Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

tiểu luận tình hình nhập siêu ở việt nam- biện pháp khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 28 trang )

Kinh Tế Vĩ Mô 1













TIỂU LUẬN

Tình hình nhập siêu ở Việt Nam- Biện pháp khắc phục

















Kinh Tế Vĩ Mô 2






Mục lục:

I. Tổng Quan Tình Hình Xuất Nhập Khẩu…………………………………2

II. Tình Hình Nhập Siêu Trước 2007……………………………………… 4

III. Tình Hình Nhập Siêu Sau 2007………………………………………….7
1. Nhập siêu 2007……………………………………………………… 8
2. Nhập siêu 2008……………………………………………………….9
3. Nhập siêu 2009……………………………………………………….11

IV. Tình Hình Nhập Siêu Năm 2010……………………………………… 13

V. Tác Động Của Nhập Siêu………………………………………………17

VI. Nguyên Nhân………………………………………………………… 18
1. Giai đoạn 2000-2006………………………………………………….18
2. Giai đoạn 2007-2010………………………………………………….19
3. Nguyên nhân chung………………………………………………… 21

VII. Biện Pháp Khắc Phục………………………………………………….26


VIII. Kết Luận………………………………………………………… 27






Kinh Tế Vĩ Mô 3






I. Tổng Quan Nền Xuất Nhập Khẩu Của Việt Nam:


Xuất nhập khẩu là một ngành kinh tế quan trọng,có ý nghĩa quyết định đến sự thành
công của công cuộc công nghiệp hóa.Hơn hai mươi năm trước, kể từ Đại hội Đảng VI
(1986), công cuộc “đổi mới” đã tạo nên tiền đề vững chắc, đẩy nền kinh tế Việt Nam (VN)
chuyển mình, thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Hai mươi năm sau, hội nhập WTO là
“cú hích” đưa vị thế VN lên mộ
t tầm cao mới, ổn định và tăng tốc. Trên các “mặt trận”,
ngoại thương luôn giữ vững vị trí tiên phong, khẳng định vai trò quan trọng trong tăng
trưởng kinh tế, ổn định chính trị xã hội và thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế,tỉ lệ xuất nhập khẩu có bước chuyển rõ rệt.
20 năm đổi mới trải qua 4 kế hoạch 5 năm,Việt nam đã có diện mạo m
ới,nền kinh tế
VN hiện tại cũng đứng ở vị thế khác trong bảng xếp hạng kinh tế thế giới.

Nếu như năm 1988 ta còn phải nhập khẩu 4,5 tấn gạo thì sang năm 1989 ta đã sản
xuất đc 21.4 tấn gạo đã có dự trữ và xuất khẩu đc 1,5 triệu tấn.Việc nông nghiệp đạt đc kế
hoạch đề ra đã chấm dứ
t tình trạng đói kinh niên của nhân dân,lương thực nước ta đã có
tích lũy và xuất khẩu thay đổi cán cân xuất nhập khẩu lương thực của đất nước.
Dưới đường lối đổi mới của các chính sách kinh tế,hàng xuất khẩu của nước ta tăng
hơn trước các mặt hàng xuất khẩu mới xuất hiện như:gạo,dầu thô…nhập khẩu giảm đáng
kể tiến g
ần đến mức cân bằng giữa nhập khẩu và xuất khẩu.
Từ 1 nước phải sống nhờ vào hàng viên trơ và nhập khẩu hàng triệu tấn lương thực
mỗi năm,VN bỗng trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới,thứ nhất về xuất khẩu
hạt tiêu,thứ hai về cà phê và hạt điều,thứ tư về cao su…thực sự kh
ẳng định vị trí cường
quốc xuất khẩu nông sản…Hàng VN đã có mặt ở gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên
thế giới
Theo Bộ công thương,đến nay,đã có gần 40000 doanh nghiệpVN hoạt động xuất
nhập khẩu trực tiếp,tăng khoảng 1000 lần so với năm 1986.Số mặt hàng xuất khẩu cũng
tăng,từ 4 nhóm là dầu thô,thủy sản,gạo ,dệt may lên tới 40 nhóm mặt hang.N
ăm 2007,”câu
lạc bộ 1 tỷ USD”đã có 10 thành viên, trong đó có 3 nhóm hàng trên 3 tỷ USD, 2 nhóm
hàng trên 2 tỷ USD, xứng đáng nằm trong Top 50 quốc gia có nền ngoại thương lớn của
thế giới. Chính sách tự do hoá thương mại, xoá bỏ độc quyền ngoại thương, mở rộng quyền
kinh doanh xuất nhập khẩu là bước đột phá tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp
Kinh Tế Vĩ Mô 4

thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động ngoại thương, đẩy nhanh tăng trưởng
xuất khẩu trên cả nước.
Kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta năm 2001 đã đạt tới 31,2 tỷ USD, nghĩa là
xấp xỉ với tổng giá trị GDP, trong đó giá trị xuất khẩu khoảng 15 tỷ. Trước thập kỷ 1990,
tổng kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP của n

ước ta chỉ vào khoảng 30%.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP của Trung Quốc hiện nay cũng chỉ vào
khoảng trên 30%. Các nước Xingapo, Malaixia, Thái Lan đã có tỷ trọng so sánh giữa giá
trị xuất nhập khẩu và GDP cao hơn ta.
Năm 1995, hàng tiêu dùng còn chiếm 15,2% tổng giá trị nhập khẩu, nhưng đến năm
2001, đã giảm xuống chỉ còn 5,3%. Trong nhiều năm ta tỏ ra rất yên tâm về cơ cấu nhập
khẩu này, vì cho rằ
ng ta chỉ nhập máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu cần cho phát
triển sản xuất trong nước. Một cơ cấu cần cho phát triển sản xuất trong nước hẳn phải là
một cơ cấu tiến bộ. Song thực tế đã không hẳn như vậy. Việc ta chỉ nhập khẩu ít hàng tiêu
dùng - khoảng 10% tổng giá trị nhập khẩu - là điều không bình thường.
Thường các nước ở trình độ
phát triển thấp như ta, kể cả Nhật Bản thời kỳ những năm
1950, tỷ lệ nhập khẩu hàng tiêu dùng cũng vào khoảng 20% tổng giá trị hàng nhập khẩu. Ở
nước ta, vì nhập khẩu hàng tiêu dùng chính thức chịu mức thuế cao và nhiều cấm đoán,
nên tình trạng buôn lậu mới trở thành quốc nạn, và kèm theo nó là nạn tham nhũng. Nếu
cộng cả giá trị hàng nhập lậu nữa, thì tỷ tr
ọng nhập khẩu hàng tiêu dùng chắc đã không
kém 20% tổng giá trị nhập khẩu.
Từ 1 nước phải sống nhờ vào hàng viên trợ và nhập khẩu hang triệu tấn lương thực mỗi
năm,VN bỗng trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới,thứ nhất về xuất khẩu hạt
tiêu,thứ hai về cà phê và hạt điều,thứ tư về cao su…thực sự
khẳng định vị trí cường quốc
xuất khẩu nông sản…Hàng VN đã có mặt ở gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế
giới
Tuy nhiên,việc ta không nhập khẩu bằng phát minh sáng chế là một khiếm khuyết lớn.
Nước ta chỉ xuất khẩu dầu thô, nông hải sản, khó đủ vốn mua được máy móc thiết bị hiện
đại, do vậy phải mua máy móc thiết bị cũ - xuất hiện nguy cơ biến n
ước ta thành "bãi thải
công nghệ cũ". Do ta không nhập bằng phát minh sáng chế để hiện đại hóa các máy móc

cũ, nên phải dùng máy móc cũ, công nghệ lạc hậu, tiêu xài nhiều nguyên, nhiên liệu vật
liệu nhập khẩu - làm gia tăng chi phí. Ta cũng không nhập khẩu các dịch vụ cần cho phát
triển công nghiệp như các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, tư vấn v.v
nên các máy móc thiết bị và nguyên nhiên vật liệu nhập khẩu về được sử d
ụng càng kém
hiệu quả.





Kinh Tế Vĩ Mô 5




II. Tình hình nhập siêu trước năm 2007:
Từ năm 2001-2006, tình trạng nhập siêu xảy ra liên tục.Ngoại trừ năm 2005,nhập
siêu giảm nhẹ,các năm còn lại nhập siêu tăng liên tục.
Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005 ước đạt
110,829 tỷ USD, với tốc độ tăng bình quân 17,5%/năm. Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng
hóa cùng thời kỳ đạt 130,151 tỷ USD, tăng bình quân 18,8%/năm, cao hơn tốc độ tăng bình
quân củ
a kim ngạch xuất khẩu. Như vậy nhập siêu cả giai đoạn 2001 - 2005 là 19,322 tỷ
USD, bằng 17,43% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả giai đoạn này. Nếu so sánh với giai
đoạn 1991- 1995 (32,8%) và giai đoạn 1996 - 2000 (19%) thì tỷ lệ nhập siêu so với tổng
kim ngạch xuất khẩu của giai đoạn 2001 - 2005 thấp hơn về mặt tỷ trọng nhưng lớn hơn về
số tuyệt đố
i.
Nhập siêu của Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005 có đặc điểm là nếu tính cả dầu thô,

khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 12,729 tỷ USD trong khi đó khu vực 100%
vốn trong nước nhập siêu 32,051 tỷ USD; nếu không tính dầu thô, khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài nhập siêu 10,532 tỷ USD còn khu vực 100% vốn trong nước nhập siêu 8,79 tỷ
USD. Về mặt thị trường xuất nhập khẩu, Việt Nam đạt xuấ
t siêu vào thị trường châu Âu và
Mỹ nhưng nhập siêu từ ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan và tương đối cân bằng
với Nhật Bản.
Theo đánh giá của Bộ Công thương, nhập siêu tăng mạnh trước hết do nhu cầu nhập
khẩu để phục vụ sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển kinh tế.Nhưng đáng lo ngại là
một số ngành xuất khẩu mũi nhọn như dệt may, da giày và mớ
i đây là thủy sản,
điều ,muốn tăng xuất khẩu buộc phải tăng nhập khẩu nguyên, phụ liệu.Trong khi, VN
hoàn toàn có khả năng để sản xuất, nhưng đáng tiếc nền công nghiệp phụ trợ chưa đáp ứng
được.Và một số ngành sản xuất hàng tiêu dùng nội địa cũng trong tình trạng tương tự.
Về sâu xa, nhập siêu tăng cao cũng có nguyên nhân là tốc độ tăng tr
ưởng xuất khẩu
thấp hơn tốc độ nhập khẩu. Trong khi nhu cầu nhập khẩu phục vụ sản xuất và đầu tư phát
triển tăng cao thì khối lượng và giá trị xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực lại có xu hướng
giảm, các nhóm hàng công nghiệp chế tạo được kỳ vọng lại chưa có sự tăng trưởng bứt
phá. Điều này thể hiệ
n một thực tế là năng lượng cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Bên
cạnh đó, ảnh hưởng của việc cắt giảm thuế nhập khẩu và nhu cầu tiêu dùng cao, khiến hàng
ngoại thừa cơ “đổ bộ”.

Kinh Tế Vĩ Mô 6




bảng 1:

tổng hợp kim ngạch và tốc độ tăng kim ngạch của xuất nhập khẩu, nhập siêu và tỷ lệ
nhập siêu qua các năm từ 2001-2006.
Đvt: Triệu USD

0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
2001 2002 2003 2004 2005 2006
xuất khẩu
nhập khẩu

( Nguồn: Thời báo kinh tế Sài Gòn)


Về cơ cấu nhập khẩu:
Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu bình quân của ba nhóm hàng: máy móc, thiết bị, dụng
cụ, phụ tùng; nguyên, nhiên vật liệu; hàng tiêu dùng trong giai đoạn 2001-2006 lần lượt là
17,4%; 25,9% và 19,3%. Sau 5 năm 2001-2006, cơ cấu nhập khẩu đã có thay đổi theo
hướng tăng dần tỉ trọng nhóm hàng nguyên, nhiên vật liệu, giảm tỉ trọng hai nhóm hàng
máy móc, thiết bị và hàng tiêu dùng.
Năm 2006 khoảng 70% là hàng nguyên vật liệu phụ
c vụ sản xuất để tái xuất khẩu và
sản xuất trong nước, bao gồm các mặt hàng: gỗ nguyên liệu, bột giấy, đồng nguyên liệu,

bông và sợi các loại, phân bón, sắt thép, da nguyên liệu, máy móc thiết bị… Các mặt hàng
năm Xuất
khẩu
Tốc độ
tăng(%)
Nhập
khẩu
Tốc độ
tăng(%)
Nhập
siêu
Tỷ lệ
nhập
siêu (%)
2001 15,027 3.8 16,162 3.4 1,135 7.9
2002 16,705 11.2 19,733 21.8 3,027 18.2
2003 20,149 20.6 25,256 27.9 5,106 25.3
2004 26,504 31.5 31,954 26.5 5,450 20.6
2005 32,233 21.6 36,881 15.4 4,648 14.4
2006 39,5 22 44,8 22 5,3 12.8
Kinh Tế Vĩ Mô 7

tiêu dùng khác chiếm khoảng 30% thì trong 7 tháng đầu năm 2007 kim ngạch nhập khẩu
vẫn chủ yếu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất như máy móc, thiết bị dụng cụ, phụ tùng ước
tính đạt 4,4 tỷ USD, tăng tới 46,4% so với cùng kỳ; xăng dầu 3,3 tỷ USD, tăng 8,2%; sắt
thép 2,15 tỷ USD, tăng 60,9%, hóa chất tăng 47,1%, ô tô tăng 76,9%,tân dược tăng 25,6%.
Các thị trường chủ yếu
Các đối tác Việt Nam nhập khẩu nhiều nhất đều thuộc khu vực Đông Á: Trung Quốc,
Singapore, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, Hồng Kông. Năm 2001,
Việt Nam nhập khẩu đến 73,7% hàng hóa từ các nước trên; đến 11 tháng đầu năm 2007,

con số này là 76,3%. Trong chính sách về cơ cấu thị trường nhập khẩu, định hướng đưa ra
là giảm tỷ trọng nhập khẩu từ các n
ước châu Á xuống còn 55% vào năm 2010. Chiến lược
phát triển xuất nhập khẩu thời kì 2001-2010 còn đề cập tới việc gia tăng nhập khẩu từ các
thị trường công nghệ nguồn như Mỹ, EU, Nhật Bản lên 40% vào năm 2010. Tuy nhiên,
đến thời điểm này có thể thấy mục tiêu này hoàn toàn không khả thi.






Nguồn: Tổng cục thống kê
Mặc dù có rất nhiều thuận lợi do các hiệp định thương mại mang lại nhưng chính phủ
cũng như các doanh nghiệpViệt Nam chưa nắm bắt hết được, chưa biết tận dụng những cơ
hội này, do đó Việt Nam vẫn là một đất nước nhập siêu với tỉ lên nhập có thể không tăng
mấy nhưng giá trị nhập siêu thì có xu hướng ngày càng tăng.Tuy vậy, nền ngo
ại thương
của VN vẫn được đánh giá là lành mạnh. Hơn nữa, dù nhập siêu, song cán cân thanh toán
vẫn trong tầm kiểm soát, vì ngoài phần ngoại tệ thu được từ xuất khẩu hàng hóa, mấy năm
nay các nguồn vốn hỗ trợ, kiều hối, xuất khẩu dịch vụ đều tăng. Tất nhiên, vẫn cần có
ngay những biện pháp hữu hiệu kiềm chế nhập siêu, không để ảnh hưởng đến các chỉ
tiêu
Kinh Tế Vĩ Mô 8

kinh tế vĩ mô.



III. Tình Hình Nhập Siêu Sau Năm 2007:

1. Tổng quan nhập siêu 2007-2010:
Tình hình nhập siêu hàng hóa và dịch vụ tăng mạnh từ năm 2007. Sau khi gia nhập
WTO, hoạt động ngoại thương nói chung, đặc biệt hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá của
Việt Nam nói riêng có nhiều thuận lợi để phát triển. Các nhà xuất khẩu Việt Nam có điều
kiện tiếp cận thị trường thế giới dễ dàng hơn, những hạn chế và rào cản thuế đối v
ới hàng
hoá Việt Nam được cắt giảm. Chúng ta có thị trường xuất khẩu rộng lớn đã và sẽ được cắt
giảm cùng các biện pháp phi quan thuế cũng sẽ được loại bỏ theo Nghị định thư gia nhập
của các thành viên này mà không bị phân biệt đối xử; tăng cơ hội thâm nhập thị trường
nước ngoài cho các sản phẩm của nước ta.
Biẻu đồ nhập siêu giai đoạn 2006-2010

Một vấn đề cũng cần đề cập đến là cơ cấu nhập khẩu cho sản xuất và tiêu dùng. Trong
10 năm qua hơn 90% kim ngạch nhập khẩu là dùng cho sản xuất, chỉ chưa tới 10% là nhập
khẩu cho tiêu dùng cuối cùng, dù rằng gần đây nhiều người lo ngại về việc nước ta nhập
khẩu cả tăm tre. Trong chín tháng đầu năm 2010 tỷ trọng nhập khẩu cho tiêu dùng giảm từ
Kinh Tế Vĩ Mô 9

9,3% tổng giá trị nhập khẩu của năm 2009 xuống còn 8,4%. Như vậy vấn đề nhập siêu của
Việt Nam chính là do nhu cầu nhập khẩu cho sản xuất.

2. Nhập siêu năm 2007:
Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2007 đạt 60,83 tỷ USD, tăng tới 35,5% so với năm
trước. Đã có 13 mặt hàng đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên: Máy móc, thiết bị, dụng cụ và
phụ tùng đạt trên 10 tỷ USD, x
ăng dầu đạt trên 7 tỷ USD, sắt thép đạt gần 5 tỷ USD, vải 4
tỷ USD, điện tử máy tính và linh kiện đạt gần 3 tỷ USD.
Do tốc độ tăng nhập khẩu cao gấp rưỡi tốc độ tăng xuất khẩu, nên nhập siêu đã gia
tăng so với cùng kỳ năm 20006 cả về kim ngạch tuyệt đối (12,45 tỷ USD so với gần 5,1 tỷ
USD) và cả về tỷ lệ so vớ

i xuất khẩu (25,6% so với 12,7%). Nhập siêu tăng chủ yếu do
nhập thiết bị máy móc, nguyên nhiên vật liệu tăng cao, một phần do giá nhập tăng: xăng
dầu, sắt thép, phân bón, chất dẻo, giấy sợi, dệt, bông.
Nếu tính theo tiền đồng và giá hiện hành, nhập siêu năm 2007 tăng hơn 300% so với
2006, trong khi con số nhập siêu bình quân giai đoạn 2000-2006 chỉ tăng 26%/năm. Nếu
loại trừ yếu tố giá, thì hai con số này tươ
ng ứng là gần 200% và khoảng 20%. Điều cần lưu
ý năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại toàn cầu WTO. Tuy
nhập siêu lên tới con số gần 12,5 tỷ USD trong năm 2007 nhưng vẫn nằm trong tầm kiểm
soát vĩ mô của Chính phủ. Khoản thâm hụt này sẽ được bù đắp bởi kiều hối (khoảng trên 5
tỷ USD), lượng ngoại tệ từ XK lao động (khoảng 2 tỷ USD) và m
ột phần do các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài nhập máy móc thiết bị vào phục vụ sản xuất. Do vậy dự trữ
ngoại tệ không bị ảnh hưởng bởi nhập siêu. Phần lớn giá trị NK dùng để phục vụ sản xuất
và phần nhỏ (khoảng 10%) là phục vụ cho tiêu dùng, nên cơ cấu hàng NK hầu như không
bị xáo trộn và nhập siêu chưa ảnh hưởng nhiều đến sứ
c sản xuất và có tác dụng về lâu dài
đối với nền kinh tế VN vốn dĩ thiếu công nghệ phục vụ sản xuất.





Kinh Tế Vĩ Mô 10



3. Nhập siêu 2008:
Kim ngạch hàng hoá nhập khẩu tháng 12/2008 ước tính đạt 5,4 tỷ USD, tăng 16,1%
so với tháng trước do một số mặt hàng nhập khẩu tháng này tăng mạnh là: Máy móc thiết

bị tăng 272 triệu USD; xăng dầu tăng 78 triệu USD; thức ăn gia súc tăng 53 triệu USD; sắt,
thép tăng 182 triệu USD. So với tháng 12/2007, kim ngạch nhập khẩu tháng 12 năm nay
giảm 25%. Tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính 80,4 tỷ USD,
tăng 28,3% so với năm 2007, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 51,8 tỷ USD, tăng
26,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 28,6 tỷ USD, tăng 31,7%. Trong tổng kim
ngạch hàng hoá nhập khẩu năm 2008, tư liệu sản xuất chiếm 88,8%; hàng tiêu dùng chiếm
7,8%; vàng chiếm 3,4% (năm 2007 tỷ trọng của 03 nhóm hàng này tương ứng là: 90,4%;
7,5%; 2,1%). Nếu loại trừ yếu tố tăng giá của một số mặt hàng thì kim ngạch nhập khẩu
năm nay chỉ tăng 21,4% so với năm 2007.


Kinh Tế Vĩ Mô 11

Nhìn chung, các mặt hàng nhập khẩu chủ lực nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển sản
xuất trong nước đều tăng so với năm 2007. Tuy nhiên, nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất
những tháng cuối năm có xu hướng giảm nhiều, đây là một trong những dấu hiệu của sự
chững lại trong đầu tư và sản xuất. Trong khi đó, kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng
đang có xu hướng tăng vào các tháng cuố
i năm cho thấy hàng tiêu dùng nước ngoài đang
tạo sức ép lớn lên hàng tiêu dùng của Việt Nam ngay tại thị trường trong nước. Nhập khẩu
ô tô năm 2008 đạt mức cao kỷ lục với 2,4 tỷ USD, trong đó ô tô nguyên chiếc đạt 1 tỷ USD
với 50,4 nghìn chiếc (ô tô dưới 12 chỗ ngồi 27,5 nghìn chiếc, tương đương 380 triệu USD).
Nhập khẩu máy móc thiết bị, phụ tùng khác (trừ ô tô và máy tính, điện tử) ước tính đạt
13,7 tỷ USD, tă
ng 23,3% so với năm 2007. Nhập khẩu xăng dầu đạt 12,9 triệu tấn, tăng
0,1% so với năm trước, tương ứng với kim ngạch 10,9 tỷ USD, tăng 41,2%. Sắt thép đạt
6,6 tỷ USD, tăng 28,5%. Vải và nguyên phụ liệu dệt may là những mặt hàng phục vụ chủ
yếu cho sản xuất hàng xuất khẩu vẫn đạt kim ngạch cao với 6,8 tỷ USD, tăng 11,5% so với
năm 2007. Hàng điện tử máy tính và linh ki
ện đạt 3,7 tỷ USD, tăng 25,8% so với năm

trước, đây là nhóm hàng không chỉ gắn với tiêu dùng trong nước mà còn liên quan tới gia
công, lắp ráp để xuất khẩu.
Trong các thị trường nhập khẩu của Việt Nam năm 2008, kim ngạch hàng hoá nhập
khẩu từ khu vực ASEAN, ước tính 19,5 tỷ USD, tăng 22,5% so với năm 2007; Trung Quốc
15,4 tỷ USD, tăng 23,2%; thị trường EU 5,2 tỷ USD, tăng 1,7%; Đài Loan 8,4 tỷ USD,
tăng 21,8 %; Nhật Bản 8,3 tỷ USD, tă
ng 37,7%.
Nhập siêu năm 2008 ước tính 17,5 tỷ USD, tăng 24,1 % so với năm 2007, bằng
27,8% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhập siêu đã giảm nhiều so với dự báo những tháng
trước đây nhưng mức nhập siêu năm nay vẫn khá cao, trong đó châu Á có mức nhập siêu
lớn nhất, đứng đầu là thị trường Trung Quốc với 10,8 tỷ USD, cao hơn 1,7 tỷ USD so với
năm 2007.
Cùng với xuất, nhập khẩu hàng hoá, năm 2008 còn
đẩy mạnh xuất, nhập khẩu dịch
vụ. Tổng trị giá xuất khẩu dịch vụ năm 2008 ước tính đạt 7,1 tỷ USD, tăng 9,8% so với
năm 2007, trong đó dịch vụ du lịch đạt 4 tỷ USD, tăng 7,2%; dịch vụ vận tải hàng không
đạt 1,3 tỷ USD, tăng 23,7%; dịch vụ vận tải biển đạt 1 tỷ USD, tăng 27,7%. Tổng trị giá
nhập khẩu dịch vụ năm 2008
ước tính đạt 7,9 tỷ USD, tăng 10,3% so với năm 2007,
trong đó dịch vụ du lịch 1,3 tỷ USD, tăng 6,6%; dịch vụ vận tải hàng không 800 triệu
USD, giảm 2,4%; dịch vụ hàng hải 300 triệu USD, tăng 20%.





Kinh Tế Vĩ Mô 12





4. Nhập siêu 2009:
Tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm 2009 ước tính đạt 56,584 tỷ USD, giảm 9,7%
so với thực hiện năm 2008. Bên phía nhập khẩu, các con số tương ứng là 68,83 tỷ USD
và giảm 14,7%. Như vậy, nhập siêu năm nay bằng khoảng 21,6% tổng kim ngạch xuất
khẩu (năm 2008 khoảng 28,5%).
Do sự sụt giảm kim ngạch cả xuất khẩu và nhập khẩu, quy mô giao dịch thương
mạ
i quốc tế của Việt Nam đã giảm nhiều trong năm 2009. Tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu cả năm ước tính chỉ còn trên 125,4 tỷ USD, giảm 12,6% so với năm 2008 (143,4 tỷ
USD).
Số liệu cho thấy, hoạt động xuất khẩu có chiều hướng tăng trong 3 tháng đầu năm
với lượng kim ngạch lớn đem về từ tái xuất vàng (2,287 tỷ USD), tuy nhiên sau đó, xuất
khẩu lại s
ụt giảm khoảng 20% trong tháng 4, để rồi tăng dần đến cuối năm, đan xen bằng
những tháng giảm kim ngạch.
Phía nhập khẩu, kim ngạch tăng liên tục 7 tháng đầu năm, sau đó giảm khoảng
8% trong tháng 8, tiếp tục tăng trong 3 tháng sau đó, trước khi điều chỉnh nhẹ trong
tháng cuối cùng của năm.
Đáng chú ý, trong 3 tháng gần đây cán cân thương mại đã có sự đổi chiều ngoại
mụ
c. Trong khi xuất khẩu thực hiện tháng 11 chỉ đạt mức 4,686 tỷ USD, giảm tới 10%
từ 5,206 tỷ USD của tháng trước đó, nhập khẩu lại tăng nhẹ và đạt mức kỷ lục 6,767 tỷ
USD trong tháng 11/2009.

Kinh Tế Vĩ Mô 13

Biểu đồ xuất, nhập khẩu và chênh lệch xuất khẩu so với nhập khẩu qua các tháng năm
2009 - Nguồn: Tổng cục Thống kê.



Nhìn vào từng mặt hàng xuất nhập khẩu, tình hình không có biến động lớn.
Trong 25 mặt hàng xuất khẩu được liệt kê, so với thực hiện năm 2008, chỉ có dầu
thô giảm về lượng (âm 2,4%) do đã dành hơn 2 triệu tấn cho Nhà máy Lọc dầu Dung
Quất. Các mặt hàng còn l
ại đều tăng. Tuy nhiên, do giá giảm mạnh nên kim ngạch đa số
các mặt hàng đều giảm so với năm 2008 (chỉ có 8 mặt hàng tăng).
Tương tự, trong 27 mặt hàng nhập khẩu, đa số tăng về lượng (chỉ có 3 mặt hàng giảm),
nhưng số mặt hàng tăng về giá trị cũng không nhiều (9 mặt hàng).
Nhập khẩu xăng dầu đã giảm 3,5% về lượng và giảm tới 43,8% về
giá trị; phân
bón tăng 41,9% về lượng và giảm 8,4% về giá trị; sắt thép tăng 13,8% và giảm 22,9%;
khí đốt hóa lỏng tăng 11,5% và giảm 24,9%
Liên quan đến hoạt động nhập khẩu vàng trong hai tháng gần đây, theo một nguồn tin từ
Tổng cục Thống kê, kim ngạch nhập khẩu vàng tháng 11/2009 đạt trên 337 triệu USD và
được tính chung vào nhóm hàng hóa khác, không có thống kê riêng.
Theo ước tính của VnEconomy, lượng vàng nhập khẩu tương ứng khoảng 9-10 tấn.
Cũng nguồn tin này cho hay, kim ngạch nhập kh
ẩu vàng trong tháng 12/2009 không
đáng kể.
Như vậy, kết quả xuất nhập khẩu năm 2009 đã khép lại với xuất khẩu, nhập khẩu
và nhập siêu không theo đúng kịch bản kế hoạch đề ra(nhập siêu phải có tỷ trọng dưới
20% so với tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước). Tuy nhiên, mức giảm nhập siêu so với
năm 2008 ít nhiều đã tạo thuận lợi cho việc ổ
n định kinh tế vĩ mô trong năm khó khăn
này.







Kinh Tế Vĩ Mô 14



IV. Tình hình nhập siêu năm 2010:


Năm 2010 kinh tế thế giới nhìn chung đang thoát ra khỏi khủng hoảng nhưng
chưa thực sự có những chuyển biến mạnh mẽ và vững chắc, một số quốc gia có dấu hiệu
bất ổn về kinh tế tài chính. Đây cũng là năm cuối nước ta thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010 và chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-
2010. Ở
trong nước, một số cân đối kinh tế vĩ mô có biểu hiện chưa ổn định(tỷ giá bất ổn
định, đầu cơ hàng hoá, nền kinh tế có độ mở chưa cao…), cùng với hạn hán kéo dài và
dịch bệnh xảy ra trên cây trồng, vật nuôi gây ảnh hưởng nhiều đến sản xuất và đời sống
dân cư. Điều nay ảnh hưởng khá lớn đến ngoại thương Việt Nam, đặc biệt là nh
ập siêu.
Trong chín tháng năm 2010, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của
Việt Nam với kim ngạch đạt 14,2 tỷ USD, tăng 25% so với cùng kỳ năm 2009 (Máy
móc thiết bị đạt 3,1 tỷ USD); ASEAN đạt 11,6 tỷ USD, tăng 24,1% (Máy móc thiết bị
dụng cụ và phụ tùng đạt 699 triệu USD); Nhật Bản đạt 6,4 tỷ USD, tăng 23% (Máy móc
thiết bị đạt 1,8 tỷ USD); EU đạt 4,5 tỷ USD, tăng 15,1% (Máy móc thiết bị
đạt 1,6 tỷ
USD; Hoa Kỳ đạt 2,6 tỷ USD, tăng 26,8% (Máy móc thiết bị đạt 551 triệu USD).
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 10/2010 ước tính đạt 7,4 tỷ USD, tăng 5,4%
so với tháng trước và tăng 8,7% so với cùng kỳ năm 2009. Tính chung mười tháng, kim
ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 67,3 tỷ USD, tăng 20,7% so với cùng kỳ năm trước, bao
gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 38,2 tỷ USD, tăng 8,7%; khu vực có vốn đầu tư

nước ngoài đạt 29,1 tỷ
USD, tăng 41,2%.
Kim ngạch nhập khẩu mười tháng của hầu hết các mặt hàng đều tăng so với cùng
kỳ năm trước, chủ yếu để đáp ứng nhu cầu của sản xuất trong nước, trong đó máy móc,
thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 10,8 tỷ USD, tăng 9,2%; sắt thép đạt 4,9 tỷ USD, tăng
12,6%; vải đạt 4,3 tỷ USD, tăng 26,5%; điện tử máy tính và linh kiện đạt 4,1 tỷ USD,
tăng 32,7%; chất dẻo đạt 3,1 tỷ USD, tăng 35,1%; nguyên, phụ liệu dệt may, giày dép
đạt 2,1 tỷ USD, tăng 37,1%; kim loại thường đạt 2,1 tỷ USD, tăng 64,1%; hóa chất đạt
1,7 tỷ USD, tăng 25,3%; sản phẩm hóa chất đạt 1,6 tỷ USD, tăng 30,7%. Riêng nhập
khẩu ô tô đã có xu hướng tích cực, đạt 2,3 tỷ USD, tăng 1,8% (trong đó ôtô nguyên
chiếc đạt 759 triệu USD, giảm 17,4%).
Kinh Tế Vĩ Mô 15

Nhập siêu hàng hóa tháng 10/2010 ước tính đạt 1,1 tỷ USD, bằng 17,6% kim
ngạch xuất khẩu. Tính chung 10 tháng, nhập siêu hàng hóa đạt 9,5 tỷ USD, bằng 16,4%
kim ngạch xuất khẩu.




Số trong kỳ: hoạt động xuất nhập khẩu của cả nước tron
g
k

2 thán
g
10 diễn biến theo
chiều hướng tăng về xuất khẩu và giảm về nhập khẩu, góp phần cải thiện thâm hụt thương mại.
Cụ thể:
Về xuất khẩu: trong kỳ 2 tháng 10/2010 (nửa cuối tháng 10), tổng kim ngạch xuất khẩu của

Việt Nam ra thị trường thế giới đạt 3,19 tỷ USD, tăng 6,9% so với kỳ 1 tháng 10/2010 (tương ứng
tăng 206 triệu USD về s
ố tuyệt đối). Trong đó, tổng trị giá xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp
có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là 1,6 tỷ USD, tăng 2,9 % so với kết quả thực hiện của 15
ngày trước đó và chiếm tới 50,5% tổng kim ngạch xuất khẩu trong kỳ của cả nước.
So với kỳ 1 tháng 10/2010, đóng góp nhiều nhất vào mức tăng kim ngạch xuất khẩu trong
nửa cuối tháng 10 chủ
yếu ở các nhóm hàng: gạo và giày dép tăng 48 triệu USD, máy móc, thiết bị,
dụng cụ & phụ tùng tăng 28 triệu USD, thủy sản và xăng dầu tăng hơn 20 triệu USD,…
Về nhập khẩu: Tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam trong nửa cuối tháng 10 là 3,49 tỷ
USD, giảm 5,2% so với kết quả thực hiện của 15 ngày trước đó, tương ứng giảm 192 triệu USD về
mặt số tuyệt
đối. Trong đó kim ngạch nhập khẩu của khu vực FDI là 1,58 tỷ USD, giảm 5,9% và
chiếm 45,3% tổng kim ngạch nhập khẩu trong kỳ của cả nước.
Kim ngạch trong kỳ giảm chủ yếu do các nhóm hàng chính giảm như: đá quý, kim loại quý
Kinh Tế Vĩ Mô 16

và sản phẩm giảm 71 triệu USD, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện giảm 45 triệu USD, dầu
mazut giảm 24 triệu USD, kim loại thường giảm 23 triệu USD, …
Như vậy, với kết quả của hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam trong kỳ 2 tháng 10
đã nâng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tháng 10 năm 2010 đạt 13,53 tỷ USD, tăng 3,5% so với
tháng trước. Trong đó, xuất khẩu đạt 6,23 tỷ
USD, tăng 2,1% và nhập khẩu là 7,3 tỷ USD, tăng
4,8%; nhập siêu trong tháng là 1,08 tỷ USD, tăng 202 triệu USD so với tháng trước và bằng 17,3%
kim ngạch xuất khẩu.
Số luỹ kế:
tính đến hết tháng 10/2010, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hoá của cả nước
đạt 125 tỷ USD, tăng 22% so với cùng kỳ năm 2009. Nhập siêu của cả nước trong 10 tháng qua là
9,4 tỷ USD và bằng 16,3% kim ngạch xuất khẩu.
Cụ thể:

Về xuất khẩu: số liệu thống kê cập nhật mới nhất của Tổng cục Hải quan cho thấy trong 10
tháng đầu năm 2010, tổng kim ngạch xuất kh
ẩu cả nước đạt 57,83 tỷ USD, tăng 23,4% so với cùng
cùng kỳ của một năm trước đó. Trong đó, trị giá xuất khẩu hàng hoá của khu vực các doanh nhiệp
FDI là 20,09 tỷ USD, tăng mạnh tới 40,5% so với cùng kỳ năm 2009.
So sánh với cùng kỳ năm 2009, trị giá xuất khẩu của nhiều nhóm hàng trong 10 tháng/2010
tăng cao. Cụ thể: hàng dệt may vượt ngưỡng 9 tỷ USD, tăng 21,2%, tương ứng tăng 1,58 tỷ USD;
giày dép các lo
ại: 4,1 tỷ USD, tăng 24,7%, tương ứng tăng 803 triệu USD; thủy sản: 4 tỷ USD, tăng
15,4%, tương ứng tăng 536 triệu USD; máy vi tính & sản phẩm điện tử: 2,87 tỷ USD, tăng 28,7 %,
tương ứng tăng 639 triệu USD; gỗ và sản phẩm gỗ: 2,7 tỷ USD, tăng 34,7%, tương ứng tăng 702
triệu USD; máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ tùng: 2,46 tỷ USD, tăng 55%, tương ứng tăng 874 triệu
USD; …
Về nh
ập khẩu: tính từ đầu năm đến hết tháng 10/2010, trị giá hàng hoá các doanh nghiệp
Việt nam đã nhập khẩu là 67,24 tỷ USD, tăng 20,7% so với cùng kỳ năm 2009 với 37/42 nhóm hàng
nhập khẩu chính đạt tốc độ tăng trưởng dương. Trong đó, có nhiều nhóm hàng có trị giá tăng rất cao,
trên 50% như: đá quý, kim loại quý & sản phẩm tăng 2,4 lần; bông tăng 72,5%; kim loại thường tăng
63,1%; sản phẩm từ kim loại thường t
ăng 60,9%; lúa mì tăng 58%; phương tiện vận tải & phụ tùng
tăng 56,7%; cao su tăng 56,3%; …
Trị giá nhập khẩu từ khu vực FDI trong 10 tháng là 29 tỷ USD, tăng 41% so với cùng kỳ năm
trước và chiếm 43,2% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước.


Kinh Tế Vĩ Mô 17









Kinh Tế Vĩ Mô 18


V. Tác Động Của Nhập Siêu Đến Nền Kinh Tế:


1. Quan hệ giữa nhập siêu và lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 1995
đến nay cho thấy chúng ta càng nhập siêu thì tỷ lệ lạm phát càng cao.
Xét trong 2010:


CPI tăng nhanh trong 2 tháng đầu năm 2010, mức gia tăng của tháng 3 tuy đã giảm
còn 0,75% vẫn là mức cao.
Có thể thấy CPI hằng tháng đã tăng nhanh từ tháng 10-2009 đến nay. Tăng lượng tiền
lưu thông trong nền kinh tế là một nguyên nhân chính của tăng CPI. Mức tăng tín
dụng có thể được dùng như một chỉ báo của mức tăng lượng tiền trong nền kinh tế.
2. Trong ngắn hạn, tuy Việt Nam vẫn còn nhữ
ng nguồn ngoại tệ khác để bù
đắp thiết hụt trong cán cân xuất nhập khẩu, nhưng nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới ổn
định vĩ mô và cán cân thanh toán. Trong dài hạn, nhập siêu sẽ làm giảm dự trữ nguồn
ngoại tệ trong nước gay thâm hụt cán cân thương mại, gây áp lực lên đồng nội tệ
trong nước, buộc VND phải phá giá.
3. Ngoài tác động của yếu tố tăng giá hàng hoá nhập khẩu và tă
ng sản lượng
sản phẩm các mặt hàng sản xuất từ nguyên liệu nhập khẩu, điều đáng lo ngại là tình
trạng gia tăng nhập siêu ở Việt Nam bắt nguồn từ những yếu kém cơ bản của nền

kinh tế - sản xuất dựa vào gia công lắp ráp và hiệu quả sử dụng vốn chưa cao.
4. Trong 10 năm qua hơn 90% kim ngạch nhập khẩu là dùng cho sản xuất,
chỉ chưa tới 10% là nhập khẩu cho tiêu dùng cuối cùng .Qua đó ta thấy nhập siêu của
Việt Nam chủ yếu là để phục vụ sản xuất, nhưng những năm gần đây, hàng tiêu dùng
cuối cùng đang tăng nhanh do nhu cầu trong nước và tâm lí thích dùng hàng ngoại
của người Việt. Trực tiếp làm giảm sản lượng của quốc gia ,gây ảnh hưởng t
ới nền
kinh tế. Làm tăng áp lực lên các doanh nghiệp trong nước trong viêc canh tranh thị
trường trong nước. Gây gia tăng thất nghiệp
.


Kinh Tế Vĩ Mô 19


VI. Nguyên Nhân Của Nhập Siêu:


1.Giai đoạn 2000-2006:
Nhập siêu trong những năm 2000-2006 có nhiều nguyên nhân nhưng có thể điểm qua
một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng khá cao với GDP tăng bình quân 7,5%/năm.
Sản xuất công nghiệp tăng trưởng bình quân 15,7%/năm và xuất khẩu tăng trên
17%/năm. Mức độ tăng trưởng cao trong khi năng lực tự sản xuất của nền kinh tế còn
hạn chế về nhiều mặ
t thì việc phải nhập khẩu từ máy móc, thiết bị, công nghệ cho đến
các nguyên nhiên vật liệu thiết yếu là điều không thể tránh khỏi.
- Sau một số năm đình trệ do cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, đầu tư trực tiếp
nước ngoài dần hồi phục và tăng mạnh trong năm 2004, 2005. Nhiều dự án lớn trong các
ngành năng lượng, dầu khí, công nghiệp đã được cấp phép nên nhu cầu nh

ập khẩu máy
móc, thiết bị tạo tài sản cố định và nguyên nhiên vật liệu phục vụ đầu tư, sản xuất và
xuất khẩu cao.
- Việc thu hút và giải ngân nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA trong giai
đoạn này cũng đã góp phần đáng kể vào việc phát triển đất nước, kèm theo đó là việc
nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ phục vụ các công trình bằng nguồn vố
n này.
Trong giai đoạn 2001 - 2005, các nhà tài trợ đã cam kết một số vốn lên đến 14,6 tỷ USD
và vốn thực hiện là 7,8 tỷ USD.
- Một nguyên nhân không thể không kể là giá hàng hóa trên thị trường thế giới tăng
mạnh trong thời gian qua, đặc biệt là nhiên liệu và nguyên liệu sản xuất và hàng hóa có
nguồn gốc dầu mỏ - những sản phẩm nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam. Chúng ta cùng
xét giá nhập khẩu bình quân một số m
ặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam giai
đoạn 2001 - 2005.




Kinh Tế Vĩ Mô 20

2. Giai đoạn 2007 đến nay:

- Trước hết về xuất khẩu, có thể nói, trong khi các doanh nghiệp Trung Quốc tung
hoành xuất khẩu sang Việt Nam thì xuất khẩu của Việt Nam qua Trung Quốc là rất khó
khăn. Nếu không kể những mặt hàng nguyên liệu như cao su, than, dầu thô… thì hàng
xuất của Việt Nam sang Trung Quốc thường là các mặt hàng mà Trung Quốc cũng dư
thừa năng lực sản xuất nên khó cạnh tranh nổi. Còn những mặt hàng Việt Nam có thế
mạnh như than, d
ầu thô… thì lại có xu hướng giảm do hạn chế về khả năng khai thác và

chủ trương dần hạn chế xuất khẩu tài nguyên. Xuất khẩu dầu thô sang Trung Quốc năm
2009 đã giảm trên 23%.
- Về nhập khẩu, một số mặt hàng nhập từ Trung Quốc cho cả sản xuất và tiêu
dùng là những mặt hàng Việt Nam chưa sản xuất được hoặc có nhưng chưa đáp ứng đủ
nhu c
ầu như sắt thép, nguyên phụ liệu dệt may, phân bón, linh kiện, phụ tùng ôtô, xe
máy… Hàng Trung Quốc lại rẻ và gần Việt Nam nên nhiều doanh nghiệp lựa chọn nhập
khẩu từ đây.
- Sản xuất trong nước những năm gần đây phát triển khá nhanh nhưng chủ yếu
vẫn tập trung vào công đoạn gia công cuối cùng. Trong khi đó các ngành phụ trợ còn
khá yếu. Theo tính toán của Bộ Công nghiệp, ngành công nghiệp hiện lệ thuộ
c đến 75-
80% vào nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu. Do vậy sản xuất trong nước càng phát triển
thì nhập khẩu càng tăng và "đóng góp" cho nhập siêu càng nhiều. Đa số các ngành đạt
tốc độ tăng trưởng cao đều có mức tăng nhập khẩu tương ứng như công nghiệp ô tô, xe
máy, chế biến gỗ, hàng điện tử và điện gia dụng
- Một điểm không thể không đề cậ
p tới là dù biết rằng đẩy mạnh xuất khẩu là rất
quan trọng nhưng ngành thương mại chưa xác định được lợi nhuận thực trong bản thân
hoạt động xuất khẩu là bao nhiêu. Theo các chuyên gia kinh tế, nếu không biết rõ lợi
nhuận thực của từng sản phẩm đầu vào trong xuất khẩu thì doanh nghiệp cũng khó quyết
định chính xác đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng hóa đầu vào nào là mang lại lợ
i nhuận,
từ đó dẫn đến giá trị nhập siêu cao. Chẳng hạn như dệt may là một trong những ngành
hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với kim ngạch lên đến vài tỷ USD một năm nhưng
lợi nhuận đạt được chưa đầy 30%. Yếu tố tạo nên lợi nhuận này chủ yếu là nhân công rẻ.
Vậy đầu tư cho đội ngũ công nhân để nâng cao tay nghề hay đầu t
ư sản xuất nguyên phụ
liệu trong nước vẫn còn là câu hỏi không dễ trả lời. Mặt khác, do mức độ gia công hàng
hóa xuất khẩu còn lớn, nên phụ thuộc nước ngoài cả về số lượng và giá cả.

Kinh Tế Vĩ Mô 21

- Một yếu tố nữa là do yếu tố cung cầu, lạm phát trong nước tăng, lãi suất thị
trường thế giới tăng làm lãi suất cho vay tăng đã tác động đến chi phí sản xuất và khả
năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu và tăng chi phí nhập khẩu.
- Ngoài ra theo những cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam phải từng bước
xóa bỏ các biện pháp phi thuế quan hạn chế nh
ập khẩu đồng thời cắt giảm thuế quan
theo chương trình CEPT/AFTA và quá trình đàm phán gia nhập WTO. Đây cũng sẽ là
nhân tố trong thời gian tới có tác động đến nhập siêu.
- Nhập siêu hàng tư liệu sản xuất với giá thành thấp từ các nước trong khu vực là
một yếu tố quan trọng giúp Việt Nam thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài (FDI). Một
mặt, khu vực FDI có thể nhập khẩu trực tiếp các mặ
t hàng với giá cả phải chăng từ trong
khu vực. Điều này thể hiện qua việc nhập khẩu từ khu vực FDI chiếm tới 36% năm
2009. Mặt khác, nhờ hàng tư liệu sản xuất có giá thành rẻ, các doanh nghiệp trong nước
có thể cung cấp được cho các doanh nghiệp FDI các chi phí đầu vào như điện, ximăng,
sắt thép, các mặt hàng tiêu dùng v.v. với mức giá thấp hơn so với các nơi khác trên thế
giới. Hình 2 cho thấy mố
i tương quan giữa FDI (đăng ký và thực hiện) vào Việt Nam và
nhập siêu từ riêng Trung Quốc và Trung Quốc + ASEAN.
- Nằm ở cơ cấu nhập khẩu cho sản xuất và tiêu dùng. Trong 10 năm qua hơn 90%
kim ngạch nhập khẩu là dùng cho sản xuất, chỉ chưa tới 10% là nhập khẩu cho tiêu dùng
cuối cùng, dù rằng gần đây nhiều người lo ngại về việc nước ta nhập khẩu cả tăm tre.
Trong chín tháng đầu năm 2010 tỷ
trọng nhập khẩu cho tiêu dùng giảm từ 9,3% tổng giá
trị nhập khẩu của năm 2009 xuống còn 8,4%. Như vậy vấn đề nhập siêu của Việt Nam
chính là do nhu cầu nhập khẩu cho sản xuất.
- Tình hình nhập khẩu vàng gần đây để giảm vấn đề “giá vàng tăng vọt” đã làm
tăng giá trị nhập siêu rất nhiều.









Kinh Tế Vĩ Mô 22

3. Nguyên nhân chung:
- Yếu tố thị trường:
Hội nhập kinh tế của Việt Nam ngày càng sâu và rộng hơn. Tuy nhiên, khi hội
nhập, xuất khẩu lại không gia tăng kịp như đà gia tăng nhập khẩu. Hơn nữa, do quá trình
phát triển và tăng trưởng kinh tế, đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư nhiều, dẫn đến nhu
cầu nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên nhiên liệu lớn. Cũng phải k
ể đến một bộ phận
trong xã hội có xu hướng tiêu dùng, xài sang dẫn đến việc nhập khẩu những mặt hàng xa
xỉ.
Một trong những nguyên nhân gây ra nhập siêu là do nhu cầu nhập khẩu thiết bị,
máy móc phục vụ các dự án ngày một tăng cao, dù Chính phủ đã có những chương trình
ưu đãi cho các sản phẩm trong nước Một số quan chức Chính phủ cho rằng giá cả hàng
hóa trên thị trường thế giới leo thang tác động x
ấu đến cán cân thương mại của Việt
Nam. Điều này có thật nhưng không phải là yếu tố chính, mà chủ yếu là xuất phát từ
những bất cập của nền kinh tế liên quan đến cơ cấu hàng xuất khẩu và sản xuất công
nghiệp, xu hướng tiêu dùng, hiệu quả đầu tư
Ở đây có một “nghịch lý” là ta xuất siêu với thị trường Hoa Kỳ và EU(2) trong khi
đáng ra phải nhập siêu vì đ
ây là hai thị trường có công nghệ nguồn, có tác dụng lớn đến

đổi mới kỹ thuật - công nghệ trong nước. Trong khi đó ta lại nhập siêu với khu vực châu
Á, đặc biệt là ASEAN(3). Việc nhập siêu ở thị trường có công nghệ chưa cao này đặt ra
câu hỏi là phải chăng chiến lược xuất khẩu của ta có vấn đề hay các doanh nghiệp vừa
chưa thích ứng được với hội nhập vừa còn tư tưở
ng “bóc ngắn cắn dài”. Vì đây là thị
trường có yêu cầu về số lượng, chất lượng, chủng loại, mẫu mã khá tương đồng với ta và
gần như không có hàng rào kiểu hạn ngạch, kiện bán phá giá như một số thị trường
khác.
- Chính sách tỷ giá
Việc cán cân thương mại của Việt Nam bị thâm hụt ngày càng lớn sau khi gia
nhập WTO, đe doạ làm mất cân đối cán cân thanh toán tổng thể, xuất phát từ nhữ
ng
nguyên nhân khác, trong đó quan trọng nhất là nguyên nhân tỷ giá.
Trong cơ chế tỷ giá thả nổi, một mặt tỷ giá phụ thuộc vào cán cân thương mại
trước đó (và các dòng ngoại tệ khác như vốn đầu tư nước ngoài, các khoản vay và viện
trợ nước ngoài, kiều hối, du lịch, các khoản đầu tư/chuyển ra nước ngoài, và sự thay đổi
quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia) nhưng mặt khác bả
n thân tỷ giá lại là yếu tố điều chỉnh
cán cân thương mại trong tương lai trở về trạng thái cân bằng trong mối quan hệ tổng thể
Kinh Tế Vĩ Mô 23

với các dòng vốn khác. Giả sử ở một thời điểm nào đó, nhu cầu nhập khẩu tăng cao
khiến nhu cầu ngoại tệ trong nước tăng lên tương ứng. Nếu tỷ giá được thả nổi, giá ngoại
tệ sẽ tăng một cách tương đối so với giá bản tệ. Sự tăng giá ngoại tệ khiến cho nhập khẩu
trở nên đắt đỏ, đồng thờ
i xuất khẩu lại được lợi. Nhờ cơ chế này khiến cho nhu cầu nhập
khẩu giảm, xuất khẩu được lợi dẫn đến cung ngoại tệ sẽ tăng. Kết quả là không những
nhập siêu giảm mà giá ngoại tệ cũng giảm trở lại. Cả cán cân thương mại và tỷ giá trở về
trạng thái cân bằng.
***Lấy Thái Lan làm ví dụ (hình 3). Đầu năm 2005, nền kinh tế Thái Lan nh

ập siêu lớn.
Nhờ cơ chế tỷ giá thả nổi nên đồng baht tự động bị mất giá, giúp cho nhập siêu giảm.
Nhìn trên đồ thị ta có thể thấy gần như bất cứ khi nào xu hướng nhập siêu tăng thì đồng
baht sẽ có xu hướng mất giá và ngược lại. Xét trong một giai đoạn dài, chẳng hạn năm
2006 – 2007, khi Thái Lan có xu hướng xuất siêu lớn, giá trị đồng baht đã tăng rất
nhanh. Ngược lại n
ăm 2008, khi nền kinh tế Thái Lan có xu hướng nhập siêu, đồng baht
mất giá trở lại. Chính nhờ cơ chế tỷ giá thả nổi như vậy nên cán cân thương mại hàng
tháng của Thái Lan luôn dao động trong trạng thái khá cân bằng trong biên độ +/– 2 tỉ
USD.

Biến động tỷ giá và cán cân thương mại của Thái Lan, T1.2005 - T12.2009
Nguồn: ngân hàng Thái Lan ((
Cơ chế tỷ giá của Việt Nam rất tiếc đã không đảm nhiệm được chức năng điều hoà cán
cân thương mại. Do tỷ giá chính thức về cơ bản là cố định nên trong hầu hết quãng thời
gian các năm 2006, 2007
và 2009 tốc độ nhập siêu
ngày càng tăng mạnh
nhưng tỷ giá thì hầu như
không thay đổi; ngược lại,
trong giai đoạn nửa cuối
năm 2008, bất ch
ấp tốc độ
nhập siêu giảm dần, VND
lại vẫn mất giá rất nhanh
(hình4). Có thể nói, cơ chế
tỷ giá chính thức áp đặt cho
nền kinh tế đã làm cho các
chủ thể kinh tế “tê liệt cảm
giác” về giá trị tương đối

Kinh Tế Vĩ Mô 24

của hàng hoá trong nước và ngoài nước cũng như giá trị tương đối của ngoại tệ và bản
tệ. Nó là tác nhân chính gây ra tình trạng nhập siêu ngày càng nghiêm trọng của Việt
Nam.
- Mấu chốt nằm ở năng lực quản lý điều hành
Ngoài nguyên nhân bắt nguồn từ chính sách điều hành tỷ giá, tình trạng nhập siêu
cao của Việt còn có gốc rễ từ chính sách chưa đầu tư đúng mức cho ngành công nghiệp
ph
ụ trợ. Mặc dù Việt Nam được đánh giá là quốc gia thu hút đầu tư nước ngoài mạnh
mẽ, nhưng với thực tế Việt Nam chỉ là “nhà xưởng” thực hiện gia công, lắp ráp (tạm
nhập, tái xuất) 80% nguyên nhiên liệu đầu vào nhập khẩu từ nước ngoài thì đây chính là
áp lực lớn cho việc cải thiện tình hình nhập siêu của Việt Nam. Ngoài ra, với năng lực
quản lý điều hành còn yếu, Việt Nam còn phả
i chịu nhiều thiệt thòi từ “chiêu thức
chuyển giá” để trốn thuế ở Việt Nam của một số nhà đầu tư là tập đoàn đa quốc gia, có
mạng lưới sản xuất kinh doanh trên khắp thế giới.
Theo ông Thành, hàng hóa gia công, lắp ráp tại Việt sẽ được xuất với giá rẻ mạt
sang các thị trường trung gian như Hồng Công, British Virgin Islands , Cayman Islands-
nơi được coi là thiên đường về thuế. Từ đây, hàng hóa s
ẽ được xuất khẩu sang thị trường
các nước phát triển để hưởng chênh lệch giá cao gấp 2-3 lần so với giá xuất đi từ Việt .
Vì vậy, lợi nhuận sẽ rơi vào túi của các Tập đoàn này trong khi Việt Nam “thiệt đơn
thiệt kép” do không thu được thuế mà lại phải gánh nhập siêu và ô nhiễm môi trường.
-Cơ cấu kinh tế
Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam, những sản ph
ẩm công nghiệp chủ lực là
dệt- may, da - giày, điện tử, chế biến gỗ, nhựa cho đến nay hầu hết vẫn chỉ là gia công
ở công đoạn cuối với giá trị gia tăng rất thấp, nên lượng ngoại tệ mang về cho nền kinh
tế không nhiều và không đủ để bù đắp cho phần giá trị nguyên vật liệu nhập khẩu để sản

xuất hàng tiêu thụ ở thị trường n
ội địa. Nguồn thu ngoại tệ lớn nhất trong những năm
qua là xuất khẩu tài nguyên khoáng sản và hàng nông, thủy sản. Nhưng cán cân xuất,
nhập khẩu nhiều sản phẩm thuộc nhóm này đã thay đổi, từ thặng dư sang thâm hụt, do số
lượng xuất khẩu liên tục giảm sút, trong khi nhập khẩu mỗi năm đều tăng do nhu cầu
tiêu thụ trong nước. Tiêu dùng tăng mạnh, trong khi ngành công nghiệp trong nước chưa
đủ
sức đáp ứng, nhất là những sản phẩm cao cấp, tất yếu sẽ làm tăng nhập khẩu
Thông thường khi chọn ngành trọng điểm thường phải xem xét đến hai yếu tố là
chỉ số lan tỏa nội địa và chỉ số kích thích nhập khẩu. Tuy nhiên thực tế cho thấy một số
ngành có tỷ trọng vốn đầu tư khá lớn nhưng chỉ số lan tỏa nộ
i địa thấp và chỉ số kích
thích nhập khẩu cao bất thường. Những nhóm ngành này hầu hết nằm ở khu vực II (công
nghiệp và xây dựng).
Kinh Tế Vĩ Mô 25

-Hiệu quả sản xuất kinh doanh sút giảm khá mạnh
Điều này được minh chứng qua tỷ lệ chi phí trung gian so với giá trị sản xuất (dựa vào
các bảng cân đối liên ngành của Tổng cục Thống kê công bố cho năm 2000 và 2007)
tăng gần 10 điểm phần trăm từ năm 2000-2007, tức là mỗi năm tỷ lệ này tăng thêm hơn
1 điểm phần trăm. Riêng điều này có thể lý giải rằ
ng do thay đổi quy trình công nghệ
nhưng nếu xét thêm đến yếu tố này thông qua chỉ tiêu năng suất nhân tố tổng hợp có thể
thấy chỉ tiêu này ngày một giảm sút. Giai đoạn trước chỉ tiêu năng suất nhân tố tổng hợp
đóng góp vào tăng trưởng khoảng 22-25% thì trong ba năm 2007-2010 đóng góp của chỉ
tiêu này vào GDP chỉ khoảng 10-15%. Khi Việt Nam hội nhập và thực hiện tự do
thương mại mà hiệu quả sản xu
ất yếu đi thì hàng hóa sản xuất trong nước sẽ không cạnh
tranh được với hàng nhập khẩu.
Việt Nam đầu tư quá ít vào phát triển các ngành phụ trợ, khiến ta vẫn chỉ là nơi

gia công, lắp ráp cho nước ngoài, sản phẩm không có hàm lượng giá trị gia tăng cao.
Thêm vào đó, chúng ta còn phải thực hiện giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc
tế, trong khi giá nguyên vật liệu thế giới leo thang kéo giá trị nhập khẩu tăng theo. Cu
ộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế lại làm thu hẹp khả năng xuất khẩu
của Việt Nam…

Một quan chức của Bộ Công thương cho rằng, nhập siêu là cần thiết để đáp ứng
nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Quan điểm của ông xuất phát từ phân tích cơ cấu
nhập khẩu, trong đó máy móc thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuấ
t chiếm
đến 92% tổng giá trị nhập khẩu của cả nước.
Tuy nhiên, đây mới là vấn đề đáng lo ngại nhất. Vì trong khi đầu tư và sản xuất
kém hiệu quả, thì đầu tư, sản xuất càng nhiều, nhập siêu sẽ càng lớn và đến một lúc nào
đó nền kinh tế sẽ không còn đủ sức để bù đắp cho phần thiếu hụt đó.
Hiệu quả đầu tư giữ
a doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và doanh
nghiệp trong nước đang có khoảng cách lớn. Hiện nay, doanh nghiệp FDI đang chiếm
gần 40% giá trị sản xuất công nghiệp và gần 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả
nước. Trong khi đó, tỷ trọng nhập khẩu của khối này lại thấp, chỉ khoảng 44%. Mức đầu
tư hàng năm của doanh nghiệp FDI còn thấp hơn khu vực trong nước nhi
ều, bình quân
chỉ chiếm 14-15% tổng đầu tư toàn xã hội. Năm ngoái, tổng vốn đầu tư của khối doanh
nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI gần xấp xỉ nhau, nhưng kết quả về tăng trưởng
trong lĩnh vực công nghiệp lại rất khác biệt, chênh lệch đến gần 8 điểm phần trăm.

Nhập khẩu ít hơn và mức đầu tư hàng năm khá khiêm tốn, nhưng các doanh nghi
ệp FDI

×