Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

PHƯƠNG PHÁP DẠY THƠ TRUNG ĐẠI TRONG TRƯỜNG THCS (QUẾ).doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.21 KB, 15 trang )

Phng phỏp dy th trung i trong trng THCS
A. Đặt vấn đề:
Dạy văn trong nhà trờng thực chất là dạy học sinh đọc hiểu văn bản. Tức là hiểu biết
về văn bản, thông cảm, đồng cảm với cuộc sống trong văn bản, giải thích biểu đạt đợc ý t-
ởng, cái hay của văn bản. Nh thế có nhiều mức độ hiểu bằng cảm xúc, tình cảm, trực giác,
hiểu bằng lý trí, lô gích bằng phân tích, giải thích. Đồng thời các em còn phải hiểu cái
hay, cái tình, cái tài, cái tuyệt vời trong nghệ thuật, hiểu dụng ý sâu xa của tác giả, và các
em còn phải diễn đạt đợc điều mình hiểu ra một cách chính xác, có thể giảng cho ngời
khác hiểu điều mình hiểu, làm bài tập, bài kiểm tra sau mỗi tiết học. Để đạt những điều
đó đòi hỏi một quá trình dạy học không bao giờ kết thúc. Và đây cũng không phải là vấn
đề đơn giản cho mỗi giáo viên chúng ta. Vì vậy bản thân ngời giáo viên phải tự mày mò,
tiếp cận đối tợng học sinh, tìm hiểu kiến thức từ các tài liệu, sách tham khảo từ đó hình
thành cho mình một chơng trình, hệ thống kiến thức thích hợp, chọn ra phơng pháp phù
hợp với từng mảng kiến thức văn học. Để việc dạy văn đạt chất lợng cao thì bản thân ngời
giáo viên phải tìm cho mình hớng đi thích hợp để rèn luyện cho học sinh kỹ năng đọc
hiểu văn bản. Đó là 4 kỹ năng: Nghe, đọc, nói, viết để các em hiểu nội dung thông báo
tức là hiểu ngôn từ và hình tợng. Hiểu ngôn từ đòi hỏi phải hiểu rõ từ ngữ, hình ảnh, điển
cố, yếu tố liên văn bản. Các em phải liên tởng, tởng tợng, bổ sung cụ thể hoá các chi tiết,
phát hiện các mối liên hệ ngầm giữa các hình tợng và đồng thời còn cảm nhận cái hay
qua nghệ thuật văn bản. Nh R.JakobSon nói là hay ở trong Tính văn học của tác phẩm.
Không những thế mà còn do yêu cầu tích hợp của phơng pháp dạy học văn cải cách, do
chơng trình sách giáo khoa nên trong số tác phẩm đợc chọn giảng dạy ở lớp 7 hiện nay,
một số thể loại văn học đợc đa vào chơng trình với số tiết khá.
Trong số tác phẩm đợc chọn giảng dạy ở lớp 7 hiện nay, một số loại văn học đợc đa
vào chơng trình với số tiết khá nhiều: 12 văn bản ( cả đọc và hớng dẫn ) với thời lợng 10
tiết. Số lợng ấy là khá nhiều so với cấu trúc chơng trình. Đó chính là mảng thơ Đờng
( gồm của Trung quốc Việt nam: trung đại hiện đại ) tất cả tạo nên một nét riêng,
rất độc đáo của chơng trình Ngữ văn 7. Trong đó có cả Thất ngôn tứ tuyệt, ngữ ngôn tứ
tuyệt, thất ngôn bát cú đờng luật, gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Trong phạm vi đề tài này
chúng tôi không có tham vọng đa ra dạy cho tất cả các bài thơ Đờng luật thuộc văn học
trung đại.


Đối với học sinh chúng ta đây là loại bài khó, do đó mọi cái đều còn xa lạ đối với
các em từ chữ ( Hán Nôm chữ tợng hình ) đến thi pháp, cảm hứng, thể thơ, tứ
thơ, cảnh và ngời trong thơ.Đờng luật là thể phú đặt ra từ đời nhà Đờng, có vần, có lối,
có theo luật bằng trắc, tức là phải theo một phép tắc chặt chẽ về số câu, số tiếng. Thơ
Đờng một sản phẩm thuộc lĩnh vực văn học đã đạt đợc thành tựu rực rỡ. Ngày nay nó
đã trở thành một di sản văn hoá vô cùng quí báu không chỉ cho riêng nhân dân Trung
quốc mà cả toàn thế giới. Thơ đờng hiện cò lu giữ đợc 48.000 bài ( của hơn 2.300 nhà
thơ ). Các bài thơ Đờng luật ca ngợi vẻ đẹp và tình yêu thiên nhiên, lòng yêu quê hơng
sâu đậm, da diết và tình cảm nhân ái vị tha vì con ngời. Để giảng dạy đạt hiệu quả cao
đối với đối tợng 12 13 tuổi tôi đã tiến hành tìm tòi, nghiên cứu và mạnh dạn đa ra
một vài định hớng cơ bản khi giảng dạy bộ môn văn học này.
Mảng kiến thức này rất quan trọng trong chơng trình Ngữ văn 7, song cụm bài này
lại có hiện tợng không thuần nhất về thời đại ( cách nhau hơn 12 thế kỷ ), hoàn cảnh ra
đời, chữ viết. Vì vậy sự nhìn nhận, đánh giá và cảm thụ cũng không hề đơn giản
một chút nào. Mặt khác thực trạng học sinh miền núi kiến thức nông, hời hợt, sự nắm
bắt chậm, về văn bản cha rõ nét vì tuổi nhỏ, tầm suy nghĩ nhận thức còn hạn chế. Làm
thế nào trong thời lợng cho phép chúng ta có thể dạy một cách có hiệu quả cho học
sinh mảng kiến thức này? ở đây chúng tôi không dám nói rằng sẽ đa ra giải pháp hoàn
toàn mới mẻ mà chỉ đúc rút quá trình vận dụng dạy học theo chơng trình đổi mới vào
hệ thống bài dạy thiết thực nâng cao chất lợng, kỹ năng cho học sinh góp phần xây
dựng những con ngời có tính năng động, sáng tạo để thích ứng hoà nhập với thế giới,
với xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Từ ý tởng đó tôi mạnh dạn đi sâu
nghiên cứu thực hiện những vấn đề sau:
I: Dạy thơ đờng luật theo hớng đổi mới
II: Dạy thơ đờng luật theo nguyên tắc tích hợp
B: NI DUNG
I: Dạy thơ đờng luật theo hớng đổi mới
1, Quan niệm cũ, cách dạy cũ:
Từ trớc đến nay, hầu hết những tác phẩm này đều đợc cho là khó. Với tôi khi tiến
hành dạy thể loại này trong chơng trình cũng không mấy hứng thú bởi một lẽ: Dạy thơ Đ-

ờng cho học sinh vừa khô cứng, vừa mất đi cảm giác mềm mại của một giờ văn.
- Không bám vào nguyên tác bài thơ mà bám vào phần dịch nghĩa để dạy cho học
sinh dễ hiểu.
- Tuyệt đối chú trọng khâu phân tích phải theo kết cấu của thơ Đờng với Thất ngôn
tứ tuyệt là: Khai Thừa Chuyển Hợp: với Thất ngôn bát cú là: Đề Thực
Luyện Kết.
- Chủ yếu phân tích ý ( vì là bản dịch ) chứ không chú ý phân tích từ ngữ trong câu.
Từ những quan niệm ấy, khi dạy đến các văn bản thơ Đờng luật hầu nh cả giáo viên và
học sinh không mấy hứng thú, giờ học bỗng trở nên khô cứng, tẻ nhạt và mất đi cái
hồn, cái sáng tạo của chính tác giả.
Trong chơng trình Ngữ văn 7 các văn bản thơ Đờng luật đợc đa vào giảng dạy với một
thời lợng khá lớn. Đối tợng học sinh còn quá nhỏ, tiếp xúc với thơ Đờng luật cả phần
phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ là một vấn đề hoàn toàn mới và phải thừa nhận rằng không
tránh khỏi những bỡ ngỡ ban đầu
Yêu cầu chơng trình lớp 7 lại phải tuân thủ những nguyên tắc riêng của nó: Vừa tích
cực, vừa tích hợp. Xuất phát từ yêu cầu thực tế của chơng trình sau khi nghiên cứu thể
loại này tôi mạnh dạn đa ra quan niệm mới về văn học.
2, Quan niệm mới Cách dạy mới:
Việc dạy thơ Đờng luật cho học sinh lớp 7 THCS:
- Giờ dạy học thơ Đờng luật phải thực sự nhẹ nhàng, thoải mái, không gò bó cứng
nhắc mà vẫn chuyển tải hết nội dung cơ bản của văn bản.
2
- Phải đảm bảo nguyên tắc vừa tích cực vừa tích hợp để cho học sinh chủ động, sáng
tạo tìm thấy những cái hay, cái đẹp, cái sáng tạo của chính tác giả qua các thời kỳ
văn học.
- Dạy thơ Đờng luật trong mối quan hệ với các thể thơ trữ tình khác để thấy rõ: Tuy
bị bó buộc, chi phối bởi niêm, luật, đối thơ Đờng luật vẫn không hề cứng nhắc
hơn thế nữa lại là một chỉnh thể văn học trọn vẹn về nội dung, hoàn chỉnh về nghệ
thuật.
Từ những quan niệm ấy, tôi đã bắt tay thiết kế và dạy mẫu một số tiết thơ Đờng luật

cho học sinh lớp 7. Để các đồng nghiệp tiện theo dõi, tôi sẽ giúp các đồng nghiệp hình
dung rõ hệ thống chơng trình thơ Đờng luật trung đại đợc giảng dạy và hớng dẫn học
thêm ở lớp 7 nh sau:
Tiết 17: Sông núi nớc nam, Phò giá về kinh
Tiết 21: Côn sơn ca, Hớng dẫn đọc thêm: buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trờng trông xa
Tiết 25 +26: Bánh trôi nớc, hớng dẫn đọc thêm: Sau phút chia ly
Tiết 29: Qua đèo ngang
Tiết 30: Bạn đễn chơi nhà
Tiết 34: Hớng dẫn đọc thêm: Xa lắm thác núi L. Phong Kiều dạ bạc.
Tiết 37: Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh ( tĩnh dạ tứ )
Tiết 38: Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê ( Hồi hơng ngẫu th )
Tiết 41: Bài ca nhà tranh bị gió thu phá nát

3
Thơ Đờng Luật
Thơ tứ tuyệt Thơ ngũ ngôn Thất ngôn bát cú Song thất lục bát Cổ thể
Sông núi nớc nam Phò giá về kinh
Qua đèo ngang
Sau phút chia ly
Nhà tranh bị gió
thu phá
Thiên trờng vãn vọng Bạn đến chơi nhà
Bánh trôi nớc
Xa ngắm thác núiL
Hồi hơng ngẫu th
Trong đề tài này, tôi không có tham vọng sẽ trình bày hết tất cả các văn bản đợc học.
Chỉ xin phép bạn đọc đợc chọn các văn bản tiêu biểu cho các thể loại, các văn bản ấy là:
- Sông núi Nớc Nam
- Phò giá về kinh
- Qua đèo ngang

- Hồi hơng ngẫu th
a. Đối với thơ Thất ngôn tứ tuyệt đờng luật ( chữ hán )
Trong chơng trình Ngữ văn 7 thơ Thất ngôn tứ tuyệt và ngữ ngôn đờng luật có hai
bộ phận là chữ Hán và chữ Nôm có cả văn học trong nớc và văn học nớc ngoài. Gồm 4
tác phẩm bằng chữ Hán: Nam quốc sơn hà, Thiên trờng vãn vọng, Võng l sơn bộc bố
và hồi hơng ngẫu th.
Để giảng dạy thành công bộ phận văn học này trớc hết ngời thầy giáo cần cho học
sinh tìm hiểu tác giả, hoàn cảnh ra đời của văn bản. Vì muốn hiểu rõ giá trị nội dung,
nghệ thuật của văn bản cần hiểu rõ tác phẩm đó do ai sáng tác, ra đời trong thời kỳ
lịch sử, xã hội và văn hoá nh thế nào. Đối với giáo viên chúng ta ai cũng biết các tác
phẩm văn học thuộc thời kỳ trung đại đều do các bậc vua chúa, tớng lĩnh quan lại và
các trí thức tài hoa sáng tạo nên. Đây chính là bớc nhảy vọt của tiến trình phát tiển
lịch sử văn học. Song mỗi tác phẩm lại ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Hoàn cảnh ấy quyết định không nhỏ đến cảm xúc trữ tình và giá trị nội dung t tởng
của tác phẩm văn học. Từ đó chúng tôi cho học sinh thảo luận để tìm hiểu về thể loại
của tác phẩm về số tiếng, số câu, vần, nhịp thơ. Cho học sinh đọc, rút ra cách đọc.
Từ việc đọc văn bản về phần phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ chúng tôi cho học sinh
nhận xét so sánh giữa nguyên tác với bản dịch thơ để giúp học sinh nhận thấy dịch
thuật nói chung, dịch thơ nói riêng gian khổ đến nhờng nào. Quan trọng hơn là bồi d-
ỡng ý thức văn học tối thiểu cho học sinh. Đặc biệt khi so sánh nh vậy ta đã làm tốt
một việc là bồi dỡng thêm về từ Hán việt cho học sinh. Đồng thời giúp học sinh khắc
sâu nhng từ ngữ quan trọng, khi so sánh cần lu ý những từ dịch cha sát nghĩa.
Trong phần hiểu giá trtị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm theo chúng tôi phải tuỳ
thuộc vào dung lợng thời gian để hớng dẫn học sinh nắm bắt tác phẩm. Với các văn
bản thuộc thể loại này có bố cục 4 phần ( Khai, thừa, chuyển, hợp ). Tuy vậy theo tôi
không phải tác phẩm nào cũng phân tích theo bố cục 4 phần đó mà tuỳ thuộc vào khả
năng cảm nhận của học sinh và năng khiếu, sở thích của giáo viên để hớng dẫn học
sinh. Khi phân tích thơ Đờng luật cần bám vào các từ có tính chất chìa khoá ( nhãn tự )
và cách mở bài, kết bài của bài thơ. Bên cạnh đó khi phân tích cần lu ý cho học sinh
tìm hiểu để nắm đợc nghệ thuật đối ( Tiểu đối và bình đối ). Đặc biệt cần bám vào chữ

nghĩa, âm thanh, nhịp điệu của bài thơ qua phần phân âm.
Ví dụ: Khi dạy bài Nam quốc sơn hà Thất ngôn tứ tuyệt - Đờng luật chữ
Hán.
Tôi cho học thảo luận để tìm hiểu tác giả của bài thơ vì về tác giả hiện nay đang
tồn tại hai giả thuyết.
Thứ nhất: Bài thơ này do Lý Thờng Kiệt ( một danh tớng đời Lý Nhân Tông ) viết
để động viên tớng sỹ trong cuộc kháng chiến chống Tống trên phòng tuyến nam sông
cầu ( Nh Nguyệt ) 1076 1077.
4
Thứ 2: Cha rõ tác giả ( theo Bùi Duy Tân Tạp chí văn hoá dân gian ). Từ đó đi
đến kết luận là cha rõ tác giả. Đối với bài thơ này hoàn cảnh ra đời ảnh hởng không
nhỏ đến giá trị nội dung t tởng của bài thơ do đó ngời giáo viên cần cho học sinh khắc
sâu, nắm vững hoàn cảnh ra đời của nó.
Vào khoảng 1076 1077 khi nhà Tống sang Quách Quỳ và Triệu Tiết phối hợp
với quân Chiêm Thành xâm lợc nớc ta lần thứ 2 ( Lần1: 1075 vì gây hấn với Đại việt
quân Tống bị thất bại nhục nhã: gồm 10 vạn quân bị tiêu diệt và bắt sống). Bài thơ ra
đời khi đất nớc lâm nguy nhng lại có ý nghĩa nh một bản tuyên ngôn độc lập. Tên đầu
bài thơ là do ngời đời sau đặt.
Đây là văn bản đầu tiên học sinh đợc học về thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt Đờng luật
do đó cần cho học sinh tìm hiểu kỹ về đặc điểm thể thơ. Nam Quốc Sơn Hà đợc viết
bằng chữ Hán, bài thơ gồm 4 câu, mỗi câu 7 tiếng, bài thơ gieo vần chân ( tiếng thứ 7
của các câu 1 2 4 ) có thể vần bằng, hoặc vần trắc, hiệp vần, nhịp thơ 4/3 hoặc
2/2/3 với giọng điệu rắn rỏi, mạnh mẽ, dứt khoát.
Là văn bản bằng chữ Hán nên giáo viên cần so sánh giữa nguyên tác với bản dịch
thơ để học sinh thấy bản dịch của Lê Thớc Nam Trân đã dịch tơng đối thành công
cả về ý, thể thơ. Tuy nhiên một số từ cha chính xác về nghĩa.
Ví dụ: Chữ Đế có nghĩa là Vua của một nớc lớn. Từ bao đời các vua Trung
Hoa tự cho mình là quyền tối thợng thống trị thiên hạ - Thiên tử Hoàng đế là con
trời. Hoàng đế có quyền phong Vơng( vua) cho các nớc ch hầu. Vua nớc Nam đợc
phong An Quốc Nam Vơng, tác giả dùng chữ Đế thể hiện ý thức độc lập dân tộc

không phụ thuộc nớc lớn, bình đẳng Quốc gia dân tộc, Nớc nam có chủ, có quốc chủ.
Chữ C có nghĩa là ở trong tiếng Hán có nghĩa là trong coi, cai quản, xử lý mọi
việc, dịch ở, thì cha hay, thiếu ý nghĩa vì mọi ngời từ Vua chúa, quan lại đến dân lao
động đều sống trên lãnh thổ nớc Nam.
Trong phần phân tích chi tiết: Hiện nay nhiều đồng nghiệp của tôi vẫn hớng dẫn
học sinh khai thác, tìm hiểu theo bố cục 4 phần, thì tôi đã hớng dẫn học sinh tìm hiểu
theo 2 ý lớn.
ý 1 : Câu 1 2:
Tôi cho học sinh thảo luận để rút ra đợc với nghệ thuật điệp từ, ngắt nhịp 4/3 để
khẳng định chủ quyền, lãnh thổ của dân tộc ta đặt trong mối quan hệ với Trung quốc, tác
giả đứng trên lập trờng quan điểm t tởng tự hào, tự tôn dân tộc và ranh giới, lãnh thổ Việt
nam sự thật hiển nhiên trong thực tế nhng càng vững vàng hơn, chắc chắn hơn khi đã đợc
ghi chép ở sách trời. Vậy mà các hoàng đế Trung hoa luôn tự xng mình là Thiên tử các
con trời phải hiểu hơn ai hết lẽ trời. Tác giả đã đa ra ý này nhằm mục đích ràng buộc kẻ
thù đừng cố ý làm trái lẽ tự nhiên thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc qua các
chìa khoá: Nam, Đế, C, Tiệt nhiên, Thiên th.
ý 2: 2 câu 3 4:
Tôi đã cho học sinh thảo luận để rút ra đợc thái độ của tác giả, lời cảnh báo, sự thật
đối với kẻ thù qua các từ chìa khoá: Nh hà, Nghịch lỗ, Thủ bại để chất vấn kẻ thù, lũ giặc
nghịch tặc tại sao lại làm trái lẽ tự nhiên. Mà cố tình làm trái lẽ tự nhiên thì nhất định sẽ
chuốc lấy thất bại đó là điều chắc chắn. Hai câu thơ có sức mạnh cổ vũ chiến thắng.
5
Từ đó giúp học sinh nhận thức đợc bài thơ là sự kết hợp chặt chẽ giữa hiểu ý và biểu
đạt không khô khan mà hấp dẫn bởi tình cảm, cảm xúc là sự thăng hoa của cảm xúc và
mạnh mẽ của ý chí.
b. Đối với các bài thơ ngũ ngôn: (chữ Hán )
Tụng giá hoàn kinh sự:
Theo tôi ngoài các phần tìm hiểu tác giả, hoàn cảnh ra đời của bài thơ, văn tự, thể thơ
vẫn theo thứ tự nh một bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt đờng luật. Phần tìm hiểu nội dung văn
bản chúng tôi cho học sinh thảo luận theo hai mạch cảm xúc của tác giả để thấy đợc sự

khác nhau về âm hởng hào sảng ca khúc khải hoàn. Để làm đợc điều đó chúng tôi vẫn
tiếp tục bám vào các từ chìa khó nh: Đoạt, Sáo Chơng Dơng, Cầm, Hồ, Hàm trổ để thấy
đợc nghệ thuật đối lập liệt kê cùng các động từ mạnh phù hợp với nhịp điệu của các câu
thơ làm nổi bật chíên thắng dồn dập của quân ta. Các chiến thắng diễn ra sống động, mới
mẻ, tơi nguyên đó là sự hả hê, sung sớng, tự hào của ngời vừa làm nên chiến thắng. Mạch
cảm xúc thứ hai của tác giả là sự khát vọng đất nớc hoà bình thịnh trị và niềm tin sắt đá
đất nớc vững bền mãi mãi với các từ nhãn tự , tu trí lực, vạn cổ thử. Đối với giọng điệu
trầm lắng, thiết tha kết hợp hài hoà âm sắc, âm bằng đã làm cho bài thơ trở nên mềm mại,
bài thơ kết hợp hài hoà niềm tin và sự thăng hoa của cảm xúc, hài hoà giữa sức mạnh của
một võ trờng với một thi nhân. Trần Quang Khải ( 1241 1294 ) là con trai thứ 3 của
Trần Thái Tông, Trần Cảnh, là thợng tớng, vừa là nhà ngoại giao, là nhà thơ. Ông không
chỉ lập công lớn trong công cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên mà còn để lại tập
thơ Lạc đạo nhng thất truyền, hiện chỉ còn một số bài, mà bài Phò giá về kinh đợc
mọi ngời yêu mến nhớ thuộc.
Bài thơ phò giá về kinh thuộc loại thơ tức sự, nhân có việc mà làm ra sự việc đây là
phò giá hai vua ( Tức là vua Trần Thái Tông, Trần Cảnh ) tuy đã nhờng ngôi cho con là
Trần Hoảng vào năm 1258, nhng vẫn trong coi chính sự nên gọi là hai vua, về kinh đô.
Đầu tháng 6 năm ất dậu, 1258 quân ta giải phóng Thăng long. Ngày 10 tháng 6 Thoát
Hoan phải chui vào ống đồng để chạy lên phía bắc, toa đô từ Thanh hoá ra thiên trờng bị
quân ta vây bắt và chém đầu. Ngày 09 tháng 7 năm ấy cả triều đình và quân đội về lại
Thăng Long, trở về sau khi chiến thắng, ngời xa gọi là khải hoàn. Bài Phò giá về kinh có
thể nói là một bài ca khải hoàn của thợng tớng Trần Quang Khải.
Âm vang chiến công oanh liệt còn náo nức trong lòng, 2 câu đầu nhà thơ nhắc lại hai
trận thắng: Chơng dơng cớp giáo giặc
Hàm tử bắt quân Hồ.
Hai địa danh lịch sử nổi tiếng, qua bao thế kỷ, sử sách ghi chung nhng tên gọi thì thật
vang dội Cớp giáo là hình ảnh hoán dụ chỉ việc trớc vũ khí giặc, vô hiệu hoá chúng,
còn bắt quân Hồ- chỉ việc bắt quân Mông Nguyên, Hồ là tên mà ngời Trung quốc
xa dùng để chỉ chung cho các dân tộc ở phía bắc trung quốc. Quân Mông Nguyên
chính là quân Hồ chỉ hai địa danh đó đủ nói lên khí phách anh hùng của dân tộc ta.

Hai câu sau đột ngột mở ra một viiễn cảnh mới
Thái bình nên rắng sức
Non nớc ấy nghìn thu.
6
Thái bình đối với Trung quốc không phải là lúc ăn ngon, ngủ yên để hởng thụ mà là
lúc cần phải dốc sức để tăng cờng sức mạnh của nhân dân và quân đội, tiềm lực quốc
phòng, thì đất nớc mới vững bền lâu dài.
Sổ sách cho biết đến trháng 7 âm lịch năm ất dậu, tức tháng 8 năm 1258, khu mật viên
Triều Nguyên lại bày mu kế chuẩn bị xâm lớc đại việt một lần nữa. Do viên tớngthống
lĩnh á Lí Hải Nha bị ốm chết vào tháng 6 năm Bính tuất ( trớc tháng 7 năm 1286 ) thì Hốt
Tất Liệt mới hoãn binh và sang năm Đinh hợi ( 1287 ) lại sang xâm lợc lần thứ 3, để
tháng 4 năm 1288 lại bị đại bại thêm một lần nữa.
Lời thơ Trần Quang Khải không đã thể hiện niềm tự hào dân tộc, lòng yêu nớc thiết
tha, mà chủ yếu thể hiện tầm nhìn chiến lợc xa rộng, niềm tin vào sức mạnh của nhân dân
mình, đất nớc mình. Bài thơ thể hiện một ý thức cảnh giác kín đáo, bởi lẽ quân xâm lợc
tuy thua nhng không từ bỏ dã tâm xâm lợc, nếu ta sa sút thì chúng sẽ thừa cơ lấn sang.
Bài thơ ngắn, hào hùng mà ý tứ thật sâu xa đáng để muôn đời con cháu suy ngẫm.
c. Đối với thơ Thất ngôn bát cú đờng luật Chữ nôm
Qua đèo ngang:
Trớc hết phải thừa nhận rằng: Qua đèo ngang là một kiệt tác. văn bản không những
có giá trị về mặt nội dung mà hơn thế nữa nó là một bài thơ Đờng hoàn mỹ về cấu trúc, về
niên luật, về đối . Trong số 6 bài thơ còn lại của bà Huyện nói riêng và thơ Đ ờng luật
giai đoạn này nói chung.
Từ trớc đến nay, khi giảng bài thơ này, để làm rõ giá trị chính thể của một bài thơ Đ-
ờng toàn bích tôi đã giảng theo kết câu: Đề Thực Luận Kết của thơ Đờng luật.
Không thể phủ nhận đợc những kết quả khả thi mà cách dạy này mang lại: Học sinh dễ
hiểu, phát hiện tốt các nghệ thuật qua phép đổi, đảo ngữ, vần điệu . của bài thơ.
Lần này khi Qua đèo ngang đợc trở về với chơng trình lớp 7, quả thực cũng không
phải dễ dàng chuyển tải hết những kiến thức cơ bản. Bởi vậy tôi đã mạnh dạn đa ra một
cách dạy mới nh sau:

- Bài thơ có kết cấu rất chuẩn nhng chủ yếu vẫn là 2 vấn đề nổi cộm trong bài, đó là:
Cảnh sắc đèo ngang
Tâm trạng tác giả
Nhng đọc kỹ bài thơ trong hai câu luận, nó vừa là tả cảnh sắc đèo ngang buồn vắng ảm
đạm qua tiếng chim kêu ( quốc quốc, gia gia ) nhng đó cũng chính là tiếng lòng, là nỗi
niềm nhớ nớc, thơng nhà của tác giả. Bởi vậy nếu cắt ngang bài thơ theo hai phần ( 4 câu
đầu 4 câu cuối ) thì chắc chắn cách dạy này không tránh sự trùng lặp. Xuất phát từ
thực tế ấy, chúng tôi quyết định dạy bài thơ này theo mạch cảm xúc: Bổ dọc bài thơ để
làm rõ nội dung nói trên để làm rõ thêm giá trị của văn bản.
- Trong phần tác giả, phải lu ý những điểm cơ bản nổi bật của bà Huyện Thanh Quan:
Sống ở thế kỷ cuối XVIII đầu XIX, nổi tiếng văn hay chữ tốt, phong cách thơ trang nhã,
điêu luyện mang nặng nỗi niềm hoài cổ .Bài thơ đ ợc bà sáng tác trên đờng từ Thăng
Long vào Phú Xuân để nhận chức Cung trung giáo tập. Điều ấy đã ảnh hởng lớn đến
giá trị nội dung của bài thơ.
7
- Khi phân tích bài thơ, tôi đã tiến hành bổ dọc theo mạch cảm xúc nhng vẫn giữ
nguyên kết cấu của thơ Đờng luật qua hai nội dung cơ bản của bài thơ nh sau:
- Phần 1: Cảnh sắc đèo ngang
Tôi hớng dẫn cho học sinh qua các câu hỏi mang tính gợi tìm, sáng tạo tập trung vào
những vấn đề sau: Nhà thơ đến đèo ngang vào lúc Bóng xế tà, với không gian hoang
vu, rộng lớn Đèo ngang với màu sắc hoàng hôn Bóng xế tà thời điểm ấy làm cho
lữ khách dễ nao lòng hơn bao giờ hết. Trớc mặt nhà thơ là một bức tranh rộng mở:
Cỏ cây chen đá, là chen hoa
Cần cho học sinh khai thác giá trị nghệ thuật: Điệp từ chen tạo nên sự um tùm, rậm
rạp, phép đối: Cỏ cây ./ là chen hoa, cùng với điệp vần: Tà - đá - lá - hoa đã tạo nên
một thiên nhiên hoang dã, ngút ngàn
Nh vậy có thể nhận ra rằng ở hai câu đề: Chủ thể trữ tình, một phụ nữ Miền bắc đã
đứng tuổi, lần đầu tiên xa quê, xa nhà, gặp cảnh bát ngát, mênh mông trên con đèo chạy
xô ra biển lúc buổi chiều tà nắng vàng đang nhạt dần với cảnh vật hoang dã, ban sơ làm
cho lòng ngời ngỡ ngàng, mênh mông, vắng lặng, gợi buồn

Nếu hai câu thơ đầu tả khái quát về đèo Ngang thì bốn câu thơ sau thực luận:
Lom khom dới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Nhớ nớc đau lòng con cuốc cuốc
Thơng nhà mỏi miệng cái gia gia.
Cảnh vật nhà thơ thấy ở hai vị trí: Dới núi, bên sông Sử dụng từ láy âm lom
khom, lác đác gợi nên sự xuất hiện xa vời, nhở lại, ít ỏi cùng với đảo ngữ Lom
khom dới núi Tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Và phép đối chuẩn: Lom khom dới núi/ Lác đác bên sông .
Tiều vài chú/ Chợ mấy nhà
Đã gợi lên sợ hoang vắng, sự xuất hiện của con ngời ở đây không làm vơi đi sự hoang
vắng của một miền sơn cớc lúc bóng ngả chiều tà .Nhà thơ còn cảm thấy đèo Ngang qua
việc nghe thấy âm thanh của tiếng chim cuốc cuốc, chim gia gia tiếng chim ấy đ ợc
vọng đến trong buổi chiều tà gợi nên một sự khắc khoải, hắt hiu, buồn vắng, mênh mông
trong bóng chiều ảm đảm
Dễ nhận thấy bức tranh đèo Ngang lúc này đẹp, hoang vắng nhng gợi buồn. Đó cũng
chính là những ngoại cảnh góp phần bộc lộ tâm trạng của nhà thơ.
- phần 2: Tâm trạng của tác giả: Tôi chú ý khắc hoạ tâm trạng nhớ nớc thơng nhà
qua hai câu luận:
Nhớ nớc đau lòng con cuốc cuốc
Thơng nhà mỏi miệng cái gia gia
- Cần cho học sinh cách chơi chữ đồng âm: Cuốc cuốc, gia gia
Việc đổi ý rất chuẩn ở hai câu luận: Nhớ nớc/ thơng nhà
8
Đau lòng/ mỏi miệng
Con cuốc cuốc/ cái gia gia
Cùng với nghệ thuật nhân hoá, bút pháp tả cảnh ngụ tình sự cộng h ởng ấy làm cho
nỗi niềm nhớ nớc thơng nhà đau buồn của ngời mợn tiếng chim kêu càng da diết. Âm
thanh mà nhà thơ nghe đợc là buồn, khắc khoải , triền miên, không dứt. Nhng ở đây có

thực là tiếng chim hay sự tởng tợng của tác giả, sự tởng tợng của một tâm hồn nghệ sỹ
đang nặng lòng hoài cổ nhớ tiếc Triều Lê nh một tiếng thở dài?
Nhng tại sao đang sống trong độc lập, hoà bình mà tác giả lại nhớ nớc đau lòng
với một tâm trạng khắc khoải, đau thơng nh thế? Trong tâm trạng của Bà lúc này Thơng
nhà là tình cảm tha thiết của đứa con đang tha hơng lữ thứ bởi bà đang từ Thăng long
vào Phú xuân để dạy học. Nhng còn Nhớ nớc chắc không phải là nhớ tiếc triều Lê, một
triều đại đã mất trớc khi bà ra đời. Trong tâm thế ở đây là hoài niệm chung về một thời dĩ
vãng, là sự phủ định nớc của chính quyền triều Nguyễn lúc bấy giờ, một triều đại mà đối
với Bà cũng nh nhiều sỹ phu Bắc Hà vẫn còn xa lạ.
Cần cho học sinh nhìn thấy: Hai câu kết đã khéo khéo thể hiện tâm trạng của nhà thơ
lúc này:
Dừng chân đứng lại trời, non, nớc
Một mảnh tình riêng ta với ta
Nhà thơ từ hớng ngoại ( ngắm cảnh ) chuyển về hớng nội ( với lòng mình ). Hành
động Dừng chân đứng lại cuối bài nh thể hiện một động tác chào từ biệt, nh một sự
tĩnh tâm sau chặng đờng dài và nh nhìn lại định hớng về cuộc đời mình. Nhà thơ nh đang
đối mặt trong thể vĩ mô khái quát: Có trời, có núi, có sông tâm trạng của nhà thơ cô đơn
đến vô cùng: Một mảnh tình riêng ta với ta. Tất cả mỗi chữ gợi nên một nỗi niềm đơn
chiếc. Nhà thơ cô đơn, hiu quạnh, một mình đối diện với chính mình, nh tìm về thế giới
nội tâm
Nh vậy Qua đèo ngang không chỉ là giản đơn vợt qua một địa danh, địa giới mà có
thể là sự vợt qua một triều đại, vợt qua chính mình. Cái tên đèo Ngang của Bà Huyện
Thanh Quan còn có một ý vị ngang trái nào đó: Đạo đức phong kiến không thể thừa nhận
một thần dân có thể thờ hai vua, hai triều đại nhng nó vẫn cần sự cộng tác của thần dân
triều đại cũ. Qua đèo Ngang thời ấy là bỏ đất cũ vào đất mới, chúa mới nhng điều làm cho
bà không hổ thẹn là vẫn không thôi thơng tiếc cựu triều. Qua đèo là thuận theo thời thế
còn tình riêng thì trời cao, biển rộng, sông núi biết cho ta
d. Đối với thơ thất ngôn tứ tuyệt (Chữ Hán)
Hồi hơng ngẫu th
Đến với tiết 38: Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê ( Hồi hơng ngẫu th ) tôi tập

trung khai thác tình huống chiêm nghiệm và cấu trúc ngôn từ của bài thơ. Rất nhiều thi
phẩm kiệt xuất của đời Đờng đợc nảy sinh từ những tình huống chiêm nghiệm.Hồi hơng
ngẫu th của Hạ Tri Chơng (659-744) là một trờng hợp khá điển hình.
Trớc hết tôi hớng dẫn cho học sinh tìm hiểu chú thích * sách giáo khoa,để các em biết
về tác giả Hạ Tri Chơng(659-744) ngời ở tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc), rời quê từ bé,
lên sống và làm quan hơn nửa đời ngời trong sự trọng trọng vọng hết mực của vua quan
và bè bạn ở kinh đô Tràng An. Mãi tới lúc hơn 80 tuổi, ông mới về lại quê nhà.
9
Hãy bắt đầu từ nhan đề của tác phẩm: Hồi hơng ngẫu th-Ngẫu nhiên viết nhân buổi
mới về quê.Thì đúng là ban đầu nhà thơ đâu có ý định làm thơ! Hứng bút đột nhiên đến,
theo diễn biến bất ngờ của sự việc.
Bằng một lối cảm nhận hồn nhiên, dễ thấy câu thơ thứ nhất có tính chất của một câu
kể việc:
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi
(Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về)
Khi đi trẻ, lúc về già
Có thể hiểu đơn giản rằng nhà thơ muốn kể chuyện mình đằng đẵng xa quê từ thuở
nhỏ, khi về lại thì đã già lắm rồi. Xúc động làm sao cái tâm sự toát lên từ đó: thoáng hồi
tởng xa xăm lẫn vào ánh nhìn gần gặn về tình trạng già lão đáng phiền muộn của bản
thân, chút nuối tiếc hoà trộn với mặc cảm có lỗi nh ng do đợc ngắt thành hai vế đối
nhau về lời về ý ( Dù không cân nhau về số chữ ), câu thơ bỗng có thể tồn tại độc lập,
không thuần tuý mang chở một nội dung mà là một nhận thức khái quát về đời sống bật
lên từ đây. Tuổi trẻ hăng hái kiếm tìm, hăng hái lập công danh, xem chuyện phải ly h-
ơng là tất yếu và chẳng có gì phải bận lòng, còn tuổi già thì quay đầu về núi. Chính vì
thế mà khiến cho câu thơ hàm chứa một đờng hớng phát triển riêng, vợt ra khỏi quĩ đạo
của những bài thơ kể việc ( để bày tỏ tình cảm ) thông thờng. Ngẫm nghĩ kỹ về câu thơ
thứ hai
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hơng âm vô cải, mấn mao tồi.
Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về,

Giọng quê không đổi, nhng tóc mai đã rụng.
Câu thơ chứa đựng hình thức đối ngẫu, từ đó ta cảm nhận đợc sự bồi hồi rất thật, một thái
độ đinh ninh quyết giữ lấy cái gì là của mình giữa bao nhiêu biến dịch : giọng quê vẫn
không đổi dù tóc mai xơ xác. ý nghĩa câu thơ này liên kết với ý nghĩa khái quát của câu
thơ đầu chủ yếu là theo lô gíc của sự chiêm nghiệm, biểu hiện một thái độ tự tôn, tự tại rất
đờng thi. Không phải ngẫu nhiên mà vế trớc của câu thơ Hơng âm vô cải , vế sau của
câu thơ Mấn mao tồi để dẫn đến một tình huống trớ trêu rất thật
Nhi đồng tơng kiến, bất tơng thức
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai
Trẻ con gặp mặt không quen biết
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi
Ngời con của quê hơng đã trở thành khách lạ trên chính quê hơng! Câu hỏi của lũ
trẻ thật hồn hậu, tự nhiên, hợp tình thuận lý và khiến ngời đợc hỏi phải sững lại, ngỡ
ngàng, bàng hoàng, rồi nữa là xót xa.
Bài thơ đợc học giả Trần Trọng Kim nhận định: Cả bài, lời nói tự nhiên, không có
điêu trác. Bài thơ biểu hiện một cách chân thực mà sâu sắc, hóm hỉnh mà ngậm ngùi tình
yêu quê hơng thắm thiết của một ngời sống xa quê lâu ngày, trong khoảnh khắc vừa mới
đặt chân trơ về quê cũ.
Bài tập: Khoanh tròn vào chữ cái đầu câu trả lời đúng trong bốn kết quả sau:
10
Bài tập 1: Trong những nhận xét sau nhận xét nào đúng cho cả hai bài thơ Nam Quốc
Hơn Hà và Tụng giá hoàn kinh sử.
A. Khẳng định chủ quyền bất khả xâm phạp của đất nớc
B. Thể hiện lòng tự hào trớc những chiến công lẫy lừng của dân tộc
C. Thể hiện bản lĩnh khí phách của dân tộc trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm
D. Thể hiện khát vọng hoà bình.
Bài tập 2: Nghệ thuật nổi bật trong cả hai bài thơ là gì?
A. Sử dụng về biện pháp tu từ và ngôn ngữ biểu cảm
B. Sử dụng nhiều yếu tố trùng điệp
C. Ngôn ngữ sáng tỏ, cô đúc, hoà trộn ý tởng và cảm xúc

D. Nhiều hình ảnh ẩn dụ, tởng tợng
Bài tập 3: Tâm trạng của tác giả thể hiện qua bài thơ là tâm trạng nào?
A. Yêu say đắm trớc vẻ đẹp của thiên nhiên đất nớc
B. Đau lòng ngậm ngùi trớc sự thay đổi của quê hơng
C. Buồn thơng da diết khi phải sống trong cảnh ngộ cô đơn
D. Cô đơn trớc thực tại, da diết nhớ về quá khứ của đất nớc.
Bài tập 4: Hãy chỉ ra tình quê tha thiết của tác giả Hạ Tri Chơng qua bài thơ : Ngẫu
nhiên viết nhân buổi mới về quê.
Hớng dẫn giải bài tập:
Bài tập 1: Nhận xét chung nhất cho cả hai bài thơ là: Cả hai bài thơ đều thể hiện
bản lĩnh, khí phách của dân tộc ta trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, nên kết
quả C là đúng.
Bài tập 2: Nghệ thuật nổi bật đợc sử dụng ở hai bài thơ Nam quốc sơn hà và
Tụng giá hoàn kinh s là: Ngôn ngữ sáng rõ, cô đúc, hoà trộn ý tởng và cảm xúc do
đó kết quả C là đúng.
Bài tập 3: Tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan đợc thể hiện trong bài thơ Qua
đèo Ngang là nỗi buồn, nỗi cô đơn trớc thực tại, da diết nhớ về quá khứ của đất nớc,
do đó kết quả D là đúng.
Bài tập 4: Tác giả đã rất có ý thức giữ gìn giọng quê( Hơng âm). Bao năm xa cách
làng quê, từ một ngời trẻ thành một nời già, từ một nời nhỏ thành một ngời cao lớn, từ
một học trò, thành một ông quan to. Tóc mai đã rụng. Tất cả đều thay đổi, riêng giọng
quê, nhờ ý thức về quê mà không đổi. Thế nhng, ngời có ý thức rất sâu sắc về quê Ngời
có ý thức rất sâu sắc về quê ấy, ngời ôm mối tình quê tha thiết ấy, khi về quê lại gặp toàn
trẻ con. Chúng không biết ông là ai. Chúng coi ông nh là khách đến chơi . Câu hỏi của trẻ
con nh một gáo nớc lạnh dội vào tâm trạng nhà thơ. Tác giả không viết gì thêm sau phút
sững sờ bị coi nh khách lạ. Nhng chính điều đó lại càng thể hiện tình quê thắm thiết của
ông. Bọn trẻ con coi ông nh khách lạ cũng là một nhắc nhở để nói rằng chỉ yêu quê hơng
trong lòng thôi không đủ, cần phải thể hiện tình yêu ấy bằng hoạt động cụ thể cho quê h-
ơng, với quê hơng.
11

II- Dạy thơ đờng luật trên nguyên tắc tích hợp:
Trớc đây chúng ta tách rời 3 phân môn độc lập đã tạo cho giáo viên và học sinh dạy và
học những phân môn trên một cách cứng nhắc. Khi dạy phân môn ngữ văn (văn bản)
nhiều khi rơi vào tình trạng phân tích kiểu xã hội. Vì vậy khi dạy các bài văn bản thơ Đ-
ờng luật giáo viên rất ít quan tâm đến từ ngữ, cảm xúc, yếu tố vần, nhịp trong thơ. Chơng
trình sách giáo khoa mới đã khẳng định lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo tổ
chức nội dung chơng trình biên soạn sách giáo khoa và lựa chọn phơng pháp dạy học.
Song tích hợp nh thế nào? đây là vấn đề khó nhất khi dạy ngữ văn theo hớng tích hợp.
Khi dạy thơ Đờng luật không nên tích hợp một cách cứng nhắc vì sẽ làm mất đi
tính chính thể thống nhất của một văn bản nghệ thuật. Ngời thầy giáo phải tìm ra yếu tố
đồng quy giữa 3 phân môn để góp phần hình thành và rèn luyện tri thức và kỹ năng của
phân môn Tập làm văn và Tiếng việt. Khi dạy các văn bản thơ Đờng luật viết bằng chữ
Hán tôi so sánh nguyên tác và bản dịch thơ, rất tự nhiên chúng tôi đã làm tốt việc tích
hợp với từ Hán Việt và các yếu tố để cấu tạo nên từ Hán Việt:
Ví dụ:Khi dạy văn bản Nam quốc sơn hà và Tụng giá hoàn kinh s chúng tôi
cho học sinh giải nghĩa một số từ nh: Đế, sơn hà, thiên th, đoạt, cầm, hồ .từ đó định h -
ớng cho học sinh về từ Hàn Việt, đơn vị cấu tạo, từ phép và cách sử dụng từ Hán Việt.
Việc dạy thơ Đờng luật thực ra là dạy các thể loại văn bản biểu cảm. Việc định hớng về
nhu cầu biểu cảm là hết sức cần thiết. Từ việc dạy văn bản làm cho học sinh thấy đợc vẻ
đẹp về tình cảm, cảm xúc của các nhà thơ về thiên nhiên, đất nớc, con ngời thông qua các
yếu tố nghệ thuật. Ngôn ngữ trong thơ Đờng luật là ngôn ngữ bác học đợc gọt dũa công
phu với bố cục chặt chẽ, cân đối. Phải từ các văn bản để thấy đợc tính hoàn chỉnh về hình
thức và trọn vẹn về nội dung của mỗi văn bản dù đó là văn bản ngắn hay dài, mỗi văn bản
đợc viết về một đề tài nhất định, vì văn bản nào cũng chứa đựng những phần cơ bản của
văn biểu cảm.
- Đối tợng biểu cảm
- Nội dung biểu cảm
- Cách biểu cảm
Tôi thiết nghĩ từ việc dạy văn bản theo yêu cầu mới là tích hợp, hé mở những vấn đề
liên quan về Tiếng việt và làm văn là hết sức cần thiết. Tuy nhiên dạy tích hợp cũng

không có gì mới lạ song có chăng chỉ là ngời giáo viên nên biết cách tích hợp nh thế nào
tích hợp nh thế nào, vào thời điểm nào, tích hợp cái gì để đạt hiệu quả cao của một giờ
đọc hiểu văn bản để đọng lại những kiến thức những hiểu biết một cách hệ thống một
cách quan trọng.
Trong bài Nam Quốc Sơn Hà: Tác giả sử dụng cách biểu cảm trực tiếp với các từ ngữ:
nh hà, nghịch lỗ, nhữ đẳng hành khan, thủ bại, để chất vấn kẻ thù và thể hiện thái độ ngạc
nhiên, căm giận lũ giặc nghịch tặc tại sao lại làm trái lẽ tự nhiên với thái độ khinh miệt kẻ
thù từ đó đa ra lời cảnh báo bọn chúng đã từng trải qua cuộc chiến với Đại Việt và nhất
định sẽ tiếp tục thua trận với thái độ dứt khoát. Tơng tự nh vậy trong bài Tụng giá hoàn
kinh s Trần Quang Khải đã trực tiếp bộc lộ tính chất, cảm xúc của mình qua các từ ngữ:
đoạt, sáo, Chơng Dơng, cầm, Hồ, Hàm tử, thái bình, tu tri lục nhằm nổi bật những
chiến thắng dồn dập của quân ta diễn ra sống động, mới mẻ, tơi nguyên. Thể hiện sự hả
hê sung sớng tự hào của ngời vừa làm nên chiến thắng và khát vọng xây dựng đất nớc hoà
bình, thịnh trị đồng thời là niềm tin về đất nớc vững bền mãi mãi. Nh vậy qua hai văn
bản: Sông núi nớc Nam và Phò giá về kinh sẽ nắm đợc phơng thức biểu đạt chủ yếu là sự
12
kết hợp chặt chẽ giữa biểu ý và biểu đạt, không khô khan mà hấp dẫn bởi tình cảm, cảm
xúc. Cảm xúc mạnh mẽ mợt mà kết hợp hài hoà sức mạnh của ý chí. Ngợc lại qua bài đèo
Ngang Bà Huyện Thanh Quan lại gián tiếp bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình qua một số
hình ảnh thể hiện tình cảm, nỗi lòng thơng nhớ gửi vào âm thanh: cuốc cuốc, gia gia làm
cho ngời đọc thấu hiểu tâm trạng buồn, cô đơn thấm vào cảnh chiều tà giữa trời, non nớc
mênh mông của đèo ngang.
Bài tập:
Khoanh tròn vào chữ cái đầu câu trả lời đúng trong 4 phơng án sau:
Bài tập 1: Dòng nào sau đây nói đúng về văn biểu cảm
A. Chỉ thể hện cảm xúc, không có yếu tố miêu tả và tự sự
B. Không có lý lẽ lập luận
C. Cảm xúc chỉ thể hiện trực tiếp
D. Cảm xúc có thể bộc lộ trực tiếp hoặc gián ttiếp
Bài tập 2: Từ nào sau đây có yếu tố gia cùng nghĩa với gia trong gia đình

A. Gia vị
B. Gia tăng
C. Gia sản
D. Tham gia
Bài tập 3: Thế nào là một văn bản biểu cảm
A. Kể lại một câu chuyện cảm động
B. Bàn luận về một hiện tợng trong cuộc sống
C. Là những văn bản đợc viết bằng thơ
D. Là những văn bản bộc lộ tình cảm, cảm xúc của con ngời trớc những sự vật hiện t-
ợng trong đời sống.
Hớng dẫn giải bài tập:
Bài tập 1: Con ngời có thể trực tiếp hay gián tiếp bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình,
trớc một hiện tợng của đời sống . Do đó kết quả đúng là D.
Bài tập 2: Gia trong gia đình là nhà nên từ gia sản là tài sản của gia đình do đó yếu
tố gia trong gia sản cùng nghĩa với gia trong gia đình: kết quả C là đúng. Vì gia vị,
gia tăng là thêm vào, còn tham gia là dự vào.
Bài tập 3: Văn bản biểu cảm là bộc lộ tình cảm, cảm xúc của con ngời trớc những sự
vật, hiện tợng trong đời sống, do đó kết quả D là đúng.
Kết quả kiểm nghiệm cho thấy:
Năm Tổng
số
HS TB trở
lên
Số HS giỏi Số HS khá Số HS yếu
2006- 2007 82 28/ 34,1% 3 3,8% 27 32,9% 16 19,5%
2007- 2008 81 31/38,27% 5 6,17% 35 43,2% 10 12,3%
13
Những kinh nghiệm khi giảng dạy cụm bài thơ đờng luật chơng trình ngữ văn 7:
Sau những tiết dạy mà tôi đã mạnh dạn dày công nghiên cứu và rút ra một số kinh
nghiệm để dạy tốt phần thơ đờng trung đại cho học sinh lớp 7 nh sau:

- Phải đặt bài thơ trong hoàn cảnh sáng tác để thấy rõ giá trị nội dung và nghệ thuật của
tác phẩm, thấy đợc ý tứ sâu xa từ ngôn ngữ của tác phẩm( ví dụ: ở bài thơ Qua đèo
ngang khi tác giả trên đờng từ Thăng Long vào Phú Xuân nhậm chức mới thấy hết tâm
trạng cô đơn của một ngời lữ khách tha hơng, mới cảm nhận đợc hết cái cô đơn lẻ loi và
tâm trạng hoài cổ khi rời đất nớc Chúa cũ hoặc qua bài thơ Nam quốc sơn hà đặt vào
hoàn cảnh khi nhà Tống Quách Quỳ và Triệu Tiết phối hợp với quân Chiêm Thành xâm l-
ợc nớc ta lần thứ hai mới thấy đợc lập trờng quan điểm tự hào, tự tôn dân tộc và ranh giới
lãnh thổ Việt nam từ đó thấy đợc ý chí và quyết tâm chiến đấu chống kẻ thù xâm lợc giữ
vững chủ quyền, lãnh thổ của dân tộc.
- Phải cảm nhận hết giọng điệu của bài thơ để lột tả nội dung của bài. Có thể nhận
thấy Phò giá về kinh là cảm hứng lãng mạn cùng với hào khí đông A. Một thời đã làm
cho bài thơ nhẹ nhàng, dễ đi vào lòng ngời. Có thể thấy Sông núi nớc nam là giọng
điệu phấn chấn tự hào, rắn rỏi mạnh mẽ, dứt khoát khi tổ quốc lâm nguy Tất cả đã làm
nên nhỡng nét riêng của những bài thơ Đờng luật vốn trang nghiêm trở nên gần gũi.
- Giảng thơ Đờng luật cho học sinh lớp 7 không nên quá câu nệ lệ thuộc vào kết cấu
của bài thơ, tuỳ theo tựng tác phẩm có thể có cách dạy riêng, không nhất thiết đi theo bố
cục ( Đề thực luận kết ) với Bát cú đờng luật, hay( Khai thừa chuyển
hợp) với thất ngôn tứ tuyệt đờng luật . Giáo viên phải thực sự nhìn thấy nội dung cảm
xúc trong bài để đa ra cách dạy tối thiểu. Có thể giảng cách ngang, có thể bổ dọc, có thể
vừa cắt ngang vừa bổ dọc theo chúng tôi nếu giảng theo mạch cảm xúc nh đã trình bày
ở trên,bài giảng sẽ nhẹ nhàng hơn nhiều
Khi phân tích bài thơ chữ Hán nên dùng bản phiên âm để giảng bởi nếu dùng bản
dịch thơ sẽ có những từ ngữ dịch không sát làm ảnh hởng đến vẻ đẹp bích của tác phẩm,
đến nội dung của bài thơ ( Ví dụ: Từ Sinh, quái trong Vọng l sơn bộc bố . Trong
bản dịch tác giả đã bỏ mất hai từ này đã làm thay đổi hẳn ý nghĩa của câu thơ hoặc từ
đế, c trong Nam quốc sơn hà.
Không phân tích ý thơ tràn lan, nên tập trung phân tích bình những từ ngữ
nhãn tự của bài thơ, làm nổi bật rõ cái thần trong bài. Hình ảnh, loại đợc dùng, vần
nhịp, phép đối, niêm, luật . Có thể giúp cho học sinh thấy rõ hơn tính hoàn chỉnh của
thơ Đờng luật.

Giáo viên cần chọn một số vừa phải lời bình hay, không lạm dụng quá nhiều, sẽ mang
lại hiệu quả cao trong giờ dạy. Học thơ nghe bình tả là điều thiệt thòi, nhng đối với thơ Đ-
ờng luật và đối với học sinh lớp 7 lời bình hay, gọn thực sự tác động đến học sinh bằng
tâm hồn tình cảm.
C. Kết luận:
Dạy kiến thức chìa khoá, từ những kiến thức mang tính chìa khoá đó các có thể mở
bất cứ cánh cửa nào để vào sâu bên trong lâu dài kiến thức mà sáng tạo theo ý tởng cá
nhân.
14
au khi cung cấp kiến thức chìa khoá giáo viên hớng dẫn học sinh đi vào những tác
phẩm cụ thể, có thể bắt đầu từ một chi tiết, một vấn đề nâng lên các đề mang tính toàn
diện của tác phẩm, thể loại nhằm giúp các em có cái nhìn tổng quát.
Tìm ra mối quan hệ giữa các tác phẩm có cùng thể loại để có những nguyên đề
khái quát. Để học sinh có thể từ đó mà độc lập, tìm hiểu, khám phá khi bắt gặp một tác
phẩm tơng tự.
Tất cả những việc làm của tôi đều nhằm một mục đích đó là đào tạo những công
dân cho tơng lai biết năng động sáng tạo, độc lập, suy nghĩ, đó là phơng châm lớn của đổi
mới giáo dục. Tuy nhiên những vấn đề chúng tôi đa ra còn có nhiều ý kiến trao đổi , bởi
đây là vấn đề khó, tôi mong đồng chí, đồng nghiệp góp ý xây dựng.
*******************
15

×