Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Tích hợp GD biến đổi khí hậu trong môn Sinh học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.66 KB, 72 trang )

B GIO DC V O TO
HONG TH KIM HUYN NGễ VN HNG NGUYN VN KHI
NG DUY LI INH TH KIM NHUNG
GIáO DụC ứng phó với biến đổi khí hậu
TRONG MễN SINH HC
CấP TRUNG HọC PHổ THÔNG
(Tài liệu dành cho giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục)
Hà Nội, năm 2012
[1]
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GDPT: Giáo dục phổ thông
[2]
BĐKH: Biến đổi khí hậu
DHTH: Dạy học tích hợp
THCS: Trung học cơ sở
THPT: Trung học phổ thông
GV: Giáo viên
HS: Học sinh
[3]
MỤC LỤC
Trang
Mục lục 5
Lời giới thiệu 7
[4]
Phần I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I. Kiến thức cơ bản về BĐKH 9
1. Biểu hiện, đặc điểm và nguyên nhân chính của sự BĐKH toàn cầu 9
2. Tác động của sự BĐKH đối với tự nhiên và các hoạt động của con người 10
3. Ứng phó với BĐKH 11
4. Hành động ứng phó với BĐKH 11
5. Giáo dục, tuyên truyền, các giải pháp giảm nhẹ với BĐKH tại các địa phương 13


II. Giáo dục ứng phó với BĐKH trong trường THPT 14
1. Vai trò, nhiệm vụ của GDPT trước những thách thức của BĐKH 14
2. Mục tiêu của giáo dục ứng phó với BĐKH trong trường THPT 14
3. Định hướng, yêu cầu của giáo dục ứng phó với BĐKH trong trường THPT 15
4. Tích hợp giáo dục ứng phó với BĐKH trong trường THPT 15
Phần II. TÍCH HỢP GIÁO DỤC ỨNG PHÓ VỚI BĐKH
TRONG MÔN SINH HỌC CẤP THPT
1. Mục tiêu chung về giáo dục ứng phó với BĐKH trong môn Sinh học 19
2. Khả năng tích hợp giáo dục ứng phó với BĐKH của môn Sinh học 20
3. Giới thiệu địa chỉ tích hợp giáo dục ứng phó với BĐKH trong môn Sinh học 21
4. Gợi ý về tổ chức DHTH nội dung giáo dục ứng phó với BĐKH vào
môn Sinh học cấp THPT 38
5. Giới thiệu một số giáo án dạy học tích hợp nội dung giáo dục ứng phó với BĐKH
trong môn Sinh học 44
6. Giới thiệu một số câu hỏi và bài tập tích hợp nội dung giáo dục ứng phó với BĐKH
trong môn Sinh học cấp THPT 69
Tài liệu tham khảo 72
[5]
LỜI GIỚI THIỆU
Bước sang thế kỷ XXI, nhân loại đang phải đối mặt với một trong những thách
thức lớn nhất là sự BĐKH toàn cầu. BĐKH đã có những tác động sâu sắc, mạnh mẽ đến
[6]
mọi hoạt động sản xuất; đời sống của sinh vật và con người; môi trường tự nhiên, kinh tế -
xã hội của cả mọi châu lục, mọi quốc gia trên Trái Đất. Những biểu hiện, đặc điểm,
nguyên nhân và tác động của BĐKH đã được nghiên cứu, tìm hiểu cặn kẽ. Các giải pháp
mang tính chiến lược toàn cầu và của mỗi quốc gia trên thế giới về ứng phó có hiệu quả
với BĐKH cũng đã được đề ra và thực hiện ráo riết.
Nhận thức rõ những ảnh hưởng to lớn và nghiêm trọng do BĐKH gây ra, Thủ
tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phê duyệt Chương trình
mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH (Quyết định số 158/2008/QĐ-TTg ngày

2/12/2008). Để thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH, Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phê duyệt Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH của ngành
Giáo dục giai đoạn 2011 - 2015 và phê duyệt Dự án "Đưa các nội dung ứng phó với
BĐKH vào chương trình Giáo dục và Đào tạo giai đoạn 2011 - 2015".
Nhằm định hướng cho việc triển khai thực hiện nhiệm vụ trên một cách có hiệu
quả, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng bộ tài liệu giáo dục ứng phó với BĐKH tích
hợp vào các môn học cấp THPT: Vật lí, Hóa học, Sinh học, Địa lí, Công nghệ. Mỗi tài liệu
có cấu trúc gồm hai phần chính:
Phần I. Những vấn đề chung. Phần này làm rõ một số kiến thức cơ bản về BĐKH
và những quan niệm về giáo dục BĐKH trong trường THPT.
Phần II. Tích hợp giáo dục ứng phó với BĐKH trong môn học. Phần này làm
rõ mục tiêu về giáo dục ứng phó với BĐKH, về khả năng tích hợp giáo dục ứng phó với
BĐKH, giới thiệu những địa chỉ tích hợp giáo dục ứng phó với BĐKH, những gợi ý về tổ chức
DHTH nội dung giáo dục ứng phó với BĐKH, minh họa một số bài soạn tích hợp nội dung
giáo dục ứng phó với BĐKH và giới thiệu một số câu hỏi và bài tập tích hợp nội dung
giáo dục ứng phó với BĐKH trong môn học.
Đây là tài liệu có tính định hướng và gợi ý cho các thầy, cô giáo trong việc xây dựng kế
hoạch giáo dục, soạn các giáo án lên lớp cho HS. Trong quá trình triển khai, rất cần sự vận dụng
sáng tạo, phù hợp với tình hình cụ thể của các địa phương để nội dung giáo dục ứng phó với
BĐKH đạt được các hiệu quả cao nhất. Trong quá trình biên soạn, các tác giả đã có nhiều cố
gắng, song không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý quý báu
của các thầy, cô giáo để tài liệu được hoàn thiện hơn.
VỤ GIÁO DỤC TRUNG HỌC
[7]
Phần I
[8]
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ BĐKH
1. Biểu hiện, đặc điểm và nguyên nhân chính của BĐKH toàn cầu
1.1. Khái niệm về BĐKH

BĐKH là sự thay đổi của khí hậu mà nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp bởi hoạt
động của con người làm thay đổi thành phần của khí quyển toàn cầu và tác động thêm vào
sự biến động khí hậu tự nhiên trong các thời gian có thể so sánh được (Công ước chung
của Liên Hợp Quốc về BĐKH tại Hội nghị Thượng đỉnh về Môi trường tại Rio de Janero
(Braxin - năm 1992). Nói một cách khác, BĐKH là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so
với trung bình hoặc dao động của khí hậu duy trì trong một thời gian dài, thường là vài
thập kỷ hoặc hàng trăm năm và lâu hơn.
1.2. Những biểu hiện của BĐKH
- Nhiệt độ không khí của Trái Đất đang có xu hướng nóng dần lên: từ năm 1850
đến nay nhiệt độ trung bình đã tăng 0,74
0
C; trong đó nhiệt độ tại 2 cực của Trái Đất tăng
gấp 2 lần so với số liệu trung bình toàn cầu. Theo dự báo, nhiệt độ trung bình của Trái
Đất có thể tăng lên 1,1 - 6,4
0
C tới năm 2100, đạt mức chưa từng có trong lịch sử 10.000
năm qua.
Ở Việt Nam trong vòng 50 năm (1957 - 2007) nhiệt độ không khí trung bình tăng khoảng
0,5 - 0,7
0
C. Dự báo, nhiệt độ không khí trung bình sẽ tăng từ 1 - 2
0
C vào năm 2020 và từ 1,5 - 2
0
C
vào năm 2070.
- Sự dâng cao của mực nước biển gây ngập úng và xâm nhập mặn ở các vùng thấp
ven biển, xóa sổ nhiều đảo trên biển và đại dương.
Trong thế kỷ XX, trung bình mực nước biển ở châu Á dâng cao 2,44mm/năm; chỉ
riêng thập kỷ vừa qua là 3,1mm/năm. Dự báo trong thế kỷ XXI, mực nước biển dâng cao

từ 2,8 - 4,3mm/năm.
Ở Việt Nam, tốc độ dâng lên của mực nước biển khoảng 3mm/năm (giai đoạn
1993 - 2008) tương đương với tốc độ dâng lên của mực nước biển trong các đại dương thế
giới. Dự báo đến giữa thế kỷ XXI, mực nước biển có thể dâng thêm 30cm và đến cuối thế
kỷ 21 mực nước biển có thể dâng lên 75cm so với thời kỳ 1980 - 1999.
- Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của
con người và các sinh vật trên Trái Đất.
- Có sự xuất hiện của nhiều thiên tai bất thường, trái quy luật, mức độ lớn như bão,
mưa lớn, hạn hán gây nên những tổn thất to lớn về người và tài sản.
1.3. Đặc điểm của BĐKH toàn cầu
[9]
- Diễn ra chậm, từ từ, khó phát hiện, khó đảo ngược;
- Diễn ra trên phạm vi toàn cầu, có ảnh hưởng tới tất cả các lĩnh vực có liên quan
đến sự sống và hoạt động của con người;
- Cường độ ngày một tăng và hậu quả khó lường trước;
- Là nguy cơ lớn nhất của con người phải đối mặt với tự nhiên trong lịch sử phát
triển của mình.
1.4. Nguyên nhân của BĐKH
- Ngoài những nguyên nhân tự nhiên gây nên sự BĐKH toàn cầu đã diễn ra trong
quá trình hình thành và phát triển của Trái Đất trong các thời gian trước đây, như sự tương
tác giữa vận động của Trái Đất và vũ trụ, sự thay đổi của bức xạ Mặt Trời, sự tác động của
khí CO
2
do các hoạt động núi lửa, cháy rừng hoặc các trận động đất lớn gây ra; nguyên nhân
chính gây nên BĐKH trong vòng 300 năm gần đây và đặc biệt trong nửa thế kỷ qua là do
hoạt động công nghiệp phát triển, sử dụng rất nhiều nhiên liệu và năng lượng thải vào bầu
khí quyển các chất ô nhiễm.
- Tình hình đô thị phát triển mạnh mẽ, gia tăng các hoạt động giao thông vận tải,
chặt phá rừng và cháy rừng cũng làm nghiêm trọng thêm tình hình ô nhiễm không khí,
giữ lại lượng bức xạ sóng dài khiến cho nhiệt độ Trái Đất nóng lên theo hiệu ứng nhà

kính. Từ đó, làm thay đổi các quá trình tự nhiên của hoàn lưu khí quyển, vòng tuần hoàn
nước, vòng tuần hoàn sinh vật
- Có thể nói, hoạt động của con người là nguyên nhân chủ yếu gây ra những
BĐKH hiện nay trên Trái Đất.
2. Tác động của BĐKH đối với tự nhiên và các hoạt động của con người
2.1. Sự nóng lên của Trái Đất
- Nhiệt độ tăng có ảnh hưởng trực tiếp đến các hệ sinh thái tự nhiên, làm suy giảm
đa dạng sinh học, làm ảnh hưởng tới năng suất, chất lượng sản phẩm vật nuôi, cây trồng.
- Sự thay đổi và chuyển dịch của các đới khí hậu, đới thảm thực vật tự nhiên dẫn
tới nguy cơ đe dọa sự sống của các loài sinh vật.
- Nhiệt độ tăng dần dẫn đến sự thay đổi các yếu tố thời tiết khác, phá hoại mùa
màng, có ảnh hưởng trực tiếp tới các ngành năng lượng, xây dựng, giao thông vận tải,
công nghiệp, du lịch
- Tuy nhiên, con người cũng có thể tận dụng những hệ quả sự nóng lên của Trái
Đất.
2.2. Tác động của nước biển dâng
- Làm tăng diện tích ngập lụt có ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất nông nghiệp, các
đô thị, các công trình xây dựng giao thông vận tải cũng như nơi cư trú của con người; đặc
biệt ở các vùng đồng bằng ven biển.
[10]
- Làm tăng độ nhiễm mặn của nguồn nước, làm thay đổi các hệ sinh thái tự nhiên,
hệ sinh thái nông nghiệp.
2.3. Làm tăng cường các thiên tai
- Bão, mưa lớn, lũ lụt, hạn hán xảy ra bất thường và có sức tàn phá lớn.
- Xuất hiện các đợt nóng, lạnh quá mức, bất thường gây tổn hại đến sức khỏe con
người, gia súc và mùa màng.
- Tình trạng hoang mạc hóa có xu hướng gia tăng.
3. Ứng phó với BĐKH
Ứng phó với BĐKH có hai khía cạnh: giảm nhẹ BĐKH và thích ứng với nó.
3.1. Giảm nhẹ

Theo Ban Liên Chính phủ về BĐKH (IPCC) giảm nhẹ có nghĩa là sự can thiệp
của con người nhằm làm giảm nguồn phát thải khí nhà kính, hoặc cải thiện các bể chứa
khí nhà kính.
3.2. Thích ứng
Thích ứng đề cập đến khả năng tự điều chỉnh của một hệ thống để thích nghi với
những biến đổi của khí hậu nhằm giảm nhẹ những nguy cơ thiệt hại, để đối phó với những
hậu quả (có thể xảy ra) hoặc tận dụng những cơ hội.
4. Hành động ứng phó với BĐKH
4.1. Trên thế giới và Việt Nam
- Ý thức về những tác hại do con người gây ra cho môi trường Trái Đất, gần đây đã
có sự đồng thuận của cộng đồng quốc tế trong nỗ lực ngăn chặn những ảnh hưởng nguy
hại do BĐKH toàn cầu. Nhiều diễn đàn quốc tế đã ngày càng thu hút được sự quan tâm
của các nhà khoa học, doanh nghiệp, chính trị cũng như các nhà hoạch định chính sách đối
ngoại như Liên hợp quốc, WTO, EU, ASEM, APEC, ASEAN một điều chắc chắn rằng
những thoả thuận kinh tế, chính trị, thương mại song phương hoặc đa phương gắn liền với
vấn đề BĐKH luôn nhận được sự tán thành và hợp tác.
- Những cam kết quốc tế được cụ thể hoá vào năm 1997 khi Nghị định thư Kyoto
ra đời và chính thức có hiệu lực vào năm 2005 liên quan đến Chương trình khung về vấn
đề BĐKH mang tầm quốc tế của Liên hợp quốc với mục tiêu cắt giảm lượng khí thải gây
ra hiệu ứng nhà kính.
- Kể từ tháng 11/2007 đã có khoảng 175 quốc gia kí kết tham gia chương trình này.
Nghị định thư Kyoto cũng ràng buộc 37 quốc gia phát triển đến năm 2012 phải cắt giảm khí
thải xuống 5% so với mức của năm 1990. Nghị định thư cũng được khoảng 137 quốc gia
đang phát triển tham gia kí kết trong đó có Brazil, Trung Quốc và Ấn Độ vốn là những nền
kinh tế mới nổi và có lượng khí phát thải cao. Sự kiện chính phủ Nga, quốc gia chiếm 17%
lượng khí thải, phê chuẩn Nghị định thư vào năm 2004 và chính phủ Ôxtrâylia ký kết Nghị
[11]
định thư vào năm 2007, đã gây sức ép buộc Mĩ (quốc gia chiếm 25% lượng khí thải ) - hiện
là quốc gia phát triển duy nhất không phê chuẩn Nghị định thư Kyoto - phải thay đổi quan
điểm trong thời gian gần đây. Thế giới hi vọng thái độ tích cực và sự tham gia có trách

nhiệm của Mĩ sẽ được thể hiện khi Chính phủ của Tổng thống Obama tham gia Hội nghị
Copenhagen. Tuy nhiên, cho đến nay tình hình này vẫn chưa có gì sáng sủa hơn, chưa có
bước tiến triển mang tính đột phá trong cuộc chiến ứng phó với BĐKH toàn cầu
Như vậy, Nghị định thư Kyôtô được mong đợi sẽ là một thành công trong vấn đề
cắt giảm khí gây hiệu ứng nhà kính. Mục tiêu được đặt ra nhằm "Cân bằng lại lượng khí
thải trong môi trường ở mức độ có thể ngăn chặn những tác động nguy hiểm cho sự tồn tại
và phát triển của con người vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của môi trường”. Trong những
năm tới, xu thế chung của hợp tác quốc tế và khu vực để đối phó với vấn đề BĐKH sẽ
được tăng cường, tập trung vào quá trình thiết lập cơ chế hợp tác, nghiên cứu và đánh giá
tác động, xây dựng biện pháp phòng ngừa và nghiên cứu công nghệ, năng lượng mới.
Mặc dù vậy, quá trình hợp tác sẽ còn gặp nhiều khó khăn, trắc trở do còn nhiều sự
khác biệt về lợi ích giữa các quốc gia trong việc thực hiện các cam kết quốc tế liên quan đến
vấn đề BĐKH (cơ bản là việc giảm chất thải gây hiệu ứng nhà kính hoặc sử dụng tiết kiệm
nhiên liệu có thể ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh tế của nhiều quốc gia), việc sản xuất
theo Chương trình cơ cấu phát triển sạch (The Clean Development Mechanism-CDM) đòi
hỏi đầu tư lớn và công nghệ phức tạp
Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 158/2008/QĐ - TTg phê duyệt
Chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với BĐKH. Ngày 12/01/2009, tại TP.Hồ Chí
Minh, Bộ Tài nguyên và Môi trường chính thức công bố Chương trình mục tiêu quốc gia
về ứng phó với BĐKH. Mục tiêu chiến lược của Chương trình là đánh giá được mức độ
tác động của BĐKH đối với các lĩnh vực, ngành và địa phương trong từng giai đoạn và
xây dựng được kế hoạch hành động có tính khả thi để ứng phó hiệu quả với BĐKH cho
từng giai đoạn ngắn hạn và dài hạn nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước,
tận dụng cơ hội phát triển nền kinh tế theo hướng các-bon thấp và tham gia cùng cộng
đồng quốc tế trong nỗ lực giảm nhẹ BĐKH, bảo vệ hệ thống khí hậu Trái Đất.
4.2. Hành động của chúng ta
Thực tế cho thấy, BĐKH đang đe doạ nghiêm trọng đến lợi ích sống còn của con
người trên khắp hành tinh và làm cho Trái Đất chúng ta ngày càng trở nên mỏng manh, dễ
bị tổn thương và ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững trong tương lai. Ngay từ bây giờ,
chúng ta cần phải ý thức hơn đối với môi trường thông qua từng công việc cụ thể của mỗi

cá nhân.
Trước tiên, đó chính là sự thay đổi thói quen hàng ngày trong cuộc sống theo hướng
tiết kiệm năng lượng. Chỉ cần một cái nhấn nút tắt đèn hay các thiết bị điện, điện tử khi ra
vào phòng ở hoặc nơi làm việc là góp phần tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường và
giảm thiểu năng lượng và các chi phí phải trả.
[12]
Thứ hai, cần phải nhận thức đầy đủ hơn về nguyên nhân và hậu quả của sự BĐKH
để vận dụng trong những hoàn cảnh cụ thể, đặc biệt là đối với những người “ra quyết
định”. Ví dụ: Bạn là người có quyền nhập khẩu thiết bị sản xuất thì nhất quyết phải nói
không với “công nghệ lạc hậu, sử dụng nhiều nhiên liệu và phát thải khí gây hiệu ứng nhà
kính”.
Thứ ba, nghiên cứu khoa học và ứng dụng những thành tựu mới vào trong hiện thực
cuộc sống là sự đóng góp thiết thực nhất của chúng ta. Hiện nay, trên thế giới đã tập trung vào
việc nghiên cứu ứng dụng những nguồn năng lượng sạch như năng lượng Mặt Trời, sức gió,
sóng biển để tạo ra những sản phẩm thân thiện với môi trường. Trong xây dựng đã chú ý
đến kiến trúc sinh thái, trong du lịch đã xuất hiện nhiều hơn sản phẩm du lịch sinh thái đây
đều là những hướng đi tích cực.
Thứ tư, bạn hãy là một tuyên truyền viên có trách nhiệm thông qua trao đổi,
chuyện trò với gia đình, bạn bè, hàng xóm về những vấn đề môi trường (như hạn chế xả
chất thải bẩn, trồng và chăm sóc cây xanh, đi xe đạp ở những cự ly thích hợp hoặc tăng
cường sử dụng phương tiện giao thông công cộng, hạn chế và tiến tới không dùng túi ni
lông, cố gắng sử dụng nước sạch tiết kiệm ). Việc tuyên truyền, trao đổi thông tin trên
blog cá nhân hay diễn đàn trực tuyến cũng có tác dụng to lớn và nhanh chóng. Thông qua
các hoạt động văn hoá, văn nghệ, giải trí thể thao, tình nguyện và phát triển sẽ giúp bạn
đưa vấn đề bảo vệ môi trưòng xâm nhập vào cộng đồng một cách hữu hiệu hơn.
5. Giáo dục, tuyên truyền các giải pháp giảm nhẹ với BĐKH tại các địa
phương
- Có hai nhóm giải pháp quan trọng nhất để đối phó với những thách thức do BĐKH
gây ra là giải pháp giảm nhẹ BĐKH và giải pháp thích ứng với những thay đổi của điều
kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, giảm thiểu những thiệt hại của thiên tai do BĐKH gây ra.

Điều đáng chú ý là các giải pháp này rất đa dạng, phong phú, song phải phù hợp
với tình hình cụ thể về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và dân cư của từng địa phương.
BĐKH có thể dẫn đến những hậu quả khác nhau đối với mỗi khu vực. Bão lớn có sức tàn
phá mạnh ở vùng ven biển trực tiếp gây sạt lở bờ biển, tràn ngập nước mặn, phá hủy công
trình xây dựng, nhà cửa Đối với vùng núi, chúng lại gây mưa lớn, lũ lụt, lũ quét, sạt lở
đường gây nên những tổn thất và thiệt hại to lớn không kém.
- Vì vậy việc tuyên truyền phổ biến sâu rộng các kiến thức, kinh nghiệm cụ thể của các địa
phương có hoàn cảnh tương tự là rất cần thiết và có tác dụng thiết thực.
- Cần chú trọng giáo dục, tuyên truyền cho nhân dân các địa phương tinh thần tích
cực, chủ động đối phó với những thách thức do BĐKH gây ra theo phương châm tại chỗ,
dựa vào sức mình là chính.
II. GIÁO DỤC ỨNG PHÓ VỚI BĐKH TRONG TRƯỜNG THPT
1. Vai trò, nhiệm vụ của GDPT trước những thách thức của BĐKH
[13]
1.1. Vai trò của GDPT trước những thách thức của BĐKH
- Số lượng HS đông, năm học 2011-2012 số HS của GDPT là 14,7 triệu (Trong đó,
HS tiểu học: 7,1 triệu, THCS: 4,9 triệu, THPT: 2,7 triệu). Nếu tính riêng, số lượng HS
trung học chiếm gần 1/10 dân số nước ta và có liên quan đến hàng triệu hộ gia đình.
- HS phổ thông là lực lượng và nhân tố cơ bản để lan tỏa trong xã hội, những hành
động của các em đều có tính động viên, khích lệ lớn đối với gia đình, xã hội và do đó, có
tác động góp phần làm thay đổi hành vi, cách ứng xử của mọi người trong xã hội trước
hiện tượng BĐKH.
- HS phổ thông là lực lượng chủ lực trong việc thực hiện và duy trì các hoạt động
tuyên truyền về ứng phó với BĐKH trong và ngoài nhà trường. Đồng thời, những kiến
thức và kĩ năng về ứng phó với BĐKH mà các em tiếp thu được từ nhà trường sẽ dần hình
thành trong tư duy, hành động của các em để ứng phó với BĐKH trong tương lai. Bởi vậy
việc đầu tư cho giáo dục ứng phó với BĐKH trong hệ thống GDPT nói riêng, hệ thống
giáo dục quốc dân nói chung, là một giải pháp lâu dài, nhưng hiệu quả kinh tế nhất và bền
vững nhất.
1.2. Nhiệm vụ của GDPT trước những thách thức của BĐKH

Giáo dục THCS và THPT bên cạnh việc hoàn thiện nội dung GDPT qui định cho
từng cấp học, thì trước những thách thức của BĐKH còn có nhiệm vụ cung cấp cho HS
những hiểu biết cơ bản về BĐKH, tác động của BĐKH đến môi trường tự nhiên, đến đời
sống và sản xuất của con người; những giải pháp nhằm hạn chế tác động của BĐKH và
ứng phó với BĐKH để HS trở thành một tuyên truyền viên tích cực trong gia đình, nhà
trường và địa phương về BĐKH.
2. Mục tiêu của giáo dục ứng phó với BĐKH trong trường THPT
2.1. Mục tiêu chung
- Nâng cao nhận thức, khả năng ứng phó với BĐKH cho cán bộ quản lí, GV và HS
cấp THPT trong từng giai đoạn cụ thể;
- Trang bị kiến thức, kĩ năng, hành vi cho cán bộ quản lí, GV và HS cấp THPT để
ứng phó với BĐKH, góp phần tích cực vào việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia
ứng phó với BĐKH.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lí, GV và HS về BĐKH và ứng phó với
BĐKH;
- Tăng cường năng lực, kĩ năng, hình thành thái độ, hành vi của cán bộ quản lý,
GV, HS cấp THPT về BĐKH và ứng phó với BĐKH trên toàn cầu, khu vực và trong
nước.
- Đưa các nội dung giáo dục về ứng phó với BĐKH tích hợp vào các môn học Sinh
học, Địa lí, Vật lí, Hóa học, Công nghệ.
3. Định hướng, yêu cầu của giáo dục ứng phó với BĐKH trong trường THPT
[14]
- Thông qua việc tích hợp kiến thức về BĐKH vào nội dung môn học trong tiết học
chính khóa hoặc ngoài giờ lên lớp, các hoạt động ngoại khóa để nâng cao nhận thức, hình
thành thái độ, hành vi ứng xử, rèn luyện kỹ năng và hành động cụ thể để ứng phó với
BĐKH.
- Nội dung của giáo dục ứng phó BĐKH phải đảm bảo tính khoa học, tính hệ thống
giữa các khối kiến thức, kĩ năng, đảm bảo tính liên thông giữa các cấp học. Kiến thức và
kĩ năng về BĐKH còn phải đảm bảo được tính phù hợp với các đối tượng HS ở các vùng

miền khác nhau trên cả nước.
- Ứng phó với BĐKH cần có sự hợp tác, liên kết giữa các trường học trên phạm vi
quốc gia, quốc tế về thông tin, chia sẻ kinh nghiệm xử lý rủi ro trong những trường hợp cụ thể,
cả về nhân lực và tài chính.
- Giáo dục ứng phó BĐKH là giáo dục về nhận thức và cả hành động để có thể
tham gia giải quyết những vấn đề cụ thể do BĐKH gây ra. Do đó, mỗi HS được giáo dục
ứng phó BĐKH không chỉ có thêm nhận thức, hiểu biết cần thiết để ứng phó BĐKH, mà
còn phải biết vận dụng các các kiến thức, kĩ năng để giải quyết các vấn đề thực tiễn cụ thể,
phải biết làm một việc gì đó cho trường mình, cho cộng đồng, nghĩa là giáo dục ứng phó
BĐKH phải được tiến hành thông qua các hành động thực tiễn.
- Trong giáo dục về ứng phó với BĐKH, cần phát triển các kĩ năng hợp tác: thày-
trò; trò - trò; thầy trò - xã hội để nâng cao hiệu quả giáo dục và góp phần xây dựng
“Trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
4. Tích hợp giáo dục ứng phó với BĐKH trong trường THPT
4.1. Quan niệm về DHTH
Khái niệm tích hợp đã được sử dụng rất rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khoa học và
kĩ thuật, đặc biệt trong lĩnh vực kĩ thuật điện tử, công nghệ thông tin, Tích hợp có nghĩa
là "gộp lại, sáp nhập lại thành một tổng thể" (tiếng Pháp là intégration, tiếng Anh là
integration). Tư tưởng tích hợp đã được vận dụng trong nhiều giải pháp công nghệ thuộc
mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội hiện nay, trong đó có giáo dục.
Phương thức tích hợp các môn học trong quá trình dạy học, hay DHTH, đã được
vận dụng tương đối phổ biến ở nhiều quốc gia. Ở Việt Nam đã có nhiều môn học, hoạt
động giáo dục quan tâm vận dụng tư tưởng tích hợp vào quá trình dạy học để nâng cao
chất lượng giáo dục (như tích hợp các nội dung của các môn Sinh học, Địa lí, Lịch sử,
hoặc đưa các nội dung giáo dục vào các môn học như giáo dục bảo vệ môi trường, sử
dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, giáo dục dân số, giáo dục giới tính vào các môn
học).
Xavier Rogiers đã đưa ra một định nghĩa về khoa học sư phạm tích hợp như sau:
"Khoa sư phạm tích hợp là một quan niệm về một quá trình học tập trong đó toàn thể các
quá trình học tập góp phần hình thành ở HS những năng lực rõ ràng, có dự tính trước

những điều cần thiết cho HS, nhằm phục vụ cho các quá trình học tập tương lai, hoặc
nhằm hòa nhập HS vào cuộc sống lao động".
[15]
"Khoa sư phạm tích hợp" được trình bày như một lí thuyết giáo dục, một mặt nó
đóng góp vào việc nghiên cứu xây dựng chương trình, sách giáo khoa, đồng thời góp phần
định hướng các hoạt động dạy học trong nhà trường.
Với ý nghĩa định hướng các hoạt động dạy học, trong nhiều tài liệu người ta cũng
thường sử dụng thuật ngữ "DHTH". Trong tài liệu này chúng tôi sẽ dùng thuật ngữ
"DHTH" để chỉ quá trình dạy học, trong đó, HS phải huy động nội dung kiến thức, kĩ năng
thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết các nhiệm vụ học tập, thông qua đó lại hình
thành và phát triển những kiến thức, kĩ năng mới, rèn luyện được những năng lực cần
thiết. Một quá trình dạy học như vậy cũng đòi hỏi GV phải nghiên cứu vận dụng phối hợp
các phương pháp và phương tiện dạy học.
4.2. Lí do phải thực hiện DHTH
- DHTH góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện của nhà trường phổ thông.
+ Vận dụng DHTH là một yêu cầu tất yếu của việc thực hiện nhiệm vụ dạy học ở
nhà trường phổ thông. Như Luật giáo dục (2005) đã nêu : "Mục tiêu giáo dục phổ thông là
giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ
bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con
người Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị
cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo
vệ tổ quốc". Việc có nhiều môn học đã được đưa vào nhà trường phổ thông hiện nay là thể
hiện quá trình thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện. Các môn học đó phải liên kết với
nhau để cùng thực hiện mục tiêu giáo dục nêu trên.
+ Mặt khác, hiện nay các tri thức khoa học và kinh nghiệm xã hội của loài người
phát triển như vũ bão. Trong khi, quỹ thời gian cũng như số năm học để HS ngồi trên ghế
nhà trường là có hạn, không thể đưa nhiều môn học hơn nữa vào nhà trường, cho dù những
tri thức này là rất cần thiết. Chẳng hạn, ngày nay người ta nhận thấy cần thiết phải trang bị
nhiều kĩ năng sống cho HS (các kiến thức và kĩ năng về an toàn giao thông, bảo vệ môi
trường sống, tiết kiệm năng lượng và sử dụng năng lượng hiệu quả, về định hướng về nghề

nghiệp, ) trong khi những tri thức này không thể tạo thành môn học mới để đưa vào nhà
trường. Vì vậy, DHTH là giải pháp quan trọng.
+ Chương trình GDPT và sách giáo khoa các môn học đã tích hợp nhiều tri thức để
thực hiện các mục tiêu nêu trên, song không thể đầy đủ và phù hợp với tất cả đối tượng
HS. Vì vậy, trong quá trình dạy học, GV phải nghiên cứu để tích hợp các nội dung tri thức
trên một cách cụ thể cho từng môn học và phù hợp với từng đối tượng HS ở các vùng
miền khác nhau.
- Do bản chất của mối liên hệ giữa các tri thức khoa học
Các nhà khoa học cho rằng khoa học ở thế kỷ XX đã chuyển từ phân tích cấu trúc lên
tổng hợp hệ thống làm xuất hiện các liên ngành (như sinh thái học, tự động hóa, ). Vì vậy, xu
thế dạy học trong nhà trường là phải làm sao cho tri thức của HS xác thực và toàn diện. Quá
[16]
trình dạy học phải làm sao liên kết, tổng hợp hóa các tri thức, đồng thời thay thế "tư duy cơ
giới cổ điển" bằng "tư duy hệ thống". Theo Xavier Rogiers, nếu nhà trường chỉ quan tâm dạy
cho HS các khái niệm một cách rời rạc, thì nguy cơ sẽ hình thành ở HS các "suy luận theo
kiểu khép kín", sẽ hình thành những con người "mù chức năng", nghĩa là những người đã lĩnh
hội kiến thức nhưng không có khả năng sử dụng các kiến thức đó hàng ngày.
- Góp phần giảm tải học tập cho HS
Giảm tải học tập không chỉ là giảm thiểu khối lượng kiến thức môn học, hoặc thêm
thời lượng cho việc dạy học một nội dung kiến thức theo qui định. Phát triển hứng thú học
tập cũng có thể được xem như một biện pháp giảm tải tâm lí học tập có hiệu quả và rất có
ý nghĩa. Làm cho HS thấu hiểu ý nghĩa của các kiến thức cần tiếp thu, bằng cách tích hợp
một cách hợp lí và có ý nghĩa các nội dung gần với cuộc sống hàng ngày vào môn học, từ
đó tạo sự xúc cảm nhận thức, cũng sẽ làm cho HS nhẹ nhàng vượt qua các khó khăn về
nhận thức và việc học tập khi đó mới trở thành niềm vui và hứng thú của HS.
4.3. Phương thức, hình thức DHTH nội dung giáo dục ứng phó với BĐKH
trong các môn học cấp THPT
a) Các phương thức tích hợp:
- Nội dung GDPT đảm bảo tính phổ thông, cơ bản, toàn diện, hướng nghiệp và có
hệ thống; gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi của HS, đáp ứng

mục tiêu giáo dục ở cấp học, nên việc đưa các nội dung giáo dục ứng phó với BĐKH,
cũng như các nội dung giáo dục khác vào nội dung các môn học trong trường phổ thông
cần phải tìm các phương thức dạy học phù hợp. Thực tế cho thấy thực hiện phương thức
tích hợp các nội dung nêu trên trong dạy học các môn học là khả thi nhất trong bối cảnh
hiện nay.
- Các nội dung giáo dục ứng phó với BĐKH, nội dung giáo dục sử dụng năng
lượng tiết kiệm và hiệu quả, cũng như nội dung giáo dục bảo vệ môi trường, có thể được
tích hợp vào các môn học ở các mức độ khác nhau. Trong trường hợp cần tích hợp nhiều
nội dung có liên quan với nhau vào cùng một môn học, trước hết ta cần làm rõ mối quan
hệ giữa các nội dung này và nên lựa chọn các nội dung thể hiện rõ nhất, có cơ sở khoa học
và có ý nghĩa nhất để tích hợp vào nội dung môn học. Điều này giúp ta tránh được sự dàn
trải, đưa quá nhiều nội dung vào môn học làm quá tải hoạt động học tập của HS.
- Các phương thức tích hợp thường dùng hiện nay là:
+ Tích hợp toàn phần: được thực hiện khi hầu hết các kiến thức của môn học, hoặc nội
dung của một bài học cụ thể, cũng chính là các kiến thức về giáo dục ứng phó với BĐKH.
+ Tích hợp bộ phận: được thực hiện khi có một phần kiến thức của môn học hoặc
bài học có nội dung về giáo dục ứng phó với BĐKH.
+ Hình thức liên hệ: liên hệ là một hình thức tích hợp đơn giản nhất khi chỉ có một
số nội dung của môn học có liên quan tới nội dung về giáo dục ứng phó với BĐKH, song
[17]
không nêu rõ trong nội dung của bài học. Trong trường hợp này GV phải khai thác kiến
thức môn học và liên hệ chúng với các nội dung về giáo dục ứng phó với BĐKH. Đây là
trường hợp thường xảy ra.
b) Các hình thức tổ chức DHTH:
- Hình thức thứ nhất: Thông qua các bài học trên lớp. Trong trường hợp này GV
thực hiện các phương thức tích hợp với các mức độ đã nêu ở trên. Các hoạt động của GV
có thể bao gồm:
Hoạt động 1: Nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa để xây dựng mục tiêu dạy học,
trong đó có các mục tiêu giáo dục ứng phó với BĐKH, mục tiêu giáo dục bảo vệ môi trường.
Hoạt động 2: Xác định các nội dung giáo dục ứng phó với BĐKH, giáo dục môi

trường cụ thể cần tích hợp. Căn cứ vào mối liên hệ giữa kiến thức môn học và các nội
dung giáo dục ứng phó với BĐKH, giáo dục môi trường, GV lựa chọn tư liệu và phương
án tích hợp. Cụ thể phải trả lời các câu hỏi: tích hợp nội dung nào là hợp lí? Liên kết các
kiến thức về giáo dục ứng phó với BĐKH và giáo dục bảo vệ môi trường như thế nào?
Thời lượng là bao nhiêu?
Hoạt động 3: Lựa chọn các phương pháp dạy học và phương tiện phù hợp, cần
quan tâm sử dụng các phương pháp dạy học tích cực, các phương tiện dạy học có hiệu quả
cao để tăng cường tính trực quan và hứng thú học tập của HS (như sử dụng các thí
nghiệm, mô hình, tranh ảnh, video clip, ).
Hoạt động 4: Xây dựng tiến trình dạy học cụ thể. Ở đây GV cần nêu cụ thể các
hoạt động của HS, các hoạt động trợ giúp của GV.
- Hình thức thứ hai: Giáo dục ứng phó với BĐKH cũng có thể được triển khai như
một hoạt động độc lập song vẫn gắn liền với việc vận dụng kiến thức môn học. Các hoạt
động có thể như: tham quan, ngoại khóa, tổ chức các nhóm ngoại khóa chuyên đề, tổ chức
thực hiện dự án, nghiên cứu một đề tài (phù hợp với HS). Với các hoạt động này, mức độ
tích hợp kiến thức, kĩ năng các môn học với các nội dung giáo dục ứng phó với BĐKH,
giáo dục môi trường sẽ đạt cao nhất. Trong các hoạt động này, HS học cách vận dụng kiến
thức môn học trong các tình huống gần gũi với cuộc sống hơn, huy động được kiến thức
từ nhiều môn học hơn.
Phần II
TÍCH HỢP GIÁO DỤC ỨNG PHÓ VỚI BĐKH
TRONG MÔN SINH HỌC CẤP THPT
1. Mục tiêu chung về giáo dục ứng phó với BĐKH trong môn Sinh học
[18]
1.1. Mục tiêu chung
Qua dạy học môn Sinh học trang bị cho HS những kiến thức cơ bản về khí hậu, thời
tiết, khí nhà kính, BĐKH hiện tại và quá khứ, nguyên nhân và hậu quả. Mối quan hệ giữa
con người, thiên nhiên, BĐKH và ứng phó BĐKH, để mỗi HS trở thành tuyên truyền viên
tích cực trong gia đình, nhà trường và địa phương về BĐKH đồng thời có ý thức tham gia
đóng góp vào các hoạt động phù hợp ở địa phương làm giảm thiểu tác động của BĐKH

khi ngồi trên ghế nhà trường cũng như trong tương lai.
1.2. Mục tiêu cụ thể
- Kiến thức
+ Trang bị cho HS những kiến thức cơ bản về khí hậu, thời tiết, khí nhà kính,
BĐKH, nguyên nhân và hậu quả, mối quan hệ giữa con người, thiên nhiên và những cơ sở
khoa học của các hiện tượng đó;
+ Trang bị cho HS những kiến thức cơ bản về BĐKH, ứng phó với BĐKH và cơ sở
khoa học của các quá trình đó.
- Kĩ năng
+ Trang bị và phát triển những kỹ năng vận dụng kiến thức Sinh học để giải thích
cơ sở khoa học của các hiện tượng khí hậu, thời tiết, khí nhà kính, nguyên nhân và hậu
quả, mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên;
+ Trang bị và phát triển những kỹ năng vận dụng kiến thức Sinh học để giải thích cơ
sở khoa học về BĐKH, ứng phó với BĐKH trên cơ sở đó phát triển các kĩ năng thuyết
phục, tuyên truyền về BĐKH và ứng phó với BĐKH trong cộng đồng.
- Thái độ
+ Giáo dục cho HS ý thức vận dụng kiến thức Sinh học trong giải thích các hiện
tượng BĐKH, môi trường và ứng phó với BĐKH (giảm nhẹ và thích ứng).
+ HS có ý thức vận dụng các hiểu biết, kĩ năng thu được qua học tập môn Sinh học
để tham gia các hoạt động tuyên truyền về ứng phó với BĐKH, tham gia các hoạt động
nhằm ứng phó với BĐKH phù hợp với lứa tuổi.
+ Hình thành hoài bão ước mơ học tập, nghiên cứu học công nghệ để xây dựng một
tương lai xanh, phát triển bền vững trên hành tinh Trái Đất.
2. Khả năng tích hợp giáo dục ứng phó với BĐKH của môn Sinh học
Sinh học là một môn học có liên hệ mật thiết với Khoa học môi trường. Đối tượng
nghiên cứu của Sinh học là sinh vật ở các cấp độ tổ chức khác nhau; trong khi đó, sinh vật
là một trong các nhân tố cấu thành môi trường, đồng thời sinh vật và các yếu tố khác như
đất, nước và không khí là đối tượng nghiên cứu của khoa học Môi trường. Các hoạt
động của các yếu tố tự nhiên trong môi trường dựa trên cơ sở các nguyên lí sinh thái của
của Sinh thái học, đây là một phân môn của Sinh học. Rõ ràng, trong nội dung Sinh học có

[19]
chứa và có liên quan rất nhiều nội dung về BĐKH. Vì vậy, tích hợp giáo dục ứng phó với
BĐKH trong dạy học Sinh học ở trường phổ thông là rất thuận lợi.
Kiến thức chống BĐKH mặc dù không có trong SGK Sinh học một cách rõ ràng
như là một bài, một mục, và nếu chỉ “nhìn bề ngoài” thì chưa thấy có liên quan gì giữa
chống BĐKH và bài học Sinh học. Nhưng thực tế, trong SGK Sinh học THPT có hàng
loạt các bài học có khả năng liên hệ kiến thức giáo dục BĐKH. Tuy nhiên, GV cần xác
định các bài học có khả năng lồng ghép, liên hệ, lựa chọn các kiến thức và vị trí hay nơi có
thể đưa kiến thức giáo dục BĐKH vào bài học một cách hợp lí. Muốn làm được điều này
có hiệu quả cao thì người GV Sinh học THPT luôn phải cập nhật các kiến thức về BĐKH.
Đối với môn Sinh học có thể tích hợp kiến thức giáo dục BĐKH vào môn học theo 2
dạng:
a) Dạng lồng ghép
Ở dạng này các kiến thức giáo dục BĐKH đã có trong chương trình và sách giáo
khoa Sinh học THPT và trở thành một bộ phận kiến thức của môn học. Kiến thức giáo dục
BĐKH được lồng ghép có thể :
- Chiếm một vài chương (trong SGK Sinh học 12, kiến thức ở ba chương trong phần
Sinh thái học nói về những kiến thức liên quan chặt chẽ với kiến thức giáo dục BĐKH);
- Chiếm một hoặc một số bài trọn vẹn (lồng ghép toàn phần);
- Chiếm một mục, một đoạn hay một câu trong bài học (lồng ghép một phần).
b) Dạng liên hệ
Ở dạng này, các kiến thức giáo dục BĐKH không được đưa vào chương trình và
SGK, nhưng dựa vào nội dung bài học, người GV có thể bổ sung kiến thức giáo dục môi
trường có liên quan với bài học qua giờ giảng lên lớp.
Có thể tích hợp kiến thức giáo dục BĐKH qua một số cách sau:
• Ví dụ hoặc thông tin minh họa
Ví dụ: ở bài 39, mục II. Các nhân tố bên ngoài, Sinh học 11 (cơ bản), nói về các
nhân tố môi trường có ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng và phát triển của sinh vật, GV
có thể lấy ví dụ về môi trường bị ô nhiễm có chứa các hoá chất độc hại, khói bụi, gây
ảnh hưởng đến phát triển của phôi, thai dẫn đến con sinh ra dị tật, thiếu cân.

• Câu hỏi liên hệ
Ví dụ: khi dạy mục II.5. Giới Động vật (Animalia), trong SGK có ý: “Giới Động vật
rất đa dạng và phong phú” và “Động vật có vai trò quan trọng đối với tự nhiên”, GV có
thể đặt các câu hỏi: Sự đa dạng của giới Động vật thể hiện như thế nào? Vì sao một số loài
động vật có nguy cơ bị tuyệt chủng? Sự tuyệt chủng các loài động vật quí hiếm có ảnh
hưởng gì đến môi thế giới tự nhiên và đời sống con người?
• Bài tập về nhà
[20]
Ví dụ: sau khi dạy xong mục II. Nước và vai trò của nước trong tế bào, Sinh học 10,
GV có thể giao bài tập cho HS về nhà: Tìm hiểu về nguyên nhân và tác hại của hiện tượng
mưa axit.
• Các bài đọc thêm
Ví dụ: sau khi dạy xong bài 17. Hô hấp ở động vật, Sinh học 11 (Cơ bản), GV có
thể sưu tầm bài đọc thêm về tình hình ô nhiễm môi trường không khí ảnh hưởng đến đời
sống con người và các loài động vật hiện nay.
• Câu hỏi đánh giá sự vận dụng, tư duy logic.
Ví dụ: Sau khi học xong bài 18. Quang hợp, Sinh học 10 (cơ bản), hoặc bài 8.
Quang hợp ở thực vật, SH 11 (cơ bản), GV có thể kiểm tra HS bằng câu hỏi: Vì sao chúng
ta phải trồng nhiều cây xanh bảo vệ rừng? hoặc: Hãy nêu vai trò của cây xanh đối với môi
trường và các sinh vật khác.
Tích hợp theo kiểu liên hệ chính là tích hợp dạy học, bởi vì về mặt kiến thức thì nội
dung giáo dục BĐKH không có trong bài Sinh học, nhưng thông qua quá trình dạy học
của GV, bằng các biện pháp như hỏi đáp, đưa ra ví dụ minh họa hoặc sử dụng bài tập về
nhà, bài đọc thêm kiến thức giáo dục BĐKH đã được đưa vào một cách hợp lí. Đồng
thời, qua đó mối quan hệ giữa giáo duc BĐKH và Sinh học cũng được làm rõ và HS được
hình thành những khái niệm mới, chung hơn cho cả giáo dục BĐKH và Sinh học.
3. Giới thiệu địa chỉ tích hợp giáo dục ứng phó với BĐKH trong môn Sinh học
3.1. Sinh học lớp 10
Tên bài Địa chỉ
tích hợp

Nội dung giáo dục
ứng phó với BĐKH
Kiểu tích
hợp
Bài 1. Các
cấp tổ
chức của
thế giới
sống
I.1. Các cấp độ tổ
chức của thế giới
sống
II. Đặc điểm
chung của các
cấp tổ chức sống
Đa dạng các cấp tổ chức sống tạo nên sự
đa dạng của thế giới sinh vật/ đa dạng sinh
học.
Bảo vệ các loài sinh vật và môi trường
sống của chúng là bảo vệ đa dạng sinh
học. Môi trường và sinh vật có mối quan
hệ thống nhất, giúp cho các tổ chức sống
tồn tại và tự điều chỉnh. BĐKH dẫn đến
tăng nhiệt độ, ảnh hưởng trực tiếp đến hệ
sinh thái tự nhiên, giảm đa dạng sinh học.
BĐKH làm cho một số loài dẫn tới sự
tuyệt chủng, ảnh hưởng tới quá trình tiến
hóa của sinh giới.
→ Ngăn chặn và giảm bớt các hoạt động,
hành vi gây BĐKH.

Lồng
ghép
Liên hệ
[21]
Bài 2.
Giới thiệu
các giới
sinh vật
II. Đặc điểm
chính của mỗi
giới sinh vật
1. Giới Khởi sinh
2. Giới Nguyên
sinh
3. Giới Nấm
4. Giới Thực vật
5. Giới Động vật
Đa dạng sinh học thể hiện qua sự đa dạng
sinh vật trong các giới sinh vật.
Các sinh vật trong giới Khởi sinh, Nguyên
sinh và giới Nấm góp phần hoàn thành
chu trình tuần hoàn vật chất.
Thực vật có vai trò quan trọng trong việc
điều hòa khí hậu đồng thời là mắt xích
đầu tiên trong chuỗi và lưới thức ăn.
Động vật là mắt xích trong chuỗi và lưới
thức ăn, đảm bảo sự tuần hoàn năng lượng
và vật chất, góp phần cân bằng hệ sinh
thái.
Hạn chế BĐKH tức là bảo vệ môi trường

sống an toàn, đảm bảo cho sự phát triển
thuận lợi của các giới sinh vật => đảm bảo
đa dạng sinh học.
Có ý thức bảo vệ và thái độ đúng đắn
trong việc bảo vệ rừng và khai thác rừng
hợp lí. Duy trì hệ sinh thái đất, nước để
giới Khởi sinh, Nguyên sinh, Nấm phát
triển cân bằng góp phần vào việc hình
thành chu trình tuần hoàn vật chất.
Trồng nhiều cây xanh giúp điều hòa khí
hậu.
Lồng
ghép
Liên hệ
[22]
Bài 3. Các
nguyên tố
hoá học
và nước
I. Các nguyên tố
hóa học
II. Vai trò của
nước đối với tế
bào
Hàm lượng nguyên tố hóa học nào đó tăng
cao quá mức cho phép gây ra ô nhiễm môi
trường, gây ảnh hưởng xấu đến cơ thể
sinh vật và con người.
Nước là thành phần quan trọng trong môi
trường, là một nhân tố sinh thái. Nước có

vai trò rất quan trọng để duy trì sự sống
của tất cả các sinh vật.
BĐKH làm tăng mực nước biển, hậu quả
là tăng diện tích đất ngập lụt, tăng độ
nhiễm mặn của nguồn nước, thay đổi hệ
sinh thái tự nhiên, hệ sinh thái nông
nghiệp.
Sự cần thiết phải hạn chế BĐKH. Hình
thành thói quen sử dụng tiết kiệm tài
nguyên nước, tái chế nước đã qua sử
dụng, bảo vệ nguồn nước, giữ nguồn nước
trong sạch.
Liên hệ với hiện tượng mưa axit.
Liên hệ
Bài 4.
Cacbohidr
at và lipit
I. Cacbohidrat
II.2. Chức năng
Nguồn cacbohidrat đầu tiên trong hệ sinh
thái là sản phẩm quang hợp của thực vật,
là nguồn thức ăn cho động vật ăn thực vật
và con người.
Việc trồng và bảo vệ cây xanh là vấn đề
cấp thiết.
Liên hệ
Bài 5.
Prôtêin
I. Cấu trúc của
prôtein

II. Chức năng của
prôtêin
Sự đa dạng trong cấu trúc của prôtêin dẫn
đến sự đa dạng trong giới sinh vật.
Đa dạng sinh học đảm bảo cho cuộc sống
con người : cung cấp nguồn thực phẩm đa
dạng từ thực vật và động vật, cung cấp
dược liệu cho dược phẩm…
Có ý thức bảo vệ động – thực vật, bảo vệ
nguồn gen, đa dạng sinh học bằng cách
bảo vệ môi trường sống của chúng.
Liên hệ
Bài 6. Axit
nucleic
I. Cấu trúc ADN Sự đa dạng của ADN chính là đa dạng di
truyền (đa dạng nguồn gen) của sinh giới.
Sự đặc thù trong cấu trúc ADN tạo cho
[23]
mỗi loài sinh vật có nét đặc trưng phân
biệt với các loài khác, tạo nên sự đa dạng
cho thế giới sinh vật.
BĐKH dẫn đến thay đổi môi trường sống
của nhiều loài sinh vật, đặc biệt là các
sinh vật đất → suy giảm số lượng, tuyệt
chủng.
Sự cần thiết phải bảo vệ môi trường sống
cho các loài sinh vật.
Liên hệ
Bài 9. Tế
bào nhân

thực (tiếp
theo)
VI. Lục lạp Lục lạp là bào quan chỉ có ở thực vật, là
nơi diễn ra các hoạt động quang hợp. Là
cơ sở để thấy được vai trò của thực vật đối
với vai trò điều hòa khí hậu và vai trò
chuyển đổi năng lượng.
Trồng và bảo vệ cây xanh.
Liên hệ
Bài 11.
Vận
chuyển
các chất
qua màng
sinh chất
Bón phân cho cây trồng đúng liều lượng.
Nếu bón phân không đúng cách, gây dư
thừa, cây không sử dụng được hết gây ô
nhiễm môi trường đất, nước và không khí
và gây hại cho các vi sinh vật (VSV)
trong đất.
Bảo vệ môi trường đất, nước để bảo vệ
môi trường sống trong lành cho các sinh
vật, từ đó tế bào và cơ thể mới thực hiện
được các hoạt động sống và các chức
năng sinh lí.
Phải có biện pháp xử lí những nơi xảy ra ô
nhiễm môi trường, đảm bảo môi trường
sống an toàn cho các loài sinh vật và con
người.

Liên hệ
Bài 14.
Enzim và
vai trò của
enzim
trong quá
trình
chuyển
I.3. Các yếu tố
ảnh hưởng đến
hoạt tính của
enzim
Hậu quả của BĐKH: sự nóng lên của trái
đất làm cho nhiệt độ của môi trường tăng
cao hơn có thể ảnh hưởng đến hoạt tính
enzim trong tế bào, từ đó ảnh hưởng đến
đời sống của vi sinh vật.
Nhiều VSV có khả năng phân giải xác
động, thực vật trong đất là do chúng tiết ra
Liên hệ
[24]
hoá vậy
chất
các enzim phân giải các chất hữu cơ thành
các chất đơn giản hơn, thực hiện quá trình
chuyển hóa trong đất, vì vậy sử dụng phân
bón vi sinh vừa cung cấp phân bón cho
cây, vừa làm giàu dinh dưỡng tự nhiên
cho đất vừa có lợi với môi trường.
Bài 17.

Quang
hợp
Cả bài
Quá trình quang hợp sử dụng khí CO
2
,
giải phóng khí O
2
, có tác dụng điều hòa
không khí và góp phần ngăn chặn hiệu
ứng nhà kính.
Khi nhiệt độ của trái đất nóng lên, có thể
làm tăng năng suất của quang hợp, tăng
quá trình trao đổi khí.
Chặt phá rừng, đô thị hóa làm hẹp đất
nông nghiệp dẫn tới hạn chế khả năng hấp
thụ khí ở cây xanh. Đồng thời làm cho các
khí thải độc hại tích tụ càng nhiều, gây
nên các hiện tượng hiệu ứng nhà kính,
mưa axit, …
Cần có ý thức bảo vệ rừng, tích cực trồng
cây xanh xung quanh nơi mình sinh sống,
tuyên truyền cho người khác về vai trò
của việc trồng cây xanh với việc tạo ra
bầu khí quyển trong lành.
Lồng
ghép
Liên hệ
Bài 23.
Quá trình

tổng hợp
và phân
giải các
chất ở vi
sinh vật
I. Quá trình tổng
hợp
II. Quá trình phân
giải ở VSV
Điều kiện môi trường có ảnh hưởng trực
tiếp đến quá trình hấp thụ chất dinh
dưỡng, chuyển hóa vật chất → ảnh hưởng
tới quá trình sinh tổng hợp.
VSV phân giải xác động - thực vật, thực
hiện các quá trình chuyển hóa trong đất,
làm cho đất giàu mùn - cung cấp chất dinh
dưỡng nuôi cây, góp phần làm sạch môi
trường.
Sự phân giải của VSV là cơ sở chế biến
rác thải hữu cơ thành phân bón. Vì vậy
cần phân loại rác thải ngay từ sớm để tách
riêng các loại rác thải: rác thải hữu cơ, rác
Lồng
ghép
Liên hệ
[25]

×