Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Cái tôi ngông trong thơ tản đà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.34 KB, 59 trang )

MEONGOK
Mở đầu.
1. Lý do chọn đề tài:
1.1. Nhắc tới nền văn học Việt Nam thì chúng ta không thể không nhắc tới
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Bởi Tản Đà là một phong cách lớn, giữ một vị trí
quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc. Ông là con ngời của buổi giao thời -
cái buổi mà nền văn học mới cha đợc định hình rõ mà văn học cũ thì đã đi vào bế
tắc, hết vai trò lịch sử. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu chính là dấu nối giữa hai nền
văn học trung đại và hiện đại. Tên tuổi của ông gắn liền với thời kì văn học mang
tính chất giao thời ấy. Tản Đà có ảnh hởng rất lớn đến quá trình vận động và
phát triển của văn học, đặc biệt là lĩnh vực thơ ca. Ông chính là một hiện tợng
hấp dẫn, mới mẻ đối với giới phê bình nghiên cứu. Nhng bản thân con ngời cũng
nh sáng tác của Tản Đà vốn rất phức tạp dẫn đến nhiều hớng tiếp cận, nhiều cách
đánh giá khác nhau. Và ở ông vẫn còn nhiều vấn đề cha đợc đề cập tới. Chính vì
vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu về hiện tợng văn học này cần phải đợc tiếp tục để
đảm bảo một cái nhìn đúng đắn, thống nhất.
1.2. Cái Tôi tác giả là một phạm trù rất quan trọng trong sáng tác văn học
viết. Đây là yếu tố cơ bản trong hệ thống các yếu tố hình thành nên phong cách
của một tác giả.
Cái Tôi trong sáng tác của Tản Đà quả thực là một hiện tợng rất độc đáo
trong văn học Việt Nam. Đi sâu tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi hy vọng nhằm đi
đến xác định một phơng diện quan trọng trong phong cách của tác giả, tìm ra đ-
ợc dấu ấn riêng đặc sắc mà nhà thơ đã để lại trong lịch sử văn học dân tộc.
1.3. Từ thập niên bốn mơi của thế kỷ XX, thơ Tản Đà đã đợc đa vào giảng
dạy trong nhà trờng phổ thông và đại học. Hiện nay, ở Trung học phổ thông, thơ
Tản Đà đợc chọn giảng bài Thề non nớc. Đây là một trong những bài thơ hay
nhất của ông và cho đến nay vẫn có nhiều ý kiến tranh cãi, không thống nhất.
Nh vâỵ, chúng ta thấy rằng Tản Đà là một tác giả có vị trí đặc biệt không chỉ
trong lịch sử văn học dân tộc mà cả trong các chơng trình giảng dạy văn học ở
học đờng. Vì thế, việc tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề này, hy vọng sẽ có đóng góp
ít nhiều vào công tác giảng dạy, học tập về Tản Đà ở nhà trờng phổ thông.


2. Đối tợng nghiên cứu và phạm vi, giới hạn của đề tài.
2.1. Đối tợng nghiên cứu:
1
MEONGOK
Nh tên đề tài đã xác định, đối tợng nghiên cứu mà đề tài hớng tới ở đây là:
Cái tôi ngông trong thơ Tản Đà.
2.2. Phạm vi, giới hạn của đề tài:
Sau gần ba mơi năm sáng tác, Tản Đà đã để lại cho đời một khối lợng tác
phẩm khá lớn với nhiều thể loại khác nhau: thơ, văn xuôi, kịch Tuy nhiên, khi
nhắc đến Tản Đà, chúng ta nhớ đến ông nhiều nhất với t cách là một nhà thơ. ở
lĩnh vực này, Tản Đà đã có những đóng góp nhất định. Bởi vậy,luận văn chủ yếu
khảo sát, tìm hiểu những biểu hiện và đặc điểm của cái Tôi ngông trong thơ
Tản Đà. Trong quá trình nghiên cứu, tiếp cận với cái Tôi ngông trong thơ Tản
Đà, luận văn có thể so sánh nó với toàn bộ cái Tôi trong sáng tác văn xuôi của
ông để làm nổi bật hơn cái Tôi ngông trong thơ.
Tài liệu mà luận văn khảo sát là các sáng tác thơ của Tản Đà. Chúng tôi dựa
vào cuốn Tản Đà - Thơ và đời do Nguyễn Khắc Xơng su tầm và biên soạn
(N.x.b. Văn học - Hà Nội), kết hợp với các yếu tố thuộc về thời đại, về hoàn cảnh
riêng, về con ngời của tác giả để tìm hiểu, nghiên cứu.
3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu.
3.1. Tản Đà là một hiện tợng văn học lớn trong văn học Việt Nam. Lịch
trình nghiên cứu về Tản Đà đã có khoảng tám mơi năm và cho đến nay đã có hơn
một trăm bài viết nghiên cứu về ông. Nhiều vấn đề đã đợc các tác giả đề cập đến.
Nhng nhìn chung, việc đánh giá, nhìn nhận về Tản Đà còn có nhiều ý kiến trái
ngợc nhau và đến tận bây giờ vẫn cha đợc thống nhất.
Lịch sử nghiên cứu về Tản Đà có thể chia làm ba thời kỳ:
3.1.1. Thời kỳ trớc cách mạng tháng Tám:
Tản Đà xuất hiện lần đầu tiên trên văn đàn vào năm 1916 với quyển Khối
tình con 1 và gây đợc những d luận, ảnh hởng mạnh mẽ. Khi Nam Phong tạp chí
ra đời, Tản Đà cũng đã có mặt ngay từ những số đầu. Trên tờ tạp chí này, Phạm

Quỳnh đã công nhận và ca ngợi kịp thời những ảnh hởng tích cực của Tản Đà đối
với nền văn học dân tộc: có giọng mới, có ý lạ, đợc quốc dân nhiều ngời cổ võ
[29,165]. Cũng chính Phạm Quỳnh trên tờ tạp chí ấy đã đả kích Giấc mộng con
của Tản Đà.Ông cho rằng với Giấc mộng con 1, Tản Đà đã khinh mạn quốc
dân đến nỗi đem chính danh thân thế mà bắt quốc dân truyền tụng [29,165],
đem cái ngông mà phô diễn Với cái Tôi ngông nghênh xuất hiện trên văn
đàn trong Giấc mộng con 1, Tản Đà đã bị Phạm Quỳnh phê phán một cách nặng
nề rằng: không những là không có ích mà còn có hại, là đánh thuốc độc cho cả
nớc, là phạm tội diệt vong Bên cạnh đó, Phạm Quỳnh lại tỏ ý ca ngợi những
cuốn nh Đài kinh, Lên sáu vì đã phổ thông luân lý cho đàn bà con gái, vì đã
chuyên chú về đờng giáo dục. Giống nh Phạm Quỳnh, một số nhà nghiên cứu
2
MEONGOK
khác, họ bất bình với cái Tôi của nhà thơ bộc lộ một cách ngang nhiên nh vậy và
họ đã đồng tình với những Đài kinh, Lên sáu. Vì theo họ, văn phải là vỏ bọc của
t tởng (Tạp chí Nam Phong - số 17).
Nh vậy, từ đầu thế kỷ cho đến trớc 1932 - khi thơ Mới cha xuất hiện, ngời
phê bình, đánh giá về Tản Đà không nhiều nhng thực tế thì từ đây, Tản Đà đã bắt
đầu trở thành một hiện tợng trên văn đàn. Ông đã tạo nên một sự ảnh hởng
trong văn giới và sự say mê trong thế hệ học sinh Tây học.
Khi thơ Mới xuất hiện và khẳng định đợc vị trí của mình thì Tản Đà bị đa ra
làm đối tợng phê phán. Sự thắng thế của thơ Mới đã thu hút đợc sự quan tâm của
công chúng, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu trở nên lu mờ và cổ lỗ, chỉ sống trong
kỷ niệm của độc giả.
Năm 1934, Tản Đà tranh luận về thơ cũ và thơ Mới với các nhà thơ trẻ. Ông
bị báo Ngày nay và nhóm Tự lực văn đoàn đa ra làm trò. Cũng để bảo vệ thơ
Mới, nhà thơ trẻ Lu Trọng L đã có những lời lẽ xấc xợc và thiếu tôn trọng đối
với Tản Đà: Nàng thơ ấm Hiếu mũi thò lò.
Nhìn chung, ở thời kỳ này, Tản Đà không đợc đánh giá một cách đúng mức.
Nhng đến năm 1939, sau khi Tản Đà mất, mọi ngời mới nhìn nhận lại và

giá trị văn học, cũng nh vai trò của Tản Đà đối với văn đàn đợc đánh giá lại một
cách xác đáng hơn. Trên báo Ngày nay số 166, Tao Đàn số dặc biệt về Tản Đà,
Tản Đà lại đợc đề cao. Các nhà thơ Mới nh đã hồi tâm lại, hối lỗi bởi sự quá
khích của mình nên đã đứng về phái khẳng định vị trí của Tản Đà trong nền văn
học dân tộc. Xuân Diệu với Công của thi sĩ Tản Đà đã viết: Tản Đà là ngời
thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Tản Đà là ngời thứ nhất đã có
can đảm làm thi sĩ một cách đờng hoàng, bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám có
một cái Tôi; dám cho trái tim và linh hồn đợc có quyền sống cái đời riêng của
chúng. Tản Đà còn là một thi sĩ rất An Nam [29,73].
Một số nhà văn khác nh Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan,
Khái Hng đã nhìn Tản Đà với những nét cá tính ngang tàng, phóng túng, tài
hoa, dị thờng [29,515]. Lu Trọng L cũng viết về chân dung Tản Đà với những
phẩm chất nh vậy. Trúc Khê viết về một Tản Đà triết học. Nguyễn Xuân Huy
đánh giá tài năng Tản Đà qua việc dịch văn thơ
Đến 1942 với Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân [24] và Nhà
văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan [15] thì những giá trị, đóng góp cho văn học của
Tản Đà cũng nh những giới hạn của ông đã đợc tìm hiểu, nghiên cứu và tiếp cận
một cách rõ hơn. Hoài Thanh - Hoài Chân trong Cung chiêu anh hồn Tản Đà
đã viết: trên hội Tao Đàn chỉ có tiên sinh là ngời của hai thế kỷ; là ngời đã dạo
bản đàn mở đầu cho một cuộc hoà nhạc tân kỳ đang sắp sửa. Có tiên sinh, ngời
ta sẽ thấy rõ chúng tôi không phải là những quái thai của thời đại, những đứa thất
3
MEONGOK
cớc không có liên lạc gì với quá khứ của giống nòi[24,11-12]. Nh vậy, Tản Đà
đã đợc Hoài Thanh - Hoài Chân xem nh là dấu nối giữa cái mới và cái cũ. Vũ
Ngọc Phan cũng cho rằng văn xuôi của Tản Đà là tang chứng của thời văn quốc
ngữ còn phôi thai [15].
Cũng trong năm 1942, ở Việt Nam văn học sử yếu [10], Dơng Quảng Hàm
nhấn mạnh một số đặc điểm của văn chơng Tản Đà vốn đã đợc nhiều ngời nói
đến nh: ngôn ngữ, nhịp điệu thơ nhẹ nhàng, Việt Nam thuần tuý. Ông còn nhấn

mạnh tính ngông, phóng túng ở Tản Đà. Dơng Quảng Hàm cũng đã đa Tản Đà
vào chơng trình dạy văn ở nhà trờng.
Nh vậy, ở giai đoạn này, Tản Đà đã đợc đánh giá rất cao, đợc tiếp cận một
cách sâu sắc và đa chiều.
3.1.2. Sau 1945 đến những năm 80:
Sau cách mạng tháng Tám, dân tộc ta lại tiếp tục bớc vào cuộc chiến đấu
chống sự xâm lăng của thực dân Pháp. Văn học giai đoạn này chủ yếu để phục
vụ kháng chiến, làm công tác t tởng. Nó trở thành vũ khí để đấu tranh cách
mạng. Vì thế vệc giảng dạy văn học yêu nớc là vấn đề cấp thiết. Bởi vậy, lúc này,
vấn đề yêu nớc, vấn đề giai cấp trở thành tiêu chí để đánh giá văn học và nó là
đối tợng quan tâm số một của các nhà phê bình nghiên cứu. Các sáng tác của
Tản Đà cũng không tránh khỏi quy luật chung ấy. Tản Đà trong suốt thời kỳ này
hầu nh không đợc nói đến, có chăng cũng rất ít. Suốt một thời gian dài, từ cuối
những năm 50 đến những năm 70, Tản Đà đợc tập trung chú ý và đánh giá ở các
mặt yêu nớc, giai cấp, thái độ chính trị đối với quân xâm lợc nh thế nào. Và cuối
cùng tiêu điểm của sự đánh giá, tranh luận về Tản Đà chính là bài thơ Thề non n-
ớc - nó là biểu hiện của lòng yêu nớc hay tình yêu đôi lứa? Với tác phẩm này,
vấn đề yêu nớc của Tản Đà đã đợc một số tác giả nhìn nhận và khẳng định.
Không giống nh thời kỳ sau cách mạng tháng Tám đến những năm 60, thời
kỳ 1960 đến 1980 ,Tản Đà đợc nghiên cứu rất nhiều.Vấn đề trung tâm, chủ yếu
vẫn là việc đánh giá xem Tản Đà có yêu nớc hay không, Tản Đà t sản hay phong
kiến và thái độ của ông với thực dân Pháp nh thế nào qua Thề non nớc.
Nguyễn Đình Chú với bài Tản Đà có yêu nớc hay không? đã khẳng định có
biểu hiện của lòng yêu nớc ở Tản Đà . Nhng một số tác giả khác lại không đồng
ý với nhận định trên.
Những năm 70, trên Tạp chí văn học xuất hiện các cuộc tranh luận với ba
loại ý kiến: ý kiến một cho rằng Thề non nớc có cả hai chủ đề: yêu nớc và tình
yêu đôi lứa; ý kiến hai chỉ thừa nhận chủ đề yêu nớc; và ngợc lại, ý kiến ba lại
phủ nhận chủ đề yêu nớc và khẳng định tình yêu đôi lứa. Cuối cùng cuộc tranh
luận vẫn không kết thúc và cha có sự thống nhất giữa ba ý kiến trên.

4
MEONGOK
Bên cạnh vấn đề yêu nớc, vấn đề giai cấp ở Tản Đà cũng đợc đặt ra. Tầm D-
ơng trong Tản Đà - khối mâu thuẫn lớn (1964) đã cho rằng: t tởng cơ bản ở Tản
Đà là t tởng thuộc ý thức hệ t sản, t tởng phong kiến và tiểu t sản giữ cơng vị thứ
yếu [5]. Trớc đó thì Minh Tranh và Nguyễn Kim Giang đã xếp Tản Đà vào giai
cấp t sản. Sau Tầm Dơng, Nguyễn Khắc Xơng và Nguyễn Đình Chú lại xếp Tản
Đà vào tầng lớp nho sĩ. Còn Trần Đình Hợu trong Văn học Việt Nam giai đoạn
giao thời (1974) đã đặt Tản Đà vào giai đoạn giao thời và xếp ông vào mẫu nhà
nho tài tử [12].
Tóm lại, thời gian này, Tản Đà đợc nghiên cứu khá nhiều và chủ yếu tiếp
cận ở vấn đề giai cấp, vấn đề yêu nớc và xoay xung quanh tác phẩm Thề non nớc
của ông.
3.1.3. Thời kỳ từ 1980 đến nay:
Cuối những năm 70 - đầu 80, Tản Đà ít đợc bàn thêm. Đến 1982, khi viết
lời giới thiệu cho cuốn Thơ Tản Đà chọn lọc [4], Xuân Diệu tiếp tục khẳng định
công của thi sĩ Tản Đà là đã đa cái tôi cá nhân vào văn học.
Năm 1984, trong Từ điển văn học [1], Nguyễn Huệ Chi đã đánh giá Tản Đà
là một hiện tợng đột xuất, vừa độc đáo vừa dồi dào năng lực sáng tạo, là một cây
bút phóng khoáng, một nhà thơ giao tiếp giữa hai thế hệ cổ điễn và thơ Mới. Đặc
biệt năm 1988, khoa Văn trờng đại học Tổng Hợp đã tổ chức một hội thảo khoa
học kỷ niệm 100 năm ngày sinh của thi sĩ Tản Đà. ở cuộc hôị thảo này xuất hiện
thêm một số gơng mặt mới nh Lê Chí Dũng, Nguyễn Hữu Sơn, Đức Mậu bên
cạnh những ngời đã nghiên cứu Tản Đà trớc đây: Trần Đình Hợu, Tầm Dơng,
Nguyễn Khắc Xơng Tất cả họ đều khẳng định vị trí của Tản Đà ở giai đoạn văn
học Việt Nam cận đại.
Qua lịch sử tìm hiểu, tiếp cận Tản Đà, chúng ta có thể kết luận rằng: với
lịch sử nghiên cứu khoảng 80 năm, Tản Đà đã đợc đánh giá khá sâu sắc từ nhiều
góc độ, bình diện khác nhau. Tuy nhiên, ông vẫn là một hiện tợng văn học phức
tạp, vẫn khiến cho nhiều nhà phê bình nghiên cứu quan tâm và ông sẽ còn tiếp

tục đợc khám phá nữa.
3.2. Vấn đề cái Tôi trong sáng tác của Tản Đà nói chung và trong thơ Tản
Đà nói riêng đang là một vấn đề đòi hỏi phải đợc tiếp tục nghiên cứu. Tìm hiểu
và nghiên cứu về hiện tợng Tản Đà, trong đó có vấn đề cái Tôi tác giả, đã có một
số tác giả với một số bài viết đã đề cập đến nh Xuân Diệu với Công của thi sĩ
Tản Đà, lời giới thiệu cho Tuyển tập Tản Đà; Nguyễn Khắc Xơng với Tản
Đà - thơ và đời; Nguyễn Huệ Chi với từ mục Tản Đà trong Từ điển văn
học Mặc dù cái Tôi trong sáng tác của Tản Đà đã đợc tìm hiểu trên một số ph-
ơng diện nhng thực ra cũng cha có một công trình nào tập trung, chuyên sâu
nghiên cứu nó.
5
MEONGOK
3.3. Luận văn của chúng tôi là công trình đầu tiên xét cái Tôi ngông trong
thơ Tản Đà nh một đối tợng chuyên biệt với một cái nhìn hệ thống, toàn diện.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
4.1. Đề tài có nhiệm vụ giới thuyết về khái niệm cái Tôi và cái Tôi ngông
trong sáng tác văn học đến Tản Đà.
4.2. Khảo sát, phân tích, xác định những biểu hiện và đặc diểm của cái Tôi
ngông trong thơ Tản Đà.
4.3. Tìm hiểu, xác định những đóng góp của Tản Đà cho lịch sử văn học
dân tộc qua hiện tợng cái Tôi ngông trong thơ tác giả.
5. Phơng pháp nghiên cứu:
Xuất phát từ nhiệm vụ của đề tài, luận văn vận dụng quan điểm của thi pháp
học, phong cách học nghệ thuật với nhiều phơng pháp nghiên cứu khác nhau nh
thống kê, khảo sát, phân tích, so sánh loại hình, hệ thống để tìm hiểu vấn đề
này.
6. Đóng góp và cấu trúc của luận văn:
6.1. Đóng góp của luận văn:
Thực hiện tốt đợc các nhiệm vụ với các phơng pháp trên đây, luận văn sẽ đa
ra một cái nhìn hệ thống về cái Tôi ngông trong thơ Tản Đà - một biểu hiện cơ

bản, độc đáo của phong cách tác giả. Cũng từ đây, luận văn hy vọng góp phần
vào việc tìm hiểu một hiện tợng lớn của lịch sử văn học dân tộc. Và chúng tôi coi
đây nh là một tài liệu hữu ích giúp cho việc giảng dạy tốt hơn thơ văn Tản Đà ở
nhà trờng phổ thông.
6.2. Cấu trúc của luận văn:
Phù hợp với lôgic của vấn đề đặt ra, luận văn ngoài phần Mở đầu và Kết
luận đợc cấu trúc thành ba chơng nh sau:
Chơng 1: Khái niệm về cái Tôi và cái Tôi ngông trong sáng tác văn học
đến Tản Đà.
Chơng 2: Đặc trng cái Tôi ngông trong thơ Tản Đà.
Chơng 3: Đóng góp cho lịch sử dân tộc qua hình tợng cái Tôi ngông và
sự thể hiện cái Tôi ngông của tác giả.
Cuối cùng là Tài liệu tham
Chơng 1 :
6
MEONGOK
Khái niệm về cái Tôi và cái Tôi ngông trong sáng tác
văn học đến Tản Đà.
1.1. Khái niệm cái Tôi trong sáng tác văn học
1.1.1. Phạm trù cái Tôi trong sáng tác văn học.
Cái Tôi - ý thức về con ngời cá nhân của từng cá nhân xuất hiện và tồn tại
đã từ rất lâu. Trong cuộc sống, cái tôi chi phối mỗi hành vi, lời nói của con ngời.
Mỗi cá nhân, hành động nói năng đều mong muốn thể hiện một cái Tôi. Triết
học Mác-Lênin khẳng định : Cái Tôi là trung tâm tinh thần của con ngời, của cá
tính con ngời, có quan hệ chặt chẽ, tích cực đối với bản thân mình. Chỉ có con
ngời độc lập kiểm soát những hành vi của mình và có khả năng thể hiện tính chủ
động toàn diện mới có cái Tôi của mình. Nh vậy, cái Tôi là một khái niệm về
cấu trúc nhân cách mang tính phổ quát. Nó vừa mang tính xã hội- lịch sử vừa
phân biệt cái độc đáo và khẳng định tính tích cực của nhân cách cá nhân.
Trong sáng tác văn học cũng vậy, phạm trù cái Tôi là phạm trù trung tâm.

Hễ nói đến sáng tác văn học viết thì không thể không nhắc tới cái Tôi, đặc biệt là
ở thể loại thơ trữ tình. Khi bàn đến phạm trù cái Tôi thì ta thấy nó đợc nhìn nhận
ở hai phơng diện: cái Tôi nhà văn và cái Tôi của nhân vật trữ tình trong thơ. Hai
khái niệm này chúng không đồng nhất với nhau. Cái Tôi của nhân vật trữ tình
thực chất là một phơng diện thể hiện cái Tôi của tác giả. Một tác phẩm văn học
bao giờ cũng là sản phẩm của một quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật và
cũng là kết quả của cái Tôi nhà văn. Do đặc thù của từng thể loại văn học mà cái
tôi có thể đợc bộc lộ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Đối với loại trữ tình, cái
Tôi tác giả có khi đợc thể hiện trực tiếp nhng cũng có khi đợc thể hiện gián tiếp.
Khái niệm cái Tôi trong sáng tác văn học chỉ con ngời cá nhân, ý thức về
con ngời cá nhân của chủ thể sáng tạo (tác giả). Vì vậy mà tác phẩm văn chơng
chính là cái nhìn chủ quan của tác giả về hiện thực cuộc sống và phản ánh nó
trong tác phẩm của mình. Tuy nhiên, cái Tôi tác giả và cái Tôi chủ quan hoàn
toàn khác nhau. Nếu cái Tôi chủ quan là đặc trng của hành động sáng tác văn
chơng thì cái tôi nhà thơ - cái Tôi của tác giả lại là đối tợng phản ánh của hành
động sáng tác đó. Cái Tôi là hình tợng tác giả trong tác phẩm, là sự diễn tả, giãi
bày thế giới t tởng, tình cảm riêng t thầm kín của tác giả. Nhìn từ góc độ phản
ánh luận thì cái Tôi là đối tợng phản ánh của bản thân nhà thơ, là kết quả của sự
tự ý thức, tự đánh giá, tự miêu tả của nhà thơ[19,109]. Nh vậy, có nghĩa là nêú
xét trong tơng quan với tác giả thì cái Tôi của anh ta cũng là một đối tợng thuộc
phạm trù thực tại khách quan, cái đợc thể hiện trong tác phẩm.
7
MEONGOK
Cũng nhìn nhận từ góc độ ấy, M.Khrapchencô trong Cá tính sáng tạo của
nhà văn và sự phát triển của văn học đã khẳng định Nhà văn có tài năng có thể
tích luỹ đợc những kiến thức lớn có liên quan đến phạm vi này, phạm vi nọ của
cuộc sống, có thể là một con ngời luôn biết lĩnh vực này hay lĩnh vực khác. Song
nếu thiếu một nhãn quan rộng rãi về cuộc sống thì anh ta sẽ đâm ra bất lực trong
việc khám phá ra cái chủ yếu nhất của hiện thực. Điều đó có nghĩa là dù có tài
năng bao nhiêu nhng thiếu một nhãn quan không có sự sáng tạo nào cả thì chẳng

có ích gì cho việc khai thác hiện thực [14,98]. Nh vậy, cái cơ sở của sự sáng tạo
bao giờ cũng bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống. Cuộc sống chính là mảnh đất phì
nhiêu cho sự sáng tạo của nhà văn. Mỗi nhà văn có một cách nhìn, cách đánh giá
riêng của mình. Có thể từ một hiện thực cuộc sống song qua lăng kính chủ quan
của mỗi ngời mà hiện thực ấy đợc thể hiện khác nhau, không ai giống ai cả. Đó
chính là cái riêng của mỗi nhà văn. Nhà văn có một cá tính sáng tạo độc lập và đi
vào quá trình văn học với những đặc tính đó của mình. Cái quan trọng trong tài
năng văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt không thể tìm thấy ở
bất kỳ ngời nào khác. Nhà văn chỉ có thể nói một lời nói mới mẻ, khi anh ta có
đợc tiếng nói riêng. Tiếng nói đó càng mạnh bao nhiêu, cá tính sáng tạo của nhà
nghệ sỹ càng rõ nét bao nhiêu thì cống hiến của anh ta vào nghệ thuật càng lớn
bấy nhiêu. Nh vậy, mỗi sáng tác văn chơng đều thể hiện một cái Tôi, một bản
ngã, sự ý thức về con ngời, cá nhân của chính chủ thể sáng tạo. Khi chủ thể sáng
tạo ý thức sâu sắc về vai trò bản ngã của con ngời cá nhân trong mình tức là con
ngời cá nhân đợc nhìn nhận trong quan hệ với chính nó. Con ngời cá nhân ấy ý
thức sâu sắc về mình phân biệt mình với ngời khác, khẳng định mình là một
thực thể duy nhất, không lặp lại : Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất! Cá nhân sẽ
hoàn toàn tan rã nếu bị tớc mất cái riêng biệt ấy, cái cá tính ấy [22,20].
Mỗi sáng tác văn học viết bao giờ cũng là sáng tạo của từng cá nhân. Một
tác phẩm văn chơng bao giờ cũng gắn liền với tên tuổi của một tác giả cụ thể.
Chính vì vậy mà nó là một dạng hoạt động mang tính chất chủ quan cao độ.
Thực tại đợc phản ánh trong tác phẩm không thể không thông qua cái nhìn chủ
quan của tác giả, trí tởng tợng, năng lực h cấu, sự lựa chọn đề tài, chủ đề, sự vận
dụng các thủ pháp nghệ thuật tất cả đều đợm màu sắc chủ quan. Cái chủ quan
ấy nó bộc lộ ở mọi nơi, mọi lúc trong tác phẩm, trên mọi cấp độ của quá trình
sáng tạo.
Đặc biệt đối với loại hình thơ ca thì vai trò của yếu tố chủ quan nhà thơ bao
giờ cũng hết sức quan trọng, nó đóng vai trò quyết định. Sự biểu hiện tính chủ
quan trong thơ chính là cái tôi trữ tình.
8

MEONGOK
Dù loại nhân vật trữ tình nào thì phẩm chất là cá tính của nhà thơ cũng để
lại dấu ấn sâu sắc trong tác phẩm. Nhà thơ là nhân vật chính, là hình bóng trung
tâm, là cái Tôi bao quát trong toàn bộ sáng tác. Yếu tố chủ quan của nhà thơ đợc
thể hiện dới nhiều hình thức khác nhau: có khi nó là sự xuất hiện trực tiếp của
cái Tôi tác giả qua đại từ nhân xng Tôi hoặc Ta (hay Ngã, Ngô, D
trong thơ chữ Hán ). Dù xuất hiện dới hình thức nào thì cái Tôi ấy cũng mang
đậm dấu ấn cá nhân, bởi vì nó là sản phẩm sáng tạo của chính cá nhân đó.
Nh đã nói ở trên, cái Tôi cá nhân xuất hiện trong lịch sử văn học ở cả hai
bình diện: thứ nhất, cái Tôi là cá tính sáng tạo của nhà văn - thuộc về chủ thể; và
thứ hai, cái Tôi cá nhân với t cách là đối tợng sáng tác. Nhng phải đến một thời
đại nào đó trong lịch sử t tởng và lịch sử văn học, ý thức về cá nhân mới có thể
trở thành một thế giới độc lập (ví nh ở phơng Tây thì đến thời kỳ Phục hng con
ngời - cá nhân mới đơc nhận thức một cách tự giác : Tồn tại hay không tồn tại
(Sêcxpia). Đềcac(1596-1650) đã kế thừa và phát huy con ngời cá nhân của thời
đại Phục hng bằng một luận điểm nổi tiếng Tôi t duy ấy là tôi tồn tại). Và nói
nh Biện Minh Điền : Vấn đề là nó đợc nhận thức tự giác hay cha tự giác, đậm
hay nhạt, có giá trị biểu hiện phong cách hay không mà thôi (Con ngời, cá
nhân, bản ngã trong sáng tác Nguyễn Khuyến). Nh vậy, dù ít hay nhiều, đợc thể
hiện trực tiếp hay gián tiếp thì sáng tác văn chơng đều thể hiện con ngời cá nhân
- bản ngã của chủ thể sáng tạo, dấu ấn mà chủ thể sáng tạo để lại trong tác phẩm
của mình có thể là cái Tôi tự biểu hiện, cũng có thể là cái một cái Tôi hiện ra nh
một đối tợng nhận thức - khách thể. Có khi tác giả biểu hiện cái Tôi của mình
bằng cách vô nhân xng nhng dấu ấn của cái Tôi ấy để lại vẫn khiến chúng ta dễ
dàng xác định đợc nó.
Tóm lại, cũng nh toàn bộ các loại hình sáng tác văn học, thơ chịu sự chi
phối thống nhất ở một điểm đó là vai trò bản ngã, con ngời, nhà thơ. Dù ở thời
đại nào thì mỗi dòng mỗi chữ đợc sáng tạo ra cũng là kết quả của sự chiêm
nghiệm và đợc lựa chọn, sàng lọc thông qua lăng kính chủ quan của nhà văn. Và
điều đó có nghĩa: dù mức độ đậm nhạt có khác nhau, tác phẩm bao giờ cũng ít

nhiều in dấu ấn cá nhân, những kỹ năng sáng tạo riêng biệt- nhất là những phong
cách lớn, những nhà văn lớn[19,24]
1.1.2. Khái niệm cái Tôi trong văn học Việt Nam
Văn học dân gian là loại hình văn học đợc tạo ra bởi tác giả tập thể. Vì vậy,
nên cái Tôi cá nhân, cá thể bị chìm đi trong cái Ta chung. Cái Tôi ấy không đợc
bộc lộ nh một cái Tôi cá nhân riêng biệt mà xuất hiện với t cách là một con ngời
xã hội, con ngời của cộng đồng.
9
MEONGOK
Khác với văn học dân gian truyền miệng, văn học viết xuất hiện không phải
là sản phẩm trực tiếp của nhân dân mà nó là kết quả của quá trình sáng tạo của
mỗi nhà văn cụ thể. Bởi thế nên dù ở thời đại nào thì cái Tôi mỗi thời mỗi khác
và có qúa trình lịch sử của nó.
Văn học trung đại, do ảnh hởng của lịch sử, vấn đề cái Tôi (ngã) về cơ bản
cha đợc phát hiện, nghiên cứu một cách đầy đủ, thấu đáo, có nhiều ý kiến thiên
lệch. Có những ngời cho rằng : văn học trung đại là văn học phi ngã. Nh vậy là
ngời ta đã phủ nhận sự tồn tại của cái Tôi trong văn học. Điều này dờng nh cũng
có lý do của nó. Tác giả cuả nền văn học trung đại là tăng lữ, quan liêu, quý tộc,
vua chúa. Họ chịu ảnh hởng nhiều của t tởng Nho giáo và Phật giáo. ý thức hệ
phong kiến cũng không khuyến khích sự phát triển của con ngời cá nhân. Nếu họ
thừa nhận, khẳng định sự tồn tại của cái Tôi cá nhân, cá thể thì đơng nhiên họ đã
phủ nhận sự tồn tại và quyền lực của vua chúa (mà điều này lại không thể có). Vì
vậy, để phát triển cái Tôi trong xã hội phong kiến không dễ gì thực hiện đợc.
Nhng một khi đã nghiên cứu về vấn đề này thì vấn đề đặt ra đối với giới phê
bình nghiên cứu là liệu đã có sự xuất hiện cuả con ngời cá nhân trong văn học
trung đại hay cha? Ranh giới và vai trò chủ thể sáng tạo đợc xác định đến đâu?
Mức độ đậm nhạt của sự thể hiện đó ra sao? Và chúng tuân theo những nguyên
tắc, cách thức phản ánh nào? Do chịu ảnh hởng mạnh mẽ của t tởng phi ngã,
vô ngã trong các học thuyết Nho giáo và Phật giáo, cái Tôi cá nhân trong việc
tự bộc lộ đã bị hạn chế rất nhiều, dờng nh nó đã bị phủ nhận. Nho giáo không

thừa nhận cái Tôi cá thể, chủ trơng hi sinh cái Tôi cho chữ Lễ. Cái Tôi cá
nhân phải gắn liền mình với quyền lợi của vua chúa, của giai cấp.
Phật giáo cũng vậy. Nó phủ nhận cái Tôi bản ngã và khẳng định con ngời
vô ngã. Điều này đã chi phối, cản trở văn học trong việc phát hiện, khám phá
cái Tôi cá thể theo ý nghĩa chính đáng, cần thiết của nó.
Song một điều chúng ta cần thấy ở văn học trung đại là dù có chịu ảnh hởng
của t tởng Nho giáo, Phật giáo thì vẫn cha quyết định toàn bộ số phận và thực
trạng của nó. Nguyễn Đình Chú đã một tác phẩm văn học, dù ở thời đại nào, dù
đã tự giác hay cha tự giác, nhận thức cái Tôi thì trớc hết vẫn là sản phẩm, là con
đẻ của một cá thể, một thằng Tôi, không ai giống ai ngoài những điều họ đã
chung nhau - một thằng Tôi trớc khi trở thành thằng Tôi nghệ sỹ đã là thằng
tôi cá nhân, cá thể nh bất cứ ai giữa cuộc đời (Vấn đề ngã và phi ngã trong
Văn học Việt Nam trung - cận đại) [3]. Chính thực tế văn học đã chứng minh đ-
ợc điều này. Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hơng, Cao Bá Quát mỗi ngời
mỗi vẻ, không ai giống ai cả. ở họ, mỗi ngời một cá tính nghệ thuật, không thể
10
MEONGOK
lẫn vào nhau đợc. Cá tính sáng tạo là chuyện mà thời nào cũng có. Nó chính là
biểu hiện cao nhất của cái Tôi tác giả. Đó chính là yếu tố hạt nhân tạo nên phong
cách của một nhà văn.
Từ đó, ta có thể thấy đợc là trong văn học trung đại đã xuất hiện vai trò của
chủ thể sáng tạo, mặc dù nó cha đợc phát hiện, khám phá một cách đầy đủ bởi sự
chi phối của t tởng phi ngã, vô ngã. Cái Tôi cá nhân đã có mặt dù chậm nh-
ng khá xinh xắn và kháu khỉnh rồi ngay sau đó nó lại biến mất đi vì thời đại
không khuyến khích, vì trớc sự xâm lợc của thực dân Pháp, số phận cái Tôi phải
nhờng chỗ cho số phận cái Ta, số phận dân tộc.
Đến nửa đầu thế kỷ XX, ảnh hởng t tởng và nền kinh tế chủ nghĩa t bản,
cái Tôi cá nhân lại tiếp tục hiện diện và có phần tự do hơn. Cái Tôi cá nhân
chớm lên ở thơ văn Tản Đà, ở tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách Đặc
biệt hơn với sự xuất hiện của Tự lực văn đoàn và phong trào thơ Mới thì cái Tôi

cá nhân đợc khẳng định một cách mạnh mẽ. Sự bùng nổ của thơ Mới và văn xuôi
Tự lực văn đoàn đã đánh dấu sự hình thành đến độ chín của quan niệm về con
ngời cá nhân trong văn học. Hoài Thanh đã nhận định : lần đầu tiên chữ Tôi đã
xuất hiện trên thi đàn Việt Nam. Nó bỡ ngỡ, nh lạc loài nơi đất khách, bởi nó
mang theo một quan niệm cha từng thấy ở xứ này: quan niệm cá nhân [24.45].
Tuy nhiên, một điều dễ thấy là không phải chỉ đến thơ Mới và văn xuôi Tự lực
Văn đoàn, con ngời cá nhân trong văn học Việt Nam mới xuất hiện. Chúng ta
cũng biết rằng, từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX, con ngời cá nhân đã xuất hiện
với nhu cầu hởng hạnh phúc lứa đôi, nhng đó cũng chỉ là những biểu hiện ớc ao
trong khuôn khổ xã hội phong kiến. Đến lúc này đây, cái Tôi mới hiện diện một
cách tự giác, có ý thức. Đúng nh Phan C Đệ đã từng khẳng định: thơ Mới đã góp
phần giải phóng bản ngã, mở rộng thế giới tâm hồn bên trong của con ngời. Nó
đã khẳng định cái Tôi nh bản lĩnh tích cực trong cuộc sống, nh một chủ thể sáng
tạo độc đáo trong nghệ thuật [6]. Kiểu thi nhân của thơ Mới đã đem đến một cái
Tôi tự biểu hiện, cái Tôi đó khác với cái Tôi truyền thống ở chỗ dám coi cái tôi
nh một quan điểm, một t cách nhìn đời và nói với ngời khác. Cái Tôi trong giai
đoạn văn học này đã thức tỉnh, làm trỗi dậy ý thức trong con ngời về quyền lợi
sống. Văn học cận- hiện đại đã không chỉ đòi hỏi tình yêu tự do cho con ngời mà
quan trọng hơn là nó đã đi sâu khám phá thể hiện đời sống riêng t, đời sống tâm
linh phong phú của con ngời cá nhân, cá thể. Tuy vậy, cái Tôi cá nhân trong giai
đoạn này cũng có những hạn chế nhất định là cha tạo ra đợc một sự kết hợp thích
đáng với cái Ta chung của dân tộc, của nhân dân. Nó phát huy, tách rời đời sống
cộng đồng, tập thể.
11
MEONGOK
Những năm sau này, cái Tôi của các văn nghệ sỹ đợc thể hiện một cách khá
đậm nét và hết sức độc đáo. Trong văn học cách mạng, cái Tôi cá nhân đợc kết
hợp hài hoà với cái Ta chung của cộng đồng. Tác phẩm của họ gắn liền với vận
mệnh của nớc nhà, hớng tới đông đảo quần chúng nhân dân. Tình cảm riêng t
bao giờ cũng gắn liền với tình cảm chung của cả dân tộc, của cả thế hệ. Tuy vậy,

vai trò của cá tính sáng tạo vẫn hết sức căn bản. Trớc nhiệm vụ chung của đất n-
ớc, các văn nghệ sỹ vẫn ý thức rất rõ về cái phần riêng t của mình. Cái Tôi của
các nhà thơ đợc bộc lộ hết sức tự do, không hề bị trói buộc bởi bất cứ một công
thức, chuẩn mực nào, họ thể hiện một cái Tôi đầy nhiệt huyết, thanh cao. Đến
ngày nay, cái Tôi của chủ thể sáng tạo đã hoàn toàn đợc giải phóng, nhà văn có
thể bộc lộ cái Tôi cá nhân của mình một cách thoải mái, không ngần ngại, dè dặt
khi nói lên những ớc mơ, khát vọng của mình.
Nh vậy, cái Tôi không phải là sản phẩm hiện đại, nó là biểu hiện của ý thức
về con ngời cá nhân và với t cách đó, nó đã xuất hiện từ trong văn học cổ- trung
đại và có sự tiếp nối trong loại hình văn học viết nói chung ở những mức độ đậm
nhạt khác nhau.
1.2. Khái niệm cái Tôi ngông trong sáng tác đến Tản Đà.
1.2.1. Ngông và cái Tôi ngông
Ngông là một thuộc tính độc đáo, phong phú của nhân cách con ngời.
Ngông đợc biểu hiện bằng những hành động khác đời, gây đợc sự chú ý của số
đông ngời, nó vợt ra ngoài cái khuôn khổ bình thờng của xã hội. Ngời ngông
thờng chạy theo cá tính tự do, thích cực đoan. Ngời ngông coi khinh lễ, phép,
ghét tục, ngạo đời, nói năng ngang tàng. Trong thực tế, ngời ngông là kẻ đã làm
tan rã các phép tắc giả tạo, trói buộc con ngời, mở ra một luồng gió mát giàu
sinh khí [21,200]. Ngông là trạng thái mà con ngời đặt mình ra ngoài lẽ phải
thông thờng đựơc mọi ngời thừa nhận, dám làm cái đời không ai dám làm, dám
nói điều mà đời không ai dám nói. Ta thấy rằng, ngông không chỉ là biểu hiện
của một tính cách mà nó còn là cách sống của một số ngời mang t tởng bất mãn,
bất cần đời với mọi ngời và đối với thực trạng quanh mình. Thờng thì những ngời
có tài, có bản lĩnh, bất mãn, đối kháng với cuộc đời, với xã hội thì mới ngông.
Nhng cũng có những ngời muốn đợc nổi trội, muốn đợc hơn ngời, hơn đời mới
có những hành động ngông cuồng. Chính vì thế mà có nhiều loại ngông: có
những loại ngông thì làm cho ngời ta khó chịu, chớng tai gai mắt, nhng cũng
có những loại ngông thì lại chứng tỏ đợc bản lĩnh, cá tính sắc sảo, tài năng nổi
bật, phẩm chất thanh cao của mình.

12
MEONGOK
Vậy ngông là gì? Ngông là đi ngợc lại những quy luật thông thờng dựa
trên tài đức, trí tuệ, thiên lơng hơn đời, hơn ngời của chủ thể sáng tạo. Đúng nh
Nguyễn Khắc Xơng đã khẳng định: Ngông trớc hết là một tính cách [28,100].
Ngông là một tính cách mà tính cách này thì không phải ở ngời nào cũng có. Chỉ
có những con ngời có tài, có bản lĩnh, có cá tính mạnh mẽ thì mới có thể
ngông đợc.
Đi vào lịch sử văn học, đời sống văn học, nhiều nhà văn, nhà thơ tạo cho
mình, cho văn chơng một t thế ngông, một phong cách ngông độc đáo. Các nhà
văn, nhà thơ nh Hồ Xuân Hơng, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Trần Tế Xơng,
Nguyễn Tuân, đã khẳng định đợc vị trí của mình trên văn đàn, trong lòng ngời
đọc bởi chính giá trị con ngời cũng nh văn chơng. Họ đã đa đến cho văn học
những cái Tôi độc đáo, khác ngời, ta có thể gọi đó là cái Tôi ngông. Vậy cái
Tôi ngông là gì?
Đó là cái Tôi xuất hiện trong văn học với những đặc điểm khác lạ nhng có ý
nghĩa xã hội, thẩm mỹ sâu sắc. Cái Tôi ngông này làm nổi rõ cá tính, bản ngã
của chủ thể sáng tác. Họ ý thức đợc cái Tôi của mình và luôn luôn muốn khẳng
định nó trớc cuộc đời. Họ bất mãn với thời cuộc bởi thời đại không đề cao vị trí
của cá nhân con ngời, cái Tôi mà họ muốn khẳng định. Họ chỉ còn một cách đó
là tự khẳng định mình bằng những biểu hiện phi chuẩn, ngoài chuẩn. Họ không
tuân theo những chuẩn mực, những luân lý đạo đức của xã hội. Cái Tôi của
những con ngời ấy, chính vì vậy mà đợc gọi là những cái Tôi ngông.
1.2.2. Những biểu hiện cái Tôi ngông độc đáo trong văn học Việt Nam tr-
ớc Tản Đà.
Trong văn học, không phải đến thời hiện đại thì mới xuất hiện cái tôi cá
nhân. Cái Tôi cá nhân, cá tính thì thời đại nào cũng có. Nhng cái Tôi trong thời
trung đại lại tự ý thức và khẳng định mình trong cái chuẩn mực vô ngã. Bởi
vậy nên cái Tôi cá nhân trong thời kỳ này bị gò bó, chèn ép. Các văn nghệ sĩ thu
mình bởi lễ giáo phong kiến. Nhng trong số đó đã có một số ngời không chấp

nhận nh vậy. Họ tách mình ra khỏi số đông, xuất hiện và nổi lên gọi là những
ngời ngông. Lễ giáo phong kiến dạy ngời ta trung dung, an phận nhng những
ngời ngông thì đi theo lối cực đoan, đòi hỏi tự do cá tính, tự do t tởng, khinh th-
ờng lễ giáo [21, 219]. Ngông là một biểu hiện cá tính độc đáo của thời trung
đại. ở Việt Nam, các nhà văn, nhà thơ từ Nguyễn Trãi đã có yếu tố ngông. Nhng
phải bớc sang giai đoạn phong kiến suy tàn thì nhân cách ngông mới thật sự biểu
hiện nhiêù mặt ở nhiều tác giả. Giai đoạn trớc Tản Đà có rất nhiều ngời đợc
mệnh danh là ngông, trong đó nổi lên một số hiện tợng tiêu biểu: Hồ Xuân H-
13
MEONGOK
ơng, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xơng ở họ, không ai là không
ngông, mỗi ngời ngông một vẻ.
Hồ Xuân Hơng là một trong những nhà thơ Nôm xuất sắc và có cá tính độc
đáo nhất trong lịch sử văn học dân tộc. Khi đọc thơ bà, có một điều không ai có
thể chối cãi đợc đó là thơ Hồ Xuân Hơng có một cái gì đó rất khác thờng. Một
con ngời yêu đời, tài hoa và giàu sức sống nhng lại bị câu thúc, chèn ép không
chỉ về mặt tinh thần, tình cảm mà cả về đời sống bản năng, hạnh phúc lứa đôi.
Điều đó làm cho khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc lứa đôi trong bà luôn trỗi
dậy. Một điều đặc biệt ở Hồ Xuân Hơng là bà không chỉ biết ớc mơ nh một số
nhà thơ khác mà với một cá tính mạnh mẽ, ngang tàng, bà đã dám nói lên cái mà
đời ít ngời dám nói trong thơ. Hồ Xuân Hơng đã thể hiện những tình cảm, những
khát vọng ái ân của mình hết sức chân thực, không dấu diếm. Hơn thế nữa, bà
còn thẳng tay tát vào mặt của bè lũ phong kiến một cách thẳng thừng, không nể
nang. Nhà thơ đã xé toạc hết các mặt nạ giả dối, lột trần hết những tấm áo đạo
đức cũn cỡn để chúng lộ nguyên hình là một lũ bịp bợm, dối đời và dốt nát. Với
xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ lúc bấy giờ, Hồ Xuân Hơng là phận nữ
nhi nhng đã luôn tìm cách khẳng định vị trí của mình một cách ngang tàng,
thách thức. Bà lên án, chế giễu những cái mà xã hội lúc ấy trọng dụng: bậc hiền
nhân quân tử, những công tử th sinh Bà đã không ngần ngại khi thốt lên:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ

Lại đây cho chị dạy làm thơ,
rồi lại:
Ai về nhắn bảo phờng lòi tói
Muốn sống đem vôi quét trả đền.
Nữ sĩ vẫn cha buông tha:
Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông,
Chúng bảo nhau rằng: ấy ái uông
Đối với Hồ Xuân Hơng, chúng chỉ là những kẻ phàm tục dốt nát. Bà chế
giễu, khinh bỉ chúng. Hồ Xuân Hơng đã nói những điều cấm kỵ một cách thẳng
thắn, dứt khoát và rất quyết liệt. Bà xứng đáng đợc xếp vào hàng ngũ của những
nhà thơ ngông.
Cũng giống nh Hồ Xuân Hơng, Nguyễn Công Trứ ý thức đợc tài năng và
muốn khẳng định đợc vị trí của bản thân mình trong xã hội. Nguyễn Công Trứ
xem xã hội nh một môi trờng để ông thi thố tài năng và tự khẳng định bản thân
14
MEONGOK
chứ không tuân theo những quy tắc, trật tự của xã hội. Theo ông, đời ngời quý ở
chỗ là sống phù hợp với ý muốn của mình và ông cho rằng: con ngời sống ở đời
nhất thiết phải có ích cho đời:
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
Nguyễn Công Trứ đã không phủ nhận vai trò của con ngời mà khẳng định
nó, khẳng định một cách dứt khoát. Trong thơ ông, ngoài ý thức về bổn phận thì
vai trò cá nhân rất đợc coi trọng, đề cao. Ông đã từng tuyên bố:
Có những lúc ma tuôn sóng vỗ
Chỉ những toan xẻ núi lấp sông
Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ.
hay:
Giang sơn đành có cậy trông mình
Mà vội nửa anh hùng chi bấy nhẽ.

Đọc những câu thơ nh thế, ta thấy nhà thơ đặc biệt tin tởng vào năng lực và
ý chí của mình. Ông hết sức đề cao vai trò của cá nhân, rất mực tin ở bản thân.
Đây cũng chính là điểm mâu thuẫn gay gắt với quan điểm của xã hội đơng thời.
Là một ngời tài hoa, khí phách nhng Nguyễn Công Trứ lại bị cuộc đời đối xử
một cách phũ phàng. Và ông đã phải quên cái bất công của xã hội bằng cách say,
bằng rợu, bằng thơ, bằng sự hởng lạc.Với Nguyễn Công Trứ thì sự hởng lạc
chính là sự khẳng định bản thể của cá nhân - sự tự khẳng định mình trong một
thời gian hữu hạn của đời ngời. Ông đã từng về làng cỡi trên lng con bò vàng cổ
đeo lục lạc, sau lng theo một cô gái trẻ - đây là một sự thách thức, buộc ngời đời
phải thừa nhận cái ngất ngởng của cá nhân mình. Cái ý nghĩa đời ngời của cá
nhân chỉ mình mình biết:
Thú yên hà trời đất có riêng ta
Nào ai, ai biết chăng là
ở đây có một sự khẳng định cá nhân hơn ngời, hết sức riêng t, không đợc
và không cần ngời đời biết, không khớp với khuôn thớc có sẵn. ở Nguyễn Công
Trứ, cái riêng t, tự cho mình là đủ, là hơn ngời đợc khẳng định một cách rõ nét
và đó chính là bản chất phát triển của ý thức cá nhân mà không phải ở thời đại
của ông ai cũng có.
Khi nhắc đến hiện tợng ngông trong làng văn thì chúng ta không thể không
nhớ tới Cao Bá Quát. ở Cao Bá Quát, ta bắt gặp một con ngời, một cá tính mạnh
mẽ, ngang tàng, sống ngoài thói tục. Ông tài cao nhng chí không ở công danh,
15
MEONGOK
dám làm điều cấm kỵ. Trong thơ văn Cao Bá Quát, ta luôn bắt gặp một con ngời
có bản lĩnh, tin vào chính mình, chính mình phải hành động để thay đổi cuộc đời
mình. Ông xuất hiện là một con ngời không chịu vào khuôn phép:
Bớc tới trờng danh chẳng cúi đầu.
Cao Bá Quát tự so sánh mình với những ngời sống tự do nh Trang Tử, Tôn
Tử, Khuất Nguyên Ông luôn khao khát đợc chắp thêm đôi cánh để bay lên tận
tầng mây tía để thoát khỏi lới trần. Ông cũng không ngần ngại khi chửi thẳng

vào mặt Tự Đức - ông vua nổi tiếng là hay chữ nhng nhu nhợc, bán nớc. Cuộc
đời và thơ văn Cao Bá Quát làm hiện lên con ngời bất khuất, không chịu luồn cúi
khuất phục, luôn ngang tàng, đầy thách thức:
Một chiếc cùm lim chân có đế
Ba còng xích sắt bớc thi vơng.
Thật thiếu sót vô cùng nếu nh chúng ta điểm mặt các nhân vật trong làng
ngông mà bỏ quên Tú Xơng. Ông đã từng nổi tiếng là một tay chơi ngông:
Khi hứng toan lên bán cả trời
Trời cời thằng bé nó hay chơi
Cho hay công nợ âu là thế
Mà vẫn phong lu suốt cả đời.
Hay có lúc ông đã tự nhận mình với dáng bộ ngang tàng, ngông nghênh:
Đất biết bao giờ sang vận đỏ
Trời làm cho bõ lúc chơi ngông.
Tú Xơng luôn tự khẳng định mình, khẳng định cái Tôi của mình. Ngay cả
trong bài Tự trào, cời về cái thói ăn chơi của mình, nhà thơ cũng đã khoe
khoang, kiêu hãnh về cái thói ăn chơi, về con ngời ăn chơi ấy:
Vị Xuyên có Tú Xơng
Dở dở lại ơng ơng
Cao lâu thờng ăn quỵt
Thổ đĩ lại chơi lờng.
Giọng văn ở đây không chỉ là sự chế giễu mà còn khoe khoang. Đó vừa là
một sự phủ định nhng đồng thời lại có cả sự khẳng định. Trong thơ Tú Xơng, ta
thấy con ngời nhà thơ nh sống giữa đờng biên của cái khuôn phép và phi khuôn
phép. Ông dùng tiếng cời để níu cái ngời khuôn phép, để nó không đi quá xa,
16
MEONGOK
không vợt quá giới hạn. Cái xã hội mà Tú Xơng sống là một xã hội nhố nhăng,
mọi giá trị đều bị đảo ngợc. Ông nhìn thấy điều đó và chế nhạo, lên án nó. Ông
dám nói toạc ra những điều mà mọi ngời dè dặt. Chính vì thế mà thơ ông có một

giọng ngông, một phong cách ngông.
Trở lên, chúng ta mới chỉ điểm qua một vài phong cách độc đáo. Họ đều là
những nhà thơ đợc liệt vào làng ngông, đều là những tâm hồn nổi loạn, những
con ngời có điều bất hoà với hiện thực xã hội. Cái ngông của những ngời ấy là
cái ngông có chiều sâu t tởng, có sóng triều vật vã của những tâm hồn cao thợng
khí khái bị đày ải vào một thực tại rất khác vơí t tởng, với quan niệm của mình.
Cái thực tại ấy đã chà đạp lên tài và tình, đã quá nhố nhăng, tạp loạn nên họ
ngông [19,101-102]. Ngông ở đây chính là thái độ bất mãn với thực tại cuộc
sống, bất cần nó và bất đắc chí cho số phận của bản thân mình. Họ ngông để
chửi đời, để thách đời và để chua chát với đời. Đó cũng chính là sự phản ứng
tiêu cực, là sự bất lực trớc thời và thế.
Từ đó, ta có thể thấy rằng những cái Tôi ngông ấy chính là cái Tôi ngông
của lọai hình nhà nho tài tử, là cái ngông của tầng lớp Nho học trong hội tài
tình. Đó là cái ngông của những con ngời thị tài (coi trọng cái tài), đa tình. Họ
coi giá trị cuộc đời là ở tài và tình. Tâm hồn của họ phóng khoáng, tự do và lãng
mạn. Họ là những kẻ lấy ngông làm tài, tài thoát ra thói tục, vì vậy mà nó gắn
chặt với tài tình [21,198].
Và Tản Đà cũng là một hiện tợng thuộc dòng mạch nhà nho tài tử, cũng là
một nhà thơ ngông.
1.2.3. Cái Tôi ngông trong sáng tác của Tản Đà.
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình thuộc dòng dõi quý tộc nhà Lê, cha là
Nguyễn Danh Kế - một nhà nho tài tử, mẹ là cô đào hát có tiếng thời bấy giờ -
một bậc nữ tài học thức , hát hay, ngời đẹp, có lẽ chính vì vậy mà ngay từ khi
còn nhỏ, Nguyễn Khắc Hiếu đã có những biểu hiện của một nghệ sĩ tài hoa,
phong nhã. Năm Tản Đà lên bốn tuổi, cha mất, mẹ bỏ nhà trở lại chốn Bình
Khang, kể từ đó cuộc đời ấm Hiếu là một cuộc đời bơ vơ, phiêu bạt. Tản Đà tự
giới thiệu về mình:
Trời sinh ra bác Tản Đà
Quê hơng thời có, cửa nhà thời không
Nửa đời Nam - Bắc, Tây - Đông

Bạn bè sum họp, vợ chồng biệt ly.
17
MEONGOK
(Thú ăn chơi).
Tản Đà sống thời tuổi trẻ với ngời anh trai cùng cha khác mẹ là Nguyễn Tái
Tích - ngời có ảnh hởng sâu sắc về nhân sinh quan và đạo đức Nho giáo đối với
Tản Đà.
Sau lần đi thi thất bại và tình duyên trắc trở, Tản Đà không theo nghiệp
khoa cử nữa. Ông không đi theo con đờng của cha anh - làm quan mà lại quyết
tâm lao vào một nghề hoàn toàn mơí mẻ, đó là viết văn để kiếm sống. Vợ dại,
con thơ, sự sinh hoạt của gia đình, tất cả trông nhờ vào ngòi bút của Tản Đà:
Bán văn, buôn chữ kiếm tiền tiêu.
Tản Đà là nhà văn chuyên nghiệp đầu tiên của nớc ta nhng nghề viết văn đã
không mang lại cho ông một cuộc sống bình thờng nh bao ngời khác. Gia đình
ông lúc nào cũng nghèo đói, rách nát. Viết văn, làm báo, xuất bản sách tất cả
những nghề đó đã không đem lại cho ông và gia đình một cuộc sống khá hơn mà
nghèo vẫn hoàn nghèo.
Tản Đà bớc vào cuộc đời với một chuỗi bi kịch lớn. Cả cuộc đời Tản Đà là
thất bại, là long đong, nghèo túng. Nhng nhìn vào con ngời Tản Đà và nếu
không hiểu thì ngời ta lại không nghĩ nh vậy. Bởi ông luôn là một con ngời lạc
quan, ham sống, ham vui thú. Cũng có lúc Tản Đà đã kêu lên: đời đang chán nh-
ng đó lại chính là lúc ông cảm thấy yêu đời nhất. Tản Đà còn là một kẻ đa tình,
thích giang hồ, xê dịch, thích nay đây mai đó. Ông còn là ngời thích rợu, thích
ăn ngon. Đối với nhà thơ, rợu không chỉ để quên mà còn để gợi hứng, để tìm
cảm xúc.
Một con ngời tràn đầy nhiệt tình, yêu cuộc sống, yêu con ngời, ôm ấp nhiều
hoài bão lớn nhng dờng nh cuộc đời lại không trọng dụng ông. Tản Đà đem cái
tài và tình của mình muốn góp mặt với đời nhng cuộc đời lại không dung đợc cái
tài và tình ấy. Vốn là con ngời sống phóng khoáng, ngang tàng, không bao giờ
chịu luồn cúi, uốn mình theo thói tục, Tản Đà giữ cho mình một bản ngã, một

cái Tôi, một nhân cách cao đẹp: đời đục tiên sinh sáng, đời quay cuồng trong
nhân dục t lợi, tiên sinh sống ở thế giới tinh thần Những nỗi vật chất của cuộc
sống tầm thờng không hề làm bợn đợc linh hồn cao khiết của tiên sinh [29].
Sống nh thế, luôn là mình, sống hết bản ngã của mình nhng cuộc đời lại luôn bạc
bẽo đối với ông. Tản Đà luôn đóng vai của một kẻ bất đắc chí, bất cần đời, khinh
thế ngạo vật Nói đến cái Tôi, cái bản ngã của Tản Đà thì ngời ta không thể
không nói tới cái ngông của ông.
Nguyễn Khắc Xơng khẳng định rằng: cả cuộc sống của Tản Đà là một
cuộc ngông [28,105]. Cái ngông của Tản Đà có rất nhiều sắc thái biểu hiện, nó
18
MEONGOK
phản ánh đợc một tính cách đa dạng một tâm hồn phong phú. Rợu và say là biểu
hiện nổi bật của cái ngôngTản Đà. Nói đến Tản Đà là nói đến rợu, nếu không có
rợu thì Tản Đà không còn là Tản Đà nữa. Cả cuộc đời của Tản Đà là một cuộc
say. Tản Đà sống đã mang tiếng là một kẻ say. Nhng cái say của Tản Đà với
những nguyên nhân xã hội của nó chỉ có thể lý giải và phân biệt đợc với cái say
của những ngời bình thờng bằng sự nghiệp sáng tác của Tản Đà mà ở phần sau
chúng ta sẽ đề cập đến.
Đức tiêu tiền nh Nguyễn Khắc Xơng nhận xét, cũng là một biểu hiện của
cái ngông Tản Đà. Nó có thể đặt ngang với tài thơ - rợu của thi sĩ. Là ngời dờng
nh lúc nào cũng thiếu tiền trong tay lại tiêu nh những kẻ phong lu , có tiền
nghìn bạc vạn mới đủ [28,105].
Thi sĩ ngông của chúng ta không dừng lại ở đó - ở cái tài thơ rợu, ở cái đức
tiêu tiền hơn ngời mà trong cuộc sống xử thế, thi sĩ cũng ngông vô cùng. Việc
đến thăm mộ vua Tây Sơn phải rời Bình Định, rồi phải bỏ cái cơ nghiệp đồ sộ ở
Dốc Láp - Vĩnh Yên, tất cả đều từ cái ngông mà ra.
Ghét sự cầu cạnh luồn cúi, bon chen, Tản Đà sống phóng túng, khoáng đạt.
Ông tự nhận mình là ngời trong màn ảnh đem bản ngã đùa cợt với đời[28,52]
Thi sĩ cuả núi Tản sông Đà đã xem mình là ngời đóng phim , còn thiên hạ là
những ngời xem phim. Ngời xem phim thì biết ngời trên màn ảnh còn ngời trên

màn ảnh thì làm sao biết đợc ai là ngơì xem mình. Chính vì vậy, sự yêu -ghét,
khen - chê đối với Tản Đà chỉ là sự thừa. Ông đã bất cần tất cả và đã sống theo
cách riêng của mình với một bản ngã sắc cạnh. Đã có lần ông nói với Nguyễn
Tuân: ở đời có hai thái độ sống, thánh hiền và hào kiệt, nhng sống theo hào kiệt
vẫn thích hơn,cuộc sống ấy mới thật là ồ ạt [29,31]. Đó cũng chính là quan
niệm sống của tác giả.
Tản Đà không chỉ ngông với đời, trong đời mà ông còn ngông với tác phẩm.
Với Tản Đà, văn chơng là nơi để ông bộc lộ hết cái Tôi cá nhân - bản ngã, cái
ngông của mình. Trong tác phẩm, Tản Đà hiện lên là một bản ngã hiện
diện,phô bày, xuyên suốt mọi tác phẩm, một bản ngã lần đầu tiên tự xng danh,
nói về mình, đặt mình là nhân vật trung tâm của tác phẩm, lấy mình mà đối thoại
với ngời đọc mình [30,437]. Thơ văn Tản Đà là sự phát hiện ra con ngời cá
nhân của mình. Ông là nhà văn đầu tiên dám đa thân thế của mình làm đối tợng
sáng tạo một cách công khai và ngạo nghễ. Không chỉ trong thơ, cái ngông của
Tản Đà mới đợc bộc lộ và bộc lộ một cách rõ nét mà cả trong văn xuôi cũng thế.
Tản Đà xem đời mình là một Giấc mộng lớn. Trong Giấc mộng lớn có những
Giấc mộng con. Trong mộng, Tản Đà có thể sống hết mình. Ông đã đa ngời đọc
đến một thế giới mới, một xã hội mới mà ở đó con ngời có một cuộc sống thoải
mái. Cũng chỉ đến Tản Đà, ngời đọc mới đợc chứng kiến cuộc sống thiên đình
19
MEONGOK
lãng mạn, hạnh phúc. Tản Đà đa cái ngông của mình nhảy lên trời, ngang dọc
trên thợng giới, đi chơi chợ trời, gặp Đông Phơng Sóc, đùa với Cuội , chơi thuyền
với ngời đẹp Chu Kiều Oanh trên dòng Ngân Hà, hầu chuyện Khổng Tử và
Nguyễn Trãi, làm báo trên trời với cụ Hàn Thuyên và nghiêng ngả trong một tiệc
rợu thần tiên có Chiêu Quân đánh đàn tì bà, Dơng Quý Phi say rợu múa và Tây
Thi hát Mộng chính là cách biểu hiện ngông của Tản Đà. Tản Đà sống với
mộng, bằng mộng để mà ngông. Cái ngông của Tản Đà chính là ở chỗ đó. Đó
chính là cái riêng, cái độc đáo chỉ có ở Tản Đà mà thôi.
Nh vậy, do ảnh hởng của thời đại, đến Tản Đà thì cái ngông đã khác hơn

nhiều so với các nhà thơ lớp trớc. Trong cái ngông ấy có cả sự chống đối, phá
phách, sự khinh mạn, nó đợc bộc lộ một cách tự do, ngạo nghễ hơn.
Chơng 2:
đặc trng cái tôi ngông trong thơ tản đà.
Về cái Tôi trong thơ Tản Đà, Phong Lê nhận xét: Điều đặc sắc trong nội
dung thơ Tản Đà là sự đi sâu vào cái Tôi, là việc mạnh dạn, dũng cảm đa cái Tôi
vào thơ văn trong rợu và say, trong những cơn sầu dài, trong câu chuyện lên tiên
và hầu trời, trong các cuộc chu du vào quá khứ hoặc đến các xứ sở xa lạ, trong cả
20
MEONGOK
những lo toan về cuộc mu sinh không lúc nào không chật vật, trong những tự
thuật, tự trào và tự thú về mình, Tản Đà đã đa ra một cái Tôi - chân dung cực kỳ
thành thật, không xấu hổ, không che đậy [29,393]. Quả đúng nh vậy, trong quá
khứ thì cha có một cái Tôi nào đợc đa lên vị trí cao, đợc phô ra nhiều góc cạnh
và đợc đào sâu vào nhiều tầng bậc nh Tản Đà. Cái Tôi Tản Đà - đó là sự hiện
diện và khẳng định của cá nhân - những nhu cầu tinh thần của con ngời hiện đại
[29,393]. Với ông, cái Tôi không còn rụt rè, e thẹn nữa mà đã dám tự khẳng
định, thậm chí có lúc nó dám hiên ngang thách thức với hoàn cảnh trong cái
ngông của mình. Nh một đòi hỏi giải phóng và nh một nhu cầu phát triển, cái
Tôi ấy ở Tản Đà đã phản ứng lại mọi câu thúc, kiềm toả, bóp nghẹt của hoàn
cảnh bằng sự tung hoành trên những giới hạn thật phóng khoáng của không ít
đam mê, khát vọng [29,394]. Đó là một cái Tôi ngông hết sức độc đáo, nó đ-
ợc biểu hiện ở nhiều phơng diện khác nhau nhng chủ yếu ở các mặt sau đây:
2.1. Cái Tôi ngông - trích tiên.
2.1.1. Khái niệm trích tiên của Tản Đà:
Tản Đà bớc chân vào cuộc sống giao thời đầu thế kỷ XX một cách vừa tự
nhiên vừa nh một ngời quá chân lạc bớc, bị lôi cuốn, bị xô đẩy. Trong cuộc sống
ấy, Tản Đà luôn phải trải qua những thất vọng và thất bại. Ông chỉ là một con
ngời cô đơn, một tâm hồn ngây thơ lạc loài trong xã hội ngời lớn một xã hội
ngời lớn tinh khôn. Ông bất mãn và bất bình với xã hội ấy. Ông chán ghét nó và

ớc ao một cuộc sống khác tốt đẹp hơn. Không giống nh những ngời tài tử khi gặp
cảnh ngộ cùng quẫn, bất hạnh và bất mãn với cuộc đời thì họ thờng hớng đến
triết học Trang Chu: coi cuộc đời là mộng ảo, là bụi bặm, thây kệ nó, sống một
cách cuồng phóng, cô độc, thoát ly cuộc sống trần thế. ởTản Đà lại khác, ông
cũng thoát ly cuộc đời, xem nó là cõi trần, là cõi tục nhng lại không thoát tục.
Tản Đà bất mãn, bất đắc chí và ông tìm đến với mộng, với rợu và thơ để lãng
quên thói tục. Ông bất bình, phản ứng lại cuộc đời theo cách riêng của mình. Tản
Đà luôn ý thức để khẳng định cái Tôi, cái bản ngã của cá nhân mình bằng lối
sống ngông nghênh, thách thức với cuộc đời. Nhng cái ngông của Tản Đà không
giống với cái ngông của Cao Bá Quát, của Nguyễn Công Trứ hay Trần Tế Xơng.
Mà nó, cái ngông của Tản Đà, là một cái ngông riêng - cái ngông trích tiên.
Cũng giống nh Lý Bạch, Tản Đà tự coi mình là một trích tiên:
Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống
Theo đờng không khí về trần ai.
(Hầu Trời).
Hơn thế nữa là một vị tiên bị đày xuống cõi trần vì tội ngông:
-Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
21
MEONGOK
Đày xuống hạ giới vì tội ngông!
(Hầu Trời).
Ngời trích tiên thờng mơ ớc ngày đợc Thợng Đế cho trở lại Đế Khuyết nhng
với Tản Đà, ông lại hình dung mình là ngời đợc giao nhiệm vụ nên vẫn không
chừa ngông nghênh, không chịu tu tỉnh để chống mãn hạn đi đày. Thiên tiên ấy
bị lu đày chỉ vì phải thực hiện một nhiệm vụ đợc giao phó. Trích tiên, Tiên
trời đày này đã phải lăn lóc khắp chốn thế gian lầm bụi mong hoàn thành trách
nhiệm của mình.
Trên đây là quan niệm của Tản Đà về khái niệm trích tiên. Và chính bởi
quan niệm này đã làm cho Tản Đà sống trong đó mà vẫn chân trong chân ngoài,
không thể nhập cuộc đợc. Ông trở nên lạc lõng giữa cuộc đời và xa rời chính nó.

2.1.2. Những biểu hiện và đặc điểm của cái Tôi ngông trích tiên Tản Đà.
Sống giữa cõi đời phàm tục chán ghét và muốn xa rời nó, Tản Đà nh lạc loài
vào một thế giới khác không giống nh thế giới của mình. Cái thế giới mà ông
đang sống ấy, chính ông không thể hoà nhập đợc bởi ông là một cốt cách tiên,
mang những phẩm chất của tiên. Là tiên nhng vì nhiệm vụ nên phải đầy xuống
trần thế:
Trời rằng: không phải là trời đày
Trời định sai con một việc này
Là việc thiên lơng của nhân loại.
(Hầu Trời).
Lãnh nhiệm vụ truyền bá thuyết thiên lơng cho con ngời, thực hiện sứ
mệnh thiêng liêng mà trời đã giao phó nhng Tản Đà không hoàn thành đợc trách
nhiệm của mình. Xã hội ấy không tạo điều kiện cho ông. Nó chỉ đem lại cho ông
những chán ngán, sầu tủi và thất vọng. Chính vì vậy mà ông luôn muốn đợc siêu
thoát, đợc lánh xa cõi trần tục luỵ. Cái sầu trần thế cứ da diết nên muốn thoát lên
tiên, muốn làm thằng Cuội luôn là ớc mơ của nhà thơ. Tâm hồn ông hớng lên th-
ợng giới, nơi đó là thế giới, là cuộc sống đích thực của ông. ở đây ông sẽ tìm đ-
ợc tri âm tri kỷ của mình. Bởi thế nên ông gạ gẫm với thiên nhiên:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi,
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
(Muốn làm thằng Cuội)
và nữa:
Trông khắp trần gian hết thú chơi
Thèm trông con hạc nó lên trời
22
MEONGOK
Hạc kia bay bổng tuyệt vời
Hỏi thăm cung Nguyệt cho ngời trọ không?

(Trông hạc bay).
Tản Đà thèm muốn vị trí của chú Cuội, ớc có đợc vị thế của con chim hạc.
Ông muốn đợc bay cao, bay xa. Tất cả những điều này phán ảnh một tính cách tự
do, yêu phóng túng của nhà thơ núi Tản sông Đà.
Thế gian này nhỏ hẹp, cuộc đời chỉ là mộng tởng, ngời đời chỉ là những kẻ
chuộng h danh, không hiểu đợc giá trị cái chân tài của ông, không đợc hiểu đợc
cái hay của thơ văn ông nên Tản Đà đã gánh văn lên bán chợ trời. Và chỉ ở nơi
đó thì giá trị của chúng mới đợc đánh giá một cách chân thực, chính xác:
Văn đã giàu thay, lại lắm lối
Chủ tiên ao ớc tranh nhau dặn
Anh gánh lên đây bán chợ trời.
còn nữa:
Trời lại phê cho văn thật tuyệt
Văn trần đợc thế chắc có ít
(Hầu Trời).
Nh vậy đó, chỉ những con ngời ở cõi tiên thì mới nhận ra đợc giá trị đích
thực của con ngời cũng nh thơ văn của Tản Đà. Ông đã tìm đợc những tâm hồn
tri kỷ ở chính nơi ấy. Cuộc đời này đối với ông thật nhạt nhẽo, vô vị, chỉ có mặt
trăng kia mới là kẻ tri kỷ của mình:
Tri kỷ trông lên đứng tận trời.
(Tây Hồ vọng nguyệt).
Vì thế mà tâm hồn Tản Đà bao giờ cũng hớng về trời. Ông mong ớc hoàn
thành trách nhiệm, trả đợc nợ đời để mãn hạn đi đày, trở lại là một thiên tiên.
2.2. Cái Tôi ngông xê dịch, còn chơi.
2.2.1. Khái niệm xê dịch, còn chơi ở Tản Đà.
Sống trong xã hội t sản - xã hội mà đồng tiền đã làm chủ tất cả - bản thân
Tản Đà không thể hoà mình vào đó đợc. Xã hội ấy đã biến ông thành một con
ngời cô đơn, một kẻ lạc bầy. Ngay chính ông cũng không muốn nhập cuộc:
Cuộc đời thực trái với những mộng tởng đẹp đẽ mà ông ôm ấp. Ông không thể
nhập cuộc vì cuộc đời đòi hỏi ông nhiều cái xa lạ mà ông không có. [12,346].

Tản Đà lên án cuộc đời, phản ứng lại nó bằng cách than vãn, chê trách nhân tình
thế thái và chủ trơng hởng thụ. Kinh tế t bản chủ nghĩa không có chỗ cho cuộc
sống ẩn dật mà ngời tài tử laị không thể sống ẩn dật, không thể sống cuộc đời
của một ẩn sỹ nh các nhà nho chính thống khi xa. Cho nên Tản Đà sống và hành
động theo suy nghĩ và ý thích của riêng mình. Cuộc sống trớc mắt đối với ông là
vô nghĩa, nhng đời ngời lại ngắn ngủi trớc thời gian vô hạn. Vì thế, Tản Đà sợ
23
MEONGOK
thời gian nó trôi nhanh. Ông tiếc nuối và cố níu kéo nó, van lạy nó đừng vội trôi
qua để cho ông sống thoả chí mình. Chính thế nên Tản Đà chủ trơng sẽ chơi sao
cho thoả thích, chơi mãi thì thôi. Cái Tôi ngông của đấng trích tiên ấy là vậy, đó
là cái Tôi ngông xê dịch, còn chơi.
Với tâm hồn phóng khoáng, rộng mở, tính cách phóng túng, ngời tài tử
trong xã hội t sản tôn thờ cuộc sống tự do, nay đây mai đó, sống theo sở thích
của cá nhân mình. Thi sĩ núi Tản sông Đà của chúng ta cũng vậy, cuộc sống của
ông đợc trải lên trang thơ:
Trời sinh ra bác Tản Đà
Quê hơng thời có, cửa nhà thời không
Nửa đời nam, bắc, tây, đông
Bạn bè sum họp, vợ chồng biệt li
Túi thơ đeo khắp ba kỳ
Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió trăng.
(Thú ăn chơi).
Cả cuộc đời Tản Đà là một cuộc chơi. Thi sĩ chơi, chơi mãi:
Trăm năm hai chữ Tản Đà
Còn sông, còn núi, còn là ăn chơi
Dở hay không muôn sự ở đời
Mây bay nớc chảy mặc ngời thế gian.
(Thú ăn chơi).
Tản Đà quan niệm chơi là sự hởng thụ trong sự biết thởng thức và biết

yêu, biết trân trọng những thú vui vật chất và tinh thần, trong những biểu hiện
tích cực khác nhau của hiện thực làm cho cuộc đời con ngời giàu thêm và đẹp
hơn. Theo ông, chơi và hởng lạc là biết sống có nghệ thuật, đem lại cho cuộc
sống một giá trị thẩm mỹ. Tản Đà vui chơi, thăm thú quê hơng đất nớc, hởng lạc
thực chất là thởng thức và hởng thụ cuộc sống một cách nghệ thuật. Ta thấy
rằng, khái niệm xê dịch, còn chơi là những nội dung nghiêng về lĩnh vực
tinh thần.
Xê dịch, còn chơi thực chất ở đây là mang nội dung hởng lạc. Nhng
quan niệm hởng thụ của Tản Đà lại mang nét riêng và đợc biểu hiện một cách
độc đáo trong thơ ông.
2.2.2. Những biểu hiện và đặc điểm của cái Tôi ngông xê dịch, còn
chơi của Tản Đà.
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu là một nhà thơ thuộc tầng lớp nho sỹ cho nên
ông không thể không mang thế giới quan, nhân sinh quan của giai cấp mình.
Ông cũng chủ trơng nhân sinh thích chí, phải hởng thụ bởi thời gian của một
đời ngời quá ngắn ngủi. Tản Đà chủ trơng chơi. Nhng cái chơi của ông không
24
MEONGOK
phải là cái chơi cho qua ngày đoạn tháng, cho hết cuộc đời mà ông bàn đến cái
thú ăn chơi, đa nó ra hăm hở, say sa, thách thức:
Chơi cho biết mặt sơn hà
Cho sơn hà biết ai là mặt chơi.
(Chơi Huế).
Tản Đà với túi thơ trải khắp ba kỳ, nơi đâu ông cũng đến. Ông tự hào về sự
từng trải trong thú ăn chơi của mình:
Túi thơ đeo khắp ba kỳ
Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió trăng
Thú ăn chơi cũng gọi rằng
Mà xem chửa dễ ai bằng thế gian.
(Thú ăn chơi).

Thi sỹ khoe khoang, tự mãn về thú ăn chơi của mình. Hỏi xem cả thế gian
này có ai từng trải, hiểu biết bằng ông? Ông ủng hộ, hoan nghênh thú ăn chơi
của con ngời. Ông đã từng nói một cách ngông nghênh trong bài còn chơi:
Tớ muốn chơi cho mãn đời
Đời cha thật mãn tớ còn chơi
Chẳng hay đời tớ lâu hay chóng
Dù chóng hay lâu tớ hãy chơi.
(Còn chơi).
Tản Đà sẽ cứ chơi, còn chơi và chơi mãi, chơi cho đến lúc:
ức triệu ngàn năm đời nhớ tớ
Đời thôi tớ cũng hãy còn chơi.
(Còn chơi).
Tản Đà không bao giờ ngừng chơi, bởi cái thú ăn chơi nó đã ngấm vào
máu thịt của ông. Đi đến đâu ông cũng có thể vui chơi. Cuộc đời nh là một sân
chơi của ông vậy. Ta hãy xem ông tự thú nhận:
Văn chơng thời nôm na
Thú chơi có sơn hà.
(Tự thuật).
Văn chơng đối với ông chẳng qua cũng chỉ là một trò chơi. Và cuộc đời thì
lại càng là một trò chơi hơn nữa. Trong cuộc chơi ấy, ông chỉ là một khách chơi
sành sỏi nhất, toàn diện nhất. Chính Tản Đà cũng đã khẳng định điều đó:
Trời sinh ra bác Tản Đà
Quê hơng thời có cửa nhà thời không.
(Thú ăn chơi).
Dờng nh số mệnh đã sắp đặt sẵn, Tản Đà phải mang trong mình cái nghiệp
của một một khách chơi và ông chấp nhận điều đó. Ông sống hết mình và đi tới
25

×