Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

luận văn thạc sĩ nghiên cứu khả năng sinh trưởng phát triển của một số giống ngô lai tại thành phố hà giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 100 trang )

Số hóa bởi trung tâm học liệu

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



NGUYỄN DUY HẠNH



NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG,
PHÁT TRIỂN CỦA MỘT SỐ GIỐNG NGÔ LAI
TẠI THÀNH PHỐ HÀ GIANG”

Chuyên ngành: Khoa học cây trồng
Mã số: 60 62 01 10


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Luân Thị Đẹp





Thái Nguyên - năm 2013



Số hóa bởi trung tâm học liệu


i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi nghiên cứu. Tất cả các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa có ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Mọi trích dẫn trong luận văn đã được
ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả



Nguyễn Duy Hạnh






















Số hóa bởi trung tâm học liệu


ii
LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của
cô giáo hướng dẫn, cơ quan chủ quản, Trung tâm nghiên cứu và sản xuất
giống ngô Sông Bôi – Viện nghiên cứu ngô và các cá nhân trong và ngoài
nước. Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Luân Thị Đẹp, với cương vị người
hướng dẫn khoa học đã tận tâm hướng dẫn tôi trong suốt thời gian tôi thực
hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Phòng quản lý Đào
tạo Sau Đại học, khoa Nông học, trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên,
những người đã truyền thụ cho tôi những kiến thức và phương pháp nghiên
cứu quý báu trong suốt thời gian tôi học tập tại trường.
Và cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới gia đình, bạn bè và
đồng nghiệp, những người luôn quan tâm giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học
tập và nghiên cứu vừa qua.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2013
Tác giả luận văn




Nguyễn Duy Hạnh




Số hóa bởi trung tâm học liệu


iii
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục đích 3
3. Yêu cầu 3
4. Ý nghĩa của đề tài 3
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài 4
1.2. Tình hình sản xuất và nghiên cứu ngô trên thế giới 5
1.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ ngô trên thế giới 5
1.3. Tình hình sản xuất và nghiên cứu ngô ở Việt Nam 13
1.3.1. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam 13
1.3.2. Tình hình nghiên cứu và chọn tạo giống ngô lai ở Việt Nam 15
1.3.3. Tình hình sản xuất ngô ở Hà Giang 22
1.3.4. Định hướng nghiên cứu phát triển ngô lai trong thời gian tới của
tỉnh Hà Giang 24
Chƣơng 2:VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU27
2.1. Vật liệu nghiên cứu thí nghiệm 27

2.2. Địa điểm, thời gian 27
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu 27
2.2.2. Thời gian nghiên cứu thí nghiệm 27
2.3. Nội dung nghiên cứu thí nghiệm 28
2.4. Phương pháp nghiên cứu thí nghiệm 28
2.4.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm 28
2.4.2. Quy trình kỹ thuật áp dụng trong thí nghiệm 29
2.4.3. Chỉ tiêu và phương pháp theo dõi 30


Số hóa bởi trung tâm học liệu


iv
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 36
3.1. Một số đặc điểm sinh trưởng của các giống ngô thí nghiệm 36
3.1.1. Các giai đoạn sinh trưởng chính của các giống ngô thí nghiệm 36
TT 37
3.1.2. Một số đặc điểm hình thái và sinh lý của các giống ngô thí nghiệm41
3.2. Tình hình sâu bệnh hại và khả năng chống đổ của các giống ngô thí nghiệm 48
3.2.1. Tình hình sâu bệnh hại 48
3.2.2. Tỷ lệ đổ gãy của các giống ngô thí nghiệm 54
3.3. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất 55
3.3.1. Số bắp trên cây 57
3.3.2. Số hàng trên bắp 57
3.3.3. Số hạt trên hàng 57
3.3.4. Khối lượng 1000 hạt 58
3.3.5. Năng suất lý thuyết 59
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 62
1. Kết luận 62

2. Đề nghị 62

Số hóa bởi trung tâm học liệu


v
DANH MỤC CÁC CỤM, TỪ VIẾT TẮT


CSDTL : Chỉ số diện tích lá
DTL : Diện tích lá
CV : Hệ số biến động
CIMMYT : Trung tâm cải tạo giống ngô và lúa mỳ Quốc tế
FAO : Tổ chức lương thực và nông nghiệp
Liên hiệp quốc
IPRI : Viện nghiên cứu chương trình lương thực
thế giới
LSD
0,05
: Sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa ở mức 0,05
NSTT : Năng suất thực thu
NSLT : Năng suất lý thuyết
P : Xác suất
P
1000

hạt : Khối lượng 1000 hạt
TPTD : Thụ phấn tự do
ƯTL : Ưu thế lai



Số hóa bởi trung tâm học liệu


vi
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1: Diện tích, năng suất, sản lượng ngô, lúa mỳ và lúa nước 5
Bảng 1.2: Tình hình sản xuất ngô của thế giới trong giai đoạn 2003 - 2012 6
Bảng 1.3: Sản xuất ngô ở một số châu lục trên thế giới năm 2012 7
Bảng 1.4: Dự báo nhu cầu ngô thế giới đến năm 2020 9
Bảng 1.5: Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam trong giai đoạn 2003 - 2012 14
Bảng 1.6. Tình hình sản xuất ngô ở Hà Giang giai đoạn 2003 – 2012 23
Bảng 3.1: Các giai đoạn sinh trưởng chính của các giống ngô thí
nghiệm 37
Bảng 3.2: Chiều cao cây, chiều cao đóng bắp của các giống ngô thí
nghiệm vụ Xuân 2012 và vụ Xuân năm 2013 41
Bảng 3.3: Số lá và chỉ số diện tích lá của các giống ngô thí nghiệm
vụ Xuân 2012 và vụ Xuân 2013 43
Bảng 3.4: Trạng thái cây, trạng thái bắp và độ bao bắp của các giống
ngô thí nghiệm vụ Xuân 2012 và vụ Xuân 2013 46
Bảng 3.5: Tình hình nhiễm sâu hại của các giống ngô thí nghiệm 49
Bảng 3.6: Tình hình nhiễm bệnh của các giống ngô thí nghiệm 52
Bảng 3.7: Khả năng chống đổ của các giống ngô thí nghiệm 54
Bảng 3.8: Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các giống
ngô thí nghiệm vụ Xuân năm 2012 56
Bảng 3.9: Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các giống
ngô thí nghiệm vụ Xuân năm 2013 56
Bảng 3.10: Kết quả thử nghiệm giống SB 12-2 vụ Xuân 2013 60




Số hóa bởi trung tâm học liệu


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây ngô (Zea mays L.) là cây lương thực quan trọng trong nền kinh
tế toàn cầu bên cạnh lúa mì và lúa nước. Cây ngô được coi là nguồn cung
cấp lương thực chính cho con người. Ngoài ra, ngô còn được biết đến với
vai trò quan trọng trong ngành chăn nuôi, công nghiệp và nguồn hàng
xuất khẩu.
Trong chăn nuôi: Bên cạnh làm lương thực, ngô con là nguồn thức ăn
gia súc vô cùng quan trọng, có tới 70% chất tinh trong thức ăn của gia súc là
từ ngô. Ngoài ra, ngô còn làm thức ăn xanh và ủ chua lý tưởng cho đại gia súc
đặc biệt là bò sữa. Ở các nước phát triển, tỉ lệ ngô làm thức ăn cho chăn nuôi
chiếm > 70%, như Mỹ 76%, Bồ Đào Nha 91%, Italia 93%, Trung Quốc 76%,
Malaixia 91%, Thái Lan 96% và nước ta là xấp xỉ 90% (trích theo Ngô Hữu Tình,
1997)[14].
Trong công nghiệp: Ngô đã được sử dụng làm nguyên liệu cho sản xuất
thức ăn chăn nuôi tổng hợp, nguyên liệu cho ngành công nghiệp thực phẩm
như sản xuất rượu, cồn, tinh bột Từ ngô người ta đã sản xuất ra khoảng 670
mặt hàng để phục vụ cho các ngành kinh tế khác nhau. Hơn nữa, cùng với sự
phát triển của khoa học- công nghệ, ngô còn được sử dụng để chế biến sinh
học- Ethanol, nguồn nay được dùng để thay thế trong tương lai khi nguồn
nguyên liệu tự nhiên bị cạn kiệt. Ngoài ra, ngô còn là nguồn thực phẩm có giá
trị dinh dưỡng cao như ngô rau bao tử.
Ở Việt Nam, cây ngô chiếm một vị trí khá quan trọng trong hệ thống cây

trồng, chỉ đứng sau cây lúa, cây ngô đang dần được coi là cây trồng chính
cung cấp nguồn lương thực và nguyên liệu phục vụ cho các ngành kinh tế
khác. Trong những năm gần đây, cây ngô đã và đang được Đảng và Nhà nước
ta chú trọng phát triển. Tuy nhiên, năng suất ngô của nước ta vẫn thấp hơn

Số hóa bởi trung tâm học liệu


2
trung bình thế giới, năm 2012 đạt 86,9% (42,95/49,44 tạ/ha) và bằng 55,5% so
với Mỹ (77,4 tạ/ha) (FAOSTAT, 2013)[24]. Nhu cầu ngô ở nước ta trong thời
gian tới là rất lớn. Theo chiến lược của Bộ Nông nghiệp & PTNT đến năm
2020 sản lượng ngô của Việt Nam cần đạt 8 - 9 triệu tấn/năm để đảm bảo cung
cấp đầy đủ cho nhu cầu sử dụng trong nước và từng bước tham gia xuất khẩu.
Tại Hà Giang ngô là cây trồng chính cung cấp nguồn thức ăn chính
phục vụ cho ngành chăn nuôi, ngoài ra còn là nguồn lương thực chính của
đồng bào các dân tộc Mông, Dao chủ yếu ở các huyện vùng cao như: Đồng
Văn, Mèo Vạc, Yên Minh và Quản Bạ. Tuy nhiên năng suất ngô của Hà
Giang còn thấp (năm 2012 năng suất đạt 32,1 tạ/ha) so với năng suất trung
bình của cả nước (42,9 tạ/ha). Hiện nay tỉnh Hà Giang đang tiến hành cơ cấu
lại giống ngô trong cơ cấu diện tích ngô toàn tỉnh. Tỉnh ưu tiên mở rộng giống
sản xuất trong nước chiếm 40% cơ cấu giống của các giống ngô lai, vì những
năm qua phụ thuộc nhiều vào giống sản xuất ngoài nước nên có thời điểm bị
thiếu giống.
Trung tâm nghiên cứu và sản xuất giống ngô Sông Bôi - Viện nghiên
cứu ngô là cơ quan chọn tạo giống ngô của Việt Nam. Trung tâm đã chọn tạo
được nhiều giống ngô có năng suất cao, chất lượng tốt đáp ứng được nhu cầu
sản xuất. Năng suất các giống ngô mới do Trung tâm nghiên cứu và sản xuất
giống ngô Sông Bôi - Viện nghiên cứu ngô chọn tạo tương đương với giống
ngô của các công ty nước ngoài sản xuất, khả năng chịu hạn, chịu sâu bệnh

khá hơn, giá bán thấp hơn.
Chính vì vậy, để nâng cao năng suất và sản lượng ngô đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng thì việc nghiên cứu và đưa vào sản xuất những giống ngô lai mới có
khả năng sinh trưởng, phát triển tốt, năng suất cao là cần thiết.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế trên, chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề
tài: “Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển của một số giống ngô lai
tại thành phố Hà Giang”

Số hóa bởi trung tâm học liệu


3
2. Mục đích
Xác định được giống ngô lai cho năng suất cao, có khả năng chống chịu
tốt phù hợp với điều kiện sinh thái của Hà Giang để giới thiệu cho sản xuất.
3. Yêu cầu
- Theo dõi một số giai đoạn chính của các giống ngô thí nghiệm.
- Theo dõi, đánh giá một số đặc điểm hình thái, sinh lý.
- Theo dõi tình hình sâu bệnh hại và chống đổ của các giống ngô lai
trong thí nghiệm.
- Đánh giá các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống
ngô lai trong thí nghiệm.
4. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học:
+ Đối với học tập: Giúp học viên củng cố kiến thức đồng thời biết vận
dụng những kiến thức đã học được vào thực tế.
+ Đối với nghiên cứu khoa học: Giúp học viên xác định được hướng
nghiên cứu để thực hiện một luận văn thạc sĩ phù hợp với nhu cầu thực tế nơi
công tác.
- Ý nghĩa trong sản xuất: Đề tài góp phần chọn ra giống ngô mới bổ

sung cho bộ giống của tỉnh nhằm nâng cao năng suất và sản lượng ngô ở
Hà Giang.

Số hóa bởi trung tâm học liệu


4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Ngày nay, các giống ngô lai mới đóng góp quan trọng trong việc nâng
cao năng suất và sản lượng của cây trồng nhưng do mỗi giống chỉ có thể thích
ứng với một điều kiện sinh thái nhất định do vậy để phát huy hiệu quả của bất
kỳ một giống ngô nào thì nhất thiết chúng phải được trải qua một quá trình
khảo nghiệm và đánh giá một cách chính xác trong thực tiễn để từ đó có cơ sở
đưa chúng vào sản xuất.
Vì vậy, khi lai tạo ra một giống ngô tốt thì việc cần làm là cần phải tiến
hành khảo nghiệm, đánh giá qua nhiều vụ và nhiều năm nếu không sẽ tạo nên
tình trạng giống kém chất lượng được đưa vào sản xuất, tạo ra sự bất ổn định
trong sản xuất nông nghiệp ảnh hưởng đến việc sản xuất ngô, gây khó khăn
cho việc tổ chức sản xuất thâm canh.
Trong những năm gần đây, việc chọn tạo và đưa vào thử nghiệm vào sản
xuất những giống ngô lai mới có năng suất cao, ổn định và thích nghi với những
vùng sinh thái khác nhau là vấn đề rất quan trọng góp phần đưa nhanh các giống
ngô tốt vào sản xuất đại trà nhằm nâng cao năng suất, sản lượng ngô.
Để tăng năng suất cũng như sản lượng đáp ứng nhu cầu trong nước,
trong những năm qua Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xét công
nhận được nhiều giống ngô lai mới, các giống này đã phát huy hiệu quả tốt
trên đồng ruộng.

Ở Việt Nam, chương trình nghiên cứu và phát triển ngô lai được bắt
đầu chậm hơn so với các nước trên thế giới và khu vực nhưng tốc độ phát
triển rất nhanh. Các cơ quan nghiên cứu và sản xuất giống ngô đã đáp ứng
được yêu cầu về giống ở các vùng trồng ngô Việt Nam với bộ giống ngô lai
rất phong phú. Tuy nhiên mỗi giống ngô chỉ thích nghi với điều kiện sinh
thái nhất định, giống mới sẽ đạt năng suất cao hơn nếu được trồng trong điều

Số hóa bởi trung tâm học liệu


5
kiện thích hợp. Vì vậy các giống mới trước khi mở rộng sản xuất cần đánh giá
khả năng sinh trưởng, phát triển khả năng thích nghi của giống với điều kiện
sinh thái của vùng.
Đề tài nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển một số giống ngô lai
tại thành phố Hà Giang nhằm đánh giá một cách khách quan, kịp thời, có cơ
sở khoa học về tính khác biệt, độ đồng đều, tính ổn định, khả năng thích ứng,
khả năng sinh trưởng phát triển, khả năng chống chịu sâu bệnh và điều kiện
ngoại cảnh bất thuận cũng như tiềm năng cho năng suất của các giống ngô lai.
1.2. Tình hình sản xuất và nghiên cứu ngô trên thế giới
1.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ ngô trên thế giới
Ngô là cây lương thực quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. Có thể nói
rằng, trong 3 cây ngũ cốc chính của loài người: lúa nước, lúa mỳ và ngô thì
không có cây nào sánh kịp với cây ngô về tiềm năng năng suất. Từ những năm
cuối thế kỷ 20, nghề trồng ngô trên thế giới đã có những bước phát triển kỳ
diệu nhờ ứng dụng rộng rãi thuyết ưu thế lai trong chọn tạo giống, đồng thời
không ngừng cải thiện các biện pháp kỹ thuật canh tác. Đặc biệt, từ 10 năm trở
lại đây cùng với những thành tựu mới trong chọn tạo giống lai nhờ kết hợp
phương pháp truyền thống với công nghệ sinh học, công nghệ chế biến và
bảo quản đã đưa sản lượng ngô thế giới vượt lên trên lúa mỳ và lúa nước.

Bảng 1.1: Diện tích, năng suất, sản lƣợng ngô, lúa mỳ và lúa nƣớc
của thế giới năm 2012
Loại cây
trồng
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(triệu tấn)
Ngô
176,99
49,44
875,09
Lúa mỳ
216,64
31,15
674,88
Lúa nước
163,46
43,94
718,34
(Nguồn: FAOSTAT, 2013) [24]

Số hóa bởi trung tâm học liệu


6
Qua bảng số liệu 1.1 cho thấy: Năm 2012 diện tích ngô trên toàn
thế giới đã cao hơn lúa nước, chỉ kém lúa mì. Vì năng suất ngô cao

(49,44 tạ/ha) nên tổng sản lượng ngô trên thế giới cũng cao hơn lúa mì
và lúa nước.
Ngành sản xuất ngô trên thế giới tăng liên tục từ đầu thế kỷ 20 đến
nay, Năm 2012 diện tích ngô đã vượt qua lúa nước, với 176,99 triệu ha,
năng suất 49,44 tạ/ha và sản lượng đạt 875,09 triệu tấn. Trong hơn 40 năm
qua, ngô là cây trồng có tốc độ tăng trưởng về năng suất cao nhất trong các
cây lương thực chủ yếu. So với năm 1961, năm 2011 năng suất ngô trung
bình của thế giới tăng thêm 32,6 tạ/ha (từ hơn 19,0 tạ/ha lên 51,85 tạ/ha),
lúa nước tăng 25,04 tạ/ha (từ 19,0 lên 44,04 tạ/ha), còn lúa mì thêm 21,05
tạ/ha (từ 10,9 lên 31,95 tạ/ha) (FAOSTAT, 2013) [24].
Bảng 1.2: Tình hình sản xuất ngô của thế giới trong giai đoạn 2003 - 2012
Năm
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(triệu tấn)
2003
144,70
44,60
645,20
2004
147,50
49,45
729,20
2005
147,40
48,42
713,90

2006
148,60
47,53
706,30
2007
158,60
49,69
788,10
2008
161,01
51,09
822,70
2009
155,70
51,90
809,02
2010
162,32
51,55
820,62
2011
171,78
51,53
885,29
2012
176,99
49,44
875,09
(Nguồn: FAOSTAT 2013) [24]


Số hóa bởi trung tâm học liệu


7
Qua bảng số liệu 1.2 cho thấy diện tích trồng ngô tăng liên tục, từ
144,70 triệu ha (năm 2003) tăng lên 176,99 triệu ha (năm 2012). Năng suất
tăng từ 44,6 tạ/ha năm 2003 tăng lên 51,55 tạ/ha (năm 2010), sản lượng tăng
từ 645,2 triệu tấn tăng lên 885,29 triệu tấn (năm 2011). Có được kết quả trên,
trước hết là nhờ ứng dụng rộng rãi lý thuyết ưu thế lai trong chọn tạo giống,
đồng thời không ngừng cải thiện các biện pháp kỹ thuật canh tác. Đặc biệt từ
năm 1996, cùng với những thành tựu mới trong chọn giống ngô lai nhờ kết
hợp phương pháp truyền thống với công nghệ sinh học thì việc ứng dụng
công nghệ cao trong canh tác ngô đã góp phần đưa sản lượng ngô thế giới
vượt lên trên lúa mì và lúa nước, năng suất ngô đã tăng 1,83 lần trong vòng
30 năm (1960 - 1990), nhất là các nước có điều kiện thâm canh như Mỹ,
Trung Quốc, Brazil…). Theo dự đoán xu thế phát triển ngô trong những năm
tới là diện tích có thể giảm dần do diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp bởi
nhiều nguyên nhân (dân số tăng, công nghiệp hóa mạnh, hiện tượng sa mạc
hóa…) Song do nhu cầu ngô của thị trường ngày càng lớn, do vậy phải tăng
năng suất và sản lượng bằng cách tạo ra nhiều giống ngô có khả năng chịu
thâm canh, cho năng suất cao, chống chịu tốt.
Tuy nhiên tình hình sản xuất ngô có sự khác biệt rất lớn giữa các vùng, các
nước trên thế giới:
Bảng 1.3: Sản xuất ngô ở một số châu lục trên thế giới năm 2012
Khu vực
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng

(triệu tấn)
Châu Á
57,49
50,07
287,92
Châu Mỹ
67,54
62,62
442,96
Châu Âu
9,49
60,52
57,39
Châu Phi
33,54
20,71
69,49
(Nguồn: FAOSTAT, 2013) [24]

Số hóa bởi trung tâm học liệu


8
Số liệu bảng 1.3 cho thấy diện tích trồng ngô giữa các châu lục có sự
chênh lệnh nhau trong đó Châu Mỹ là khu vực có diện tích lớn nhất là 67,54
triệu ha năm 2012. Châu Mỹ là cái “nôi” của cây ngô - Trung tâm phát sinh cây
ngô, ngành sản xuất ngô đã sớm được hình thành và phát triển mạnh mẽ. Ở
Châu Mỹ, nổi lên hàng loạt các nước có nền sản xuất ngô chiếm tỷ trọng cao
của thế giới cả về diện tích cũng như sản lượng, điển hình là Mỹ. Nước Mỹ
luôn được coi là cường quốc số một về ngô.

Các nước phát triển có năng suất ngô cao hơn năng suất trung bình của
thế giới và ngược lại các nước đang phát triển năng suất ngô thấp hơn rất
nhiều. Những quốc gia đi đầu về năng suất ngô như: Israel 255,5 tạ/ha,
Kuwait 211,1,0 tạ/ha, Netherlands 123,4 tạ/ha, Qatar 130 tạ/ha, Tajikistan
121,9 tạ/ha Những nước có diện tích trồng ngô lớn là: Mỹ 31,8 triệu ha,
Trung Quốc 34,9 triệu ha, Brazil 14,2 triệu ha … (FAOSTAT, 2013) [24]. Các
nước này đã đóng góp rất lớn đối với sản lượng ngô của thế giới, trong đó Mỹ
là nước có đóng góp lớn nhất và luôn là nước dẫn đầu về sản xuất ngô. Theo
số liệu của trường Đại học Tổng hợp Nebraska (2005) lý do năng suất ngô ở
Mỹ tăng lên trong 50 năm qua là 50% do cải tạo nền di truyền của các giống
lai, 50% do cải thiện chế độ canh tác. Ngoài ra một trong những lý do năng
suất ngô ở Mỹ tăng cao là nhờ việc áp dụng ngô chuyển gen vào sản xuất.
Hiện nay thị trường ngô trên thế giới được đánh giá là một thị trường
tương đối khả quan, lượng tiêu thụ ngô trên toàn cầu có xu hướng tăng trong
những năm gần đây, sản phẩm ngô chủ yếu dùng làm thức ăn cho chăn nuôi.
Với hiện trạng chung ngành sản xuất ngô của thế giới cho thấy: cây ngô đã
và đang dần chiếm một vị trí quan trọng hàng đầu trong các cây lương thực chính
của thế giới.
Trên thị trường quốc tế ngô đứng đầu trong danh sách những mặt hàng
có giá trị khối lượng hàng hóa giao dịch ngày càng tăng, tỷ trọng lưu thông
lớn, thị trường tiêu thụ rộng và nhu cầu ngày càng cao. Sở dĩ nhu cầu ngô

Số hóa bởi trung tâm học liệu


9
tăng mạnh là do dân số thế giới tăng nên nhu cầu về thịt, cá, trứng, sữa tăng
mạnh dẫn đến đòi hỏi lượng ngô dùng trong chăn nuôi tăng. Hơn nữa trong
những năm gần đây khi nguồn dầu mỏ đang cạn kiệt thì ngô được coi là
nguồn nguyên liệu chính để chế biến ethanol, một loại nhiên liệu sạch dùng

để thay thế một phần nguyên liệu xăng dầu. Trong bối cảnh giá xăng dầu đang
liên tiếp lập những kỷ lục mới, nhiên liệu sinh học đang trở nên hấp dẫn hơn
bao giờ hết. Tại Mỹ, nước sản xuất ethanol lớn nhất thế giới, 1/4 sản lượng
ngô được dùng để sản xuất ethanol, như vậy chỉ riêng lượng ngô dùng cho
chương trình ethanol của Mỹ đã tương đương hơn một nửa nhu cầu ngũ cốc
của thế giới.
Thách thức đặt ra là 80% nhu cầu ngô trên thế giới tăng (266 triệu tấn)
lại tập trung ở các nước đang phát triển, trong khi đó chỉ khoảng 10% sản
lượng ngô từ các nước công nghiệp có thể xuất sang các nước này. Vì vậy, các
nước đang phát triển phải tự đáp ứng nhu cầu của mình trên diện tích ngô hầu
như không tăng (IFPRI, 2007) [25].
Bảng 1.4: Dự báo nhu cầu ngô thế giới đến năm 2020
Vùng
1997
(triệu tấn)
2020
(triệu tấn)
% thay đổi
Thế giới
586
852
45
Các nước đang phát
triển
295
508
72
Đông Á
136
252

85
Mỹ Latinh
75
118
57
Cận Saha – Châu Phi
29
52
79
Tây và Bắc Phi
18
28
56
Nam Á
14
19
36
Nguồn : (IFPRI, 2007)[25 ]

Số hóa bởi trung tâm học liệu


10
Như vậy đến năm 2020, nhu cầu ngô thế giới tăng 45% so với nhu cầu
năm 1997, chủ yếu tăng cao ở các nước đang phát triển (72%), riêng Đông Á
nhu cầu tăng 85% so với năm 1997.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu ngô lai trên thế giới
Người Châu Âu biết đến cây ngô sau khi tìm ra Châu Mỹ nhưng chính
họ đã có công rất lớn cho sự phát triển tiếp theo của nó. Ngô được đưa vào
Châu Âu sau chuyến thám hiểm thứ hai của Columbus nhưng lúc này chỉ là

sự phổ biến rộng của nó ra các nơi, việc nghiên cứu còn ít được quan tâm.
Năm 1716 Cotton Mather là người đầu tiên thí nghiệm về giới tính của cây
ngô, ông quan sát thấy sự thụ phấn chéo của cây ngô tại Massachuseter (Trích
theo Phạm Thị Tài, 1998) [12].
Darwin trong tác phẩm " Tác động của việc giao phối và tự phối trong
thế giới thực vật" xuất bản năm 1876 lần đầu tiên đã đưa ra lý thuyết về ưu
thế lai qua việc nghiên cứu hàng loạt những cá thể giao phối và tự phối ở các
loài khác nhau như: Ngô, đậu đỗ. Ông đã nhận thấy sự hơn hẳn của các cây
giao phối so với tự phối về cao cây, tốc độ nảy mầm, số quả, sức chống chịu
và năng suất hạt. Có thể nói trong công cuộc cải tạo giống cây trồng trên cơ
sở ưu thế lai thì ngô lai là thành công kỳ diệu. Năm 1880 nhà nghiên cứu
người Mỹ tên là Beal đã áp dụng thực tế ưu thế lai trong tạo giống ngô lai
giữa các giống, ông thu được những cặp lai hơn hẳn các giống bố mẹ từ 10-
15%. Năm 1904 Shull lần đầu tiên tiến hành tự thụ cưỡng bức ở ngô để thu
được các dòng thuần và đã tạo ra các giống lai từ các dòng thuần này và cũng
chính ông đã đưa vào tài liệu khoa học thuật ngữ "Heterosis" để chỉ ưu thế lai.
Từ năm 1918 Jones đề xuất sử dụng giống lai kép trong sản xuất thì áp dụng
ưu thế lai trong sản xuất nông nghiệp ngày càng phát triển mạnh.
Trung tâm cải tạo giống ngô và lúa mỳ quốc tế (CIMMYT) được thành
lập năm 1966 đã tạo bước tiến mới cho việc nghiên cứu, phát triển ngô và lúa
mỳ, tạo cơ hội cho sự phát triển của các nước nghèo. Trung tâm đã đưa ra

Số hóa bởi trung tâm học liệu


11
nhiều giải pháp như tạo giống ngô thụ phấn tự do (OPV) làm bước chuyển
tiếp giữa ngô địa phương và ngô lai, hay tạo ra các giống "Ngô bán nhiều"
ngắn ngày (SPE - Semi - Prolific Ealy) dài ngày (SPL - Prolific Late) và cho
độ cao trung bình (CPMAT - Semi Prolific Mid - Altitude Tropical) đã được

nhiều nước chấp nhận. Chủ yếu các giống ngô trên được tạo ra phục vụ cho
các vùng khô hạn và ít đầu tư thâm canh ở các nước thứ ba.
Sự phát triển ngô lai diễn ra một cách mạnh mẽ và rộng khắp nhưng
Mỹ và Châu Âu chính là những nước đi đầu về phát triển ngô lai. Các nhà di
truyền cải lương giống ngô Mỹ đã sớm thành công trong việc chọn lọc và lai
tạo giống cây trồng này (cuối thế kỷ XIX) Mỹ đã có 770 giống cải lương
(trích theo Trần Hồng Uy, 1985) [18]. Việc sử dụng giống ngô lai ở Mỹ diễn
ra từ rất sớm 1930, lai ba, lai kép 1957, sau đó sự phát triển của giống lai đơn
và lai cải tiến , lai đơn được sử dụng 80% đến 85% tổng số giống ngô lai
(ERINKE, 1979) [23].
Người ta đã tính được rằng giống ngô lai đóng góp 60% và canh tác
đóng góp 40% vào mức tăng năng suất (trích theo Đỗ Năng Vịnh, 2001) [22].
Hiện nay Mỹ là nước có diện tích trồng ngô lớn nhất thế giới, 100% diện tích
sử dụng giống ngô lai trong đó 90% diện tích sử dụng giống lai đơn. Trên diện
rộng những nước tiên tiến trong đó có Mỹ bằng việc sử dụng giống ngô lai đã
đạt 15-18 tấn/ ha (trích theo Trần Hồng Uy, 2000) [20]
Ở Châu Âu sự phát triển nghiên cứu chọn tạo có muộn hơn Mỹ 20 năm
nhưng đã có nhiều thành công rực rỡ, tỷ lệ sử dụng giống ngô lai cũng rất lớn
và đạt năng suất cao ở nhiều nước như Áo 9,7 tấn/ha, Italia 9,6 tấn/ha, Tây
Ban Nha 9,3 tấn/ha, Hy Lạp 9,1 tấn/ha, Pháp 8,8 tấn/ha (giai đoạn 1997-1999)
Theo CIMMYT 1999- 2000, các nước có năng suất bình quân trên 5 tấn/ ha
là: Bồ Đào Nha, Đức, Canada, Ba Lan, Slovakia
Châu Á là khu vực phát triển gần như muộn nhất nhưng ngô lai cũng
đang phát triển mạnh mẽ ở một số nước như: Thái Lan, Ấn Độ, Philippin và

Số hóa bởi trung tâm học liệu


12
đặc biệt là Trung Quốc nước láng giềng của chúng ta có một nền sản xuất ngô

phát triển và tăng trưởng rất nhanh, trong giai đoạn 1997-1999 Trung Quốc
hàng năm sản xuất 24,996 triệu ha với năng suất bình quân 4,9 tấn/ha và tồng
sản lượng là 121,363 triệu tấn, tăng trưởng diện tích hàng năm 2,3%, năng
suất tăng 2,0% và sản lượng tăng 4,3% (trích theo Ngô Hữu Tình, 2003) [15].
Nhìn chung tình hình nghiên cứu và phát triển của cây ngô trên thế giới
đã có những bước nhảy vọt, cùng với phát triển của khoa học kĩ thuật từ việc
sử dụng những giống ngô địa phương các nhà khoa học phát triển chọn tạo
những giống ngô thụ phấn tự do, các giống lai, giống lai 1 bắp , nhiều bắp các
giống có khả năng chống chịu với điều kiện bất thuận và các nhà khoa học
còn thành công trong việc ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn tạo giống
ngô như:
- Nuôi cấy bao phấn (Peolio, Jones, Thomson,1995)
- Tạo dòng thuần bằng phương pháp nuôi cấy invitro.
- Nuôi cấy hạt phấn tách rời chưa thụ tinh (Pescitelli, 1989, Conmans,
1954, Butter, 1992).
- Đa bội thể và tái sinh cây lưỡng bội (Wiliam và Wan, 1993).
Bên cạnh việc nghiên cứu và chọn tạo các giống ngô lai cho năng suất
cao các nhà chọn tạo giống ngô lai CIMMYT đã nghiên cứu phát triển các
giống ngô QPM, đã nghiên cứu và phương pháp đánh dấu ADN cho việc
chuyển việc các gen chất lượng protein vào giống ngô thường ưu tú, ngô chất
lượng protein cao đã được đưa vào sản xuất và đem lại hiệu quả sử dụng to
lớn khi sử dụng làm lương thực cho con người. Các nước Châu Á phát triển
chương trình nghiên cứu và sản xuất ngô QPM đó là Trung Quốc, Ấn Độ,
Việt Nam (trích theo Trần Hồng Uy, 2000) [20]
Từ những thành tựu nổi bật đó chắc chắn nông nghiệp thế giới sẽ có
những bước tiến triển mới về sản lượng và năng suất trong đó cây ngô sẽ có
một vị trí chủ đạo.

Số hóa bởi trung tâm học liệu



13
1.3. Tình hình sản xuất và nghiên cứu ngô ở Việt Nam
1.3.1. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam
Ở nước ta ngô là cây trồng nhập nội và mới được đưa vào trồng khoảng
hơn 300 năm nhưng đã nhanh chóng trở thành một trong những cây trồng
quan trọng trong hệ thống cây lương thực của Việt Nam. Do có khả năng
thích ứng rộng với các điều kiện sinh thái khác nhau, bên cạnh đó điều kiện ở
nước ta rất thuận lợi cho cây ngô sinh trưởng và phát triển, nên cây ngô đã
được mở rộng ra sản xuất và khẳng định được vị trí của mình trong sản xuất
nông nghiệp. Cây ngô đã trở thành cây lương thực quan trọng thứ hai sau lúa,
đồng thời là cây màu số một, góp phần đáng kể trong việc giải quyết lương
thực tại chỗ cho người dân Việt Nam.
Tình hình sản xuất ngô ở nước ta qua các giai đoạn lịch sử phát triển
không đồng đều. Quá trình phát triển của cây ngô ở Việt Nam được chia
thành 3 giai đoạn chính, đó là:
Giai đoạn từ 1960 - 1980: Giai đoạn này chủ yếu sử dụng các giống ngô
địa phương với kỹ thuật canh tác lạc hậu nên năng suất và sản lượng ngô rất
thấp. Theo thống kê năng suất ngô ở Việt Nam những năm 1960 chỉ đạt trên
10 tạ/ha, với diện tích hơn 200 nghìn ha; đến đầu những năm 1980, năng suất
cũng chỉ đạt 11 tạ/ha và sản lượng hơn 400 nghìn tấn.
Giai đoạn từ 1981 - 1992: Diện tích tăng chậm, năng suất ngô tăng
không đáng kể, từ 11 tạ/ha (1980) lên 15 tạ/ha (1992), bình quân mỗi năm
tăng 3,5%. Mặc dù giai đoạn này đã sử dụng các giống thụ phấn tự do nhưng
chủ yếu là giống tổng hợp, hỗn hợp nên năng suất vẫn còn thấp.
Giai đoạn từ 1993 đến nay: Đây là giai đoạn sản xuất ngô ở Việt Nam
thực sự có những bước tiến nhảy vọt, gắn liền với việc không ngừng mở rộng
giống ngô lai ra sản xuất, đồng thời cải thiện các biện pháp kỹ thuật canh tác
theo đòi hỏi của giống mới. Ngô lai là nguồn động lực mới, một nhân tố mới,
một định hướng chiến lược trong chương trình nghiên cứu và phát triển ngô ở


Số hóa bởi trung tâm học liệu


14
Việt Nam. Năm 1990 chúng ta mới bắt đầu trồng ngô lai với diện tích thử
nghiệm 5 ha, năm 2006 diện tích ngô lai đã đạt 84%, đưa năng suất ngô từ
15,5 tạ/ha lên 37,3 tạ/ha. Việt Nam có tốc độ phát triển ngô rất nhanh trong
lịch sử ngô lai thế giới. Đây là bước tiến vượt bậc so với một số nước trong
vùng đã được CIMMYT đánh giá cao.
Tình hình sản xuất ngô của Việt Nam trong những năm gần đây được
thể hiện ở bảng 1.5.
Bảng 1.5: Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam trong giai đoạn 2003 - 2012
Chỉ tiêu

Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(nghìn tấn)
2003
912,7
34,4
3.136,3
2004
991,1
34,6
3.430,9

2005
1.052,6
36,0
3.787,1
2006
1.033,1
37,3
3.854,5
2007
1.096,1
39,3
4.303,2
2008
1.140,2
40,2
4.573,1
2009
1.086,8
40,8
4.431,8
2010
1.200,0
41,72
5.006,8
2011
1.121,2
43,1
4.835,7
2012
1.118,2

42,9
4.803,2
(Nguồn: (FAOSTAT, 2013) [24]
Trong 10 năm trở lại đây Việt Nam đã phát triển mạnh cây ngô trên cả
3 mặt: diện tích, năng suất và sản lượng. Diện tích trồng ngô được mở rộng từ
912,7 nghìn ha (năm 2003) lên đến 1200 nghìn ha (năm 2010), năng suất tăng
từ 34,4 tạ/ha (2003) tới 43,1 tạ/ha (2011), sản lượng ngô năm 2010 tăng gấp
1,6 lần so với năm 2003. Tổ chức lương thực thế giới FAO và Trung tâm Ngô
quốc tế CIMMYT đã đánh giá Chương trình phát triển cây ngô của Việt Nam

Số hóa bởi trung tâm học liệu


15
là một trong 3 chương trình ngô lai mạnh nhất ở châu Á (Trung Quốc, Việt
Nam và Thái Lan), đó là kết quả rất đáng khích lệ.
Mặc dù năng suất ngô của chúng ta liên tục tăng nhưng so với bình
quân chung của thế giới và khu vực thì hiện tại năng suất ngô nước ta còn
thấp (năm 2012 năng suất ngô của Việt Nam đạt 42,9 tạ/ha, bằng 86,7% năng
suất trung bình của thế giới; 19,1% năng suất của Kuwait; 72,3% năng suất
của Trung Quốc) (FAOSTAT, 2013) [24]; điều này đang đặt ra cho ngành sản
xuất ngô trong nước những thách thức và khó khăn trên con đường phát triển,
đòi hỏi đội ngũ chuyên gia cũng như các nhà khoa học trong cả nước nỗ lực
nghiên cứu nhanh chóng đưa ra sản xuất những giống ngô mới, những biện
pháp kỹ thuật hiệu quả nhằm nâng cao năng suất và sản lượng ngô Việt Nam
xứng tầm khu vực và quốc tế.
Từ những kết quả đạt được đã chứng tỏ vị thế của cây ngô trong nền
sản xuất nông nghiệp nước ta. Tuy vậy so với thế giới thì năng suất ngô ở
nước ta còn thấp hơn nhiều, do đó sản xuất ngô ở nước ta rất cần có phương
hướng phát triển một cách cụ thể để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cũng như theo

kịp thế giới và bè bạn năm châu.
1.3.2. Tình hình nghiên cứu và chọn tạo giống ngô lai ở Việt Nam
Có rất nhiều tài liệu đề cập đến sự xuất hiện về ngô ở Việt Nam, từ bao
giờ, phát triển mạnh vào lúc nào nhưng nhìn chung đều thống nhất ngô được
đưa vào nước ta khoảng 300 năm trước đây.
Do nước ta trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh nên chúng ta không thể
đánh giá đầy đủ về tình hình phát triển của cây ngô dưới chế độ phong kiến
trước khi thực dân Pháp xâm lược.
Đầu thế kỷ XX khi thực dân Pháp thi hành chính sách khai thác thuộc
địa cây ngô mới được chú ý đến nhưng năng suất ngô còn rất thấp, xấp xỉ 11,8
tạ/ha (trích theo Nguyễn Trần Trọng, 1997) [16]. Đặc trưng thời kì này diện
tích nhỏ, năng suất thấp, kĩ thuật canh tác lạc hậu cho nên sản lượng liên tục

Số hóa bởi trung tâm học liệu


16
giảm. Các nghiên cứu về ngô trong nước dường như chưa phát triển, các giống
địa phương và một số giống nhập nội mở rộng là:Yellow, Hogan, Kenia, No1,
Mexique Blanc Hatif được sử dụng chính trong sản xuất.
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công để giải quyết nạn đói chính
quyền cách mạng mới thành lập đã phát động toàn dân tham gia sản xuất
lương thực trong đó ngô, khoai được chú trọng nên đã tạo điều kiện cho sự
phát triển của cây ngô, trong thời kì này sự phát triển về diện tích ở các khu
vực mà thực dân Pháp chiếm đóng giảm, khu căn cứ cách mạng lại tăng
nhanh, các kỹ thuật mới được áp dụng như: mật độ, bón lót phân, làm cỏ sớm,
vun cao, cắt cờ, thụ phấn bổ khuyết đã được áp dụng, các giống sử dụng chủ
đạo vẫn là các giống địa phương và các giống tốt nhập nội.
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, ở Miền Bắc sản xuất ngô có chiều
hướng tăng, đặc biệt là diện tích tăng nhanh năng suất ổn định và sản lượng

đã đạt gần 300 nghìn tấn, nhưng sau đó sản xuất ngô giảm do phá hoại của đế
quốc Mỹ ra Miền Bắc. Các yếu tố mới như giống, kỹ thuật đã được quảng bá
song do điều kiện vật chất còn khó khăn không có khả năng áp dụng nên năng
suất thấp chỉ đạt 10,75 tạ/ha. Các giống giai đoạn này là các giống địa phương
tốt như: Gié Bắc Ninh, ngô Đại Phong, ngô Vạn Xuân, ngô Việt Trì Ngoài
ra còn có các giống ngô nhập nội như: ngô Xiêm (Thái Lan), Kim Hoàng Hậu
(Trung Quốc), Ganga - 5 (Ấn Độ).
Ở Miền Nam Việt Nam năm 1955 diện tích là 26.360 ha sản xuất được
26.895 tấn và tăng dần qua các năm đến năm 1964 diện tích là 37.000 ha và
sản lượng 46.000 tấn, giống ngô được gieo trồng chủ yếu ở Miền Nam vào
thời kì này là các giống nếp Lù địa phương và một số giống hỗn hợp vàng
nhập nội như: Guatemala, Zorca và một số giống lai Đài Loan như: Taiwan-5
và Taiwan-11
Nhìn chung giai đoạn này tình hình sản xuất ngô ở Viêt Nam thấp và
không ổn định, giống được sử dụng chủ yếu là giống địa phương, gần cuối

Số hóa bởi trung tâm học liệu


17
giai đoạn này có được đưa một số giống thụ phấn tự do cải tiến tuy nhiên
năng suất cũng rất thấp chỉ trên dưới 10 tạ/ha.
Sau khi đất nước thống nhất nhà nước đã có nhưng quan tâm đầu tư
khôi phục lại nền nông nghiệp sau chiến tranh, nhờ đó trong suốt 30 năm qua
nông nghiệp nói chung và cây ngô nói riêng đã liên tục phát triển cả về 3 chỉ
tiêu chính là diện tích, năng suất và sản lượng, giống được sử dụng giai đoạn
từ 1988- 1994 chủ yếu là giống thụ phấn tự do cải tiến, do đó năng suất cải
thiện đáng kể từ 11 tạ/ha lên 17 tạ/ha.
Nước ta tiếp cận với ngô lai từ năm 1960, những thử nghiệm và nghiên
cứu ngô lai được thực hiện trong những năm 1961-1962 tại Học viện nông

lâm - Hà Nội với sự kết hợp của các chuyên gia Rumani và Hunggari thử
nghiệm về một số giống ngô lai có nguồn gốc ôn đới như: 308, 360, VIR-42
nhưng vẫn chưa thu được thành công do điều kiện sinh thái khác nhau phải
đến những năm 1972-1973 cùng với sự thành lập của Trung tâm ngô Sông Bôi
tiền thân của Viện nghiên cứu ngô các nhà chọn tạo giống ngô lai ở Việt Nam mới
bắt đầu cho chương trình chọn tạo giống ngô và tập trung cao độ từ năm 1990 đến
nay (trích theo Nguyễn Hữu Phúc, 2002) [11].
Trong những năm qua công tác chọn tạo giống ở Việt Nam đã được
triển khai theo những nội dung sau:
- Thu thập, nghiên cứu các giống ngô nhập nội.
- Thu thập, bảo tồn giống và quần thể ngô địa phương.
- Nghiên cứu phục tráng các giống ngô địa phương tốt.
- Nghiên cứu chọn tạo các giống ngô thụ phấn tự do.
- Nghiên cứu chọn tạo các giống ngô lai cho năng suất cao phẩm chất tốt.
Các kết quả đã đạt được:
- Đã điều tra thu thập, bảo tồn và phân loại 584 nguồn nguyên liệu ngô,
làm mới hạt hàng năm 180 nguồn.
- Duy trì khoảng 6000 hàng dòng/ năm từ 580 nguồn dòng hiện có.

Số hóa bởi trung tâm học liệu


18
- Chọn tạo hàng loạt các giống ngô thụ phấn tự do, ngô nếp, ngô
đường, các giống ngô lai cho năng suất cao.
- Xác định 62 nguồn vật liệu có tỉ lệ tạo phôi cao trên 15% và tái sinh
cây trên 12% cho công tác tạo dòng bằng nuôi cấy bao phấn và tạo đựơc 114
dòng bằng phương pháp này.
- Đã ứng dụng kĩ thuật RAPD, SSR để phân nhóm ưu thế lai của 230
dòng ngô.

Hiện nay Việt Nam đã có nhưng cơ sở nghiên cứu đầu ngành về ngô
như Viện nghiên cứu ngô, Viện Di Truyền nông nghiệp, các trường đại học
nông nghiệp cũng như các Trung tâm khảo nghiệm giống trên toàn quốc
Các nhà khoa học trong nước đã được sự quan tâm đầu tư của nhà nước tạo
cơ hội cho họ có thể cống hiến hết mình cho khoa học.
Các giống ngô lai mới do Việt Nam chọn tạo rất phong phú, bao gồm:
+ Nhóm giống dài ngày: T6 (2000), LVN98 (2002).
+ Nhóm giống trung ngày: LVN12 (1995), LVN17 (1999), T9 (2004),
VN8960 (2004), LHC9 (2004), LVN145 (2007)…
+ Nhóm giống ngắn ngày: LVN20 (1998), LVN25 (2000), LVN99
(2004), V98 (2004), VN6 (2005), HN45,…
- Nhóm giống ngô lai mới có tiềm năng, năng suất thấp hơn 10 tấn/ha
đang được thử nghiệm như: SCI184, TB61, TB66, VN885, SX2017, SX2004,
TT04-B1, LVN66, MB069,…(trích theo Nguyễn Khôi, 2008) [9].
Từ năm 2001 - 2005, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên phối hợp
với Viện Nghiên cứu Ngô đã tiến hành khảo nghiệm một số giống ngô chất
lượng protein cao và thu được kết quả như sau: Thí nghiệm ở vụ Xuân và vụ
Thu Đông 2002 cho kết quả hai giống QP2 và QP3 khá đồng đều và ổn định
qua hai vụ, có thời gian sinh trưởng ngắn, có khả năng chống chịu sâu bệnh
tốt, có năng suất thực thu tương đương với hai giống đối chứng (Q2 và
HQ2000). Đặc biệt, hai giống này có hàm lượng protein đạt 11,1 và 11,4% tương

×