Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển của một số giống ngô lai tại tỉnh tuyên quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 89 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM


HOÀNG VĂN TIẾN

NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG,
PHÁT TRIỂN CỦA MỘT SỐ GIỐNG NGÔ LAI
TẠI TỈNH TUYÊN QUANG




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CÂY TRỒNG












Thái Nguyên, năm 2014



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM


HOÀNG VĂN TIẾN

NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG,
PHÁT TRIỂN CỦA MỘT SỐ GIỐNG NGÔ LAI
TẠI TỈNH TUYÊN QUANG

Chuyên ngành : Khoa học cây trồng
Mã số : 60 62 01 10


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CÂY TRỒNG




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trần Minh Quân
TS. Trần Trung Kiên




Thái Nguyên, năm 2014


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu và những số liệu trình bày trong luận
văn này là hoàn toàn trung thực và chưa hề sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn này đều đã được cảm ơn.
Các thông tin, tài liệu trích dẫn trình bày trong luận văn này đều đã được ghi
rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, ngày 19 tháng 10 năm 2014
Ngƣời viết cam đoan


Hoàng Văn Tiến




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

ii
LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình thực hiện đề tài, tôi luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ
của thầy TS. Trần Minh Quân, TS. Trần Trung Kiên. Các thầy đã chỉ bảo tận
tình về phương pháp nghiên cứu, cũng như trong quá trình hoàn chỉnh luận văn.
Tôi cũng nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của các thầy giáo, cô giáo. Khoa sau
đại học, Khoa nông học trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, chính quyền địa

phương, các bạn đồng nghiệp và gia đình. Nhân dịp này, tôi xin được bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc tới:
1. Thầy giáo TS. Trần Minh Quân, giáo viên khoa Nông học Trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên. Thầy đã trực tiếp hướng dẫn, dành cho tôi sự giúp đỡ tận
tình và sâu sắc trong suốt quá trình hoàn thành luận văn này.
2. Thầy giáo TS. Trần Trung Kiên, phó Giám đốc Trung tâm đào tạo theo nhu
cầu xã hội trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Thầy đã trực tiếp hướng dẫn,
dành cho tôi sự giúp đỡ rất nhiều trong quá trình thực tập và hoàn chỉnh luận văn.
3. Các thầy cô giáo trong khoa sau Đại học, khoa Nông học Trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên.
4. Các bạn đồng nghiệp, gia đình và chính quyền địa phương phường Ỷ La,
thành phố Tuyên Quang, đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài.

Thái Nguyên, ngày 19 tháng 10 năm 2014
Tác giả


Hoàng Văn Tiến



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

iii
MỤC LỤC


1
1. Đặt vấn đề 1
2

2
2
2
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
3
1.2. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới và ở Việt Nam 4
1.2.1. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới 4
1.2.2. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam 7
1.2.3. Tình hình sản xuất ngô ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc 12
1.2.4. Tình hình sản xuất ngô ở Tuyên Quang 14
15
1.2.1. Nghiên cứu ngô lai trên thế giới 15
1.2.2. Kết quả nghiên cứu chọn tạo giống ngô ở Việt Nam 19
Chƣơng 2 28NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 28
2.1. Vật liệu nghiên cứu 28
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 28
2.3. Nội dung nghiên cứu 28
2.4. Phương pháp nghiên cứu 28
2.4.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm 29
2.4.2. Quy trình kỹ thuật 29
2.4.3. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi, đánh giá 30
Chƣơng 3: 35
3.1. Các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của các giống ngô trong thí nghiệm vụ
Xuân và vụ Đông 2013 tại tỉnh Tuyên Quang 35

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

iv
3.1.1. Giai đoạn tung phấn, phun râu 36
3.1.2. Giai đoạn chín sinh lý 37

3.2. Một số đặc điểm hình thái của các giống ngô thí nghiệm vụ Xuân và vụ Đông
2013 tại Tuyên Quang 37
3.2.1. Chiều cao cây 37
3.2.2. Chiều cao đóng bắp 38
3.2.3. Chiều dài bắp 39
3.2.4. Đường kính bắp 40
3.2.5. Độ bao bắp 41
3.2.6. Số lá trên cây 41
3.2.7. Chỉ số diện tích lá 41
3.3. Khả năng chống chịu sâu bệnh hại của các giống ngô thí nghiệm vụ Xuân và vụ
Đông 2013 Tuyên Quang 43
3.3.1. Sâu đục thân 44
3.3.2. Sâu đục bắp 45
3.3.3. Bệnh khô vằn 45
3.4. Khả năng chống đổ, trạng thái cây, trạng thái bắp của các giống ngô tham gia thí
nghiệm 46
3.4.1. Tỷ lệ đổ rễ 46
3.4.2. Tỷ lệ gãy thân 46
3.4.3. Trạng thái cây 47
3.4.4. Trạng thái cây 48
3.5. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống ngô thí nghiệm vụ
Xuân và Đông 2013 tại Tuyên Quang 48
3.5.1. Số bắp trên cây 48
3.5.2. Số hàng trên bắp 50
3.5.3. Số hạt trên hàng 50
3.5.4. Khối lượng nghìn hạt 51
3.5.5. Năng suất lý thuyết 51

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


v
3.5.6. Năng suất thực thu 52
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 54
1. Kết luận 54
2. Đề nghị 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO 55

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

vi
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT


CD bắp : Chiều dài bắp
CIMMYT : Trung tâm cải tạo ngô và lúa mỳ quốc tế
CSDTL : Chỉ số diện tích lá
CV% : Hệ số biến động
Đ/c : Đối chứng
FAO : Tổ chức nông nghiệp và lương thực Liên Hiệp Quốc
IPRI : Viện nghiên cứu chương trình lương thực thế giới
KL1000 : Khối lượng 1000 hạt
LAI : Chỉ số diện tích lá
LSD
.05
: Sự sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa ở mức 0,05
NSLT : Năng suất lý thuyết
NSTK : Năng suất thống kê
NSTT : Năng suất thực thu
OPV : Giống ngô thụ phấn tự do
P : Xác suất

PTNT : Phát triển nông thôn
TGST : Thời gian sinh trưởng


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

vii
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Sản xuất ngô thế giới giai đoạn 1961 - 2013 4
Bảng 1.2. Sản xuất ngô ở một số châu lục trên thế giới năm 2013 5
Bảng 1.3. Sản xuất ngô của một số nước trên thế giới năm 2012 6
1975 - 2013 9
Bảng 1.5. Tình hình sản xuất ngô ở các vùng năm 2013 10
Bảng 1.6. Sản xuất ngô ở Tuyên Quang 2005 – 2013 15
Bảng 3.1. Các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của các giống ngô thí nghiệm
vụ Xuân và vụ Đông 2013 tại Tuyên Quang 36
Bảng 3.2. Chiều cao cây và chiều cao đóng bắp của các giống thí nghiệm vụ
Xuân và vụ Đông 2013 tại Tuyên Quang 38
Bảng 3.3. Chiều dài bắp, đường kính bắp và độ bao bắp của các giống thí
nghiệm vụ Xuân và vụ Đông 2013 tại Tuyên Quang 40
Bảng 3.4. Số lá trên cây và chỉ số diện tích lá của các giống ngô thí nghiệm vụ
Xuân và vụ Đông 2013 tại Tuyên Quang 42
Bảng 3.5. Tỷ lệ nhiễm sâu bệnh của các giống ngô thí nghiệm vụ Xuân và vụ
Đông 2013 tại Tuyên Quang 44
Bảng 3.6. Tỷ lệ gãy thân, đổ rễ, trạng thái cây và trạng thái bắp của các giống
ngô thí nghiệm vụ Xuân và vụ Đông 2013 tại Tuyên Quang 47
Bảng 3.7. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống ngô thí
nghiệm trong vụ Xuân 2013 tại Tuyên Quang 49
Bảng 3.8. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống ngô thí

nghiệm trong vụ Đông 2013 tại Tuyên Quang 50


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

viii
DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 3.1: Biểu đồ chiều cao cây và chiều cao đóng bắp của các giống ngô thí
nghiệm vụ Xuân và vụ Đông 2013 tại Tuyên Quang 39
Hình 3.2: Biểu đồ số lá trên cây của các giống ngô thí nghiệm vụ Xuân và vụ
Đông 2013 tại Tuyên Quang 43
Hình 3.3: Biểu đồ năng suất lý thuyết của các giống ngô thí nghiệm vụ Xuân
và vụ Đông 2013 tại Tuyên Quang 52
Hình 3.4: Biểu đồ năng suất thực thu của các giống ngô thí nghiệm vụ Xuân và
vụ Đông 2013 tại Tuyên Quang 53

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

1


1. Đặt vấn đề
, đảm bảo an ninh lương thực cho nhiều quốc gia trên
thế giới. Toàn thế giới sử dụng 17% tổng sản lượng ngô làm lương thực, các nước
sử dụng ngô làm lương thực chính như: Mozambique (93% sản lượng), Kenya
(91%), Congo (86%), Ethiopia (86%), Angola (84%), Indonesia (79%), Ấn Độ
(77%) (Ngô Hữu Tình, 2003) [23]. Không chỉ cung cấp lương thực cho con
người, ngô còn là nguồn thức ăn quan trọng cho chăn nuôi, 66% sản lượng ngô của
thế giới được dùng làm thức ăn cho chăn nuôi (Bùi Mạnh Cường, 2007)[5].

Ngoài ra ngô còn được sử dụng làm nguyên liệu cho các ngành công nghiệp
thực phẩm (sản xuất rượu, cồn, tinh bột, bánh kẹo…). Có khoảng 670 mặt hàng
được chế biến từ ngô. Hàng năm ở Mỹ sử dụng 18% tổng lượng ngô để sản xuất
tinh bột, 37% sản xuất cồn, 5,8% sản xuất bánh kẹo (Nguyễn Thế Hùng, 2006) [11].
Ở Việt Nam, ngô là cây lương thực quan trọng thứ 2 sau cây lúa và là nguồn
thức ăn chính phục vụ cho chăn nuôi. Trong những năm qua, cây ngô đã được mở
rộng diện tích, chuyển đổi cơ cấu giống, thâm canh và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật
trong canh tác để cải thiện năng suất.
Năm 2013 số liệu thống kê sơ bộ cho thấy giống lai đã chiếm khoảng 95% trong
số hơn 1 triệu ha. Diện tích ngô lai đạt 1.172,6 nghìn ha, năng suất 44,3 tạ/ha, sản
lượng 5,2 triệu tấn (Tổng cục thống kê, 2014)[26]. Tuy nhiên, năng suất ngô của
nước ta vẫn thấp hơn trung bình thế giới, năm 2013 đạt 80,3% (FAOSTAT,
2014)[38]. Nhu cầu ngô ở nước ta trong thời gian tới là rất lớn. Theo chiến lược của
Bộ Nông nghiệp & PTNT đến năm 2020 sản lượng ngô của Việt Nam cần đạt 8 - 9
triệu tấn/năm để đảm bảo cung cấp đầy đủ cho nhu cầu sử dụng trong nước và từng
bước tham gia xuất khẩu.
Diện tích trồng ngô tại tỉnh Tuyên Quang năm 2013 là 16,2 nghìn ha, năng
suất bình quân đạt 43,8 tạ/ha, chủ yếu được trồng trên đất nương rẫy, gò đồi, đất
phù sa ven sông, suối so với năng suất bình quân của cả nước (44,3 tạ/ha) thì năng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

2
suất ngô của tỉnh thấp hơn là 0,5 tạ/ha (Tổng cục thống kê, 2014)[6]. Do nhiều
nguyên nhân đặc biệt là điều kiện sinh thái có nhiều biến động trong những năm
qua nên nhiều giống chưa thích ứng kịp, năng suất đạt được chưa tương xứng với
tiềm năng của giống. Ngoài ra, chưa có bộ giống thích hợp cho từng vùng sinh thái.
Do đó một yêu cầu lớn đặt ra cho ngành sản xuất ngô nước ta nói chung và tỉnh
Tuyên Quang nói riêng, đó là phải nghiên cứu và xác định đúng những giống ngô
lai mới có năng suất cao, thích nghi tốt với điều kiện sinh thái của từng vùng, góp

phần đa dạng phong phú bộ giống ngô, nâng cao sản lượng ngô của tỉnh.
Xuất phát từ yêu cầu trên chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu
khả năng sinh trưởng, phát triển của một số giống ngô lai tại tỉnh Tuyên Quang”.
2.
xuất ngô tại Tuyên Quang.

- , phát triển của các giống ngô lai thí nghiệm.
- Đánh giá các đặc điểm hình thái và sinh lý của các giống ngô thí nghiệm.
- Đánh giá khả năng chống chịu (chống chịu sâu bệnh, chống đổ) của các
giống ngô thí nghiệm.
- Xác định các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống ngô
thí nghiệm.
4. Ý nghĩa khoa
-
Tuyên Quang.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở khoa học cho
.

ngô phục vụ sản xuất ngô tại tỉnh Tuyên Quang.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU


Trong sản xuất nông nghiệp giống là một nhân tố quyết định năng suất, chất
lượng của sản phẩm, các biện pháp kỹ thuật canh tác chỉ có thể đạt được hiệu quả
cao trên cơ sở các giống tốt. Các nhà khoa học ước tính khoảng 35 đến 50% mức

tăng năng suất hạt của các cây lương thực trên thế giới là nhờ việc đưa vào sản xuất
những giống tốt. Ở nước ta, từ năm 1981 đến 1996 giống đã đóng góp cho sự tăng
sản lượng cây trồng lên 43,68%, trong khi đó yếu tố phân bón hóa học - thuốc bảo
vệ thực vật và yếu tố thủy lợi đóng góp với các tỷ lệ tương ứng là 32,57% và
31,97%, thấp hơn khoảng 10% so với giống. Sản xuất nông nghiệp thế giới ngày
nay luôn luôn phải trả lời câu hỏi: Làm thế nào để cung cấp đủ năng lượng cho 8 tỷ
người vào năm 2021 và 16 tỷ người vào năm 2030 là yêu cầu đặt ra cho xã hội loài
người. Để giải quyết vấn đề này ngoài biện pháp phát triển kỹ thuật canh tác bền
vững, đòi hỏi các nhà khoa học phải nhanh chóng tạo ra những giống ngô mới có
năng suất cao, ổn định đáp ứng được yêu cầu của một nền nông nghiệp hiện đại.
Chọn tạo các giống tốt, thích hợp với điều kiện tự nhiên và điều kiện canh tác
là cơ sở đạt được năng suất cao, ổn định với mức chi phí sản xuất thấp nhất. Giống
mới đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao năng suất và sản lượng cây
trồng, nhưng để giống phát huy hiệu quả phải sử dụng chúng hợp lý với điều kiện
khí hậu, đất đai, kinh tế xã hội từng vùng. Giống cao sản của vùng thâm canh sẽ
không cho năng suất mong muốn nếu trồng ở vùng nông nghiệp quảng canh, thậm
chí hiệu quả kinh tế còn thấp hơn sử dụng giống địa phương.Vì vậy, xác định bộ
giống thích hợp với mỗi vùng sinh thái là rất cần thiết.
Do điều kiện sinh thái và trình độ canh tác của các vùng khác nhau nên giống
mới phải qua quá trình đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển, khả năng thích
nghi, tính ổn định, độ đồng đều trước khi mở rộng sản xuất.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

4
1.2. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.1. Tình hình sản xuất ngô trên thế giới
Ngô là cây lương thực quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, mặc dù chỉ đứng
thứ ba về diện tích sau lúa nước và lúa mì, nhưng ngô lại dẫn đầu về năng suất và
sản lượng, là cây trồng có tốc độ tăng trưởng về năng suất cao nhất trong các cây

lương thực chủ yếu. Ngô còn là cây điển hình được ứng dụng nhiều thành tựu khoa
học về các lĩnh vực di truyền học, chọn giống, công nghệ sinh học, cơ giới hoá, điện
khí hoá và tin học vào công tác nghiên cứu và sản xuất. Do vậy diện tích, năng suất
ngô liên tục tăng trong những năm gần đây.
Bảng 1.1. Tình hình sản xuất ngô thế giới giai đoạn 1961 - 2013
Năm
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(triệu tấn)
1961
105,48
19,4
205,00
2004
147,47
49,45
729,21
2005
147,44
48,42
713,91
2006
148,61
47,53
706,31
2007
158,60

49,63
788,11
2008
161,01
51,09
822,71
2009
156,93
50,04
790,18
2010
162,32
51,55
820,62
2011
170,39
51,84
883,46
2012
177,39
49,16
872,06
2013
184,24
55,17
1016,43
Nguồn: Số liệu thống kê của FAOSTAT, 2014[38]
Qua bảng số liệu trên cho thấy, năm 1961, năng suất ngô trung bình của thế
giới chỉ đạt sấp xỉ 20 tạ/ha nhưng đến năm 2004 năng suất ngô trên thế giới đã đạt
49,45 tạ/ha. Năm 2011, diện tích trồng ngô gieo trồng với 170,4 triệu ha, năng suất

đạt 51,95 tạ/ha và sản lượng đạt 883,46 triệu tấn. Đến năm 2013 năng suất và sản
lượng đạt cao nhất từ trước tới nay (năng suất 55,17 tạ/ha; sản lượng đạt 1016,43

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

5
triệu tấn. Đặc biệt, từ năm 1996 đến nay, cùng với những thành tựu mới trong chọn
tạo giống ngô lai nhờ kết hợp phương pháp truyền thống với công nghệ sinh học thì
việc ứng dụng công nghệ cao trong canh tác cây ngô đã góp phần đưa sản lượng
ngô thế giới vượt lên trên lúa mì và lúa nước.
Như vậy sản xuất ngô của thế giới ngày càng phát triển nhưng tập trung và
phân bố không đều ở các khu vực.
Bảng 1.2. Tình hình sản xuất ngô ở một số châu lục trên thế giới năm 2013
Khu vực
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(triệu tấn)
Châu Á
59,40
51,23
304,32
Châu Mỹ
70,84
73,82
522,90
Châu Âu
18,97

61,92
117,48
Châu Phi
34,93
20,33
71,01
Nguồn: FAOSTART, 2014[38]
Số liệu bảng 1.2 cho thấy:
Châu Mỹ là khu vực có diện tích trồng ngô lớn nhất thế giới với 70,84 triệu
ha, đồng thời đây cũng là châu lục có năng suất và sản lượng ngô cao nhất. Năm
2013 năng suất ngô đạt 73,82 tạ/ha, năng suất bình quân của thế giới chỉ bằng
74,73% năng suất của châu lục này. Sản lượng đạt 522,90 triệu tấn- chiếm hơn 51%
sản lượng ngô trên toàn thế giới. Sau châu Mỹ là châu Á có diện tích trồng ngô lớn
thứ 2 với 59,40 triệu ha, nhưng năng suất của khu vực này chỉ đạt 51,23 tạ/ha, thấp
hơn so với năng suất trung bình của thế giới, sản lượng của châu Á cũng đứng thứ 2
sau châu Mỹ. Châu Âu đứng thứ 2 trên thế giới về năng suất đạt 61,92 tạ/ha nhưng
lại là khu vực có diện tích trồng ngô thấp nhất (chỉ 18,97 triệu ha), châu Phi có diện
tích đứng thứ 3 trên thế giới nhưng có năng suất ngô rất thấp, chỉ đạt 20,33 tạ/ ha
thấp hơn gần 3 lần so với năng suất bình quân của thế giới, do đó sản lượng ngô của
khu vực này cũng thấp nhất. Nguyên nhân của sự phát triển không đồng đều giữa
các châu lục trên thế giới là do sự khác nhau rất lớn về trình độ khoa học kỹ thuật,
điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế chính trị …

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

6
Ở châu Mỹ có trình độ khoa học phát triển cao trong khi Châu Phi nền kinh tế
kém phát triển cộng thêm tinh hình chính trị an ninh không đảm bảo đã làm cho sản
xuất nông nghiệp ở khu vực này tụt hậu so với nhiều khu vực trên thế giới (Nguồn
FAOSTAT, 2014)[74].

Hiện nay tình hình sản xuất ngô của một số nước trên thế giới cũng đã có
nhiều thay đổi, thể hiện cụ thể qua số liệu bảng 1.3.
Bảng 1.3. Tình hình sản xuất ngô của một số nƣớc trên thế giới năm 2013
Nƣớc
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(nghìn tấn)
Mỹ
35,48
99,69
353,70
Trung Quốc
35,26
61,75
217,73
Braxin
15,32
52,58
80,54
Mexicô
7,10
31,94
22,66
Ấn Độ
9,50
24,52
23,29

Ý
0,80
80,96
6,50
Đức
0,50
88,28
4,39
Hy Lạp
0,19
115,00
2,18
Israel
0,005
225,56
0,11
Nguồn: Số liệu thống kê của FAOSTAT, 2014[38]
Phần lớn các nước phát triển năng suất ngô tăng không đáng kể nhưng năng
suất ngô ở Mỹ lại tăng đột biến. Kết quả đó có được là nhờ ứng dụng công nghệ
sinh học trong sản xuất (Minh-Tang Chang, Peter, 2005) [40], ở Mỹ chỉ còn sử
dụng 48% giống ngô được chọn tạo theo công nghệ truyền thống, 52% bằng công
nghệ sinh học. Do vậy mà năng suất, sản lượng ngô của Mỹ đạt cao nhất, sau đó
đến Trung Quốc, Brazil, Ấn Độ,
Theo FAO, việc sản xuất và tiêu thụ ngô trên thế giới đang có sự mất cân đối
giữa cung và cầu dẫn đến tình trạng các nước nhập khẩu ngô tăng dần, các nước
xuất khẩu ngô giảm dần từ nay đến những năm đầu thế kỷ XXI. Xuất khẩu ngô đã
đem lại nguồn lợi lớn cho các nước lớn sản xuất ngô như Mỹ, Trung Quốc,
Achentina, Hungari,… (trích theo Ngô Hữu Tình, 2003)[23].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


7
Trung Quốc được xem là cường quốc đứng thứ hai trên thế giới, sau Mỹ, và
đứng thứ nhất trong khu vực châu Á trong lĩnh vực sản xuất ngô lai với tốc độ tăng
trưởng ngày càng tăng.Hiện nay, Mỹ và Trun
, Đức, Hy Lạp, Ix-ra-en, mặc dù năng suất ngô cao nhưng sản
lượng vẫn còn thấp do diện tích trồng ngô chưa được mở rộng.
Những quốc gia đi đầu về năng suất ngô như: Israel 225,56 tạ/ha, Kuwait
211,1,0 tạ/ha, Netherlands 123,4 tạ/ha, Qatar 130 tạ/ha, Tajikistan 121,9 tạ/ha
Những nước có diện tích trồng ngô lớn là: Mỹ 35,48 triệu ha, Trung Quốc 35,26
triệu ha, Brazil 15,32 triệu ha… (FAOSTAT, 2014) [38]. Các nước này đã đóng góp
rất lớn đối với sản lượng ngô của thế giới, trong đó Mỹ là nước có đóng góp lớn
nhất và luôn là nước dẫn đầu về sản xuất ngô. Theo số liệu của trường Đại học
Tổng hợp Nebraska (2005) lý do năng suất ngô ở Mỹ tăng lên trong 50 năm qua là
50% do cải tạo nền di truyền của các giống lai, 50% do cải thiện chế độ canh tác.
Ngoài ra một trong những lý do năng suất ngô ở Mỹ tăng cao là nhờ việc áp dụng
ngô chuyển gen vào sản xuất.
Trên thị trường quốc tế ngô đứng đầu trong danh sách những mặt hàng có giá trị
khối lượng hàng hóa giao dịch ngày càng tăng, tỷ trọng lưu thông lớn, thị trường tiêu
thụ rộng và nhu cầu ngày càng cao. Sở dĩ nhu cầu ngô tăng mạnh là do dân số thế giới
tăng nên nhu cầu về thịt, cá, trứng, sữa tăng mạnh dẫn đến đòi hỏi lượng ngô dùng
trong chăn nuôi tăng. Hơn nữa trong những năm gần đây khi nguồn dầu mỏ đang cạn
kiệt thì ngô được coi là nguồn nguyên liệu chính để chế biến ethanol, một loại nhiên
liệu sạch dùng để thay thế một phần nguyên liệu xăng dầu. Trong bối cảnh giá xăng
dầu đang liên tiếp lập những kỷ lục mới, nhiên liệu sinh học đang trở nên hấp dẫn hơn
bao giờ hết. Tại Mỹ, nước sản xuất ethanol lớn nhất thế giới, 1/4 sản lượng ngô được
dùng để sản xuất ethanol, như vậy chỉ riêng lượng ngô dùng cho chương trình ethanol
của Mỹ đã tương đương hơn một nửa nhu cầu ngũ cốc của thế giới.
1.2.2. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam
Ở nước ta, ngô là cây trồng nhập nội được đưa vào Việt Nam khoảng 300 năm

và đã trở thành một trong những cây trồng quan trọng trong hệ thống cây lương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

8
thực quốc gia (Ngô Hữu Tình và cộng sự, 1997) [25]. Cây ngô đã khẳng định vị trí
trong sản xuất nông nghiệp và trở thành cây lương thực quan trọng đứng thứ hai sau
cây lúa đồng thời là cây màu số một, góp phần đáng kể trong việc giải quyết lương
thực tại chỗ cho người dân Việt Nam, nhờ những đặc tính sinh học ưu việt như khả
năng thích ứng rộng, chịu thâm canh, đứng đầu về năng suất, trồng được ở nhiều
vùng sinh thái và ở các vụ khác nhau trong năm, từ đó diện tích trồng ngô nhanh
chóng được mở rộng ra khắp cả nước, đặc biệt là các vùng Trung du và miền núi
phía Bắc. Trong hơn mười năm trở lại đây, những thành công trong công tác nghiên
cứu và sử dụng các giống ngô lai được coi là cuộc cách mạng thực sự trong ngành
sản xuất ngô ở Việt Nam. Những thành tựu nghiên cứu về cây ngô đã thay đổi sâu sắc
tập quán trồng ngô ở Việt Nam và đã có những đóng góp nhất định cho mục tiêu phát triển
cây ngô ở nước ta. 1991, diện tích trồng ngô lai ở nước ta chỉ đạt 1%
tổng diện tích trồng ngô, nhưng đến năm 2011, giống ngô lai đã chiếm khoảng 95%
trong tổng số hơn 1 triệu ha trồng ngô. Trong đó giống được cung cấp do các cơ
quan nghiên cứu trong nước chọn tạo và sản xuất chiếm khoảng 50 - 55%, còn lại là
của các công ty hạt giống ngô lai hàng đầu thế giới. Một số giống ngô lai được dùng
chủ yếu ở vùng núi hiện nay như LVN99, LVN4, LVN61, DK888, DK999, B9698,
NK54, NK4300, NK66, NK67, VN8960
Năng suất ngô nước ta tăng nhanh liên tục với tốc độ cao hơn trung bình thế
giới trong suốt hơn 20 năm qua. Số liệu bảng 1.5 cho thấy sản xuất ngô của nước ta
tăng nhanh về diện tích, năng suất và sản lượng trong giai đoạn 2004- 2013. Năm
2004 cả nước trồng được 991,1 nghìn ha, năm 2013 là 1.172,6 nghìn ha, tăng hơn
181,5 nghìn ha so với năm 2004. Việc tăng cường sử dụng giống ngô lai cho năng
suất cao kết hợp với các biện pháp kỹ thuật canh tác tiên tiến, áp dụng những thành
tựu khoa học đã khiến cho năng suất ngô liên tục tăng trong giai đoạn 2004- 2013

(từ 34,6 tạ/ha lên 44,3 tạ/ha). Sản lượng ngô năm 2013 đã tăng so với năm 2012 lên
mức 5.193,5 nghìn tấn. Tuy diện tích, năng suất và sản lượng ngô của chúng ta đều
tăng nhanh nhưng so với bình quân chung của thế giới và khu vực thì năng suất ngô
của nước ta còn rất thấp (năm 2011 năng suất ngô của Việt Nam 46,8 tạ/ha, bằng
90,27% năng suất bình quân của thế giới, nhưng đến năm 2013 năng suất ngô giảm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

9
nhẹ xuống còn 44,3 tạ/ha. Điều này đặt ra cho ngành sản xuất ngô Việt Nam những
thách thức và khó khăn to lớn, đặc biệt là trong xu thế hội nhập và phát triển như
hiện nay. Đòi hỏi đội ngũ chuyên môn cũng như các nhà khoa học trong cả nước
tiếp tục lỗ lực, nghiên cứu ra những giống ngô va biện pháp kỹ thuất canh tác hiệu
quả để nâng cao năng suất và chất lượng của sản xuất ngô Việt Nam, góp phần vào
sự phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam (FAOSTAT, 2014) [74].
Bảng 1.4. Tình hình s 1975 - 2013
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(nghìn tấn)
1975
276,6
10,42
278,4
1980
389,6
11,00

428,8
1985
392,2
14,90
584,9
1990
431,8
15,50
671,0
1995
556,8
21,3
1.184,2
2000
730,2
27,50
2.005,9
2005
1.052,6
36,0
3.787,1
2006
1.033,1
37,30
3.854,6
2007
1.096,1
39,30
4.303,2
2008

1.125,9
40,20
4.531,2
2009
1.086,8
40,80
4.431,8
2010
1.125,7
41,10
4.625,7
2011
1.117,2
42,90
4.799,3
2012
1.118,2
42,90
4.803,2
2013
1.172,6
44,3
5.193,5
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2014[26]
Có thể nói tốc độ phát triển ngô lai ở Việt Nam rất nhanh so với lịch sử phát
triển ngô lai trên thế giới. Đây là bước tiến vượt bậc so với một số nước trong vùng,
kết quả này đã được CIMMYT và nhiều nước đánh giá cao. Hiện nay nhiều tỉnh có
diện tích trồng ngô lai đạt gần 100% như; Đồng Nai, An Giang, Trà Vinh, Bà Rịa -

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


10
Vũng Tàu, Sơn La, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Sự phát triển ngô lai ở Việt Nam đã được
CIMMYT và FAO cũng như các nước trong khu vực đánh giá cao (CIMMYT,
IITA, 2010). Việt Nam đã đuổi kịp các nước trong khu vực về trình độ nghiên cứu
tạo giống ngô lai và đang ở giai đoạn đầu đi vào công nghệ cao (công nghệ gen,
nuôi cấy bao phấn và noãn) (Ngô Hữu Tình, 2003)[23].
Một thực trạng đặt ra hiện nay là mặc dù diện tích, năng suất và sản lượng ngô
của nước ta đều tăng nhanh nhưng so với bình quân chung của thế giới năng suất ngô
nước ta còn rất thấp, mặt khác nhu cầu sử dụng ngô của Việt Nam ngày càng lớn.
Vấn đề này đặt ra nhiệm vụ rất quan trọng và cấp thiết cho các cơ quan nghiên cứu
chọn tạo giống là tạo ra các giống ngô có năng suất cao, chống chịu tốt đồng thời đáp
ứng được cả yêu cầu về chất lượng.
Bảng 1.5. Tình hình sản xuất ngô ở các vùng năm 2013
Vùng
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(nghìn tấn)
Đồng bằng sông Hồng
88,3
46,1
406,7
Trung du và miền núi phía Bắc
505,8
37,6
1.904,2
Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung

205,6
43,2
888,9
Tây nguyên
252,4
51,7
1.306,1
Đông Nam bộ
80,1
57,6
461,5
ĐB sông Cửu Long
40,3
56,1
226,1
Nguồn: Tổng cục thống kê, năm 2014[26]
Vùng Trung du và miền núi phía Bắc tuy diện tích sản xuất ngô lớn nhất (505,8
nghìn ha) nhưng năng suất lại thấp nhất trong cả nước (37,6 tạ/ha). Ngược lại vùng
đồng bằng sông Cửu Long diện tích sản xuất nhỏ nhất (40,3 nghìn ha), nhưng lại cho
năng suất cao (56,1 tạ/ha) thứ 2 chỉ sau Đông Nam Bộ (57,6 tạ/ha). Sự trái ngược này
có thể được giải thích do nhiều nguyên nhân: Vùng Trung du và miền núi phía Bắc tuy
có diện tích lớn song chủ yếu tập trung ở các vùng miền núi, diện tích rải rác nhỏ lẻ
thuộc các vùng dân tộc ít người. Họ không có đủ điều kiện đầu tư về vốn cũng như các
biện pháp kỹ thuật canh tác phù hợp mà chủ yếu canh tác theo lối truyền thống lạc hậu.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

11
Cộng thêm vào đó là các điều kiện đất đai nghèo dinh dưỡng, khí hậu khắc nghiệt với
hạn hán và rét kéo dài vào mùa đông, lượng mưa phân bố không đều trong năm dẫn tới

năng suất thấp.
Tuy nhiên, với ưu thế về diện tích (chiếm 43,14% diện tích của cả nước) nên sản
lượng chung của vùng vẫn cao hơn các vùng khác, đạt 1.904,2nghìn tấn chiếm 36,67%
sản lượng của cả nước và trở thành một trong những vùng sản xuất ngô trọng điểm
cung cấp lượng ngô lớn nhất cả nước.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long có năng suất cao nhất đạt 56,1 tạ/ha bằng
126,7% năng suất trung bình của cả nước do vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi,
phù hợp với yêu cầu sinh trưởng, phát triển của cây ngô như: nhiệt độ bình quân cao
25 - 30
o
C, nguồn ánh sáng dồi dào, hệ thống thủy lợi đảm bảo nhu cầu tưới tiêu, nền
đất có độ phì nhiêu cao. Tất cả các điều kiện tự nhiên kết hợp với các biện pháp kỹ
thuật canh tác phù hợp đã dẫn tới sự tăng vọt năng suất trung bình của vùng.
Tây Nguyên cũng được xem là trọng điểm sản xuất ngô của cả nước với diện
tích 252,4 nghìn ha đứng thứ 2 sau vùng trung du và miền núi phía Bắc. Năng suất
trung bình đạt 51,7 tạ/ha. Đứng thứ 3 sau vùng Đông Nam Bộ và đồng bằng sông
Cửu Long. Do có diện tích và năng suất khá cao nên sản lượng ngô năm 2013 thu
được là 1306,1 nghìn tấn đứng thứ hai của cả nước.
Các giống ngô nếp có tiềm năng năng suất cao đã và đang được phát triển ở
những vùng ngô trọng điểm, vùng thâm canh, có thuỷ lợi, những vùng đất tốt như:
đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên.
Tuy nhiên, ở các tỉnh miền núi, những vùng khó khăn, canh tác chủ yếu nhờ nước
trời, đất xấu, đầu tư thấp thì giống ngô thụ phấn tự do chiếm ưu thế và chiếm một
diện tích khá lớn.
Mặc dù có sự phát triển không đồng đều giữa các vùng sản xuất ngô ở Việt
Nam nhưng từ những kết quả đã đạt được chúng ta vẫn có thể khẳng định sản xuất
ngô của Việt Nam trong giai đoạn đổi mới, từ năm 1985 - 2013 đã có sự phát triển
vượt bậc. Sở dĩ chúng ta đạt được những thành quả to lớn trong phát triển sản xuất
ngô là do Đảng, Nhà nước và Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn thấy được
vai trò của cây ngô trong nền kinh tế và kịp thời đưa ra những chính sách, biện pháp


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

12
phù hợp nhằm khuyến khích sản xuất. Các nhà khoa học đã nhạy bén đưa những
tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt về giống mới vào sản xuất.
Từng thế hệ giống tốt thay thế nhau qua từng giai đoạn lịch sử: giống thụ phấn
tự do tốt thay thế cho các giống địa phương năng suất thấp, giống lai quy ước thay
cho các giống lai không quy ước, lai đơn thay dần cho lai kép, lai ba và không thể
không kể đến vai trò của những người nông dân có trình độ về kỹ thuật đã tiếp thu
và ứng dụng nhanh chóng những tiến bộ KHKT mới với những cải tiến rất hiệu quả,
phù hợp với địa phương và điều kiện cụ thể của mình làm tăng thêm sự ưu việt của tiến
bộ KHKT.
1.2.3. Tình hình sản xuất ngô ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc
Vùng Trung du và miền núi phía Bắc gồm 14 tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc
Kạn, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú
Thọ, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình).
Ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc, ngô là cây lương thực chính chỉ đứng
sau cây lúa. Nhìn chung, vụ ngô chính trong vùng là vụ Xuân Hè, gieo cuối tháng 2
hoặc đầu tháng 3 và thu hoạch vào cuối tháng 6 hoặc đầu tháng 7. Vụ ngô này
chiếm 65 - 70% tổng diện tích gieo trồng ngô. Ngô Thu Đông trong vùng được gieo
vào cuối tháng 7 hoặc đầu tháng 8 và thu hoạch vào tháng 11 chiếm 10 - 15%.
Ngoài hai vụ trên thì còn vụ ngô Đông được trồng sau khi thu hoạch lúa mùa sớm.
Diện tích trồng ngô vụ này chiếm khoảng 15 - 20% (được trồng nhiều ở các tỉnh
Thái Nguyên, Bắc Giang, Phú Thọ).
Ba tỉnh Hà Giang, Cao Bằng và Lào Cai có diện tích ngô lớn hơn diện tích lúa.
(Tổng cục thống kê, 2014)[26].
Khác với cây lúa, cây ngô có thể phát triển ở cả những vùng đất có độ dốc 15 -
20% nên nó có vị trí quan trọng, góp phần tích cực thay đổi cơ cấu cây trồng trên
đất dốc, thay thế nhanh chóng diện tích trồng cây lúa nương và cây sắn trong sản

xuất nông nghiệp.
Ngô là cây trồng truyền thống của đồng bào các dân tộc miền núi, mặt khác do
dễ trồng, dễ bảo quản và tiêu thụ hơn các cây trồng khác nên diện tích ngô vùng
Trung du và miền núi phía Bắc tăng dần hàng năm (Tổng cục thống kê, 2014)[26]
Diện tích ngô tăng chủ yếu do tăng vụ trên đất một vụ lúa mùa (ruộng bậc thang) và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

13
tăng diện tích trồng ngô vụ 2. Do sử dụng giống ngô lai và tăng đầu tư phân bón đã
giúp năng suất ngô tăng và lợi nhuận của nông dân trồng ngô tăng dần.
Các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc hàng năm luôn phải đối mặt với tình
hình khô hạn, mặc dù là nơi đất rộng người thưa nhưng cuộc sống của đồng bào các
dân tộc nhìn chung còn rất nhiều khó khăn, tỷ lệ nghèo đói vẫn rất cao. Chuyển đổi
cơ cấu cây trồng và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật là giải pháp tối ưu để
phát triển sản xuất nông nghiệp.
Nhiều giống ngô lai có năng suất cao: LVN10, CP888, CP999, B9698,
NK4300, DK414, C919… đã mang lại thu nhập cao, góp phần không nhỏ xoá đói
giảm nghèo cho người dân.
Nhìn chung diện tích ngô tăng chủ yếu là trên đất gò đồi, ruộng một vụ, soi
bãi… lại chống chịu được hạn tốt. Từ những cơ sở khoa học đó, nhất là những diễn
biến phức tạp của thời tiết, hạn hán kéo dài, Bộ NN và PTNT đã khuyến cáo các địa
phương cần chuyển đổi quyết liệt và mạnh mẽ hơn nữa một phần diện tích lúa
không đủ nước tưới sang các cây trồng cạn, tiết kiệm nước nhưng vẫn mang lại hiệu
quả kinh tế cao.
Việc mở rộng diện tích được tưới chủ động cho cây trồng ở vùng núi cao là
vấn đề khó khăn vì địa hình canh tác trên nền đất dốc, nương rẫy và sườn núi,
nguồn nước tưới ở xa; nông dân nghèo thiếu vốn đầu tư; chi phí xây dựng công
trình tưới nước lớn hơn nhiều so với vùng đồng bằng.
Như vậy, chủ yếu diện tích ngô trong vùng được trồng ở vùng cao nhờ nước

trời, chỉ có một phần nhỏ diện tích ở vùng thấp là có tưới. Vì vậy, giải pháp tối ưu
cho việc nâng cao năng suất và sản lượng ngô ở vùng này là sử dụng các giống ngô
chịu hạn và áp dụng các biện pháp kỹ thuật mới.
Đặc biệt một thách thức lớn đang được đặt ra cho ngành sản xuất ngô thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng đó là tình trạng thay đổi khí hậu toàn cầu:
thiên tai, lũ lụt, hạn hán… xảy ra với mức độ ngày càng nghiêm trọng hơn.
Trong khi thế giới lại đang đứng trước nguy cơ bùng nổ dân số, nhu cầu lương
thực ngày càng tăng cao. Riêng với Việt Nam, một vấn đề đáng được quan tâm
và chú trọng trong thời gian tới đó là công tác giống và cải thiện các biện pháp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

14
kỹ thuật sao cho phù hợp như: mật độ, khoảng cách, phân bón, thời vụ, phòng trừ
sâu bệnh hại và bảo quản sau thu hoạch.
1.2.4. Tình hình sản xuất ngô ở Tuyên Quang
Tuyên Quang là tỉnh thuộc vùng núi Đông Bắc của Việt Nam, là cửa ngõ giao lưu
kinh tế xã hội giữa vùng Trung du miền núi với vùng Đồng bằng Bắc bộ. Diện tích tự
nhiên của tỉnh Tuyên Quang là 5.868 km
2
chiếm 1,78% diện tích cả nước, dân số
728.900 nghìn người (Tổng cục thống kê, 2014) [26].
Tuyên Quang có tổng diện tích đất nông nghiệp là 62.000 ha. Để đảm bảo an
ninh lương thực và phát triển chăn nuôi, cây ngô được coi là một trong những cây
trồng chính trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh.
Sản xuất Nông nghiệp của Tuyên Quang nói chung và sản xuất ngô nói
riêng gặp rất nhiều khó khăn về thủy lợi và giao thông vận chuyển. Cây ngô được
trồng 3 vụ trong năm (vụ Đông Xuân, vụ Xuân, vụ Thu Đông) trên tất cả các loại
đất: đất nương rẫy, gò đồi, đất phù sa ven sông, suối
Những năm 1995 trở về trước, sản xuất ngô chủ yếu trồng các giống thụ phấn tự

do, giống địa phương có thời gian sinh trưởng dài, năng suất thấp. Cùng với sự chuyển
biến của đất nước, sau một thời gian, với sự nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân
dân địa phương, có sự tham gia tích cực của đội ngũ các nhà khoa học kỹ thuật, Tuyên
Quang đã mạnh dạn thay đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng những tiến bộ của khoa học kỹ
thuật đặc biệt là thay thế các giống ngô địa phương bằng các giống ngô lai năng suất
cao như: LVN10, LVN11, LVN12 và một số giống ngô nhập nội như: Bioseed 9607,
DK999, NK4300, NK67…
Giống ngô NK67 là giống đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
công nhận chính thức và được bà con nông dân trên địa bàn tỉnh chấp nhận.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

15
.
Bảng 1.6. Tình hình sản xuất ngô ở Tuyên Quang 2005 – 2013
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(nghìn tấn)
2005
14,7
40,7
59,8
2006
14,5
38,8
56,3

2007
17,7
41,1
73,3
2008
16,2
41,2
66,7
2009
14,8
42,4
62,6
2010
16,6
42,3
70,2
2011
16,3
43,8
72,4
2012
14,0
43,1
60,4
2013
16,2
43,8
70,9
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2014 [26]
Sản xuất ngô ở Tuyên Quang đã có sự thay đổi rất lớn trong thời gian qua.

Năm 2005 diện tích trồng ngô của Tuyên Quang là 14,7 nghìn ha, năng suất đạt
40,7 tạ/ha và sản lượng đạt 59,8 nghìn tấn.
Diện tích, năng suất, sản lượng không ngừng tăng lên từ 2005- 2013 và giảm
nhẹ trong năm 2012 xuống còn 14,0 nghìn ha, năng suất đạt 43,1 tạ/ha và sản
lượng đạt 60,4 nghìn tấn. Năm 2013 năng suất đạt 43,8 tạ/ha, sản lượng đạt 70,9
nghìn tấn.

1.2.1. Nghiên cứu ngô lai trên thế giới
. Sau khi Columbus mang ngô về
châu Âu, giá trị lương thực của cây ngô đã được khẳng định. Nhưng phải tới thế kỷ

×