Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Một số giải pháp và định hướng cho Vietrans tham gia vào chuỗi giá trị logistics toàn cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.93 KB, 68 trang )

Giáo viên hướng dẫn: TS. Đàm Quang Vinh
Họ và tên: Phạm Thị Thu Quỳnh
Lớp: QTKDQT 50B
Đề tài: Một số giải pháp và định hướng cho Vietrans tham gia vào
chuỗi giá trị logistics toàn cầu
CHƯƠNG I: ĐỊNH HÌNH CHUỖI LOGISTICS TOÀN CẦU
1.1. Khái quát chung về logistics và xu hướng phát triển của
ngành logistics thế giới
1.1.1. Giới thiệu chung về logistics
Bước vào thế kỷ XX, sản xuất vật chất của xã hội đã đạt được năng
suất lao động cao nhờ áp dụng kỹ thuật sản xuất tiên tiến và đặc biệt là những
thành tựu mới trong công nghệ thông tin. Song muốn tối ưu hóa quá trình sản
xuất, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị
trường chỉ còn cách cải tiến và hoàn thiện hệ thống phân phối vật chất
(Phisical Distribution Management) để giảm tới mức thấp nhất thiệt hại do
tồn kho, ứ đọng nguyên vật liệu, ban thành phẩm và thành phẩm trong quá
trình sản xuất, lưu thông. Hệ thống phân phối vật chất này còn gọi là
“logistics”.
Vậy “logistics” là gì? Về mặt lịch sử, thuật ngữ “logistics” lần đầu tiên
được sử dụng trong quân đội và mang ý nghĩa là “hậu cần” hoặc “tiếp viện”.
Thuật ngữ này lần đầu tiên được sử dụng vào nửa thế kỷ 19 dưới thời
Napoleon, ông đã từng định nghĩa: “Logistics là hoạt động để duy trì lực
1
lượng quân đội”. Sau thế chiến thứ hai, Marshall một viên tướng trong quân
đội dưới thời Roosevelt đã được giao trách nhiệm thiết lập kế hoạch Marshall
nhằm tái thiết châu Âu. Trong kế hoạch này, logistics đã tham gia vào lĩnh
vực kinh tế nhằm cung cấp cho châu Âu nguồn nhân lực, vật lực và đặc biệt là
tài lực để khắc phục hậu quả chiến tranh và phát triển đất nước. Từ đó,
logistics bắt đầu tham gia vào hoạt động kinh tế và đã phát triển rất nhanh
chóng. Nếu giữa thế kỷ 20 rất ít doanh nghiệp hiểu được logisitics là gì thì
đến cuối thế kỷ 20, logistics đã được ghi nhận như một chức năng kinh tế chủ


yếu, một công cụ hiện đại mang lại thành công cho các doanh nghiệp kinh
doanh trong lĩnh vực sản xuất và cả dịch vụ
Logistics phát triển nhanh chóng trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, ở
nhiều nước nên có rất nhiều tổ chức, tác giả tham gia vào nghiên cứu, đưa ra
nhiều định nghĩa khác nhau và cho đến nay vẫn chưa có định nghĩa thống
nhất. Khái niệm về logistics được đưa ra tùy theo giác độ mà người ta nghiên
cứu nó. Sau đây là một số khái niệm về logisitics:
Từ góc độ quản trị cung ứng, giáo sư David Simchi – Levi của đại học
MIT – USA cho rằng: “Hệ thống Logistics là một nhóm các cách tiếp cận
được sử dụng để liên kết các nhà cung cấp, nhà sản xuất, cửa hàng một cách
hiệu quả để hàng hóa được sản xuất và phân phối đúng số lượng, đúng địa
điểm và đúng thời điểm nhằm mục đích giảm thiểu chi phí trên toàn hệ thống
đồng thời đáp ứng được các yêu cầu về mức độ phục vụ”.
Định nghĩa được coi là đầy đủ nhất và được sử dụng rộng rãi nhất là
định nghĩ của Hội đồng quản lý Logistics Hoa Kỳ: “Logistics là quá trình
hoạch định, thực hiện, kiểm soát quá trình lưu chuyển, dự trữ hàng hóa, dịch
vụ và những thông tin liên quan từ điểm xuất phát đầu tiên đến nơi tiêu thụ
cuối cùng sao cho hiệu quả và phù hợp với yêu cầu của khách hàng”.
2
Dù có rất nhiều định nghĩa khác nhau về logisitics nhưng chúng ta có
thể hiểu như sau:
Logistics là một quá trình. Điều này có nghĩa logisitics là một chuỗi
các hoạt động liên tục từ hoạch định quản lý thực hiện và kiểm tra dòng chảy
của hàng hóa, thông tin, vốn… trong suốt quá trình từ đầu vào tới đầu ra của
sản phẩm. Trong quá trình này, logisitics gồm 2 bộ phận chính là logisitics
trong sản xuất và logisitics bên ngoài sản xuất. Hoạt động logisitics bên trong
sản xuất liên quan đến quản trị sản xuất liên quan đến đặc điểm riêng của từng
ngành. Trong phạm vi bài viết chỉ tập trung vào logisitics bên ngoài sản xuất
với tư cách là dịch vụ thuê ngoài, sự phân biệt này được thể hiện rõ trong sơ
đồ 1.1.

3
Sơ đồ 1.1: Những hoạt động của dịch vụ logistics trong chuỗi cung ứng
Nguồn:
Logisitics liên quan đến tất cả nguồn tài nguyên/ các yếu tố đầu vào
cần thiết để tạo ra sản phẩm hay dịch vụ phù hợp với yêu cầu của người tiêu
4
dùng. Nguồn tài nguyên không chỉ có vật tư, nhân lực mà còn bao gồm cả
dịch vụ, thông tin, bí quyết công nghệ…
Logistics tồn tại ở cả hai cấp độ: hoạch định và tổ chức. Ở cấp độ thứ
nhất, vấn đề đặt ra là phải lấy nguyên vật liệu, bán thành phẩm hay dịch vụ…
ở đâu? Vào khi nào? Và vận chuyển chúng đi đâu? Do vậy tại đây xuất hiện
vấn đề về vị trí. Cấp độ thứ hai quan tâm tới việc làm thế nào để đưa được
nguồn tài nguyên/ các yếu tố đầu vào từ điểm đầu đến điểm cuối dây chuyền
cung ứng. Từ đây nảy sinh vấn đề vận chuyển và lưu trữ.
Tìm hiểu định nghĩa logistics và các vấn đề liên quan sẽ giúp chúng ta
nghiên cứu về dịch vụ logistics được hiệu quả hơn. Phần tiếp theo sẽ trình bày
quá trình phát triển của logistics và xu hướng sử dụng dịch vụ logistics thuê
ngoài.
1.1.2. Các giai đoạn phát triển của logisitics
Quá trình phát triển của logistics xuất phát từ sự thay đổi
trong sản xuất và buôn bán. Người bán không nhất thiết là
người sản xuất, người mua không nhất là người tiêu dùng
cuối cùng. Quá trình hàng hóa từ tay người sản xuất đến tay
người tiêu dùng có thể qua nhiều trung gian lần lượt đóng vai
trò người bán hay người mua và là một bộ phận của toàn bộ
quá trình lưu thông hàng hóa. Tính chất phong phú của hàng
hóa cùng với sự vận động phức tạp của chúng đòi hỏi phải có
sự quản lý chặt chẽ, điều này đặt ra cho các nhà sản xuất kinh
doanh một yêu cầu mới. Đồng thời để tránh ứ đọng vốn, các
nhà sản xuất kinh doanh luôn tìm cách duy trì một lượng hàng

tồn kho nhỏ nhất. Từ những lý do trên yêu cầu trong hoạt
động vận tải nói riêng và lưu thông phân phối nói chung phải
đảm bảo cho nguyên liệu hàng hóa được cung ứng kịp thời,
5
đúng lúc (just in time) mặt khác phải tăng cường vận chuyển
với mục tiêu không để hàng trong kho (Zero stock) nhẳm
giảm tối đa chi phí phát sinh hoặc sẽ phát sinh trong sản xuất
và lưu thông – logisitics đã ra đời.
Nghiên cứu các giai đoạn phát triển của Logisitics, ủy ban kinh tế và xã
hội châu Á – Thái Bình Dương (Economic and Social Commission for Asia
and Pacific – ESCAP) của Liên Hợp Quốc đã chia làm 3 giai đoạn
2. Giai đoạn 1: Giai đoạn phân phối vật chất
Tất cả các công ty đều có hoạt động vận chuyển vào trong công ty
(Inbound Logistics) và vận chuyển ra ngoài công ty (Outbound Logistics).
Vào những năm 60, 70 của thế kỉ XX, người ta quan tâm nhiều đến Outbound
Logistics. Outbound logistics là các hoạt động vận tải có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau nhằm đảm bảo việc giao hàng thành phẩm một cách hiệu quả cho
khách hàng. Những hoạt động này bao gồm: vận tải, phân phối bảo quản hàng
hóa, quản lý hàng tồn kho, đóng gói bao bì, phân loại, dán nhãn…, hay còn
gọi là phân phối vật chất. Như vậy giai đoạn đầu tiên của logistics chính là
giai đoạn phát triển của “Outbound Logistics” - Lĩnh vực quan trọng trong nỗ
lực marketing của công ty để phân phối sản phẩm đến tay khách hàng
3. Giai đoạn 2: Hệ thống logistics hay chuỗi logistics
Đến những năm 80, 90 của thể kỷ XX, các công tiến hành quản lý kết
hợp cả hai hoạt động “Inbound Logistics” và “Outbound Logistics”. Đó là
giai đoạn phát triển mới của Logistics: Logistics hệ thống. Inbound Logistics
là một khái niệm hệ thống nhằm tìm kiếm cách thức củng cố mối quan hệ với
nhà cung cấp, tăng chất lượng nguồn lực, giảm chi phí và thời gian vận tải,
thúc đẩy việc quản lý nguyên vật liệu và đáp ứng các mục tiêu sản xuất mới là
sản phẩm chất lượng cao với giá cả cạnh tranh

6
Inbound Logistics chỉ giới hạn trọng quản lý nguyên vật liệu cũng như
quản lý nguồn lực của doanh nghiệp, do đó còn gọi là logistics đầu vào. Một
vài nguyên nhân dẫn đến sự chuyển hướng này là: Giá nhiên liệu tăng khiến
chi phí vận tải tăng. Vì vậy kiểm soát tốt giá chi phí vận tải chính là tăng hiệu
quả sử dụng các phương tiện vận tải, bằng cách kết hợp Inbound và Outbound
Logistics. Bên cạnh đó là sự phát triển của khoa học quản lý đẫn đến sự ra đời
phương pháp lập kế hoạch về nhu cầu nguyên vật liệu, sự phổ biến của hệ
thống Kaban và JIT. Inbound Logistics quản lý các hệ thống này, nhờ đó
giảm chi phí sản xuất kinh doanh cho công ty thông qua giảm chi phí dự trữ
và lưu kho.
Như vậy, đến những năm 80, 90 của thế kỷ XX, việc tiến hành quản lý
kết hợp cả hai hoạt động “Inbound Logistics” và “Outbound Logistics” đem
lại nhiều lợi ích cho các công ty. Tùy vào tính chất ngành công nghiệp và hoạt
động sản xuất của chính công ty mà hoạt động này có thể quan trọng hơn hoạt
động kia hoặc có vai trò như nhau
4. Giai đoạn 3: Quản trị dây chuyền cung ứng
Cùng với “Inbound Logistics” và “Outbound Logistics”, người ta còn
quan tâm đến “Operation Logistics” – là một bộ phận của hoạt động điều
hành trong công ty liên quan đến việc lập hệ thống theo dõi, kiểm tra sản
phẩm và lập các chứng từ liên quan nhằm làm tăng thêm giá trị cho sản phẩm.
Sự kết hợp của ba hoạt động này hình thành nên một dây chuyền cung ứng
bao trùm mọi hoạt động từ nhà cung cấp đến nhà sản xuất và cuối cùng là đến
khách hàng tiêu dùng sản phẩm, mục đích cao nhất là thỏa mãn tối đa nhu cầu
khách hang
Sơ đồ
4.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của dịch vụ logistics
7
Song song với quá trình phát triển của logistics là quá trình
phát triển của dịch vụ logistics – hay dịch vụ logistics thuê

ngoài. Ban đầu, dịch vụ logistics thuê ngoài là dịch vụ vận
chuyển và giao nhận. Hàng hóa đi từ nước người bán đến
nước người mua thường dưới hình thức hàng lẻ, phải qua tay
nhiều người vân tải ở mỗi phương thức vân tải khác nhau. Vì
vây xác suất rủi ro mất mát xảy ra đối với hàng hóa là rất lớn
do người gửi hàng phải ký nhiều hợp đồng vân tải riêng biệt
với từng người vận tải. Trách nhiệm của mỗi người vận tải chỉ
giới hạn trong dịch vụ hay chặng đường mà người đó đảm
nhiệm. Vào những năm 60, 70 của thế kỷ này, cách mạng
container hóa trong vận tải đã đảm bảo an toàn và độ tin cây
trong di chuyển hàng hóa là tiền đề cho sự ra đời của vận tải
đa phương thức (Multimodal Transport Operator – MTO).
Sau đó khách hàng rất cần một người đứng ra tổ chức mọi công việc ở
tất cả các công đoạn liên quan để tiết kiệm tối đa thời gian, chi phí và rủi ro
phát sinh nhằm gia tăng lợi nhuận. Từ đó, những người vận tải đa phương
thức ngoài làm vận chuyển, giao nhận đã kiêm thêm các khâu liên quan đến
quá trình sản xuất hàng hóa như: gia công, chế biến lắp ráp, đóng gói, gom
hàng, xếp hàng, lưu kho và giao nhân. Hoạt động giao nhận vận tải thuần túy
đơn lẻ đã chuyển dần sang hoạt động tổ chức toàn bộ dây chuyền phân phối
vât chất và trở thành một bộ phận khăng khít của chuỗi mắt xích “cung-cầu”.
Xu hướng đó không những đòi hỏi phải phối hợp liên hoàn tất cả các phương
thức vân tải, mà còn đòi hỏi phải kiểm soát được các luồng thông tin, luồng
hàng hóa và luồng tài chính. Chỉ khi tối ưu được toàn bộ quá trình này thì mới
giải quyết được vấn đề đặt ra là: vừa tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp sản
xuất hàng hóa, vừa tăng lợi nhuận cho các đơn vị kinh doanh dịch vụ vân tải
8
giao nhận, bảo đảm được lợi ích chung của các bên tham gia vào dây chuyền.
Hoạt động giao nhận vận tải thuần túy chuyển sang hoạt động tổ chức toàn bộ
dây chuyền vận động của hàng hóa- đó chính là hoạt động logistics.
Từ sự phân tích trên chúng ta thấy rằng dịch vụ logistics chính là sự

phát triển ở giai đoạn cao của các khâu dịch vụ giao nhận kho vận, điều phối
hàng hóa từ khâu tiền sản xuất đến tay người tiêu dùng cuối cùng qua các
công đoạn: dịch chuyển, lưu kho và phân phát hàng hóa. Trong quá trình lưu
chuyển hàng hóa, đồng thời cũng có sự lưu chuyển của các dòng thông tin của
dịch vụ logistics. Vì vậy, ngày nay nhiều công ty giao nhận kho vận và nhiều
hiệp hội giao nhận kho vận ở các nưóc đã đổi tên thành công ty cung cấp dịch
vụ logistics và Hiệp hội các nhà cung cấp dịch vụ logistics. Những năm 90
của thế kỷ XX đã chứng kiến rất nhiều công ty vận tải giao nhận và khai thác
cảng đổi tên thành Công ty kinh doanh logistics hoặc lập thêm công ty về
logisitics. Ví dụ: Hiệp hội Giao nhận Singapore đổi tiên thành Hiệp hội
Logisitics Singapore (SLA). Các hãng vận tải NYK Logisitics, MOL
Logistics, APL Logistics và các cảng ICS Logistics (Hoa Kỳ), cảng Klang
Logistics (Châu Á) cũng đã hình thành và phát triển nhanh chóng.
Ở các nưóc không nói tiếng Anh như Việt Nam thuật ngữ Logistics
được giữ nguyên không dịch ra tiếng Việt để diễn đạt nội dung nghề
nghiệp của thuật ngữ logistics như Luật Thương mại ngày 14/6/2005 quy
định:
“Dịch vụ Logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ
chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm: nhận hàng, vân chuyển,
lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục Hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn
khách hàng, đóng gói, bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ
khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng
thù lao”. (Điều 233 - mục 4 — Chương VI).
9
Như vậy dịch vụ logistics là những hoạt động giúp cho hoạt động
logistics của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục mà
không nhất thiết phải do chính doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thực hiện.
Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics hiện nay bao gồm các nhà cung
cấp các dịch vụ phục vụ một hoặc một vài phần trong chuỗi logistics như: các
hãng tham gia hoạt động vận tải (Freight Carries); các công ty vận tải biển,

hàng không, đường bộ…; các chủ kho bãi (Warehouse Firms) hoặc các nhà
kinh doanh Logistics thứ ba – 3PL. Bên cạnh đó phải kể đến những người
chuyên cung cấp dịch vụ logistics như một ngành nghề, có quan hệ rộng rãi
với người bán và người mua, chỉ chuyên môn cung cấp dịch vụ logistics theo
đối tượng hàng hóa.
Có nhiều cách phân loại các công ty cung cấp dịch vụ logistics. Phân
loại dưới đây theo hình thức khai thác hoạt động logistics.
Các công ty Logistics thứ nhất (1 PL - First Party Logistics): người
chủ sở hữu hàng hóa tự mình tổ chức và thực hiện các hoạt động logistics để
đáp ứng nhu cầu của bản thân. Theo hình thức này, chủ hàng phải đầu tư vào
phương tiện vân tải, kho chứa hàng, hệ thống thông tin, nhân công để quản lý
và vân hành hoạt động logistics. First Party Logistics làm phình to quy mô
của doanh nghiệp và thường làm giảm hiệu quả kinh doanh vì doanh nghiệp
không có đủ quy mô cần thiết, kinh nghiệm và kỹ năng chuyên môn để quản
lý, vận hành hoạt động logistics.
Các công ty Logistics bên thứ hai ( 2 PL - Second Party Logistics):
người cung cấp dịch vụ logistics bên thứ hai là người cung cấp dịch vụ cho
một hoạt động đơn lẻ trong chuỗi các hoạt động logistics (vận tải, kho bãi, thủ
tục Hải quan, thanh toán) để đáp ứng nhu cầu của chủ hàng mà chưa tích hợp
hoạt động logistics. Loại hình này bao gổm các hãng vân tải đường biển,
10
đường bộ, đường hàng không, các công ty kinh doanh kho bãi, khai thuê hải
quan, trung gian thanh toán...
Các công ty Logistics bên thứ 3 ( 3 PL - Third Party Logistics): là
người thay mặt cho chủ hàng quản lý và thực hiện các dịch vụ logistics cho
từng bộ phân chức năng, ví dụ như thay mặt cho người gửi hàng thực hiện thủ
tục xuất nhập khẩu và vận chuyển nội địa hoặc thay mặt cho ngưòi nhâp khẩu
làm thủ tục thông quan và vận chuyển hàng đến địa điểm theo quy định. Do
đó 3 PL bao gồm nhiều dịch vụ khác nhau, kết hợp chặt chẽ việc luân chuyển,
tổn trữ hàng hóa, xử lý thông tin, ... và có tính tích hợp vào dây chuyền cung

ứng của khách hàng.
Các công ty Logistics bên thứ tư (4 PL - Fourth Party Logistics):
người tích hợp (intergrator) – người hợp nhất, gắn kết các nguồn lực, tiềm
năng và cơ sở vât chất khoa học kỹ thuật của mình với các tổ chức khác để
thiết kế, xây dựng và vận hành các giải pháp chuỗi logistics. 4 PL chịu trách
nhiệm quản lý dòng lưu chuyển logistics, cung cấp giải pháp dây chuyền cung
ứng, hoạch định, tư vấn logistics, quản trị vận tải, ... 4 PL hướng đến quản trị
cả quá trình logistics, như nhân hàng từ nơi sản xuất, làm thủ tục xuất, nhâp
khẩu, đưa hàng đến nơi tiêu thụ cuối cùng.
Các công ty Logistics bên thứ năm (5 PL – Fifth Party Logistics).
Gần đây cùng với sự phát triển của Thương mại điện tử, ngưòi ta đã nói đến
khái niệm công ty Logistics bên thứ 5 (5 PL). 5 PL phát triển nhằm phục vụ
cho Thương mại điện tử, các nhà cung cấp dịch vụ 5 PL là các 3 PL và 4 PL
đứng ra quản lý toàn chuỗi phân phối trên nền tảng Thương mại điện tử.
Vì vây các doanh nghiệp với vai trò là nhà cung cấp dịch vụ logistics
không bao gồm nhà cung cấp logistics bên thứ nhất vì đó chính là bản thân
doanh nghiệp tự cung ứng mà không thuê bên ngoài.
11
Hoạt động logistics ngày nay rất phát triển và đã trở thành một ngành
công nghiệp lớn. Theo báo cáo của Armstrong & Associates, mặc dù vài năm
qua nền kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn nhưng dịch vụ 3PL được dự đoán
sẽ tiếp tục phát triển trong ngắn hạn. Nghiên cứu của Armstrong&Associates
về thị trường 3PL cho thấy doanh thu toàn cầu của các 3PL năm 2010 đã đạt
con số 541,6 tỷ USD tăng 6,8% so với năm 2009 mặc dù nền kinh thế giới
vẫn ở giai đoạn bất ổn và biến động liên tục Châu Âu đạt doanh thu cao nhất
thế giới (162,3 tỷ USD) (Xem bảng 1.2) Điều này dễ hiểu vì các công ty 3PL
lớn nhất thế giới đều nằm ở các quốc gia châu Âu. Khu vực châu Á – Thái
Bình Dương được dự đoán sẽ trỗi dậy trong những năm tới vì sự phát triển
của các công ty logistics ở Singapore, Nhật Bản…Nhìn chung, hiệu quả của
việc sử dụng dịch vụ logistics thuê ngoài ngày càng được khẳng định là nhân

tố then chốt kinh doanh. Một khi công việc kinh doanh ngày này đang đối mặt
với những biến động và khủng hoảng kinh tế, khả năng thích nghi và thay đổi
rõ ràng là nhân tố tiền đề cho thành công. Việc sử dụng các 3PL là nguồn lực
hữu hiệu giúp các doanh nghiệp duy trì chuỗi cung ứng của mình linh hoạt
với môi trường kinh doanh.
Bảng 1.2. Doanh thu từ các 3PL năm 2010 => Đang sai
Vùng Doanh thu của các 3PL (Tỷ
USD)

Bắc Mỹ
149,1

Châu Âu
165,1

Châu Á-TBD
157,6

Mỹ La tinh
27,5

Khu vực khác
42,3
541,6
12
Tổng
Nguồn: Armstrong & Associates, Inc., 2010
Với sự phát triển chóng mặt của thương mại quốc tế và chuỗi cung ứng
mở rộng trên khắp thế giới, các nhà cung cấp logistics cần bên thứ ba (3PLs)
đã có một vai trò ngày càng quan trọng đối với các nhà sản xuất đa quốc gia

và các nhà bán lẻ. Nhà sản xuất cần nguồn cung cấp hoàn toàn đáng tin cậy
còn các nhà bán lẻ cần liên kết linh hoạt với các nhà cung cấp có chi phí thấp.
Tuy nhiên, các nhà cung cấp lại rải rác trên toàn cầu và bị ngăn cách bởi
khoảng cách địa lý. Bên cạnh đó, các nhà bán lẻ cũng cần các kênh phân phối
nhanh chóng cho mạng lưới ngày càng mở rộng của người tiêu dùng. Đồng
thời sự hình thành và phát triển thịnh vượng của các thị trường mới đang đặt
áp lực lớn hơn vào quản lý chuỗi cũng ứng để tìm được lợi thế cạnh tranh
Sự thành công của chuỗi cung ứng toàn cầu càng ngày càng được
khẳng định bởi vai trò của nhóm 3PL cốt lõi toàn cầu – nơi có thể cung cấp
chuyên môn, độ tin cậy và sự linh hoạt cho các tập đoàn đa quốc gia. Những
công ty 3PL toàn cầu cung cấp giao thông vận tải, hợp nhất, chuyển tiếp, môi
giới hải quan, kho bãi, thực hiện và phân phối hầu như bất cứ hoạt động
logistics liên quan đến thương mại dịch vụ và khách hang quốc tế của họ cần.
Khoảng 100 công ty 3PL hiện nay kiểm soát ước tính khoảng 1/3 của 270 tỷ
USD được chi vào các dịch vụ giá trị gia tăng logistics thuê ngoài toàn cầu
mỗi năm. Trong nhóm 3PLs toàn cầu, nhóm 25 công ty 3PL hàng đầu thu về
một phần ba tất cả các hoạt động 3PLs toàn cầu. Doanh thu hàng năm của
họ vượt quá 80 tỷ USD, và trong năm 2009, các khoản thu này sẽ tăng
trưởng từ 6-8% - gấp đôi so với tỷ lệ GDP thế giới
13
Châu Âu: Không có gì đáng ngạc nhiên khi 7 công ty 3PLs lớn
nhất toàn cầu là các công ty châu Âu, cùng nhau thu được ??? tỷ
USD năm nhiều hơn tất cả các công ty 3PLs còn lại trong Top
25 kết hợp. Thương vụ mua lại Exel của tập đoàn Deutsche Post
với giá 6.6 tỷ USD sẽ làm tăng gấp đôi doanh thu của DHL. Và
quả thực, DHL Supply Chain & Global Forwarding đã vươn lên
vị trí dẫn đầu mới gần 30.5 tỷ USD. Số hai và ba là Thụy Sĩ với
Kuehne & Nagel và Schenker của Đức, doanh thu tương ứng
14
19,4 và 18,9 tỷ USD . Lịch sử đế chế và lịch sử xuất khẩu đã

giúp tạo ra các 3PLs lớn ở châu Âu. Để minh chứng điều này,
chúng ta có thể so sánh doanh thu của các công ty tạo ra trong
nước và nước ngoài. Chỉ 1/3 doanh thu của DHL được tiến hành
ở Anh; Kuehne & Nagel xuất phát 45% doanh thu ở châu Âu
nhưng ít hơn 5% trong Thụy Sĩ. Ngoài ra, các nước châu Âu luôn
có lưu lượng hàng hóa truy cập đáng kể qua biên giới do họ dựa
rất lớn vào dịch vụ thuê ngoài.
Châu Á và Hoa Kỳ: chỉ có ba trong số các công ty trong danh sách
Top 25 nằm ở châu Á. Hầu hết các công ty Nhật Bản còn do dự để thuê ngoài.
Sự suy thoái nền kinh tế Nhật Bản và tốc độ thay đổi cho các hoạt động kinh
dianh truyền thống phản ánh sự bảo thủ của các công ty 3PL Nhật Bản. Các
công ty như Yamato, Nippon Express và Kintetsu trong khi chậm chạp trong
việc kết nối thị trường Nhật với phương Tây thì họ đang nỗ lực xâm nhập vào
thị trường gần nhà: Trung Quốc. Sembcorp Logistics Singapore, mặt khác đã
có một cách tiếp cận tiến bộ để trở thành công ty toàn cầu. Sembcorp sở hữu
20% của Kuehne & Nagel và đang mở rộng nhanh chóng ở Ấn Độ và Trung
Quốc.
Tại Hoa Kỳ, năm thứ chín liên tiếp, tốc độ tăng trưởng trong các thị
trường dịch vụ 3PL vượt quá tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tổng doanh thu 3PL
tăng % đến tỷ USD.
Xu hướng chung là các 3PLs sẽ nâng cao khả năng tích hợp, kỹ thuật
và giải pháp điều khiển. Theo dõi hàng tồn kho trên web và quản lý sự kiện là
cần thiết. Trong nghiên cứu mới đây được thực hiện bởi Armstrong &
Associates trên phân khúc VAWD, các dịch vụ giá trị gia tăng được sử dụng
nhiều nhất là hậu cần đảo ngược (reverse logistics), nhà cung cấp/quản lý
hàng tồn kho và lắp ráp/chế tạo theo yêu cầu khách hàng. Đối với giao thông
15
vận tải, các yêu cầu chủ yếu là hỗ trợ cho vận tải quốc tế / môi giới hải quan,
công nghệ thông tin / khả năng hiển thị và quản lý mạng lưới giao thông trong
nước. Những phần giá trị gia tăng được sử dụng nhiều phản ánh những xu

hướng toàn cầu là gia công nước ngoài, chuỗi cung ứng dài hơn và kiểm soát
thông tin tốt hơn.
Bảng xếp hạng những công ty 3PLs sẽ tập trung hơn trong tương lai
gần. Ba xu hướng quan trọng đang dẫn đến ít hơn và lớn hơn 3PL toàn cầu:
1. Các nhà sản xuất lớn nhất thế giới và các nhà bán lẻ đã quen với khái
niệm hậu cần, và họ thích làm kinh doanh với các công ty lớn hơn, bao gồm
cả các công ty 3PLs của họ.
2. Trong khi ngày càng nhiều hơn các nhà sản xuất, nguồn cung ứng và
các hoạt động chuỗi cun nổi ở Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ Latinh và các thị
trường mới nổi khác, yêu cầu các dịch vụ hậu cần cần không chỉ tồn tại trong
các khu vực này. 1000 công ty toàn cầu hoạt động trong các thị trường này
muốn các nhà cung cấp dịch vụ logistics toàn cầu có thể mở rộng hoạt động ở
bất cứ nơi nào họ cần, chuyển dịch từ vùng này đến vùng khác ngày khi
nguồn sản xuất thay đổi.
3. Để nhanh chóng phát triển năng lực, kích thước và khu vực địa lý,
các công ty 3PLs toàn cầu phải mở rộng bằng cách mua lại.
4.2. Vai trò của logistics
4.2.1. Đối với nền kinh tế quốc dân
Thứ nhất, Logistics là một ngành công nghiệp có tỷ suất lợi nhuận
cao, đóng góp nhiều cho ngân sách quốc gia
Từ nhiều thập kỷ qua, Logistics đã trở thành một trong những lĩnh vực
thu được nhiều lợi nhuận, đóng góp rất nhiều cho nền kinh tế và có một thị
trường toàn cầu rộng lớn ước tính khoảng 550 tỷ USA (năm 2010). Ngành
16
này được đánh giá là ngành có tỷ suất lợi nhuận cao khoảng 20-30% và đóng
góp một phần quan trọng cho GDP, tạo khối lượng việc làm đáng kể đặc biệt
là những quốc gia có vị trí địa lý thuận lợi, chiến lược. Ngành công nghiệp
Logistics chiếm khoảng 9% GDP của Singapore, 8,3% GDP của Mỹ và 13%
GDP của Ấn Độ.
Bảng Chi phí Logistics toàn cầu và doanh thu từ 3PL

17
Thứ hai, Logistics giúp tăng hiệu quả cho các ngành liên quan
• Cho các ngành công nghiệp sử dụng logistics
Chi phí cho logistics thấp sẽ mang lại hiệu quả cạnh tranh cho các
ngành công nghiệp khác nhờ giảm được chi phí trong toàn bộ chuỗi hoạt động
logistics thông qua việc giảm lưu kho, cung ứng hàng hóa kịp thời cho khách
hàng. Bảng trình bày một số lợi ích tích cực từ việc sử dụng dịch vụ logistics
trong quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa.
18
Bảng Các lợi ích đo được từ sử dụng Logistics
• Cho các ngành hỗ trợ
Hoạt động của ngành công nghiệp logistics được sự hỗ trợ rất lón từ
các ngành có liên quan như ngành vận tải mọi hình thức, ngành công nghiệp
đóng gói bao bì, ngân hàng,.. Sự phát triển của logistics sẽ tạo động lực cho
các ngành hỗ trợ đó, tăng thêm nguổn cầu mới đổng thòi đặt ra các yêu cầu
mới cao hơn, bắt buộc các ngành này phải thay đổi cho phù hợp với tình hình
mới để tăng sức cạnh tranh.
Thứ ba, hoạt động Logistics hiệu quả làm tăng tính cạnh tranh của một
quốc gia trên trường quốc tế
Theo nghiên cứu của Limao và Venables (2001), sự khác biệt trong kết
cấu cơ sở hạ tầng (đặc biệt là lĩnh vực giao thông vận tải) chiếm 40% trong sự
chênh lệch chi phí đối với các nước giáp biển và 60% đối với các nước không
giáp biển. Hơn nữa, trình độ phát triển và chi phí logistics của một quốc gia
19
Kết quả Toàn cầu
Giảm chi phí logistics (%) 15%
Giảm tài sản cố định (%) 25%
Giảm chi phí hàng tồn kho 11%
Độ dài chu kỳ đặt hàng trung bình Thay đổi từ 17 ngày
Thay đổi đến 12 ngày

Tỷ lệ đặt hàng được đáp ứng đầy đủ Thay đổi từ 73%
Thay đổi đến 81%
Tỷ lệ đơn đặt hàng chính xác Thay đổi từ 83%
Thay đổi đến 89%
còn được xem là một căn cứ quan trọng trong chiến lược đầu tư của các tập
đoàn đa quốc gia. Quốc gia nào có hệ thống cơ sở hạ tầng đảm bảo, hệ thống
cảng biển tốt… sẽ thu hút đầu tư từ các công ty hay tập đoàn lớn trên thế giới.
Sự phát triển vượt bậc của Singapore, Hồng Kông hay gần đây là Trung Quốc
là một minh chứng sống động cho việc thu hút đầu tư nước ngoài nhằm tăng
trưởng xuất khẩu, tăng GDP thông qua việc phát triển cơ sở hạ tầng và dịch
vụ logisitics.
4.2.2. Đối với các doanh nghiệp
Nếu Marketing là vũ khí chiến lược trong cạnh tranh vào
những năm của thế kỷ 20 thì trong thế kỷ 21 vai trò này đã
nhưòng lại cho hoạt động logistics. Do vây, dịch vụ logistics
hoàn hảo sẽ là vũ khí quan trọng trong thòi đại ngày nay.
Thứ nhất, Logistics góp phần làm giảm chi phí lưu thông, chi
phí sản xuất và chi phí cơ hội
• Chi phí lưu thông: Dịch vụ logistics không chú trọng tiết kiệm chi
phí cho một khâu nhất định mà là chú trọng vào tính hiệu quả trong cả quá
trình, nghĩa là cung cấp dịch vụ với tổng chi phí nhỏ nhất.
Với chi phí vân chuyển:
Một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tự khai thác phương tiện vân tải
của chính mình thường không đạt hiệu quả do lượng hàng không cho phép
khai thác tốt nhất phương tiện trong tất cả các ngày làm việc hoặc xe chỉ chở
một chiều. Trong khi đó thông qua doanh nghiệp dịch vụ logistics xe sẽ chạy
hai chiều đi và về đều có hàng, container sẽ đầy hơn do việc ghép chung hàng
của các đơn vị thuê ngoài dịch vụ khác nhau.
Ngoài ra, dựa vào phương thức vận chuyển đa phương thức người cung
cấp dịch vụ logistics giúp người gửi hàng giảm chi phí bằng cách kết hợp các

20
loại phương tiện vận tải khác nhau như máy bay, xe lửa, ôtô, tàu biển... Các
dịch vụ đóng gói và lắp ráp tại nơi tiêu thụ cũng giảm được trọng lượng và thể
tích chuyên chở.
Với chi phí lưu kho:
Việc thiết kế và bố trí kho hợp lý, quản lý lượng hàng tồn kho bằng
máy tính để cập nhật thông tin hàng ngày, các doanh nghiệp có thể giảm hoàn
toàn chi phí lưu kho.
Với chi phí và lãi suất ngân hàng:
Với việc giảm lượng hàng tồn kho cũng như các chi phí vận tải và các
chi phí khác, doanh nghiệp cần một lượng vốn ít hơn phục vụ cho đầu tư vào
những lĩnh vực là thế mạnh của mình do đó nhu cầu vay vốn giảm, chi phí
cho lãi suất tiền vay cũng giảm theo.
• Chi phí sản xuất:
Với sự cung ứng nguyên vât liệu đúng lúc, bảo đảm và sự thiết kế địa
điểm sản xuất hợp lý sẽ giúp giảm thiểu chi phí sản xuất mà không ảnh hưởng
đến chất lượng sản phẩm.
Nhà cung ứng dịch vụ logistics có thể tham gia vào quá trình tư vấn
nguyên vật liệu ngay từ quá trình thiết kế sản phẩm giúp rút ngắn thời gian
chuẩn bị cho sản phẩm mói. Dịch vụ logistics tốt đảm bảo nguyên vật liệu đi
đúng theo lịch trình và đáp ứng kịp thời cho kế hoạch sản xuất tránh tình
trạng ngắt quãng sản xuất do thiếu nguyên vật liệu.
Thông qua dịch vụ logistics, hàng hóa sẽ có được dòng chảy đầu vào
đảm bảo và chất lượng. Một dịch vụ logistics tốt sẽ cung ứng sản phẩm ngay
đúng lúc thị trường cần. Và trong mối liên hệ trong sản xuất là đầu ra của một
tổ chức này chính là một đầu vào của tổ chức khác. Hơn nữa, với cơ sở vật
chất và thông tin hiện đại, các nhà cung ứng này có thể cung ứng hàng hóa
21
vói chất lượng và thời gian đảm bảo hơn cho các nhà sản xuất.
Bên cạnh đó dịch vụ logistics góp phần hợp lý hóa các giai đoạn sản

xuất. Thay vì sản xuất tại một địa điểm từ công đoạn đầu đến cuối thì nhà sản
xuất có thể phân bổ một số công đoạn như lắp ráp, gia công nhằm tận dụng
nguồn nhân lực rẻ hay nguồn nguyên liệu dồi dào.
• Chi phí cơ hội:
Thay vì các doanh nghiệp đầu tư dàn trải vào những lĩnh vực mình
không có lợi thế cạnh tranh mà chiếm nhiều vốn như nhà kho, đội vân tải, họ
có thể tâp trung vào việc tạo ra sản phẩm độc đáo để tăng sức cạnh tranh.
Chi phí cơ hội còn thể hiện ở chỗ các doanh nghiệp có thể giao hàng
đúng lúc không gây ứ đọng vốn do sản xuất theo đúng nhu cầu, tránh được
chi phí lưu kho và tổn đọng hàng hóa.
Thứ hai, Logistics tạo thêm giá trị gia tăng và cung cấp dịch vụ khách
hàng
Ngày nay ngưòi mua hàng không chỉ mua một sản phẩm vì công dụng
của nó mà còn mua cả dịch vụ kèm theo sản phẩm đó.
Với những dịch vụ giá trị gia tăng của logistics như dán nhãn, đóng
gói, lắp ráp, dịch vụ khách hàng... đã tạo thêm giá trị gia tăng cho hàng hóa
giúp cho doanh thu của nhà sản xuất được tăng lên. Hơn nữa các dịch vụ như
gom và phân hàng lẻ, xé lẻ các lô hàng lớn , chuẩn bị các lô hàng hỗn hợp.
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng và
giảm được chi phí phát sinh.
Thứ ba, Logistics là công cự marketing hiệu quả giúp các doanh
nghiệp sản xuất thâm nhập thị trường
22
Không gì thuân lợi hơn cho các nhà xuất khẩu khi có một căn cứ phân
phối hàng ngay tại khu vực tiêu thụ. Tại đây, hàng hóa sẽ được phân phối
theo yêu cầu của khách hàng theo đúng chất lượng và số lượng, việc in ấn
nhãn hiệu theo tiếng bản xứ, thâm chí có thể mua thêm nguyên liệu tại chỗ để
gia công thêm cho hàng nhâp khẩu mà không bị đánh thuế sẽ giảm chi phí rất
lớn cho nhà nhâp khẩu và tạo thuân lợi rất lớn trong việc cung cấp cho khách
hàng các dịch vụ đa dạng khác nhau.

Ngày nay, việc sử dụng các nhà logistics có uy tín cũng là một cách
tăng thêm uy tín cho chính công ty xuất nhâp khẩu, tạo thêm độ an tâm cho
đối tác. Để thu hút khách hàng, các công ty logistics còn kiêm thêm dịch vụ
môi giới giữa người mua và người bán vốn không quen biết nhau và họ là
người đảm bảo uy tín cho hai bên.
Với những vai trò của dịch vụ logistics trên đây đã làm cho các doanh
nghiệp dần chuyển sang thuê ngoài dịch vụ logistics phục vụ cho chuỗi hoạt
động logistics của doanh nghiệp. Để tìm ra hướng đi cho các doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ logistics Việt Nam chúng ta đi vào tìm hiểu nội dung của
dịch vụ logistics cơ bản và những dịch vụ chủ yếu được thuê ngoài hiện nay
từ đó giúp các doanh nghiệp Việt Nam có những đánh giá và thay đổi phù
hợp đáp ứng tốt nhất yêu cầu của thị trường.
4.3. Nội dung các hoạt động Logistics cơ bản và dịch vụ
logistics thuê ngoài
4.3.1. Các hoạt động Logistics cơ bản
Các hoạt động logistics cơ bản được chia thành hai mảng chính. Mảng
thứ nhất bao gồm các hoạt động mang tính chất vật lý, cần thiết để hình thành
lợi ích về hình thức, thời gian, địa điểm và số lượng như hoạt động sản
xuất/kinh doanh và vận tải đê tạo ra và vận chuyển sản phẩm/dịch vụ. Mảng
23
thứ hai bao gồm các hoạt động giao dịch (dòng lưu chuyển hành vi và thông
tin) cần thiết để kết nối hoặc tạo ra các hoạt động cơ học trên.
Các hoạt động logistics cơ bản được chia thành bốn nhóm chức năng,
trong đó vận tải, cơ sở hạ tầng và quản lý hàng tồn kho từ trước đến nay vẫn
được xem là cốt lõi của hoạt động logistics.
Bảng Các khu vực chức năng hoạt động Logistics cơ bản
Chức năng Hoạt động chủ yếu
Vận tải - Giao thông vận tải
Cơ sở vật chất (Kho bãi) - Kho hàng và lưu kho
- Lựa chọn địa điểm nhà máy và kho

bãi
Quản lý hàng tồn kho (dự
trữ)
- Mua hàng
- Hàng dự trữ
- Hỗ trợ dịch vụ/phụ kiện
- Xử lý hàng bị trả lại
Thông tin và liên lạc - Xử lý vật liệu phế thải
- Dịch chuyển nguyên vật liệu
- Xử lý đơn hàng
- Dự đoán nhu cầu
- Thông tin liên lạc
Nguồn: Sổ tay kinh doanh Logistics, Cục Quản lý cạnh tranh và Tổng
cục Hàng Hải Việt Nam
5. Hoạt động vận tải
Vận tải là một trong những hoạt động cơ bản nhất của logistics tạo ra
sự dịch chuyển dòng nguyên vật liệu và hàng hóa từ điểm ban đầu đến điếm
tiêu thụ cuối cùng. Lựa chọn phương thức vận chuyển, lựa chọn người vận
chuyển, hành trình và lịch trình vận chuyển là những vấn đề cần giải quyết
trong hoạt động vận tải.
24
Lựa chọn phương thức vận tải
Hàng hóa có thể được vận chuyển bằng một phương thức vận chuyển
đơn lẻ hoặc thông qua việc kết hợp các phương thức vận chuyển giữa đường
bộ, đường sắt, đường biển, đường thủy và đường hàng không (đường ống chỉ
dùng để vận chuyển một số loại hàng hóa nhất định). Mỗi phương thức có
những ưu, nhược điểm riêng cũng như mức độ phù hợp nhất định mà doanh
nghiệp cần xem xét trước khi lựa chọn. Trong đó cần chú trọng đến ba yếu tố
là cước vận chuyển, thời gian vận chuyển và độ linh hoạt.
Dưới đây là những đặc điểm chính của các phương thức vận chuyển cơ

bản và các yếu tố chính ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương thức vận
chuyển:
Bảng
Đường sắt Đường bộ Đường biển Hàng không
Tốc độ Chậm Nhanh Chậm Rất nhanh
Thời gian vận
chuyển
Dài Tương đối
ngắn
Rất dài Ngắn
Cước vận
chuyển
Thích hợp
cho mức phí
cố định
Khả năng cung
cấp dịch vụ từ
cửa đến cửa
Độ linh hoạt
Độ an toàn
Độ sẵn có
25

×