I. Đặt vấn đề .
Có thể nói đô thị là một hình thức quần cư đặc biệt của xã hội loài người. Hiểu một cách đơn
giản đô thị là một tổ chức không gian cư trú, sinh sống tập chung với mật độ dân số cao của cộng đồng
người với các hoạt động chủ yếu.
Hệ thống đô thị là kết quả tất yếu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt gắn bó hữu
cơ với các cuộc cách mạng phát triển công nghiệp, cách mạng khoa học và kỹ thuật. Vì vậy, vai trò
của hệ thống đô thị trong quá trình phát triển lãnh thổ thể hiện khác nhau theo từng giai đoạn lịch sử
Ngày nay, đô thị không chỉ đơn thuần là nơi tập trung dân cư đông đúc với các hoạt động
mang tính chất phi nông nghiệp; các trung tâm đơn chức năng về hành chính hoặc thương
mại,...mà đô thị đã trở thành một không gian cư trú của dân cư, là kết quả tất yếu của một quá
trình phát triển kinh tế - xã hội, đóng vai trò là trung tâm tổng hợp hoặc về một số mặt: hành
chính, kinh tế - xã hội... của một vùng hoặc quốc gia, biểu hiện của nó là sự tập trung dân cư với
mật độ cao với lối sống đô thị và các hoạt động phi nông nghiệp chiếm ưu thế, có cơ sở hạ tầng
phát triển ngày càng hiện đại,...Hệ thống đô thị là những “đại biểu” chủ yếu của quá trình đô thị
hoá, phát triển đô thị. Do đó, phát triển hệ thống đô thị như là một qui luật tất yếu của quá trình
phát triển kinh tế - xã hội ở các quốc gia trên thế giới, nhằm tiến tới một xã hội văn minh và hiện
đại.
Hệ thống đô thị đóng vai trò như một hệ thống “khung xương” phát triển của mỗi lãnh thổ mỗi quốc
gia. Những quốc gia phát triển là những nước có mạng lưới đô thị dày đặc với sự phân hoá sâu sắc về
qui mô dân số và lãnh thổ, cũng như cấu trúc không gian của
nó. Sự tiến bộ của cách mạng khoa học - kĩ
thuật nói riêng và tiến bộ xã hội nói chung đã
giúp cho đô thị phát triển, hạn chế nhiều mặt tiêu cực
của đô thị, làm cho đô thị và nông thôn gần nhau hơn thông qua sự phân công lao động xã hội. Tuy
vậy, xã hội luôn luôn vận động, phát triển và tác động không nhỏ đến hệ thống đô thị. Tuỳ theo điều
kiện phát triển của mỗi quốc gia, mỗi khu vực, các đô thị còn gặp nhiều khó khăn phải khắc phục,
giải quyết trong quá trình phát triển bền vững, như các vấn đề: di dân từ nông thôn ra thành thị, công
bằng xã hội, ô nhiễm môi trường, quản lí đô thị,..
Như Báo cáo Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (Năm 1990)
đã chỉ ra
rằng, quá trình đô thị hóa không phải là một sự khủng hoảng hay thảm kịch, nó chỉ là một
thách thức đối với tương lai mà thôi. Quá trình đô thị hóa tạo ra nhiều thuận lợi và bất lợi
cần được phân tích. Tuy nhiên, đô thị hóa là con đường văn minh của loài người, bởi các đô
thị là nơi chủ yếu tạo ra của cải vật chất cho loài người. Thu lợi nhiều từ quá trình đô thị hóa,
nhưng con người cũng phải trả giá không ít vì những bất lợi của nó. Chỉ có con đường duy nhất để
tránh được thách thức này là tạo ra đô thị bền vững.
Quan niệm “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng những nhu cầu của thế hệ hiện
tại mà không làm tổn hại đến khả năng của các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng những nhu
cầu của họ” của Uỷ ban thế giới về môi trường và phát triển đưa ra trong Báo cáo Brundtland -
1987 đã đạt được sự đồng thuận cao của các quốc gia trên thế giới. Đó là quan niệm mang tính
nguyên lí quan trọng nhất đối với sự phát triển mang tính bền vững với mọi khía cạnh về kinh tế
- xã hội và môi trường ở nhiều cấp độ từ cấp độ toàn cầu, khu vực đến quốc gia, địa phương; trong
1
đó có đô thị.
1. Quan niệm chung về phát triển bền vững đô thị.
- Phát triển bền vững thống nhất cả ba mặt kinh tế, xã hội và môi trường trong một khuôn
khổ
- Nâng cao chất lượng cuộc sống
- Không ảnh hưởng tới thế hệ tương lai
- Quan hệ mật thiết với vùng ( vùng nông thôn)
- Sự thống nhất trong kế hoạch và hành động, tính công bằng
- Qui hoạch và quản lý thống nhất, đồng thuận ở mọi cấp
- Rủi ro về môi trường có thể chấp nhận được trong mục đích phát triển
Từ đó, có thể kết luận rằng: một đô thị bền vững trong quá trình phát triển, quan
niệm đầy đủ là: khi nó đạt được sự thống nhất trong một khuôn khổ bền vững cả ba mặt kinh tế,
xã hội và môi trường, nhằm nâng cao chất lượng sống của thế hệ hiện tại mà không làm ảnh hưởng
tới các nhu cầu phát triển của thế hệ tương lai. Khuôn khổ đó phải thể hiện thống nhất giữa kế
hoạch, qui hoạch, quản lý phát triển và hành động thực hiện với sự đồng thuận của mọi thành phần
xã hội: nhà nước, tư nhân, cộng đồng; mọi cấp độ: địa phương, thành phố và quốc gia.
2. Nguyên tắc chung của sự phát triển đô thị bền vững .
Sự phát triển đáp ứng những nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến nhu cầu và khả năng
phát triển của các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng những nhu cầu của họ, đó là nguyên tắc chung
cho sự phát triển bền vững, nó phản ánh qua:
- Xu hướng phát triển của quá trình hiện tại không làm thế hệ tương lai phải trả giá
(như là: kế hoạch kém, nợ nần, suy thoái môi trường, cũng như các hậu quả khác của thế hệ
hiện tại mang lại).
- Có sự phát triển cân bằng giữa các hợp phần: tự nhiên, kinh tế và xã hội. Nói một
cách khác, nó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển, đó là sự thay thế từ trạng thái cân
bằng này đến trạng thái cân bằng khác.
3. Cơ sở của sự phát triển bền vững đô thị.
Đô thị là một hệ sinh thái mở, là cấu trúc không gian lãnh thổ, mà tự thân con người lựa chọn xây
dựng nên không gian - môi trường nhân tạo thì đô thị đã trở thành một thực thể chịu sự tác động của
những môi trường lớn hơn do xã hội con người tạo ra và bởi môi trường tự nhiên xung quanh, như:
vùng lãnh thổ chứa đựng đô thị, các vùng lãnh thổ mà đô thị phụ thuộc, sức hút giữa các đô
thị trong hệ thống đô thị,....Mặt khác, sự phát triển bền vững của các đô thị ngoài việc phụ thuộc
vào tính phát triển bền vững của vùng mà chúng chịu ảnh hưởng, chúng còn bị sự ràng buộc
phần lớn vào “Tải trọng” của chúng đã được thiết kế bởi ý muốn chủ quan của con người về
các mặt dân số, kinh tế, xã hội, môi trường: “sự thiết lập khuôn khổ về phát triển các khía
cạnh tự nhiên, kinh tế và xã hội. Khuôn khổ đó phù hợp với những nguồn tài nguyên thiên nhiên”
(Chương trình đô thị của Liên hợp quốc),....thông qua các hệ thống các chỉ tiêu tiêu chuẩn
của đô thị (Sự phân loại đô thị, qui hoạch xây dựng đô thị). Ví dụ: diện tích cây xanh, hồ, các khu
công nghiệp, du lịch - nghỉ ngơi, giao thông, qui mô dân số,.. Tính bền vững của đô thị cũng sẽ
mất khi sự phát triển nội tại của nó vượt quá “Tải trọng” thiết kế cho phép. Đây là một vấn đề cơ
2
bản quyết định đến nguyên tắc phát
triển bền vững: “ Đáp ứng các nhu cầu của thế hệ hiện tại mà
không làm tổn hại đến việc
đáp ứng các nhu cầu của thế hệ tương lai”, hoặc: “làm giảm nguồn vốn
tự nhiên và mang lại nợ nần” (Hội nghị Đô thị 21) .
Vấn đề đặt ra đối với sự phát triển bền vững của đô thị là cần phải có một chiến lược
qui hoạch phát triển và quản lý từng đô thị theo không gian, thời gian, phù hợp giữa “Tải trọng”
của đô thị trong mối quan hệ tương hỗ với qui mô lãnh thổ của nó và với các vùng ảnh hưởng và
trong hệ thống đô thị quốc gia, khu vực. Chiến lược - qui hoạch phát triển đô thị tốt thể hiện sự
bền vững hài hòa các khía cạnh môi trường tự nhiên - kinh tế - xã hội, thông qua hệ thống chỉ tiêu
tiêu chuẩn đô thị, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội theo các thời kỳ. Về cơ bản, việc
xây dựng chiến lược - qui hoạch phát triển đô thị, thực chất là việc xây dựng chiến lược - qui
hoạch phát triển tổng hợp của một không gian lãnh thổ đặc biệt (Có thể xem như là cấp vùng, địa
phương), đòi hỏi phải có sự tổng hợp tri thức của nhiều lĩnh vực tự nhiên, kinh tế, xã hội, quân sự,
văn hóa, chính trị,...Ngoài ra, một đô thị phát triển bền vững chỉ khi có một chiến lược - qui
hoạch phát triển tốt với khả năng thực thi đảm bảo trong suốt quá trình phát triển: “Việc qui hoạch
và quản lý phát triển thành phố bền vững đòi hỏi sự thỏa thuận và hợp tác hành động của mọi
thành phần xã hội: nhà nước, tư nhân và cộng đồng, mọi cấp độ: địa phương, thành phố và
quốc gia” ( Chương trình đô thị của Liên hợp quốc).
II. Đô thị hóa ở Việt Nam.
1. Thực trạng
Cùng với công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế, quá trình đô thị hóa được đẩy mạnh, nhất là từ
khi thực hiện đổi mới nền kinh tế - năm 1986. Năm 1990 cả nước mới chỉ có khoảng 500 đô thị lớn
nhỏ, đến năm 2000 đã tăng lên 649 đô thị. Hiện cả nước có 758 đô thị các loại. Trong đó, có 2 đô thị
loại đặc biệt: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh; 10 đô thị loại 1: Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế, Vinh, Đà
Lạt, Nha Trang, Quy Nhơn, Buôn Ma Thuột, Thái Nguyên; 5 đô thị thuộc TW: Hà Nội, Hải Phòng, Đà
Nẵng, TP. HCM, Cần Thơ; 12 đô thị loại 2; 46 đô thị loại 3; 48 đô thị loại 4; 640 đô thị loại 5. Ngoài ra,
còn khoảng 10.000 điểm dân cư, trên 250 khu công nghiệp là quỹ phát triển đô thị trong tương lai. Đô
thị hóa, công nghiệp hóa diễn ra mạnh nhất ở 3 vùng trọng điểm phát triển kinh tế - xã hội Bắc, Trung,
Nam, ở vùng duyên hải. Tỷ lệ dân số đô thị cả nước hiện đạt gần 30%. Bộ mặt các đô thị đã có những
thay đổi lớn: văn minh, hiện đại và xanh, sạch, đẹp hơn. Việt Nam đang trong giai đoạn quá độ để trở
thành quốc gia công nghiệp phát triển. Trong giai đoạn này, khu vực đô thị - hạ tầng cơ bản và là tâm
điểm tăng trưởng của nền kinh tế - được xác định là nơi “nóng” nhất của yêu cầu phát triển bền vững.
Bên cạnh những thành tựu, quá trình đô thị hóa thời gian qua ở nước ta cũng đang đặt ra nhiều thách
thức, nhất là ở góc độ xã hội. Có thể khái lược ở 5 vấn đề cơ bản sau:
1.1 . Gia tăng dân số đô thị và sự quá tải của các đô thị lớn
Theo Tổng cục Thống kê, số người di cư trong cả nước thời kỳ 1994 - 2005 khoảng trên 12 triệu
người, bằng 14,9% dân số, bình quân hàng năm số người di cư bằng 1,3% dân số, với khoảng 1,1 triệu
người. Trong đó, di cư đến đô thị là trên 3,9 triệu người - chiếm 32%. Dòng di cư nông thôn - thành thị
chủ yếu đến các thành phố lớn, khu công nghiệp tập trung và ngày càng có xu hướng tăng nhanh. Sau
11 năm, tỉ lệ người chuyển từ các tỉnh đến so với TP. Hồ Chí Minh là 19,3%, Hà Nội là 16,5%, Bình
Dương là 41% và Đồng Nai là 10%, cao hơn nhiều so với tỉ lệ trung bình của cả nước là 5,7%. Ngoài
ra, chưa kể số lao động từ nông thôn thường xuyên vào các đô thị buôn bán nhỏ và những người tìm
3
việc làm ở khu vực phi chính thức, hết ngày lại trở về gia đình ở nông thôn. TP. Hồ Chí Minh trung bình
có 50 ngàn người và Hà Nội có khoảng 25 - 30 ngàn người.
Lao động di cư là nguồn cung cấp lao động quan trọng cho đô thị (chủ yếu là lao động phổ thông), là
động lực cho tăng trưởng, phát triển kinh tế đô thị; tuy nhiên, nó cũng là nguyên nhân tạo ra sự quá tải ở
các đô thị, nhất là các đô thị lớn. Sự gia tăng dân số cơ học quá mức ở các đô thị sẽ đẩy các đô thị rơi
vào tình trạng đô thị hóa “cưỡng bức” do sự quá tải: về hạ tầng giao thông (ùn tắc, kẹt xe), việc làm,
nhà ở, giáo dục, chăm sóc y tế, an ninh trật tự, tệ nạn xã hội … mà Hà Hội và TP. Hồ Chí Minh là một
điển hình. Vấn đề quá tải về dân số ở các đô thị hiện nay và trong những năm tới sẽ vẫn là một thực
trạng nan giải nếu như chiến lược tăng trưởng, phát triển kinh tế của các đô thị và chiến lược công
nghiệp hóa, đô thị hóa không được đặt trong mối quan hệ phát triển của khu vực nông thôn.
1.2 . Vấn đề nhà ở đô thị
Nhà ở là yếu tố tác động trực tiếp đến phát triển kinh tế - xã hội ở đô thị và mang ý nghĩa xã hội sâu
sắc. Trong những năm gần đây, Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc đầu tư, phát triển nhà ở tại các
đô thị và khu công nghiệp. Tuy nhiên, tình hình nhà ở đô thị vẫn đang là bài toán căng thẳng. Diện tích
nhà ở bình quân đầu người tại các đô thị nước ta còn quá thấp, hiện mới chỉ đạt 5,4 m
2
/người. Chất
lượng nhà ở không bảo đảm, các điều kiện về hạ tầng, môi trường yếu kém. Nhà "ổ chuột" còn chiếm tỷ
trọng đáng kể tại các đô thị. Cung cầu mất cân đối nghiêm trọng, cộng với những tác động của chính
sách không hợp lý … làm cho giá nhà ở quá cao so với thu nhập của nhân dân đô thị.
Sự tồn của các khu nhà ở không chính thức, các "xóm liều”, “xóm bụi" đang là ung nhọt của các đô
thị hiện đại. Nguyên nhân chính của thực trạng này là do tốc độ đô thị hóa nhanh, dẫn đến nhập cư trái
phép và giá đất đô thị quá cao, nên một số hộ dân không có điều kiện mua đất đã lấn chiếm đất công để
ở. Tại các đô thị miền Trung và miền Nam, ngoài các nguyên nhân trên, còn có nguyên nhân do hậu quả
của chiến tranh. Đa số các khu nhà ở không chính thức có điều kiện nhà ở rất kém, diện tích ở chỉ
khoảng 2 - 4 m
2
/người, nhà ở lụp xụp, tạm bợ, hệ thống cơ sở hạ tầng thấp kém. Môi trường trong các
khu dân cư này bị ô nhiễm nghiêm trọng nên đây còn gọi là các khu nhà "ổ chuột". Theo một khảo sát,
Hà Nội từng có 3 khu nhà ở không chính thức lớn hình thành từ những năm 90 của thế kỷ trước là khu
chứa trọ Phúc Xá, khu bãi rác Thành Công, và khu "xóm liều" Thanh Nhàn với số lượng dân ở mỗi khu
khoảng trên dưới 400 người. Ngoài ra Hà Nội còn có hơn 20 "xóm liều”, “xóm bụi" nhỏ, với mỗi xóm
từ 5 - 10 hộ dân, nằm rải rác trong các quận, huyện khác trên các khu đất công hoặc ven sông, hồ …
Thành phố Hồ Chí Minh đã từng có 67.000 căn nhà "ổ chuột" và trong đó có 24.000 hộ sống ven kênh
rạch. Tại thành phố Huế có 770 hộ với 4.483 nhân khẩu sống trên Thượng Thành và Eo Bàu trong khu
Thành cổ với diện tích xây dựng trái phép là 31.500 m
2
. Ngoài ra, một số cộng đồng dân cư đô thị hình
thành từ xa xưa, sinh sống hợp pháp, nhưng do đặc điểm định cư và sinh sống đặc biệt nên cũng có thể
coi là những khu "ổ chuột" đô thị. Đó là cộng đồng dân vạn đò, vạn chài trên sông, hồ, đầm, phá, mà
điển hình là cộng đồng dân vạn đò trên sông Hương thành phố Huế, có 941 hộ với 6.505 nhân khẩu sinh
sống trong điều kiện vệ sinh môi trường rất kém.
4
Những khu nhà ổ chuột bên cạnh những tòa nhà cao tầng
1.3 . Sự an toàn của môi trường sống ở đô thị
An toàn môi trường sống ở các đô thị Việt Nam hiện đã ở mức báo động, trong đó:
- Nhức nhối với tai nạn giao thông: Theo số liệu của Ủy ban An toàn giao thông quốc gia, cả nước
trung bình hàng ngày có khoảng 30 - 35 người chết vì tai nạn giao thông, chủ yếu là tai nạn giao thông
đường bộ với trên 90%. Tình hình tai nạn giao thông ở nước ta, đặc biệt trong khu vực đô thị là hết sức
nghiêm trọng, thuộc vào nhóm cao nhất thế giới. Tuy chỉ số về số vụ tai nạn giao thông/10.000 phương
tiện không cao hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực, song chỉ số người chết/tổng số người bị
thương là đặc biệt cao mà nguyên nhân chính là do phương tiện chủ yếu trong giao thông đô thị là xe
hai bánh. Hiểm họa tai nạn giao thông đang thường trực, rình rập cướp đi sinh mạng của người dân, để
lại nhiều hệ quả nặng nề cho gia đình và xã hội.
5