,
Nguyễn Như Hà, 2006) [2], [12].
Ý tưởng về bón phân sâu cho cây lúa được hình thành và nghiên cứu từ
những năm 30 của thế kỷ 20 ở Nhật, sau đó được thử nghiệm ở Việt Nam nhưng
không triển khai được vì tốn nhiều công lao động và hiệu quả kinh tế thấp. Cuối
những năm 90 của thế kỷ 20, với sự tài trợ của quỹ quốc tế về phát triển nông
nghiệp (IFAD), tổ chức phát triển phân bón quốc tế (IFDC), có nhiều nghiên
cứu về bón phân sâu cho ruộng lúa. Kỹ thuật này đã được triển khai ở một số
nước Châu Á như Băngladesh, Philippines, Trung Quốc,…đã tiết kiệm đáng kể
lượng phân bón và nâng cao năng suất lúa (Nguyễn Tất Cảnh, 2005) [2].
Với biện pháp bón phân viên nén sâu, phân bón được vùi sâu xuống lớp
bùn, phân được keo đất hấp phụ và chứa trong lớp đất sâu nên cỏ dại mọc ở lớp
đất mặt không lấy được dinh dưỡng ngay sau khi nảy mầm. Khi áp dụng biện
pháp bón phân nén dúi cần cấy lúa thẳng hàng, cấy với mật độ thưa, tạo sự
thông thoáng khí trong ruộng lúa, ẩm độ trong ruộng lúa không cao quá so với
ẩm độ không khí nên hạn chế sự phát triển của sâu bệnh (Nguyễn Tất Cảnh,
2005) [2].
Theo Gross André phân đạm thường được bón trên mặt, ở các ruộng đất
cacbonat vùi đạm hơi sâu để tránh mất amôn do bay hơi là hợp lý. Chúng ta có
thể bón đạm sâu trước lúc gieo hoặc trong khi cây sinh trưởng. Bón phân kali
càng sớm càng tốt vì không sợ kali bị rửa trôi mất, và cần có thì giờ cho các quá
trình biến đổi cần thiết được thực hiện đầy đủ trong đất. Để tránh sự cố định kali
trên bề mặt cần vùi sâu bằng cách cày lấp. Khi bón trên mặt nên vùi càng kỹ


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
càng tốt. Tốt hơn cả là làm cho phân phân phối đều trong các lớp đất khác nhau,
vừa tầm rễ, vì kali khuyếch tán rất chậm theo chiều sâu và theo chiều ngang
[11].
Cách bón phân tốt nhất là cách bảo đảm phân bổ chất dinh dưỡng ngay rễ
cây vào lúc cây cần, như vậy cách bón phân sẽ phụ thuộc vào tình hình phân bố
của hệ rễ, ở trên mặt hay ở sâu, và phụ thuộc vào tính di động của các chất dinh
dưỡng ở trong đất (Gross André, 1967, Nguyễn Hạc Thúy, 2001) [11], [34].
Theo Nguyễn Như Hà (2006), bón phân lót trước khi cấy làm mạ sau cấy
nhanh bén rễ, đẻ nhánh sớm và mạnh, cần bón lót nhiều phân đạm khi gieo cấy
trong điều kiện nhiệt độ thấp, cấy giống ngắn ngày hay đẻ nhánh kém, mật độ
gieo cấy thưa [12].
Khi nghiên cứu ảnh hưởng phương pháp bón phân đạm đến năng suất lúa
ngắn ngày trên đất phù sa sông Hồng đã cho thấy năng suất lúa đạt cao nhất khi
bón lót sâu 5/6 lượng đạm, bón thúc đòng 1/6 lượng đạm (năng suất đạt 7,063
tạ/ha ở vụ xuân và 5,778 tạ /ha ở vụ mùa) Phân dạm được bón vùi ở độ sâu 5-10
cm vào tầng khử của đất lúa, ở đây đạm được keo đất giữ và cung cấp dần cho
cây lúa mà không bị nitrat hoá nên giảm mất đạm rất nhiều, nâng cao được hiệu
quả sử dụng phân bón (Nguyễn Như Hà, 2006) [12]
Trồng lúa trên đất có khả năng giữ phân tốt và đặc biệt với các giống ngắn
ngày, việc chia phân bón làm nhiều lần không hiệu quả bằng việc bón lót sâu
toàn bộ lượng phân đạm cần được bón. Do khi bón lót sâu toàn bộ hay phần lớn
lượng phân đạm sẽ hạn chế mất đạm, nhu cầu đạm của cây lúa sau trỗ dựa vào
phần đạm còn lại trong đất do bón lót và đạm do cây đã tích luỹ trong thân, lá,
nên lúa vẫn đạt năng suất cao mà lại giảm được công bón phân (Nguyễn Như
Hà, 2006) [12].
1.3. Những nghiên cứu về mật độ, tuổi mạ và số dảnh cấy
Quần thể ruộng bao gồm tất cả các khóm lúa đã được gieo cấy ở ruộng đó

từ khi gieo cấy đến khi thu hoạch. Mỗi khóm lúa trong quá trình phát triển đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
ảnh hưởng đến các khóm khác và trước hết đến các khóm ở gần nó. Ngược lại
nó cũng chịu ảnh hưởng của sự phát triển của các khóm lúa khác. Nói cách khác
cá thể và quần thể có mối ảnh hưởng qua lại chặt chẽ, chi phối sự sinh trưởng và
phát triển của cả ruộng lúa trong suốt quá trình cây lúa sinh trưởng ở ngoài
ruộng cho đến lúc chín. Mục đích chính của việc trồng lúa không phải là có một
số khóm lúa tốt mà là để đạt năng suất lúa cao, nghĩa là năng suất của cả ruộng
lúa cao (Bùi Huy Đáp, 1980) [6].
Theo thuyết của Katayama (Nhật Bản) thì khi cây lúa ra được 4 lá thật là có
khả năng đẻ nhánh, và cứ ra được một lá đẻ được một nhánh. Khi nhánh có trên
4 lá xanh, có thể sống hoàn toàn tự lập, trở thành một nhánh hữu hiệu rồi thành
bông sau này. Tuy vậy mầm hoặc nhánh cũng có thể teo đi hoặc phát triển
không dầy đủ 4 lá do điều kiện đẻ muộn (khi nhánh mẹ đã nhiều lá), hoặc do
điều kiện ngoại cảnh không thuận lợi: thiếu nước, gặp nhiệt độ thấp, thiếu dinh
dưỡng, thiếu ánh sáng, quần thể quá rậm rạp, sâu bệnh, đây chính là đẻ nhánh vô
hiệu (Nguyễn Văn Hoan, 1999, Nguyễn Thị Lẫm và cs, 2003) [15], [25] .
Khi cấy thưa, đủ dinh dưỡng lúa đẻ nhánh nhiều. Khi cấy dầy quần thể quá
rậm rạp thì nhánh đẻ ra sẽ bị lụi tàn bớt. Khả năng đẻ nhánh của lúa nhiều hay ít
phụ thuộc vào đặc điểm của giống, phụ thuộc vào tuổi mạ, kỹ thuật cấy, điều
kiện dinh dưỡng, nước và điều kiện ngoại cảnh.
Cùng với mật độ cấy (dảnh/khóm và số khóm/m
2
), đẻ nhánh góp phần tạo
nên số lượng bông/m
2
đất, sức đẻ nhánh hữu hiệu càng cao thì càng có ý nghĩa

kinh tế, tức là cấy ít dảnh cơ bản mà vẫn có nhiều bông, sẽ tiết kiệm được chi
phí về giống lúa, về công làm mạ. Lợi dụng đặc điểm đẻ nhánh của lúa, trong
thâm canh muốn tăng số bông trên ruộng lúa thì ngoài việc cấy đúng mật độ ra
chúng ta nên xúc tiến các biện pháp để lúa đẻ nhánh sớm, đẻ tập trung, làm tăng
sức đẻ hữu hiệu, không để quần thể quá rậm rạp, tốn dinh dưỡng của mẹ.
Trên cây lúa chỉ có những nhánh đẻ sớm, ở vị trí mắt đẻ thấp, có số lá
nhiều, điều kiện dinh dưỡng thuận lợi mới có điều kiện phát triển đầy đủ để trở
thành nhánh hữu hiệu. Biện pháp kỹ thuật nên áp dụng: Gieo cấy những giống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
lúa đẻ tập trung và xúc tiến đẻ sớm bằng cách cấy mạ non, cấy nông tay, bón
phân lót, bón thúc đẻ, làm đất kỹ, giữ đủ nước.
Sản lượng, số bông số nhánh không nhất thiết tỷ lệ với nhau. Nhưng thường
nếu năng suất cao thì số bông cũng nhiều và do đó số nhánh đẻ cũng cao, vì vậy
muốn tăng sản lượng lúa phải làm cho lúa đẻ nhánh nhiều. Tăng số nhánh là một
chuyện rất dễ dàng, nhưng nhiều khi không những không tăng được số bông mà
lúa lại dễ bị lốp và sâu bệnh phá hại. Có nhiều trường hợp tuy tăng được số
nhánh nhưng không đạt được sản lượng cao như ý muốn, nhưng cũng có trường
hợp tăng số nhánh do đó tăng được năng suất. Đứng về phương diện sinh trưởng
của cây lúa mà xét thì có thể có 2 mặt. Thứ nhất là bộ rễ lúa có được chăm sóc,
quản lý tốt không. Thứ hai là bộ phận trên mặt đất, đặc biệt là việc điều chỉnh số
nhánh có thích hợp không (Togari Matsuo, 1977) [35].
Theo Nguyễn Văn Hoan số dảnh cần cấy ở một khóm phụ thuộc trước hết
vào số bông cần đạt trên 1m
2
, và căn cứ vào mật độ đã chọn để đạt được số bông
theo quy hoạch. Nguyên tắc chung của việc xác định số dảnh cấy của một khóm
lúa là dù được cấy ở mật độ khác nhau, tuổi mạ khác nhau nhưng cuối cùng cần

đạt được số bông cần thiết và độ lớn của bông theo yêu cầu để đạt được số lượng
hạt thóc /m
2
như mong muốn (Nguyễn Văn Hoan, 2003 ) [16].
Mật độ là số cây, số khóm được trồng cấy trên một đơn vị diện tích, với lúa
cấy thì mật độ được đo bằng đơn vị khóm/m
2
. Trên một đơn vị diện tích nếu mật
độ càng cao (cấy dầy) thì số bông càng nhiều, song số hạt/ bông càng ít (bông
bé), tốc độ giảm số hạt/ bông mạnh hơn tốc độ tăng của mật độ. Vì thế cấy dầy
quá sẽ làm cho năng suất giảm nghiêm trọng. Tuy nhiên nếu cấy với mật độ quá
thưa đối với các giống lúa có thời gian sinh trưởng ngắn thì rất khó hoặc không
thể đạt được số bông tối ưu. Các kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học với
các giống lúa khác nhau đều khẳng định: khi các khâu kỹ thuật khác được duy
trì thì chọn một mật độ vừa phải là phương án tối ưu để đạt được số lượng hạt
thóc nhiều nhất trên đơn vị diện tích gieo cấy (Nguyễn Văn Hoan, 2003 ) [16].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Mật độ cấy là một biện pháp kỹ thuật quan trọng, nó phụ thuộc vào đặc
điểm của giống, điều kiện đất đai, nước tưới, dinh dưỡng, trình độ thâm canh
của người dân…Khi nghiên cứu về vấn đề này Sasato (1966) đã kết luận: trong
điều kiện dễ canh tác, lúa mọc tốt thì nên cấy mật độ thưa, ngược lại phải cấy
dầy. Giống lúa cho nhiều bông thì cấy dầy không có lợi bằng giống to bông,
vùng lạnh nên cấy dầy hơn vùng nóng ẩm, mạ dảnh to nên cấy thưa hơn mạ
dảnh nhỏ, lúa gieo muộn nên cấy dầy hơn lúa gieo sớm (Nguyễn Thị Lẫm và cs,
2003) [25].
Đối với nhóm lúa thường gieo mạ thâm canh hoặc gieo mạ cải tiến thì nên
cấy mạ non. Bố trí cấy với mật độ thưa hơn so với cách gieo mạ truyền thống.

Mạ non cấy 3-4 dảnh/khóm (mạ non chưa đẻ), 30-35 khóm/m
2
để sau thời kỳ đẻ
nhánh có số nhánh tương đương như loại mạ thâm canh, khoảng cách 25x12 cm
thường được ưa chuộng ( Nguyễn Văn Hoan, 2003) [16].
Đối với mạ non khi cần đạt 9-10 bông/khóm và mật độ 35-39 khóm/m
2
thì
chỉ cần cấy 2 dảnh mạ/ khóm, không nên cấy nhiều dảnh hơn vì loại mạ non đẻ
khỏe, cấy nhiều dảnh cây lúa sẽ đẻ ra nhiều nhánh quá nhỏ, yếu, tỷ lệ bông hữu
hiệu thấp. Hoặc số bông / khóm nhiều hơn so với dự định sẽ làm cho số hạt
/bông ít đi, bông lúa nhỏ, năng suất không dạt yêu cầu. Khi cần đạt 11-12 bông
/khóm ở mật độ 29-32 khóm/m
2
, cần cấy 3 dảnh/ khóm để một dảnh mạ sinh ra
4 bông lúa to đều nhau ( Nguyễn Văn Hoan, 2003) [16].
Ở Nhật Bản, mạ tốt là mạ non, cấy xuống cây mạ bén rễ rất nhanh, Mật độ
cấy tiêu chuẩn ở Hokkaido là 35 x 15 cm, mỗi khóm 3 dảnh. Theo kết quả
nghiên cứu của trạm thí nghiệm nông nghiệp ở Hokkaido cho thấy trong một
phạm vi mật độ nhất định thì năng suất hầu như không thay đổi. Mật độ cấy
thích hợp nhất thay đổi tùy theo lượng phân bón và đặc tính giống. Ở vùng nhiệt
đới như Ấn Độ, cấy lúa chín sớm với mật độ 15 x 15 cm, mỗi khóm lúa 2 dảnh,
với lúa chín muộn khoảng cách 20 x 20 cm hoặc 15 x 23cm, mỗi khóm 2 dảnh.
Còn những nơi đất tốt có thể cấy 30 x15 cm (Tanaka Akira, 1981) [32].

×