Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Giải pháp cho thực trạng hiện nay của ngôn ngữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.23 KB, 21 trang )

BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA TIẾNG ANH
GIẢI PHÁP CHO THỰC TRẠNG HIỆN NAY CỦA
NGÔN NGỮ @
Người thực hiện: Đỗ Thu Hằng.
Lớp C3. Mã SV: TA35C 00138
Giáo viên: TS. Kiều Thị Thu Hương
1
BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIÊN NGOẠI GIAO
KHOA TIẾNG ANH
GIẢI PHÁP CHO THỰC TRẠNG HIỆN NAY CỦA
NGÔN NGỮ @
Hà Nội, tháng 12, 2011
2
3
LỜI NÓI ĐẦU
Ngôn ngữ luôn luôn một trong những yếu tố quan trọng nhất trong xã hội. Con người
giao tiếp với nhau qua mọi loại hình ngôn ngữ. Trải qua thời gian, không gian, rất nhiều loại
ngôn ngữ ra đời. Một trong số đó là ngôn ngữ @, một hiện tượng ngôn ngữ mới hình thành
nhưng đang phát triển với tốc độ chóng mặt trong xã hội nhất là trong bộ phận giới trẻ nhờ sự
xuất hiện của mạng internet kết nối toàn cầu. Trong thời gian gần đây, các sự kiện gây tranh cãi
như “thành ngữ sành điệu bằng tranh” hay “từ điển ngôn ngữ chat” lại một lần nữa nhắc đến thực
trạng tiếng Việt mất dần sự trong sáng. Nhiều ý kiến cho rằng ngôn ngữ khó hiểu này đang làm
mất dần vẻ đẹp của tiếng Việt và có phần lấn át trong tương lai không xa. Ngược lại, giới trẻ cho
rằng ngôn ngữ này là ngôn ngữ của giới trẻ, là bản sắc của giới trẻ.
Bởi vậy, bài nghiên cứu này ra đời với mục đích cung cấp chính xác, cụ thể về loại hình
ngôn ngữ này với góc nhìn khách quan nhất. Trong đó, bài viết cũng cung cấp thông tin khái quát
về tình hình, kết quả quá trình sử dụng ngôn ngữ trẻ trung này. Qua đó, người nghiên cứu đưa ra
một số giải pháp cải thiện thực trạng của ngôn ngữ @ hiện nay.


4
MỤC LỤC
5
1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1 Lý do chọn đề tài
Việt Nam đang dần hòa nhịp cùng với sự phát triển của thế giới. Bên cạnh sự hòa nhập về
kinh tế thì sự giao thoa về ngôn ngữ là không thể tránh khỏi. Ngôn ngữ @ xuất hiện từ khi có sự
bùng nổi của internet đồng thời với sự thay đổi của xã hội, từ khi đất nước đổi mới. Dòng thông
tin ồ ạt tràn vào Việt Nam và giới trẻ là tầng lớp tiếp thu và thích ứng nhanh nhạy nhất. Đối
tượng sử dụng chủ yếu là giới trẻ thuộc thế hệ sinh những năm 1980, 1990 và 2000 (còn được
gọi là thế hệ 8X, 9X, 10X). Họ học tập, sáng tạo, áp dụng và tạo ra cái riêng để thể hiện mình.
Hiện nay kiểu sử dụng ngôn ngữ @ là xuất hiện rộng khắp ở hầu hết các diễn đàn, nhật kí trực
tuyến (blog), trang mạng xã hội và nhất là ở tán gẫu qua mạng hay tin nhắn điện thoại. Ngôn ngữ
@ đang được sử dụng ngày càng rầm rộ trong giao tiếp, nó xa lạ với tiếng phổ thông, chẳng
giống một ngôn ngữ nào bao gồm những ký hiệu phức tạp xen lẫn ngoại ngữ và biến tướng một
cách sai chính tả. Mối nguy hại lớn là ngôn ngữ này đang lan nhanh vào nhà trường âm thầm
nhưng mạnh mẽ, gây tác động tiêu cựu tới bộ phận lớp trẻ ngày nay. Tuy nhiên đây là một hiện
tượng bình thường trong xã hội, nó là một quy luật tự nhiên. Bản thân người nghiên cứu đang sử
dụng kiểu giao tiếp này để tiết kiệm thời gian mà vẫn truyền đạt đúng nội dung, cảm xúc và thể
hiện nét đặc trưng của bản thân với người mình tiếp xúc. Có thể thấy, bên cạnh những hạn chế thì
ngôn ngữ @ cũng mang lại nhiều lợi ích nên việc loại bỏ ngôn ngữ này là không nên và cũng
không thể. Vậy tại sao chúng ta không dung hòa nó, biến nó thành công cụ hữu ích trong giao
tiếp. Chính vì vậy, đề tài này ra đời với mục đích nghiên cứu ngôn ngữ @, giúp mọi người có cái
nhìn đúng đắn hơn. Chắc hẳn trong quá trình nghiên cứu còn nhiều thiếu sót, mong thầy cô và
các bạn góp ý để bài nghiên cứu hoàn thiện hơn.
1.2 Câu hỏi nghiên cứu
Ngôn ngữ @ tồn tại trong xã hội thường xuyên liên tục. Mặc dù , mọi người sử dụng nó
như một điều tất yếu của cuộc sống thì quan tâm tới loại ngôn ngữ này, người nghiên cứu nhận
thấy có những vấn đề sau:
1) Vì sao ngôn ngữ @ ra đời?

2) Liệu ngôn ngữ @ có thay thể tiếng Việt?
3) Liệu ngôn ngữ @ ra đời là nhu cầu đổi mới tiếng Việt?
4) Có nên chấp nhận ngôn ngữ @?
6
1.3 Mục tiêu nghiên cứu
Như tên đề tài đã nêu, mục tiêu nghiên cứu ở đây là tác động của ngôn ngữ @ tới tiếng
Việt. Để thực hiện mục tiêu ấy, bài nghiên cứu sẽ giải quyết các vấn đề sau. Thứ nhất, bạn đọc sẽ
nhận được hiểu biết chung về ngôn ngữ @. Thứ hai, thực trạng sử dụng loại hình ngôn ngữ này
trong giới trẻ hiện nay ở Việt Nam và cuối cùng là giải pháp đối với ngôn ngữ @.
1.4 Ý nghĩa của nghiên cứu
Ngôn ngữ tuy là một trong những tài sản chung vô cùng quý báu của ông cha để lại, là
bản sắc văn hóa riêng, là niềm tự hào của cả dân tộc. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước luôn đề
cao chủ trương phải giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Trong thực tế hiện nay, việc xuất hiện
những hiện tướng biến thiên trong việc sử dụng ngôn ngữ khiến chúng ta, hơn bao giờ hết, phải
thống nhất về quan điểm, sự đánh giá khả năng kiểm soát và khắc phục đối với những sự biến
đổi trong ngôn ngữ, cụ thể là ngôn ngữ @.
Trong các bài bình luận, nhận xét và phân tích có tính chất cá nhân đã có từ trước đến
nay, ngôn ngữ @ mới chỉ được tìm hiểu ở một vài khía cạnh thông qua những trường hợp cụ thể.
Trong đề tài nghiên cứu này, tội tổng hợp lại những quy luật chuyển đổi căn bản của ngôn ngữ @
từ đó giúp bạn đọc có cái nhìn tổng quát hơn về hiện tượng ngôn ngữ này.
Ngôn ngữ @ tuy là một hiện tượng không mới nhưng sự phổ biến và mức độ ảnh hưởng
của nó đang ngày càng phát triển sâu rộng trong xã hội. Do đó, đi tìm hiểu và phân tích về những
sự biến đổi của ngôn ngữ chat so với ngôn ngữ đúng chuẩn thông thường là cả một quá trình lâu
dài. Bài nghiên cứu này hy vọng sẽ vừa cung cấp một cái nhìn tổng quan, khái quát về dạng ngôn
ngữ này, vừa mong những kết quả sẽ trở thanh một cơ sở nền tảng tổng quan làm cứ liệu cho
những đề tài nghiên cứu về sau. Ngoài ra, nghiên cứu này muốn gửi đến bạn được cái nhìn, cách
nghĩ của giới trẻ thông qua yếu tổ ngôn ngữ để thấu hiểu phần nào tâm lý của giới trẻ và có
phương cách hòa hợp các mối quan hệ xã hội.
1.5 Phạm vi nghiên cứu
Bởi ngôn ngữ @ là loài hình ngôn ngữ mới, các thông tin về ngôn ngữ @ được thu thập

từ internet cụ thể là các trang mạng xã hội, blog, diễn đàn và tin nhắn điện thoại. Hơn nữa, ngôn
ngữ này mới xuất hiện nên người viết nghiên cứu trong thời gian những năm gần đây.
7
1.6 Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, người nghiên cứu đã sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Đây là đề tài còn khá mới nên việc tham khảo ý kiến và tìm tài liệu còn khó khăn nhất là từ
những tài liệu chính thống, được phát hành trên cả nước như sách hay các tạp chí khoa học. Vì
thế, người nghiên cứu chủ yếu thu thập tài liệu từ thông tin đại chúng. Ngoài ra, trong quá trình
nghiên cứu, các phương pháp phân loại tài liệu, phân tích và tổng hợp đều được sử dụng.
1.7 Bố cục bài nghiên cứu
Bài nghiên cứu này bao gồm các chương:
Chương 1 (Tổng quan) giới thiệu lý do chọn đề tài, mục tiêu, câu hỏi nghiên cứu, ý
nghĩa, phạm vi cũng như phương pháp nghiên cứu.
Chương 2 (Cơ sở lý luận) cung cấp kiến thức cơ sở bao gồm các khái niệm ngôn ngữ,
ngôn ngữ @ và sự phát triển loại hình ngôn ngữ @.
Chương 3 (Nội dung nghiên cứu) nêu lên thực trạng sử dụng ngôn ngữ @ hiện nay của
lớp trẻ, phân tích nguồn gốc phát sinh cũng như những hạn chế và lợi ích ngôn ngữ này mang lại
và cuối cùng đưa ra một số giải pháp.
Chương 4 (Kết luận) người nghiên cứu tổng kết, xem xét lại quá trình nghiên cứu và đưa
ra một số khuyến nghị cho các nghiên cứu tiếp theo.
8
2 CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1 Khái niệm ngôn ngữ
Trước hết, ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội, không phải hiện tượng tự nhiên hay hiện
tượng cá nhân. Trong cuốn Hệ tư tưởng Đức, Mác và Ăng-ghen đã viết “… Ngôn ngữ là ý thức
thực tại, thực tiễn, ngôn ngữ cũng tồn tại cho cả những người khác nữa, như vậy là cũng tồn tài
lần đầu tiên cho bản thân tôi nữa; và, cũng như ý thức, ngôn ngữ chỉ sinh ra do nhu cầu, do cần
thiết phải giao dịch với người khác
1
”. Như vậy theo quan điểm của Mác, bản chất xã hội của

ngôn ngữ thể hiện ở chỗ: nó phục vụ xã hội với tư cách là phương tiện giao tiếp; nó thể hiện ý
thức xã hội; sự tồn tại và phát triển của ngôn ngữ gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Do đó, ngôn ngữ là hiện tượng tồn tại và phát triển theo quy luật khách quan, không phục thuộc
vào ý chí, nguyện vọng của mỗi cá nhân. Trong quá trình phát triển, ngôn ngữ luôn luôn tiếp thu
các yếu tố mới (từ mới, nghĩa mới) để phong phú, hoàn thiện thêm. Ngoài ra, ngôn ngữ còn là
một hiện tượng xã hội đặc biệt. Ngoài chức năng phục vụ xã hội, ngôn ngữ còn làm phương tiện
giao tiếp giữa mọi người, làm phương tiện trao đổi ý kiến trong xã hội, làm phương tiện giúp con
người hiểu biết lẫn nhau trên mọi lĩnh vực trong xã hội.
Thứ hai, ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trọng yếu nhất của con người. Chính ngôn
ngữ mà con người có thể hiếu nhau trong quá trình sinh hoạt và lao động, mà người ta có thể
diễn đạt và làm cho người khác hiểu được tư tưởng, tình cảm, trạng thái và nguyện vọng của
mình. Hơn nữa ngôn ngữ còn là phương tiện giao tiếp vạn năng, vừa phục vụ số đông đảo các
thành viên trong cộng đồng vừa giúp các thành viên trong cộng đồng có thể bộc lộ hết các nhu
cầu giao tiếp. Trong tất cả các phương tiện mà con người sử dụng để giao tiếp thì ngôn ngữ là
phương tiện duy nhất thoả mãn được tất cả các nhu cầu của con người. Sở dĩ ngôn ngữ trở thành
một công cụ giao tiếp vạn năng của con người vì nó hành trình cùng con người, từ lúc con người
xuất hiện cho đến tận ngày nay. Phương tiện giao tiếp ấy được bổ sung và hoàn thiện dần theo
lịch sử tiến hoá của nhân loại, theo những trào lưu và xu hướng tiếp xúc văn hoá có từ cổ xưa
đến tận ngày nay. Ngày nay, hầu như không còn ngôn ngữ nào là chưa có ảnh hưởng của nền văn
hoá ngoại lai. Nói cách khác, tất cả các ngôn ngữ đang tồn tại hiện nay đều đã từng trải qua
những quá trình tiếp xúc văn hoá với ngôn ngữ khác bên ngoài.
1 Mác, Ăngghen, Lenin bàn về ngôn ngữ, NXB Sự thật, Hà Nội, 1962, tr.8
9
Thứ ba, ngôn ngữ là phương tiện của tư duy. Chức năng giao tiếp của ngôn ngữ gắn liền
với chức năng thể hiện tư duy của nó bởi chức năng thể hiện tư duy của ngôn ngữ biểu hiện ở hai
khía cạnh: ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, ngôn ngữ tham gia trực tiếp vào quá
trình hình thành tư tưởng. Theo Ăng ghen, năng lực tư duy trừu tượng của con người đã lớn lên
cùng lao động. Nhưng tư duy không thể tồn tại trần trụi, thoát khỏi ngữ liệu, cho nên tư duy hình
thành thì ngôn ngữ cũng ra đời. Qua thời gian, quá trình sống mà tư duy trừu tượng phát triển
nên nội dung mà con người cần trao đổi với nhau ngày càng phong phú. Ngược lại, nhu cầu giao

tiếp trao đổi với nhau càng phong phú đòi hỏi tư duy trừu tượng càng phát triển hơn.
Cuối cùng, ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt. Ngôn ngữ là sự hợp nhất của cái
biểu hiện (vỏ âm thanh) và cái được biểu hiện (khái niệm về sự vật, hiện tượng được phản ánh,
gọi tên). Hai mặt này không bao giờ tách nhau nhưng lại có quan hệ võ đoán với nhau. Mặt biểu
hiện của ngôn ngữ mang tính hình tuyến. Ngay từ đầu, ngôn ngữ đã đồng thời là tín hiệu, mang
bản chất tín hiệu. Chính bản chất tín hiệu của ngôn ngữ, với tất cả những đặc trưng riêng biệt và
tính phức tạp trong hệ thống tổ chức của mình, là một nhân tố trung tâm bảo đảm nó trở thành
phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người.
Tóm lại, ngôn ngữ được hiểu là một hệ thống tín hiệu đặc biệt, là phương tiện giao tiếp
cơ bản và quan trọng nhất của các thành viên trong một cộng đồng người. Ngôn ngữ cũng là
phương tiện phát triểu tư duy, truyền đạt truyền thống văn hóa – lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ
khác
2.2 Khái niệm ngôn ngữ @
Đã và đang có một thứ ngôn ngữ tồn tại trong giới trẻ hiện nay, với nhiều tên gọi khác
nhau như: “ngôn ngữ chat”, “ngôn ngữ tuổi teen”, “ngôn ngữ trẻ”, “ngôn ngữ thời @”,… Để
hiểu ngôn ngữ @ là gì trước hết chúng ta tìm hiểu xem @ là gì. @(a còng) là một ký tự đặc biệt
chuyên dùng để định nghĩa địa chỉ thư điện tử (email), xuất hiện trên bàn phím máy tính. Sau đó,
@ được sử dụng như biểu tượng của thế giới mạng và những gì liên quan tới internet.
Không có một định nghĩa chính xác ngôn ngữ @ mà nôm na, ngôn ngữ @ là ngôn ngữ
biến dạng khác nhôn ngữ chuẩn, được thay đổi từng chi tiết của các chữ cái tiếng Việt, qua sự kết
hợp của rất nhiều loại ký hiệu khác nhau cũng như ngôn ngữ khác ngoài tiếng Việt. Ngôn ngữ @
thực chất là ngôn ngữ mạng, thường được giới trẻ sử dụng trong các cuộc trò chuyện trên mang,
diễn đàn, blog.
10
Qua phân tích và tổng hợp thông tin, người nghiên cứu rút ra có 4 xu hướng biến đổi như
sau:
2.2.1 Phép cộng
Giới trẻ sử dụng phép cộng bằng cách thêm vào trong từ những chữ cái để tạo ra âm mới.
Ví dụ như từ vui nay được “viết” thành “vít”, hay “thôi” được viết là “thoai”, “dzìa” là “về”.
Ngoài ra các biểu tượng cảm xúc cũng là một dạng của xu hướng này được các bạn trẻ rất

thích dùng, chẳng hạn  (vui),  (buồn), =.= (mệt mỏi), >!< (cau có), v.v.v
Tiếng Việt trong ngôn ngữ @ còn bị Tây hóa do các bạn trẻ thích sử dụng tiếng nước
ngoài xen kẽ vào tiếng Việt nhưng k theo nguyên tắc ngữ pháp nào. Ví dụ: Maybe tối nay tớ sẽ
go out, nếu cậu cũng ok thì nhớ phone lại cho mình nhé; tớ check mail rồi send cho cậu ngay.
Hơn nữa còn một thể loại tiếng Anh dịch từ theo từ (word by word) đang được ưa chuộng như
“no star where (không sao đâu), no table (miễn bàn), lemon question (chanh hỏi = chảnh), ugly
tiger (xấu hổ), no have spend (không có chi), like is afternoon (thích thì chiều), v.v.v.
2.2.2 Phép trừ
Phép trừ là cách hiểu ngược lại của phép cộng, có xu hướng biến tướng thay đổi tiếng
Việt kiểu như gần âm cùng nghĩa, chẳng hạn như: “biết” bị biến đổi thành “bít”, “buồn” biến
thành “bùn”, “luôn” thành “lun”.
2.2.3 Phép thay thế
Đây là một phương pháp khá thông dụng, tuy không bằng hai phương pháp trên. Phép
này có hai dạng: phép thay thế bộ phận là cách mà giới trẻ thay chữ này bằng chữ khác trong một
từ như “bé” được viết là “pé”, “qua” – “wa”, “thôi” – “thui”. Phép thay thế toàn bộ là cách thay
hẳn từ này bằng một từ khác, ví dụ như “không” hiện nay được dùng là “hem” hay “gì” được
viết là “j”, v.v.v
2.2.4 Mã hóa
Mã hoá là kiểu viết với số ghép cạnh những con chữ. Ví dụ: các bạn trẻ hay viết "G92U"
thay vì "Good night to you", hay "9wk" thay cho "nice weekends"
Không dừng lại ở đó, với tâm lý luôn thích sự mới lạ, họ vừa cho ra đời một bảng chữ cái
mới, qua sự kết hợp nhiều ký hiệu khác nhau để tạo nên một cách viết với hình tượng tương đối
11
giống với bảng chữ cái tiếng Việt. Từ chỗ dùng nguyên - phụ âm để thay thế lẫn nhau đến việc
dùng các ký hiệu (symbols) hoặc các ký tự đặc biệt (special characters) để thay cho nhiều nguyên
- phụ âm, theo thời gian trở thành quy ước chung và được công nhận. Diễn đàn teenviet đã đưa
ra một bảng ngôn ngữ bất quy tắc sau:
A = Cl B = 3 hoặc ß C = ( D = ]) E = F_ G = (¬
H = †| I = ] K = ]< L = ]_ M = /v\ N = ]\[
O = º P = ]º QU = v\/ R = Pv S = § T = †

U = µ V = v W = v\/ X = >< Y = ¥.
2.3 Sự phát triển ngôn ngữ Tiếng Việt
2.3.1 Tiếng Việt thời kỳ dựng nước
Thời kỳ này, tiếng Việt chưa có thanh điệu, còn có hai âm tiết (một mờ, một rõ) còn đậm
nét Nam Á, chưa phân hóa thành hai tiếng Việt và Mường.
2.3.2 Tiếng Việt thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc
Giai đoạn này ứng vào quãng sau thế kỉ 1-2 sau Công nguyên và kéo dài đến thế kỉ 8-9,
thậm chí có thể đến thế kỉ 10. Đây là giai đoạn tiếng Việt tiếp xúc với ngôn ngữ Hán nhiều nhất
nên tiếng Việt chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tiếng Hán về các mặt ngữ âm, từ vựng, và cả ngữ
pháp, các thanh điệu tăng lên gấp đôi. Ngoài ra, tiếng Việt và tiếng Mường bắt đầu phân hóa.
2.3.3 Tiếng Việt thời kỳ độc lập tự chủ
Các từ gốc Hán đã du nhập vào trong vốn từ của khối Việt-Mường chung một cách ồ ạt
và tạo ra một lớp từ mà các nhà ngôn ngữ học gọi là từ Hán Việt. Như vậy, vào thời điểm này
tiếng Việt phải được coi là một ngôn ngữ có hệ thống 6 thanh điệu. Tiếng Việt không còn phát
triển cùng tiếng Mường như trước đây. Đồng thời, đã xuất hiện một lớp từ hoàn chỉnh trong vốn
từ tiếng Việt, đó là lớp từ Hán Việt. Đồng thời, cũng có một bộ phận của lớp từ Hán Việt biến đổi
theo khuynh hướng của những từ thuần Việt. Thời kỳ này một hệ thống chữ viết được xây dựng
nhằm ghi lại tiếng Việt, đó là chữ Nôm. Ở giai đoạn này có thể khẳng định một điều là người
Việt lần đầu tiên có chữ viết riêng của mình, đó là chữ Nôm. Sự xuất hiện của chữ Nôm là một
12
hiện tượng văn hoá quan trọng trong lịch sử và bắt đầu từ đây, văn học viết bằng tiếng Việt có
điều kiện phát triển và nhờ đó những thế kỉ về sau truyện Nôm khuyết danh của người Việt trở
thành một trào lưu văn học sánh ngang cùng văn học viết bằng chữ Hán. Tiếng Việt thời kỳ này
rất giống với tiếng Việt hiện đại, cặp âm tiết mờ và rõ đã biến mất, xuất hiện nhóm phụ âm đầu
bl, ml, tl…
2.3.4 Tiếng Việt thời kỳ Pháp thuộc
Giai đoạn này ước chừng kéo dài từ cuối thế kỉ 15 (đầu thế kỉ 16) cho đến đầu thế kỉ 19.
Đây là thời kì, về cơ bản, tiếng Việt đã hình thành nên các vùng phương ngữ như đã có như hiện
nay theo hướng tiếng Việt từng bước tiến dần về phương Nam theo con đường phát triển của dân
tộc. Giai đoạn này là giai đoạn bắt đầu có sự tiếp xúc giữa tiếng Việt với các ngôn ngữ châu Âu,

mà trước hết là tiếng Tây Ban Nha, sau đó là tiếng Pháp và đến các ngôn ngữ châu Âu khác.
Dưới thời Pháp thuộc, ngôn ngữ hành chính, ngoại giao, giáo dục lúc này là tiếng Pháp
nhưng tiếng Việt vẫn không ngừng tự khẳng định mình. Tiếng Việt ngày càng tỏ rõ tính năng
động và tiềm năng phát triển dồi dào. Đồng thời, giai đoạn này cũng là một giai đoạn quan trọng
của lịch sử phát triển tiếng Việt với 2 điểm đáng chú ý sau: Thứ nhất, tiếng Việt lại bắt đầu có
một đợt tiếp xúc mới và đợt tiếp xúc này góp phần làm phong phú tiếng Việt ở cả khía cạnh từ
vựng và đặc biệt là khía cạnh ngữ pháp. Và, tiếng Việt đã trở thành một ngôn ngữ mà chữ viết
của nó theo hệ Latin chứ không phải chữ khối vuông hay chữ Sanskrit. Thứ hai, Tiếng Việt với tư
cách là ngôn ngữ toàn dân đã vươn lên giữ vai trò là một ngôn ngữ văn học bác học, và thậm chí
đã có thời kì nó giữ vai trò là ngôn ngữ hành chính của nhà nước. Đây cũng là thời kì mà văn học
chữ Nôm phát triển mạnh nhất, trong một chừng mực nào đó nó còn phát triển hơn cả văn học
chữ Hán.
2.3.5 Tiếng Việt từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay
Từ giai đoạn trung đại chuyển sang giai đoạn hiện đại, tiếng Việt phát triển theo xu
hướng từng bước hoàn thiện mình để cung cấp một phương tiếp giao tiếp hoàn chỉnh cho toàn xã
hội. Từ những năm cuối thế kỉ 19 đến nửa đầu thế kỉ 20, do tiếp xúc với các ngôn ngữ châu Âu,
ngữ pháp tiếng Việt trước đây đã có sự biến đổi. Sự phát triển ngoạn mục của tiếng Việt ở giai
đoạn này là sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, do được nhà nước công nhận như là một
ngôn ngữ chính thức nên tiếng Việt đã trở thành một ngôn ngữ không chỉ là ngôn ngữ văn hoá,
ngôn ngữ toàn dân mà còn là ngôn ngữ chính thức của giáo dục và khoa học và sau đó là ngôn
13
ngữ của chính trị. Đặc biệt, vào thời điểm hiện nay, tiếng Việt đã thoả mãn sự phát triển của xã
hội bằng việc cung cấp một cách đầy đủ các hệ thống thuật ngữ khoa học. Và, với dấu hiệu này,
chúng ta có quyền nói rằng vào giai đoạn phát triển hiện đại, tiếng Việt đã hoàn thiện sự phát
triển của mình.
Hiện nay, bước sang thế kỉ 20, với sự phát triển vũ bão của khoa học-công nghệ, việc sử
dụng internet mở đường cho kết nối toàn cầu, các loại hình giao tiếp qua mạng trở nên phổ biến
và kéo theo nó là ngôn ngữ @
14
3 . CHƯƠNG 3: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

3.1 Nguyên nhân ra đời
Như đã phân tích trong phần khái niệm ngôn ngữ, ngôn ngữ được khẳng định là một hiện
tượng xã hội đặc biệt. Do đó, ngôn ngữ hình thành dựa trên những cơ sở xã hội nhất định và
hoàn toàn tuân theo quy luật khách quan này. Ngôn ngữ @ cũng không là ngoại lệ. Ngôn ngữ
thường xuyên biến động theo sự biến động của xã hội. Ngôn ngữ là tấm gương phản chiếu xã hội
hay là chiếc "nhiệt kế" đặc biệt của xã hội Việt Nam, tiếng Việt đã và đang phản ánh mọi sự đổi
thay của xã hội Việt Nam và theo đó, tiếng Việt cũng đang có những thay đổi dưới tác động của
xã hội Việt Nam.
Từ khi đổi mới năm 1986 rồi internet vào Việt Nam năm 1998, đất nước đã phát triển một
cách rõ rệt đồng nghĩa với việc giờ đây từ trẻ nhỏ tới người già đều có khả năng sở hữu một
chiếc điện thoại di động. Không những thế, mỗi gia đình có ít nhất một chiếc máy vi tính kết nối
mạng internet. Internet và điện thoại di động đang lan truyền toàn cầu, từ thành thị tới thôn quê,
thậm chí cả vùng sâu ,vùng xa nữa, nơi nào không có Interrnet thì đã có sóng điện thoại di động.
Theo đó, tiếng Việt có thêm một môi trường mới để giao tiếp và được sử dụng cùng với nhiều
biến đổi. Vì vậy ,giới trẻ có thể kết nối với nhau mọi lúc , mọi nơi, và họ học hỏi, cập nhật ngôn
ngữ cho nhau rất nhanh. Về tiếng Việt của cư dân mạng, khi xã hội tồn tại các nhóm xã hội, thì
tương ứng với nó sẽ có "ngôn ngữ của xã hội đó" (ngôn ngữ học xã hội gọi là "phương ngữ xã
hội"). Tiếng lóng ra đời cũng bởi lí do này. Sự xuất hiện cư dân mạng, thì cũng đồng thời xuất
hiện ngôn ngữ của cư dân mạng. Ngoài ra, hiện tượng ngôn ngữ @ xuất hiện còn là do quy luật
tiết kiệm. Do phải dùng tiếng Việt không dấu khi chat hoặc nhắn tin nếu điện thoại không hỗ trợ
phần mềm tiếng Việt, do cùng một lúc trò chuyện với nhiều người trên mạng nên giới trẻ thường
xuyên viết tắt để tiết kiệm thời gian, từ đó tạo ra các từ ngữ mới trong giao tiếp. Về tin nhắn
trong điện thoại di động, số ký tự bị giới hạn nên để truyền đạt nhiều nội dung trong một tin,
người nhắn tìm cách viết tắt tối đa. Bên cạnh đó, trong thời kỳ hội nhập quốc tế, các công ty
nước ngoài ồ ạt tràn vào Việt Nam kinh doanh tạo nên ảnh hưởng chèn tiếng nước ngoài khi giao
tiếp của các bạn trẻ. Một số ý kiến cho rằng, sự ra đời của ngôn ngữ @ thể hiện nhu cầu đổi mới
tiếng Việt bởi xã hội ngày một phát triển hòa vào xu hướng toàn cầu hóa nên xảy ra sự va cham-
giao thoa văn hóa trong đó có ngôn ngữ kéo theo đó là hàng loạt các sự vật, hiện tượng cần được
15
gọi tên. Trên đây là các nguyên nhân khách quan, là quy luật tự nhiên nên không ai có thể phá vỡ

nổi, không có đạo luật nghiêm nào có thể ngăn chặn, can thiêp được.
Còn về mặt chủ quan thì giới trẻ muốn tìm sự khác biệt, mới lạ. Họ muốn khẳng định
mình trước người lớn, để người lớn phải tôn trọng hoặc không muốn người lớn biết nội dung trao
đổi. Bên cạnh đó, ngày nay cái tôi trong mỗi bạn trẻ trở nên lớn hơn, họ muốn dùng ngôn ngữ @
để tạo nên đặc trưng của bản thân, trở nên cá tính hơn so với bạn bè. Tư duy cần phải tạo nên sự
khác biệt đã ăn sâu vào giới trẻ hiện nay nên họ thả sức ngày càng tạo ra một ngôn ngữ không
giống ngôn ngữ nào trên thế giới.
3.2 Kết quả
Hiện nay, ngôn ngữ @ là niềm say mê của giới trẻ. Họ đang ra sức sáng tạo không ngừng
thứ ngôn ngữ trẻ này và càng ngày càng có nhiều biến thể mới mà những ai “lạc hậu” sẽ không
thể theo kịp. Từ chỗ thu gọn, viết tắt đến mức tối thiểu, cho đến cố làm dài ngoằng một từ nào
đó rồi viết hoa không theo quy luật, tất cả đều là ngôn ngữ @. Ngôn ngữ @ vừa có mặt tích cực
đồng thời tồn tại mặt tiêu cực đối với con người và xã hội.
Xu hướng toàn cầu hóa dẫn đến nhịp sống gấp gáp hay còn gọi đơn giản là sống nhanh.
Nhịp “sống nhanh” phát sinh những vấn đề: ăn nhanh, ngủ nhanh, làm việc nhanh, suy nghĩ
nhanh, nói nhanh … và một trong những vấn đề đáng lưu ý là viết cũng nhanh. Từ đó, ngôn ngữ
@ ra đời, con người trao đổi được nhiều thông tin khi thời gian được tận dụng tới mức tối đa.
Hơn nữa, đây là một loại hình ngôn ngữ trẻ trung, lôi cuốn, sinh động, không khô khan cứng
nhắc, thể hiện cảm xúc khi giao tiếp qua các ký tự, biểu tượng ngỗ nghĩnh. Đối với các bạn trẻ,
ngôn ngữ này là phương tiện trao đổi thông tin có tính bảo mật cao vì phụ huynh không hiểu.
Tuy nhiên, ngôn ngữ @ ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế, gây ảnh hưởng tiêu cực tới các
bạn trẻ đang sử dụng. Khi mà lớp trẻ và cư dân mạng hiện nay đang sử dụng tiếng Việt một cách
tùy tiện, tràn lan những từ lai ghép nhiều khi vô nghĩa và khó hiểu. Đáng lo hơn nữa khi ngôn
ngữ ấy đã thâm nhập vào trong nhà trường, được học sinh dùng một cách thản nhiên ngay trong
chính các bài viết của mình. Nhiều bạn học sinh chưa ý thức được rõ về loại ngôn ngữ này nên
lam dụng nó ngoài môi trường tin nhắn và internet như giao tiếp hàng ngày với người lớn, làm
bài tập, bài thi ở trường lớp. Một phụ huynh chia sẻ với báo Thanh Niên rằng con gái mình đang
nói thứ ngôn ngữ khó hiểu như “He he he, ngon góa, măm măm. Có đồ en ngon gòi”. Hay như
một trường hợp viết văn như sau : “Mỵ và A Phủ là một đôi thanh mai trúc mã, họ thực lòng
16

thực dạ yêu nhau quên trời quên đất, mặc dù quá xá người cản trở nhưng họ cũng lấy được nhau
bằng cách dắt tay nhau đi vô rừng”. Không những thế, ngôn ngữ mới này tạo cho các bạn học
sinh thói quen lười suy nghĩ để tìm từ hay ý đẹp, không nhận biết được giá trị văn hóa của ngôn
ngữ, miễn viết sao cho càng nhanh, lạ, sành điệu càng tốt. Với sự xuất hiện của các phương tiện
giao tiếp trực tuyến, thế hệ trẻ hiện nay thường gửi tin nhắn thay vì nói chuyện trực tiếp, thậm
chí ngay cả khi chúng ngồi gần nhau. Cách giao tiếp này vì thế ảnh hưởng tới việc sử dụng ngôn
ngữ. Bằng việc thay đổi tiếng Việt chuẩn, ngôn ngữ @ khiến các bạn trẻ phát âm sai, méo mó
dần dần sai viết sai chính tả và không biết cách viết đúng. Theo tiến sĩ Huỳnh Văn Sơn, Trưởng
bộ môn Tâm lý học (Khoa Tâm lý giáo dục Trường ĐH Sư phạm TP.HCM), dưới ảnh hưởng của
“phương tiện giao tiếp” đơn giản tới mức hời hợt như thế, các em sẽ mất đi năng lực cảm thụ vẻ
đẹp của ngôn ngữ mẹ đẻ. Tình trạng này lan rộng sẽ ảnh hưởng đến tâm sinh lý của các em. Bắt
chước là chuyện bình thường, nhưng nếu trẻ cứ bắt chước mà không được định hướng, chọn lọc
sẽ trở thành thói quen khó điều chỉnh và về lâu dài tạo nên những vết trầm tích ảnh hưởng đến
tâm lý. Nếu cứ để trẻ chạy theo thói quen qua loa, đại khái khi sử dụng ngôn ngữ thì trong tư duy
trong việc làm, sinh hoạt cũng dễ dàng trượt theo sự hời hợt, đơn giản ấy.
3.3 Giải pháp
Hiện nay trong dư luận dấy lên đề xuất cần xóa bỏ ngôn ngữ @ nhưng điều đó là không
thể bởi ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt, hiện tượng khách quan mà con người không
chi phối được. Hơn nữa cũng do nhu cầu con người mà loại hình ngôn ngữ này sinh ra. Các thế
hệ đi trước cần hiểu rằng không thể xóa bỏ ngôn ngữ này mà phải học cách chấp nhận nó và tuân
theo quy luật vận động và phát triển của xã hội có những thứ sẽ được tiếp nhận và có những thứ
sẽ bị đào thải. Trong đời sống xã hội hiện nay, một số người còn cho rằng nói tục là hay, để xả
bực bội. Nên hiểu nói tục là một hiện tượng ngôn ngữ - xã hội và ngành ngôn ngữ học cũng cần
phải quan tâm. Nếu khẳng định việc nói tục trong xã hội không bao giờ hết thì ngôn ngữ @ của
giới trẻ cũng không bao giờ hết được. Tất nhiên, phải thấy rằng ngôn ngữ @ không phải tất cả là
dở, và trong đó cũng chỉ có một số ít là tục thôi. Vậy nên các biện pháp hạn chế, dung hòa là cần
thiết. Các bậc phụ huynh không nên áp đặt tuyệt đối giới trẻ vì đó là quyền tự do cá nhân.
TS. Tùng Lâm nhận xét: Trong 3 yếu tố tác động đến ngôn ngữ tuổi teen, yếu tố gia đình
vẫn là quan trọng nhất. Bản thân gia đình cũng phải có ý thức rèn con cái từ lời nói đến hành vi.
Bố mẹ cũng phải nêu gương cho con cái. Các bậc phụ huynh nên trò chuyện cùng con em mình

17
như những người bạn để hiểu được tâm tư nguyện vọng của giới trẻ hiện nay, và đưa ra những
lời khuyên một cách thiết thực nhất.
Việc sử dụng ngôn ngữ tùy tiện này ảnh hưởng rất lớn đến sự trong sáng, phong phú của
tiếng Việt. Cụ thể theo ThS. Hà Trần Thùy Dương (giáo viên Trường Đại Học Huế) cho rằng
“Việc quá lạm dụng vào ngôn ngữ chat khiến khả năng tư duy của giới trẻ bằng tiếng Việt ngày
càng hạn chế vì các em không còn ý thức trau dồi vốn từ tiếng Việt sao cho phong phú, diễn đạt
thật trôi chảy, chính xác nữa”. Giáo dục cho học sinh ngôn ngữ văn hóa là một trong những điều
quan trọng mà nhà trường cần phải đẩy mạnh để chống sự thay đổi dị thường trong ngôn ngữ.
Theo ThS. Trương Thị Luyện (giáo viên Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nam): “Trách nhiệm của
nhà trường trong vấn đề giáo dục văn hóa ngôn ngữ cho học sinh vô cùng quan trọng. Điều này
thể hiện rõ ở chương trình, nội dung giảng dạy. Để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, tránh
cho học sinh sa đà vào lối sử dụng kiểu ngôn ngữ khó hiểu như hiện tại thì nhà trường không chỉ
đẩy mạnh phong trào nâng cao chất lượng dạy và học mà còn phải có những hoạt động mang
tính đặc thù về ngôn ngữ nhằm khuyến khích học sinh tham gia, hình thành các em thói quen sử
dụng ngôn ngữ lành mạnh, chuẩn mực”. Cần xây dựng phong trào giữ gìn sự trong sáng tiếng
Việt để học sinh hiểu và thực hiện theo. Việc giáo dục cần được bắt nguồn từ thực tế, những câu
chuyện, tình huống thật xảy ra trong cuộc sống, làm sao để các em hiểu thế nào là con người văn
minh, lịch lãm, về điều này thì giáo dục của chúng ta lại chưa làm được. Nhà trường và đoàn
thanh niên cần định hướng cho học sinh - sinh viên hiểu những giá trị tốt đẹp của ngôn ngữ mẹ
đẻ để nâng cao ý thức, trách nhiệm bảo vệ, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Bên cạnh đó,
nhà trường phải chú ý rèn học sinh về ngôn ngữ, nói đúng, viết đúng chuẩn tiếng Việt, trong đó
có viết đúng chính tả. TS. Tùng Lâm chia sẻ kinh nghiệm: “Trước tiên, chúng ta phải giáo dục để
các em hiểu rõ đâu là chuẩn mực ngôn ngữ, chứ không nên lầm lẫn khi biến phương tiện làm
việc thành phương tiện giao tiếp. Lời nói lệch chuẩn có thể dẫn đến tư duy, hành vi lệch lạc. Vì
thế, việc làm méo mó ngôn ngữ tiếng Việt cần phải được lên án”.
Liên quan đến vấn đề sách giáo khoa, TS. Trần Thị Ngọc Lang (Viện Phát triển bền vững
vùng Nam bộ) đề xuất ý kiến biên soạn thêm cho học sinh từng vùng miền hệ thống bài tập thích
hợp để sửa lỗi chính tả mà học sinh vùng đó hay mắc. Sách giáo khoa hiện hành được soạn để
dùng chung cho cả nước dẫn đến tình trạng bài tập chính tả vừa thừa vừa thiếu. Chẳng hạn, bài

tập phân biệt l/n không cần thiết cho học sinh Nam bộ mà là lỗi chủ yếu của học sinh phía Bắc.
18
Trong khi đó, bài tập phân biệt vần và dấu hỏi, ngã lại chưa đủ để giúp học sinh viết đúng chuẩn
chính tả.
Nếu nhà trường là nhân tố cơ bản giúp các bạn trẻ định hướng, rèn luyện cách sử dụng
ngôn ngữ chuẩn mực thì xã hội lại là nhân tố ảnh hưởng đến sở thích sử dụng ngôn ngữ giao tiếp
của giới trẻ. “Trên các phương tiện truyền thông, ngành văn hóa thông tin cần xây dựng và cập
nhật các quy định cần thiết về sử dụng ngôn ngữ, cả tiếng Việt và ngoại ngữ để giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt”. Ông Nguyễn Mạnh Cường (giáo viên Trường ĐH Ngoại ngữ - Tin học
TP.HCM) nói. Các tờ báo, đặc biệt là báo mạng, cần đi đầu trong việc đưa ra những từ, ngữ,
câu… đúng chuẩn và trong sáng.
Mới đây, ngành giáo dục Hà Nội triển khai chương trình “Giáo dục nếp sống thanh lịch,
văn minh” xuống các trường học. TS. Mai Xuân Huy nêu: “Biện pháp để ngăn chặn loại ngôn
ngữ này xâm nhập vào tiếng Việt là chúng ta cần khoanh vùng và quy định khu vực sử dụng của
nó. Chẳng hạn, có thể cấm dùng ngôn ngữ “chat” trong phạm vi công cộng, trong các bài viết ở
trường, trên các phương tiện thông tin đại chúng như tivi, đài, báo. Nó chỉ có thể được sử dụng
trong giao tiếp giữa những người chuyện trò trong các chatroom trên internet. Muốn khắc phục
được tình trạng này, gia đình và nhà trường phải kết hợp giáo dục, kiểm soát, nhưng quyết định
hơn cả thì phải có một đạo luật cụ thể về tiếng Việt nằm trong Chính sách ngôn ngữ của Đảng và
Nhà nước”.
19
4 CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN
Ngôn ngữ không chỉ là công cụ để chúng ta giao tiếp, biểu lộ tình cảm, suy nghĩ của
mình, mà còn có vai trò quan trọng trong việc phát triển khả năng tư duy cũng như ảnh hưởng
lớn đến việc hình thành nhân cách con người. Một ngôn ngữ đa dạng, biểu cảm nhưng hàm xúc
và logic là một tiêu chuẩn cần đặt ra cho những sáng tạo mới. Bất kể ngôn ngữ nào cũng đều trải
qua quá trình biến đổi lâu dài để phát triển và hoàn thiện. Tiếng Việt của chúng ta cũng vậy. Nếu
so sánh những từ chúng ta thường dùng ngày nay và các từ mà các thế hệ trước vẫn dùng, ta
cũng thấy khác nhau nhiều. Có rất nhiều từ mới và nhiều từ không mới nhưng được dùng với
nghĩa khác. Vì vậy, thế hệ 8X và 9X cũng đã phải vận dụng đầu óc, sự liên tưởng phong phú của

mình thì mới nghĩ ra được sự thay thế. Người nghiên cứu cho rằng không nên phản đối chuyện
tạo từ vựng cũng như du nhập các từ mới để làm phong phú thêm ngôn ngữ giao tiếp trên cộng
đồng mạng. Cho nên không nên vội lo lắng, phiền lòng khi thấy giới trẻ ngày nay sử dụng quá
nhiều những từ ngữ, cách biểu hiện ngôn ngữ mới, lạ tai, khó hiểu…
Tuy nhiên, cũng cần phải có sự kiểm soát nhất định và tăng cường các hình thức giáo dục
để giới trẻ không quên rằng sản phẩm này đơn giản là một cuộc chơi và chỉ nên có ở thế giới ảo.
Nó hoàn toàn vô nghĩa nếu dùng nó trong văn bản chính thống, trong giao tiếp, thông tin với
những đối tượng khác (không phải là giới trẻ). Có như thế tiếng Việt mới không trở thành một
tập hợp tùy tiện, thiếu cấu trúc, thiếu logic.
20
5 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên), Dẫn luận Ngôn ngữ học, 2007, NXB. Giáo dục.
2) Mác, Ăngghen, Lenin bàn về ngôn ngữ, NXB Sự thật, Hà Nội, 1962.
3) Ngôn ngữ thời @: chấp nhận đến đâu? Báo điện tử Dân trí
chap-nhan-den-dau.htm
4) Bản chất và chức năng của ngôn ngữ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến. Cơ sở ngôn ngữ
học và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H., 1997, trang 8–20, />5) Các giai đoạn phát triển của tiếng Việt, theo ngonngu.net
6) Ngôn ngữ chat hay nhu cầu đổi mới tiếng Việt, Hoàng Sơn,
/>doi-moi-Tieng-Viet aspx
7) Báo động sự biến dạng của tiếng Việt, D.Bình và M.Tâm, />kien-665/bao-dong-su-bien-dang-cua-tieng-viet-145226.aspx
8) Giải mã ngôn ngữ @ của tuổi teen, Hồng Hạnh, báo Dân trí />458516/giai-ma-ngon-ngu cua-tuoi-teen.htm
9) Làm đẹp thêm dòng sông ngôn ngữ, Bản tin Đại học Quốc gia Hà Nội, GS. TS. Đinh Văn Đức
/>10) Ngôn ngữ chat có trở thành ngôn ngữ chính thống của tiếng Việt, Thu Trang, Xã hội thông tin,
/>chinh-thong-cua-tieng-viet.htm
11) Đừng hốt hoảng với ngôn ngữ tuổi teen, Việt Phương, Dân trí,
/>9-127726.html
21

×