ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC KỲ I – MÔN: NGỮ VĂN 6
A.PHẦN VĂN BẢN
1.Các thể loại truyện dân gian: (định nghĩa)
Truyền thuyết:Loại truyện dân gian kể về các nhân vật và sự kiện có liên quan đến
lịch sử thời quá khứ, thường có yếu tố tưởng tượng kì ảo. Truyền thuyết thể hiện thái độ và
cách đánh giá của nhân dân đối với các sự kiện và nhân vật lịch sử được kể.
Cổ tích : Loại truyện dân gian kể về cuộc đời của một số kiểu nhân vật quen thuộc:
- Nhân vật bất hạnh (như: Người mồ côi, người con riêng, người có hình dạng xấu xí);
- Nhân vật dũng sĩ và nhân vật có tài năng kì lạ;
- Nhân vật thông minh và nhân vật ngốc nghếch;
- Nhân vật là động vật (con vật biết nói năng, hoạt động, tính cách như con người).
Truyện cổ tích thường có yếu tố hoang đường, thể hiện ước mơ, niềm tin của nhân dân
về chiến thắng cuối cùng của cái thiện đối với cái ác, cái tốt đối với cái xấu, sự công bằng đối
với sự bất công.
Truyện ngụ ngôn.
Là loại truyện kể bằng văn xuôi hoặc văn vần , mượn chuyện về lồi vật, đồ vật hoặc về
chính con người để nói bóng gió , kín đáo chuyện con người , nhằm khuyên nhủ, răn dạy
người ta bài học nào đó trong cuộc sống
Truyện cười: Loại truyện kể về những hiện tượng đáng cười trong cuộc sống nhằm tạo
ra tiếng cười mua vui hoặc phê phán những thói hư, tật xấu trong xã hội.
2.Nội dung chính các truyện dân gian đã học
1.Truyền thuyết:
a. Thánh Gióng: Hình tượng Thánh Gióng với nhiều màu sắc thần kì là biểu tượng rực rỡ của
ý thức và sức mạnh bảo vệ đất nước, đồng thời là sự thể hiện quan niệm và ước mơ của nhân
dân ta ngay từ buổi đầu lịch sử về người anh hùng cứu nước chống ngoại xâm.
b. Sơn Tinh,Thủy Tinh: Là câu chuyện tưởng tượng kì ảo, giải thích hiện tượng lũ lụt và thể
hiện sức mạnh, ước mong của người Việt cổ muốn chế ngự thiên tai, đồng thời suy tôn, ca
ngợi công lao dựng nước của các vua Hùng.
2.Truyện cổ tích
a.Thạch Sanh: Là truyện cổ tích về người dũng sĩ diệt chằn tinh, diệt đại bàng cứu người bị
hại, vạch mặt kẻ vong ân bội nghĩa và chống quân xâm lược. Truyện thể hiện ước mơ, niềm
tin về đạo đức, cơng lí xã hội và lí tưởng nhân đạo, u hịa bình của nhân dân ta. Truyện có
nhiều chi tiết tưởng tượng thần kì độc đáo và giàu ý nghĩa( như sụ ra đời và lớn lên kì lạ của
Thạch Sanh, cung tên vàng, cây đàn thần, niêu cơm thần…)
b.Em bé thông minh: Đây là truyện cổ tích về nhân vật thơng minh- kiểu nhân vật rất phổ biến
trong truyện cổ tích Việt Nam và thế giới. Truyện đề cao sự thơng minh và trí khơn dân
gian( qua hình thức giải những câu đố, vượt những thách đố ối oăm,…)từ đó tạo nên tiếng
cười vui vẻ, hồn nhiên trong đời sống hành ngày.
3.Truyện ngụ ngôn
a.Ếch ngồi đáy giếng: Từ câu chuyện về cách nhìn thế giới bên ngoài chỉ qua miệng giếng nhỏ
hẹp của chú ếch, truyện Ếch ngồi đáy giếng ngụ ý phê phán những kẻ hiểu biết hạn hẹp mà lại
huênh hoang, khuyên nhủ người ta phải cố gắng mở rộng tầm hiểu biết của mình, khơng được
chủ quan, kiêu ngạo.
b.Thầy bói xem voi: Từ câu chuyện chế giễu cách xem và phán về voi của năm ơng thầy bói,
truyện Thầy bói xem voi khun người ta: muốn hiểu biết sự vật, sự việc phải xem xét chúng
một cách toàn diện.
4.Truyện cười:
Treo biển: Mượn câu chuyện nhà hàng bán cá nghe ai “góp ý” về cái tên biển cũng làm theo,
truyện tạo nên tiếng cười vui vẻ, có ý nghĩa phê phán nhẹ nhàng những người thiếu chủ kiến
khi làm việc, không suy xét kĩ khi nghe những ý kiến khác.
3. Chỉ ra điểm giống và khác nhau giữa truyền thuyết với cổ tích; giữa truyện ngụ ngơn
với truyện cười.
*So sánh truyền thuyết và truyện cổ tích.
Giống nhau:
- Đều có yếu tố hoang đường, kì ảo.
- Đều có mơ típ như sự ra đời kì lạ và tài năng phi thường của nhân vật chính
Khác nhau:
- Nếu truyền thuyết kể về các nhân vật, sự kiện lịch sử và cách đánh giá của nhân dân đối với
những nhân vật, sự kiện được kể thì truyện cổ tích kể về cuộc đời của các nhân vật nhất định
và thể hiện niềm tin, ước mơ của nhân dân về cơng lí xã hội.
*So sánh truyện ngụ ngơn với truyện cổ tích
Giống nhau:
- Đều có chi tiết gây cười, tình huống bất ngờ.
Khác nhau:
- Nếu mục đích của truyện ngụ ngơn là khun nhủ, răn dạy người ta một bài học trong cuộc
sống thì mục đích của truyện cười là mua vui, phê phán, chế giễu những hiện tượng đáng cười
trong cuộc sống.
*Văn học trung đại:
Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng.
a-Nghệ thuật:
-Tạo nên tình huống truyện gay cấn
-Sáng tạo nên các sự kiện có ý nghĩa so sánh, đối chiếu
-Xây dựng đối thoại sắc sảo có tác dụng làm sáng lên chủ đề truyện (nêu cao gương sáng về
một bậc lương y chân chính)
b-Ý nghĩa:
- Truyện ngợi ca vị Thái y lệnh, khơng những giỏi về chun mơn mà cịn có tấm lịng nhân
đức, thương xót người bệnh.
- Câu chuyện là bài học về y đức cho những người làm nghề y hơm nay và mai sau.
*Lưu ý: Phần tóm tắt văn bản: các em đọc lại văn bản và tóm tắt theo cách ngắn gọn nhất
B.PHẦN TIẾNG VIỆT
I. Từ và cấu tạo từ tiếng Việt:
1.Từ là gì?
-Từ là đơn vị ngơn ngữ nhỏ nhất dùng để đặt câu.
- Từ đơn là từ chỉ có một tiếng, VD: Bàn, ghế, tủ, sách…
- Từ phức là từ có 2 tiếng trở lên, từ phức gồm có:
+ Từ ghép: Ghép các tiếng có quan hệ với nhau về nghĩa, VD: Bàn ghế, bánh chưng, ăn
ở, mệt mỏi…
+ Từ láy: Có quan hệ láy âm giữa các tiếng với nhau, VD: ầm ầm, sạch sành sanh, trồng
trọt,…
Cấu tạo từ
2.Mơ hình:
Từ đơn
Từ phức
Từ ghép
Từ láy
3. Bài tập :
3.1/ Đọc câu văn sau và trả lời câu hỏi bên dưới :
Người Việt Nam ta – con cháu vua Hùng – khi nhắc đến nguồn gốc của mình, thường xưng
là con Rồng cháu Tiên.
a. Các từ nguồn gốc, con cháu thuộc kiểu cấu tạo từ nào ?
b. Tìm từ đồng nghóa với từ nguồn gốc.
c. Tìm thêm từ ghép chỉ quan hệ thân thuộc.
Gợi ý :
a. Các từ nguồn gốc, con cháu thuộc kiểu cấu tạo từ ghép
b. Từ đồng nghóa với từ nguồn gốc : cội nguồn, gốc gác, …
c. Từ ghép chỉ quan hệ thân thuộc : ông bà, cha mẹ, anh em, con cháu, …
3.2/ Tìm từ láy :
Gợi ý :
a. Tả tiếng cười : khanh khách, ha hả, hô hố, hì hì, …
b. Tả tiếng nói : ồm ồm, khàn khàn, thỏ thẻ, lầu bầu, …
c. Tả dáng điệu : lom khom, lả lướt, nghênh ngang, …
3.3/ Xác định từ trong câu cho sẵn.
Gợi ý :
- Thần/dạy/ dân/ cách /trồng trọt,/ chăn nuôi /và/ cách/ ăn ở.
- Từ /đấy,/nước/ ta /chăm /nghề /trồng trọt,/ chăn nuôi /và /có/ tục/ ngày/ Tết/ làm / bánh
chưng, /bánh giầy.
cII. Từ mượn:
1. Từ thuần việt: là những từ do nhân dân ta tự sáng tạo ra.
2. Từ mượn: (vay mượn hay từ ngoại lai) Là những từ của ngơn ngữ nước ngồi được nhập
vào ngôn ngữ của ta để biểu thị những sự vật, hiện tượng, đặc điểm,…mà tiếng ta chưa có từ
thật thích hợp để biểu thị.
- Bộ phận từ mượn quan trọng nhất trong tiếng việt là từ mượn tiếng Hán (gồm từ gốc
Hán và từ Hán việt).
- Ngồi ra cịn mượn từ của một số ngôn ngữ khác Anh, Pháp,…
3.Cách viết các từ mượn:
+Đối với từ mượn đã được Việt hố hồn tồn thì viết như tiếng Việt:
+Đối với từ mượn chưa được Việt hố thì dùng gạch nối để nối các tiếng với nhau.(Sin-gapo, Ma-lai-xi-a…)
3.Nguyên tắc mượn từ: Tiếp thu tinh hoa văn hố nhân loại. Giữ gìn bản sắc dân tộc.Không
mược từ một cách tuỳ tiện.
Phân loại từ theo nguồn gốc
Mơ hình:
Từ thuần việt
Từ mượn
Từ mượn
Tiếng Hán
Từ gốc Hán
Từ Hán Việt
Từ mượn
Các ngôn từ khác
4. Bài tập:
4.1/ Xác định từ mượn trong câu:
a. Đúng ngày hẹn, bà mẹ vô cùng ngạc nhiên vì trong nhà tự nhiên có bao nhiêu là sính
lễ.
b. Ngày cưới, trong nhà Sọ Dừa cỗ bàn thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập.
c. Ông vua nhạc pốp Mai-cơn Giắc-xơn đã quyết định nhảy vào lãnh địa in-tơ-nét với
việc mở một trang chủ riêng.
4.2/ Kể một số từ mượn mà em biết :
Gợi ý :
a. Hán Việt : giang sơn, sứ giả, tráng só,…
b. Ngôn ngữ khác : ti vi, xà phòng, mít tinh, ra-đi-ô, ga, xô viết, in-tơ-nét, …
- Đơn vị đo lường : mét, lít, kí lô gam, …
- Tên bộ phận xe đạp : ghi đông, líp, sên, …
- Tên một số đồ vật : cát sét, ti vi, vi ô lông, …
III. Nghĩa của từ:
1. Nghĩa của từ :là nội dung mà từ biểu thị.
2. Các giải thích nghĩa của từ: 2 cách.
- Trình bày khái niệm mà từ biểu thị, VD: Tập quán: là thói quen của……….
- Đưa ra những từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa với từ cần giải thích.
Ví dụ:
Lẫm liệt: Hùng dũng, oai nghiêm
Nao núng: Lung lay, không vững lịng nay ở mình nữa.
3. Bài tập :
3.1/Giải thích nghóa của các từ:
Gợi ý :
- học tập : học và luyện tập để có hiểu biết, có kó năng.
- học lỏm : nghe hoặc thấy người ta làm rồi làm theo, chứ không được ai trực tiếp dạy bảo.
- học hỏi : tìm tòi, hỏi han để học tập.
- học hành : học văn hóa có thầy, có chương trình, có hướng dẫn.
- trung bình : ở vào khoảng giữa trong bậc thang đánh giá, không khá cũng không kém,
không cao cũng không thấp.
- trung gian : ở vị trí chuyển tiếp hoặc nối liền giữa hai bộ phận, hai giai đoạn, hai sự vật,
- trung niên : đã quá tuổi thanh niên nhưng chưa đến tuổi già.
- giếng : hố đào sâu vào lòng đất thẳng đứng để lấy nước.
- rung rinh : chuyển động qua lại nhẹ nhàng, liên tiếp.
- hèn nhát : không dũng cảm, thiếu can đảm, đáng khinh bỉ.
IV. Từ nhiều nghĩa và hiện tượng chuyển nghĩa của từ:
1. Từ có thể có một nghĩa hay nhiều nghĩa. (ví dụ: Tốn học, Văn học, Vật lí học…từ có một
nghĩa); chân, mắt, mũi…từ có nhiều nghĩa)
2. Từ nhiều nghĩa là kết quả của hiện tượng chuyển nghĩa.
- Nghĩa gốc: Là nghĩa xuất hiện từ đầu, làm cơ sở để hình thành các nghĩa khác.
- Nghĩa chuyển là nghĩa được hình thành trên cơ sở của nghĩa gốc.
Ví dụ: Mũi (mũi kim, mũi dao, mũi bút…), chân (chân trời, chân mây, chân tường,
chân đê,…), mắt (mắt nứa, mắt tre, mắt na…),đầu (đầu giường, đầu đường, đầu sơng,...)
3. Bài tập :
3.1/ Tìm từ chỉ bộ phận cơ thể người và kể ra từ chuyển nghóa của chúng :
Gợi ý :
- chân : chân bàn, chân núi, chân trời, chân đê, …
- tai : tai ấm, tai nấm,…
3.2/ Tìm từø chỉ bộ phận cây cối được chuyển nghóa để cấu tạo chỉ bộ phận cơ thể người
Gợi ý : lá phổi, quả tim, …
3.3/ Một số hiện tượng chuyển nghóa:
a. Chỉ sự vật chuyển thành hành động :
- cái cưa cưa gỗ
- hộp sơn sơn cửa
- cái bào bào gỗ
b. Chỉ hành động chuyển thành chỉ đơn vị :
- bó lúa một bó lúa
- nắm cơm một nắm côm
V. Lỗi dùng từ:
1- Các lỗi dùng từ:
+ Lỗi lặp từ.
Ví dụ:
(1) Truyện dân gian thường có nhiều chi tiết tưởng tượng kì ảo nên em rất thích đọc
truyện dân gian.
(2) Bạn Lan là một lớp trưởng gương mẫu nên cả lớp ai cũng đều rất lấy làm quý
mến bạn Lan.(từ gạch chân là từ lặp nên loại bỏ để viết lại cho đúng)
=>Lan là một lớp trưởng gương mẫu nên cả lớp đều quý mến.
+ Lỗi lẫn lộn các từ gần âm.
Ví dụ:
(1) Ngày mai, chúng em sẽ đi thăm quan Viện bảo tàng của tỉnh.
(2) Ông hoạ sĩ già nhấp nháy bộ ria mép quen thuộc.
(3) Tiếng Việt có khả năng tả linh động mọi trạng thái tình cảm của con người.
(4) Có một số bạn cịn bàng quang với lớp.
(5) Vùng này còn khá nhiều thủ tục như: ma chay, cưới xin đều cỗ bàn linh đình; ốm
đau không đi bệnh mà ở nhà cúng bái,…
Những từ gạch chân là từ lặp, nên thay bằng các từ sau: (1)tham quan, (2)mấp máy,
(3)sinh động, (4)bàng quan,(5) hủ tục.
+ Lỗi dùng từ khơng đúng nghĩa.
Ví dụ:
(1) Mặc dù cịn một số yếu điểm, nhưng so với năm học cũ, lớp 6B đã tiến bộ vượt bậc.
(2) Trong cuộc họp lớp, Lan đã được các bạn nhất trí đề bạt làm lớp trưởng.
(3) Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã tận mắt chứng thực cảnh nhà tan cửa nát của những
người nơng dân.
(4) Làm sai thì cần thực thà nhận lỗi, khơng nên bao biện.
(5) Chúng ta có nhiệm vụ giữ gìn những cái tinh tú của văn hố dân tộc.
Sử lại bằng những từ sau : (1) điểm yếu hoặc nhược điểm,(2) bầu hoặc chọn,
(3)chứng kiến, (4) thành khẩn và nguỵ biện, (5) tinh tuý
IV. Từ loại và cụm từ.
1.Danh từ:
a.Nghĩa khái quát: Là những từ chỉ người, vật, hiện tượng, khái niệm…
b.Đặc điểm ngữ pháp của danh từ:
-Khả năng kết hợp:Danh từ có thể kết hợp với từ chỉ số lượng ở phía trước, các từ này,
nọ, ấy, kia,…và một số từ khác ở sau để tạo thành cụm danh từ.
-Chức vụ ngữ pháp của danh từ:
+Điển hình là làm chủ ngữ: Cơng nhân này// đang làm việc.
+Khi làm vị ngữ phải có từ là đi kèm :Tôi// là người Việt Nam.
-Các loại danh từ: Xem mô hình danh từ sau:
+Danh từ đơn vị:nêu tên đơn vị dùng để tính đếm, đo lường sự vật
+Danh từ chỉ sự vật:dùng để nêu tên từng loại hoặc từng cá thể người, vật, hiện tượng,
khái niệm…
.Danh từ chung : là tên gọi một loại sự vật
.Danh từ riêng:tên riêng của từng người, từng vật, từng địa phương
Danh từ
Danh từ chỉ đơn vị
Đơn vị tự nhiên
Danh từ chỉ sự vật
Đơn vị quy ước
Chính
xác
Danh từ chung
Danh từ riêng
Ước
chừn
g
-Cách viết hoa danh từ riêng. (Quy tắc viết hoa ) ghi nhớ sgk T-109
2. Cụm danh từ:
a.Nghĩa khái quát:Là tổ hợp từ do danh từ với một số từ ngữ phụ thuộc nó tạo thành.
b.Đặc điểm ngữ nghĩa của cụm danh từ: nghĩa của cụm danh từ đầy đủ hơn một danh từ
(công nhân/chú công nhân kia)
c.Chức vụ ngữ pháp của cụm danh từ: giống như danh từ
*Mơ hình cụm danh từ đầy đủ:
Phần trước
t2
t1
Tất cả
những
Phần trung tâm
T1
T2
em
học sinh
Phần sau
s1
s2
u q
kia
Vd: Tìm cụm danh từ trong các câu :
a. Vua cha yêu thương Mị Nương hết mực, muốn kén cho con một người chồng thật
xứng đáng.
b. Gia tài chỉ có một lưỡi búa của cha để lại .
c. Đại bàng nguyên là một con yêu tinh ở trên núi, có nhiều phép lạ.
Điền cụm danh từ vào mô hình cụm danh từ.
Phần trước
( Từ chỉ số lượng )
Phần trung tâm
(Danh từ )
một
một
một
người chồng
lưỡi búa
con yêu tinh
Phần sau
Đặc điểm, vị trí của sự
vật
thật xứng đáng
của cha để lại
ở trên núi, có nhiều phép
lạ
3.Số từ và lượng từ:
* Số từ: Là những từ chỉ số lượng và thứ tự của sự vật.
-Khi biểu thị số lượng sự vật, số từ thường đứng trước danh từ (ví dụ: hai con gà, ba học
sinh…).
-Khi biểu thị số thứ tự, số từ đứng sau danh từ (ví dụ: Canh bốn canh năm vừa chợp mắt;
Tơi // là con thứ nhất.)
Lưu ý: phân biệt số từ với danh từ đơn vị (số từ không trực tiếp kết hợp với chỉ từ, trong khi
đó danh từ đơn vị có thể trực tiết kết hợp được với số từ ở phía trước và chỉ từ ở phía sau)
Ví dụ: khơng thể nói: một đơi con trâu, mà có thế nói là:một đơi gà kia.
* Lượng từ: Là những từ chỉ lượng ít hay nhiều của sự vật.
Lượng từ được chia thành hai nhóm:
+ Lượng từ chỉ ý nghĩa tồn thể: tất cả, tất thảy, cả,…
+ Lượng từ chỉ ý nghĩa tập hợp hay phân phối: những, mỗi, mọi, từng, các,…
*Phân biệt số từ và lượng từ:
- Số từ chỉ số lượng cụ thể và số thứ tự (một, hai, ba, bốn, nhất, nhì…)
- Lượng từ chỉ lượng ít hay nhiều (không cụ thể: Những, mấy, tất cả, dăm, vài…)
Vd: Các từ in đậm trong hai dòng thơ sau được dùng với ý nghóa như thế nào ?
Con đi trăm núi ngàn khe
Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm.
trăm, ngàn, muôn : chỉ số lượng nhiều, rất nhiều ( lượng từ )
2.3. Xác định lượng từ trong các câu:
a. Thần dùng phép lạ bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi…
b. Một hôm, bị giặc đuổi, Lê Lợi và các tướng rút lui mỗi người một ngả.
4. Chỉ từ:
* Chỉ từ là những từ dùng để trỏ vào sự vật, nhằm xác định vị trí (định vị) của sự vật trong
không gian hoặc thời gian.
* Hoạt động của chỉ từ trong câu:
+ Làm phụ ngữ S 2 ở sau trung tâm cụm danh từ (theo dõi chỉ từ “kia” ở mơ hình cụm danh
từ trên)
+ Làm chủ ngữ hoặc trạng ngữ trong câu.
Ví dụ: Chỉ từ (đó) làm chủ ngữ và định vị sự vật trong khơng gian
(Đó // là q hương của tơi.)
C
V
Ví dụ: Chỉ từ (ấy) làm trạng ngữ và định sự vật trong thời gian
(Năm ấy, tơi// vừa trịn ba tuổi.)
TN C
V
5. Động từ:
- Động từ là những từ chỉ hành động, trạng thái của sự vật.
- Động từ thường kết hợp với các từ đã, sẽ, đang, cũng, vẫn, hãy, đừng, chớ… để tạo
thành cụm động từ.
- Chức vụ ngữ pháp của động từ:
+ Chức vụ điển hình là làm vị ngữ.
+ Khi làm chủ ngữ, động từ thường mất hết khả năng kết hợp với các từ đã, sẽ, đang,
hãy….
-Động từ chia làm hai loại:
+Động từ tình thái (thường địi hỏi có động từ khác đi kèm:
+Động từ chỉ hành động, trạng thái : động từ chỉ hành động (đi, đững, nằm, hát…) và
động từ trạng thái(yêu, ghét, hờn, giận…, vỡ, gãy, nát…)
6.Cụm động từ:
*Cụm động từ là tổ hợp từ do động từ một số từ ngữ phụ thuộc nó tạo thành (đang học bài,
…)
Đt
*Cụm động từ có ý nghĩa đầy đủ và có cấu tạo phức tạp hơn một động từ
*Chức vụ ngữ pháp của cụm động từ:giống như động từ
-Làm vị ngữ
-Làm chủ ngữ: khơng có phụ ngữ trước (ví dụ:Đi // là hành động quả quyết.)
-Cụm động từ có cấu tạo đầy đủ gồm ba phần: Xem SGK/148
*Mơ hình sau:
Phần trước
Phần trung tâm
Phần sau
cũng/cịn/đang/chưa
tìm
được/ngay/câu trả lời
Bài tập :
1. Tìm cụm động từ trong các câu sau:
a. Em bé còn đang đùa nghịch ở sau nhà .
b. Vua cha yêu thương Mị Nương hết mực, muốn kén cho con một người chồng thật
xứng đáng.
c. Cuối cùng, triều đình đành tìm cách giữ sứ thần ở công quán để có thì giờ đi hỏi
ý kiến của em bé thông minh nọ.
2.3. Điền cụm động từ vào mô hình cụm động từ. ( Chú ý động từ chính làm
trung tâm ).
Phần trước
còn đang
Phần trung
tâm
( Động từ )
đùa nghịch
yêu thương
muốn kén
đành tìm
có
đi hỏi
Phần sau
ở sau nhà
Mị Nương hết mực
cho con một người chồng thật xứng đáng
cách giữ sứ thần ở công quán để có thì
giờ đi hỏi ý kiến của em bé thông minh
nọ.
thì giờ đi hỏi ý kiến của em bé thông
minh nọ.
ý kiến của em bé thông minh nọ
7.Tính từ và cụm tính từ:
- Tính từ là những từ chỉ đặc điểm, tính chất của sự vật, hành động, trạng thái.
- Các loại tính từ: Tính từ chỉ đặc điểm tuyệt đối: trắng bóc, đỏ chót…. (khơng kết hợp với
các từ chỉ mức độ,), tính từ chỉ đặc điểm tương đối: đỏ, xanh, vàng… (kết hợp được với từ chỉ
mức độ)
- Tính từ và cụm tính từ có thể làm vị ngữ, chủ ngữ trong câu. Khả năng làm vị ngữ của
tính từ hạn chế hơn động từ.
Ví dụ: Vàng // là màu của lá.
tt
- Cụm tính từ ở dạng đầy đủ nhất gồm 3 phần: (Có thể vắng phụ trước, phụ sau nhưng
phần TT không thể vắng mặt)
+ Phụ ngữ ở phần trước;
+ Phần trung tâm;
+ Phần sau.
BT : 1.Xác định tính từ trong các câu đã cho :
- Ếch cứ tưởng bầu trời trên đầu chỉ bé bằng chiếc vung và nó thì oai như một vị chúa tể.
- Nắng nhạt ngả màu vàng hoe. Trong vườn, lắc lư những chùm quả xoan vàng lịm .
Từng chiếc lá mít vàng ối. Tàu đu đủ, chiếc lá sắn héo lại mở năm cánh vàng tươi.
2.Tìm cụm tính từ trong câu cho sẵn :
a. Nó sun sun như con đỉa.
b. Nó chần chẫn như cái đòn càn.
c. Nó bè bè như cái quạt thóc.
d. Nó sừng sững như cái cột đình.
đ. Nó tun tủn như cái chổi sể cùn.
TẬP LÀM VĂN
ĐÊ 1: Em hãy kể về một người thầy ( cơ) mà em kính u nhất.
A.
Mở
bài:
Giới
hiệu
chung
về
thầy
(cơ)
giáo
mà
em
q
mến.
- Cho người đọc biết thầy cô là người như thế nào.
- Giới thiệu hồn cảnh (hoặc một đặc điểm nào đó của người thầy hoặc cô giáo) để lại cho bản thân ấn
tượng sâu đậm nhất.
B.
Thân
bài.
- Kể một số việc làm: ý thức, tính nết, tình cảm của thầy cơ đối với em.
Kể
những
việc
làm,
chi
tiết
cụ
thể.
- Chú ý các sự việc, chi tiết phải được lựa chọn đề thể hiện tập trung gây ấn tượng(yêu nghề, nhiệt tình giảng
dạy, u thương chăm sóc học sinh, quan tâm học sinh yếu kém và cá biệt) cụ thể đối với em.
- Có thề kỉ niệm đối với em, từ đó mà em quý mến.
- Miêu tả một vài nét về người thầy (hoặc người cô) mà em yêu quý (chú ý nhấn mạnh những nét riêng,
những nét gây ấn tượng).
- Kể về một nét nào đó đặc biệt trong tính cách (hoặc tác phong, hoặc tình thương yêu đối với học trò,…).
- Đối với riêng bản thân em, kỉ niệm sâu sắc nhất đối với người thầy (hay người cơ giáo) đó là gì?
- Tình cảm của em đối với thầy giáo hay cơ giáo đó ra sao?
C.
Kết
bài.
- Nêu tình cảm và ý nghĩ của em đối với thầy(cơ).
- Nay tuy khơng cịn được học thầy (cơ) đó nữa nhưng em vẫn nhớ về thầy (cơ) đó bằng một sự kính
trọng và yêu mến sâu sắc ra sao?
=============================
Bài mẫu 1:
Tôi yêu những giọt mồ hôi lấm tấm trên vầng trán thầy.Sau mỗi lần giảng bài trên khuân mặt tươi tắn của thầy xuất hiện những
giọt nước lăn tăn , vào hơm có những bài khó hiểu hoặc có những bạn chưa chuẩn bị bài kịp thầy phải tận tâm giảng giải nhiều hơn,
khơng chỉ có mồ hơi trán mà thẫm cả vạt lưng áo thầy.
Tôi vốn là đứa trẻ nhút nhát, học kém hơn các bạn cùng lứa, thấy thầy vất vả trong mỗi bài giảng, tôi cũng đã cố gắng học
nhiều hơn, tập trung nghe giảng chăm chú hơn nhưng có những bài khó hoặc những kiến thức căn bản tơi cịn thiếu muốn hỏi thầy
vào giờ ra chơi lắm nhưng sợ thầy mệt, tôi chần chừ mãi cũng khơng giám hỏi.
Thầy như có phép thần thông, đã đọc được ý định của tôi, những trăn trở của tôi. Vào giờ ra chơi nọ khi các bạn ra sân chơi, trong
lớp chỉ cịn lại tơi và thầy, bất chợt tôi nghe thấy: " Gia Anh, em có gì chưa hiểu hay việc gì mà khơng ra chơi ?" Tôi nghe tơi đây như
bị điện giật vậy, tôi ấp úng đứng lên và thưa: " Dạ không, thưa thầy! "
Khơng có gì thì tốt, nhưng thầy thấy con có vấn đề gì đó phải khơng ? Lại đây với thầy.
Tơi rón rén bước lại bên thầy, tim tơi cịn đập thình thịch, tai tơi thì lùng bùng, thầy nói và hỏi gì đó tơi khơng cịn nhớ nữa, nhưng kể
từ buổi được ở bên thầy, lịng tơi vui sướng được thầy quan tâm, cũng thấy cởi mở, bớt căng thẳng khi gặp thầy. Tơi được thầy tận
tình hướng dẫn cách học, xóa dần những lỗi căn bản của người học trị, rồi từ từ từng bước tơi mạnh dạn, hiểu bài nhiều hơn.
Đến nay những ngày thời tiết oi bức hay trở trời, tôi luôn nhớ về thầy tôi đang giảng bài cho các em, những giọt mồ hôi lăn trên
khuân mặt nhăn nheo của thầy, những vạt áo ướt thẫm mồi hôi. Tôi lại phải quyết tâm hơn nữa để đáp lại sự hy sinh của thầy giành
thế cho hệ chúng tôi và đặc biệt cho tơi, cũng ở thầy mà tơi có ngày hơm nay, có những dịng chữ này để gửi đến thầy lời tri ân sâu
sắc. Dù có đi nơi đâu, em sẽ trở về thăm lại Ơng đồ xưa, ơng giáo làng của em năm nào.
Bài mẫu 2:
Nếu ai đó hỏi em: Từ lúc đi học đến giờ, em học qua bao nhiêu thầy cô giáo - chắc chắn em
không thể nào nhớ được. Nhưng nếu hỏi: Thầy cô nào để lại cho em nhiều ấn tượng nhất? Em sẽ
ngay lập tức nêu ra những cái tên. Song trong suốt sáu năm cắp sách tới trường, em chưa bao giờ
dám nghĩ rằng, có một thầy giáo chỉ dạy em mỗi một tiết văn thơi mà để lại cho em một ấn tượng
khó phai về sự kính yêu đến vậy.
Chuyện xảy ra vào tuần đầu tiên của năm học lớp sáu này. Bước vào ngôi trường mới, lạ thầy,
lạ bạn, chúng em hồi hộp đợi mong những tiết học đầu tiên trong một cảm giác vui mừng xen lẫn
những điều bí ẩn. Sau mỗi tiếng trống tùng và mỗi tràng vỗ tay rộn rã, chúng em lại được làm
quen với một thầy giáo mới. Những người mà trước đó chúng em chưa bao giờ thấy mặt, biết tên,
chưa bao giờ được nghe lời giảng với bao kiến thức mới lạ và xa xôi.
Ngày học thứ nhất trôi qua vội vàng và ồn ã. Lớp học bước vào ngày học thứ hai bằng một
tiết ngữ văn. Tiếng trồng vào giờ cao điểm, thầy giáo bước vào trong sự ngỡ ngàng của bao đôi
mắt trẻ thơ. Chả là với hầu hết các bạn lớp em, đây là lần đầu tiên môn văn được một thầy giáo
dạy .
Thầy bước vào giờ giảng nhẹ nhàng và trầm ấm vô cùng. Tiết dạy đầu tiên, thầy dành hơn
mười phút để giới thiệu tồn bộ chương trình ngữ văn lớp sáu. Khơng khí lớp khơng hiểu tại sao
tự nhiên sơi nổi hẳn lên. Thầy vẫn nói về bài giảng nhưng lại gợi trong chúng em bao ấn tượng
xốn xang. Thầy kể về kỷ niệm ngày đầu tiên thầy bước vào ngôi trường học cấp hai. Thầy mới,
bạn mới và những bải giảng mới nhanh chóng cuốn hút niềm đam mê văn học của thầy. Thế là từ
ngày đó lúc nào thầy cũng mơ ước trở thành một thầy giáo dạy văn để được truyền dạy cho học
sinh những cảm giác sâu lắng được dồn tụ qua từng trang sách. Chúng em tròn mắt hớp lấy từng
lời giảng của thầy một cách say sưa. Sao kỷ niệm của thầy giống tâm trạng của chúng em lúc này
đến vậy. Chúng em càng ngỡ ngàng, nhưng cũng ngây ngất và vui mừng lăm . Bài giảng của thầy
cứ diễn ra trọn vẹn một giờ trước những khuôn mặt ngây thơ đang ngày càng trở nên tươi tắn. Ơi!
cuộc sống sao cịn nhiều niềm vui, nhiều mơ ước, nhiều chân trời lạ thế. Đó cũng là những nơi xa
lạ, đẹp đẽ và huyền bí. Mảnh đất ấy chùng em chưa từng đến bao giờ. Nhưng những ước mơ
chinh phục của chúng em thì hình như đang bắt đầu được thầy thắp sáng.
Nhưng đúng là tiếc nuối vô cùng! Không ngờ tiết văn ấy lại là tiết văn duy nhất thầy Bình dạy
chúng em. Sau tuần ấy tuần được cử lên trường của tỉnh. Thầy ơi! Bao giờ chúng em mới được
gặp lại thầy. Người đã dạy chúng em bao điều mới lạ, dạy chúng em ước mơ bằng chính những
ước mơ có thực của thầy.
ĐỀ 2: KỂ VỀ NGƯỜI THÂN TRONG GIA ĐÌNH
A. Mở bài.
- Giới thiệu sơ lược về người mà em sẽ kể (tên, tính cách,…).
B. Thân bài.
- Đặc điểm và tính cách nổi bật của người mà em đang kể là gì?
- Người mà em đang kể đã giúp đỡ bảo ban em như thế nào trong học tập và trong cuộc
sống?
- Tình cảm của em và người đó ra sao?
- Có thể kể thêm về một kỉ niệm nào đó đáng nhớ nhất của em và người đó.
C. Kết bài.
- Niềm hạnh phúc của bản thân khi có được một người ông (bà, cha mẹ, anh chị,..) tốt.
Bài mẫu:
Hình ảnh bà là hình ảnh đẹp và thiêng liêng trái tim tơi. Bà ngoại người mà tơi kính u,
người
ln
quan
tâm,
u
thương
tơi
nh ất.
Bà năm nay đã ngồi 60 tuổi, trơng bà vẫn còn mạnh khỏe như những người tuổi 50.
Dáng bà cao, hơi gầy nhưng bà còn làm việc khỏe như tuổi đơi mươi. Bà có nước da trắng
khiến các chị phải mê. Bà ăn mặc giản dị, gọn gàng và rất sạch sẽ.
Bà có khn mặt dài, hai má đầy đặn trơng rất phúc hậu. Xưa kia, tóc bà rất dài đen và óng
mượt, nay bà cắt ngắn cho mát, nó vẫn cịn đen nhưng khơng cịn mượt mà như xưa nữa.
Đơi mắt bà cịn sáng, khơng đeo kính mà vẫn xỏ kim chỉ được. Mũi bà thì khơng cao nhưng
đẻ bốn người con ai cũng cao. Miệng của bà rất tươi khi cười. Giong nói của bà nhỏ nhẹn,
khoan
thai,
đầy
chuyền
cảm
và
rất
dễ
có
cảm
tình.
Ngoại ở trên q cách nơi gia đình tơi sống khoảng 100 kilomet,
Cứ vài tuần, ngoại thu xếp công việc nhà xong rồi ngoại đến chăm sóc, vui chơi với gia đình
tơi. Những lúc hai anh em tôi ra khỏi nhà đi học thì bà ở nhà qt dọn, lau chùi phịng của mỗi
chúng tôi gọn gàng, ngăn nắp và sạch sẽ. Mỗi khi chúng tơi về nhà cứ ngỡ nhà có bà tiên mới
đến làm phép lạ vậy. Nhiều lần hai anh em tơi cảm ơn ngoại về việc chăm sóc cho gia đình
tơi, bà chỉ nói: " Hai cháu của bà đi học còn vất vả hơn cả bà nữa đấy !" Nói đến đây lịng tơi
thấy đau quặn lại nhớ có lúc tơi lơ là việc học mà bà cứ tưởng tôi chăm chỉ học hành.
Ngoại vui vẻ, hoạt bát với mọi người xung quanh làm ai cũng yêu qúy. Tôi cố gắng lấy gương
vui vẻ chan hòa của bà đối với mọi người để tơi theo, bước đầu tơi thấy khó và ngượng ngùng
nhưngdần
dần
cũng
thấy
quen.
Bà thường dậy sớm để đi nhà thờ cầu nguyện cho bản thân biết cách tu luyện cho phải phép
đạo, cho mọi người trong gia đình yêu thương nhau, xã hội được thanh bình, người người cơm
no, áo mặc. Bà dạy anh em tôi hiểu biết Đạo là "Phương pháp" dạy cho con người biết cách tu
thân, sửa tánh. Đạo là trí tuệ của thánh nhân đã đi qua, trải qua đem dạy lại cho những người
đi sau và nó trở thành tài sản tri thức của lồi người. Bà nói: " Làm người mà khơng có đạo
gọi là có Trí nhưng chưa có Tuệ" người chưa hiểu hết được đỉnh cao tri thức của xã hội loài
người. Anh em chúng tôi cũng được bà dạy cho cách " Cầu - nguyện", cầu là xin điều mình
chưa có nhưng nguyện là bù đắp lại những gì mình xin được. Cầu mà không nguyện là chỉ biết
xin, biết hưởng mà không biết đền đáp lại. Nguyện mà không cầu mới là người tốt, người biết
sống
chan
hòa
với
mọi
người.
Ngoại là người bà tuyệt vời nhất mà em từng có trên đời, nên em quyết tâm học giỏi cho
bà vui, bà mới có động lực sống xem cháu của bà lớn khôn từng ngày. Tôi cũng chia sẻ điều
này với những ai có bà mà khơng q, khơng kính trọng cũng xem như khơng có bà ở bên
mình.
Bài mẫu 2:
Mỗi người đều có một người mẹ. Đó là một chỗ dựa tinh thần rất lớn mà ai cũng phải đáng quý trọng. Mẹ tôi cũng vậy, mẹ ln
ln
dành
tình
u
thương
lớn
nhất
cho
chúng
tơi
để
bù
đắp
nỗi
mất
mát
về
người
cha.
Tơi sinh ra đã khơng thấy được mặt cha. Đó là sự tổn thương rất lớn. Tuy vậy, nhưng mỗi khi ở bên mẹ, tôi cảm thấy thật
hạnh phúc. Năm tôi lên một tuổi, mẹ tôi phải đi làm thuê để kiếm tiền ni gia đình. Nào là đóng gạch, cuốc mướn… mẹ làm hết.
Nghĩ đến đây mà tôi rưng rưng nước mắt. Số mẹ tôi thật khổ! Mẹ làm vất vả đến như vậy mà vẫn không đủ ăn nên mẹ phải đi làm
nghề
dạy
trẻ.
May
mắn
lắm
mẹ
mới
xin
được
vào
một
nơi
ổn
định.
Bàn tay mẹ tần tảo, đầy những vết chai sần. Đơi mắt thì quầng đen vì làm việc vất vả. Nhưng tôi biết, vào những ngày Tết trong khi
mọi người dang vui đùa chạy nhảy thì mẹ lại ra ngồi vườn lặng lẽ ngồi khóc. Những giọt nước mắt chứa đọng tâm hồn trong sáng,
chung
thủy
của
mẹ.
Mẹ thật là cao cả! Mẹ vẫn luôn dõi theo từng bước đi của tôi như một động lực giúp tôi không ngừng học hỏi. Tơi cịn nhớ có năm
lúa thất (mất) mùa mẹ phải đi khuân vác gạch thuê cho người ta để kiếm tiền. Đôi vai mẹ bị chầy xước rất nhiều. Nhưng nó lại chưa
đựng
nhiều
kỷ
niệm
đối
với
tơi.
Đến
bây
giờ,
mẹ
vẫn
khơng
ngừng
làm
việc.
Có lẽ ơng trời khơng cho mẹ nghỉ. Tuy vậy, mẹ có một tâm hồn vẫn lạc quan, yêu đời. Tôi thật cảm phục trước mẹ. Năm tháng qua
đi, mẹ vẫn phải chịu đựng bao nỗi đắng cay, ngọt bùi. Mẹ như là một tia sáng của đời con. Tôi biết mẹ ấp ủ trong mình một nỗi hy
vọng: “Khơng để cuộc đời con lại giống mình phải gây dựng cho con một sự nghiệp”. Tơi biết vì tơi, mẹ có thể hy sinh tất cả, kể cả
niềm
vui.
Vì
thế
mẹ
rất
nghiêm
khắc
khi
tơi
làm
sai
việc.
Tơi thật khâm phục mẹ. Tơi phải phấn đấu để trở thành một người con ngoan để mẹ khỏi buồn lịng, để đền đáp cơng lao
sinh dưỡng của mẹ. Mẹ là một người mẹ không giống với người mẹ nào. Trong mắt mẹ, tôi như là một hy vọng rực rỡ. Tơi vẫn ln
ghi nhớ câu nói: “Nếu mẹ là dịng sơng, con là nước thì dịng sơng không thể chảy được nếu thiếu nước”.
MỞ BÀI MẪU:
+Trên trời cao có mn ngàn ánh sao, trên đồng xa có mn ngàn cây lúa, con chim rừng có mn ngàn tiếng ca,
cây trong vườn có mn ngàn lá hoa, riêng mặt trời chỉ có một mà thơi và MẸ TƠI chỉ có một trên đời...
========================================================================
ĐỀ 3: KỂ VỀ MỘT KỈ NIỆM KHIẾN EM KHÔNG THỂ NÀO QUÊN
Mỗi chúng ta khi lớn lên, đều bỏ lại đằng sau mình một thời thơ ấu biết bao kỉ niệm buồn vui lẫn
lộn. Tôi vẫn nhớ những lần ham chơi quên cả giờ về, hãy những lần mải đi chơi làm mất cả chìa khóa
nhà. Nhưng kỉ niệm về người anh họ của em khiến em nhớ mãi không thể nào quên.
Trong những dịp nghỉ hè, tôi thường được bố mẹ cho về quê. Tơi rất thích về q bởi ở đó tơi có
một người anh họ. Anh hơn tôi một tuổi và rất quý tôi. Mỗi lần về quê, anh thường dắt tôi đi chơi khắp
nơi. Anh đi đằng trước, tôi lũn cũn chạy theo sau. Nhưng khi tôi mỏi chân, anh thường cõng tôi trên
lưng. chạy nhong nhong. Ngồi trên lưng anh tơi thích chí cười khanh khách. Q tơi có bờ lau trắng xóa.
Nhưng lúc đang chơi đuổi bắt, khơng thấy anh đâu, tơi khóc thét lên, anh từ đâu chạy đến, rắc lên đầu
tơi những cánh hoa khiến tơi trịn mắt ngạc nhiên. Đặc biệt, tơi rất thích mỗi khi anh và bạn anh thi thả
diều, nhìn cánh diều bay lên bầu trời cao ***g lộng, tôi không bao giờ chán. Anh chiều tơi là thế nhưng
tính nhõng nhẽo của tơi đã gây nên một tai nạn. Hơm đó, anh dắt tơi đi đến nhà một người bạn. Trên
đường đi, tôi bống nhìn thấy một cây roi quả sai vơ cùng. Những quả roi chín thành từng chùm trơng
thật thích mắt. Tơi dừng lại và chỉ lên những chùm quả đang lấp ló trong tán lá. Tơi muốn ăn roi. Anh
định trèo lên hái cho tôi. Anh đứng ngước mắt lên và lắc đầu: "Cây cao quá, anh không trèo được. Thôi,
đi cùng anh ra chợ, anh sẽ mua cho em". Tôi nhất quyết "Khơng, em thích ăn cả chùm cơ! Ở chợ khơng
có roi giống thế này". Dù anh thuyết phục thế nào, tôi cũng không chịu. Anh càng dỗ, tôi càng bướng và
tôi đã ngồi bệt xuống đất, nước mắt bắt đầu chảy dài, tay chân đạp loạn xạ. Tôi biết, anh nhất định sẽ
hái cho tôi khi thấy tôi khóc. Và quả thật, tơi đã thắng. Anh kéo tơi đứng dậy, lau nước mắt và nói: "Em
nín đi, anh sẽ hai cho em chùm quả đó". Anh dắt tơi đến cổng nhà bác có cây roi, gọi cửa và tơi thấy có
một bác chạy ra, anh xin phép bác cho anh được hái một chùm roi. Bác đồng ý nhưng dặn anh tơi phải
cẩn thận vì cành roi rất giòn. Anh trèo lên, trèo thật cao để hái được đùng chùm roi tơi thích. Nhưng khi
đang hái thì anh trượt chân, ngã nhào từ trên cây xuống. Tôi thấy anh ngã thì chạy đến hỏi: "Anh có đau
khơng?" anh gượng cười, nói: "Anh khơng sao đâu. Em cứ n tâm". Nhưng không phải thế, anh bị gãy
chân...
Bố về quê, biết anh bị gãy chân vì tơi. Bố đã mắng tơi nhưng anh lại nói với bố: "Tất cả là tại
cháu, chú đừng mắng em kẻo nó sợ". Dù tơi có gây ra chuyện gì, anh cũng ln che chở cho tôi. Anh là
người anh tuyệt vời của tôi. Kỷ niệm đó mỗi khi nghĩ lại, tơi lại thấy cay cay nơi sống mũi.
Bài mẫu 2
Ai đã từng qua một thời cắp sách hẳn khơng thể nào qn khơng khí của những buổi tựu trường. Với tôi,
ngày khai trường luôn là một kỷ niệm đẹp. Đó cũng là ngày sinh nhật của tơi. Ngày xưa, cuộc sống cịn khó
khăn nên thường đến ngày khai trường và lễ tết chúng tôi mới có quần áo mới. Học sinh kéo nhau đến trường
dự lễ khai giảng sau một mùa hè sôi động, sao tơi cảm thấy có cái sự nơ nức nhiệt tình hơn hẳn ngày nay.
Ngày đầu tiên tơi bước vào lớp một cũng vậy. Hình như là khoảng mùng năm hay mùng sáu tháng chín
gì đó, tơi khơng cịn nhớ rõ nữa. Tơi chỉ nhớ đó là một buổi sang cuối thu êm đềm, bầu trời cao trong xanh có
ánh nắng vàng tươi. Cái mùa thu ở quê tôi thật đặc biệt- mùa thu miền Trung – không se lạnh như ở miền Bắc
hay quá nóng nực như ở miền Nam . Nó dịu ngọt và nhẹ nhàng. Quả đúng là thời điểm khiến cho nhười ta dễ
nhớ. Phải chăng đây chính là lí do để mùa thu là mùa tựu trường?Ngay từ sang sớm, mẹ đã đánh thức tôi dậy,
sửa soạn mọi thứ thật tinh tươm. Tôi cũng không nũng nĩu không chịu dậy như mọi ngày. Cái không khí tất
bật nhưng nghiêm túc mà mọi người trong gia đình gây ra khiến tơi cũng cảm thấy hơm nay là một ngày rất
quan trọng dù lúc đó thật sự tơi vẫn khơng hiểu hết tầng ý nghĩa của nó.
Áo quần, cặp sách đã chỉnh tề xong, mẹ chở em tôi và tôi đến trường. Dọc đường, chúng tôi gặp những cậu
bé, cô bé cùng lứa tuổi. Đứa nào đứa nấy cũng đều ngơ ngác nhìn ngược nhìn xi và trên khn mặt chúng
có chút gì đó sợ sệt. Thường thì khi gặp điều gì đó có vẻ lạ, tơi đều muốn khám phá và tìm hiểu nó. Có lẽ điều
đó khiến cho ngày tựu trường đối với tơi thật đặc biệt, giống như một cuộc phiêu lưu kỳ lạ. Ngay trong lễ khai
giảng, mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía những học sinh lớp một khiến tơi cảm thấy tự hào vơ cùng. Mà đâu chỉ
có mình tơi, nhiều bạn đứng trước, bạn thì ưỡn ngực ra vẻ, bạn thì mặt mày tỏ vẻ nghiêm túc lắm mà miệng
thì cứ cười tít mắt. Rồi một chị lớp năm với cương vị là liên đội trưởng chỉ huy cho tồn trường hát quốc ca.
Tất cả chúng tơi đều hát rất to. Tơi bất giác tưởng tượng ra mình chính là một chiến sĩ nhỏ đang đứng trong
một đoàn kị binh oai hùng đánh đuổi những tên khổng lồ mà hằng đêm mẹ vẫn kể trong các câu chuyện cổ
tích. Xong tiết mục chào cờ, chúng tôi được nghe đọc thư mừng ngày khai giảng của Chủ tịch nước. Điều này
khiến tôi dần dần nhận ra được tầm quan trọng của việc học hơn trước rất nhiều. Tiếp đến là tiết mục đánh
trống khai trường của thầy hiệu trưởng. Trông thầy thật hiền từ và nhân hậu biết bao. Thầy giống như một
người cha lớn của hàng trăm em học sinh đang ngồi đây vậy. Tiếng trống trường cất lên “Tùng! Tùng! Tùng!”
nghe thật vang xa báo hiệu cho một năm học mới đã đến. Rồi những quả bóng bay đủ màu sắc cũng được thả
bay trên bầu trời. Lúc đó tơi có một cảm giác rằng mình cũng đang bay, đang bay trong một biển trời tri thức
mới, vai trò một người học sinh đang đến với tơi khiến tơi tự hào vơ cùng. Nó làm tơi cảm giác mình lớn hẳn
lên khơng phải vì mấy hơm trước có cao hơn vài xentimét mà lớn hơn trong tiềm thức tơi mặc dù tơi chỉ vừa
trịn
sáu
tuổi.
Dẫu rằng 6 năm đã trôi qua nhưng những kỷ niệm trong ngày tựu trường bước vào lớp một vẫn luôn
hiện lên trong tôi một cách vẹn nguyên, bởi hàng đêm vào mùa thu nó lại ùa về nhắc nhở tơi về con đường tri
thức mà tơi đang tiến bước. Nếu như lịng yêu nước được xuất phát từ tình yêu những điều bình dị nhất như
nhà văn Ê-ren-bua đã nói thì có lẽ chính những kỷ niệm của ngày tựu trường đầu tiên là nguồn sức mạnh cho
tơi lịng u tri thức. Tơi chắc rằng mình sẽ mài nhớ về nó, nhớ về ngày khai trường đầu tiên của mình bởi nếu
có điều gì đó khiến cho người ta phải nghĩ thì chắc chắn đó là một điều quan trọng.
ĐỀ 4: Hãy kể về 1 người mà bạn yêu quý nhất.
Năm tháng cứ thế trơi đi, chỉ có thời gian là thước đo tốt nhất cho tình cảm bạn bè.
Trong suốt thời gian đó, có lẽ Diệp Anh là người bạn mà em yêu mến nhất, người bạn đã học
với em từ suốt năm học lớp ba.
Dáng người Diệp Anh dong dỏng cao, khuôn mặt bầu bĩnh, đầy đặn của bạn hễ ai nhìn
đến cũng thấy đáng yêu. Nước da ngăm ngăm đen. Mái tóc dài óng ả. Cặp mắt đen láy lúc nào
cũng mở to, tròn xoe như hai hòn bi ve. Chiếc mũi hếch và cái miệng rộng luôn tươi cười để
lộ hai hàm răng trắng bóng. Ở Diệp Anh khi nào cũng toát lên vẻ năng động, tự tin, hóm hỉnh
và hài hước nên rất dễ mến.
Diệp Anh rất hiếu động, không lúc nào yên nghỉ chân tay. Trong giờ ra chơi, chỗ nào sơi
động nhất là ở đó có Diệp Anh. Chúng em thường tụ tập nhóm ba, nhóm bảy ngồi xung quanh
bạn Diệp Anh để nghe bạn kể chuyện. Mở đầu câu chuyện, Diệp Anh vẫn thường hay kể: “
Cái hồi xưa ấy, đấy, cái hồi ấy, cái hồi mà bà tớ chưa sinh ra mẹ tớ ấy …”. Chỉ nghe có đến
thế thơi là chúng em đã thấy buồn cười đến nỗi không thể nhịn được rồi mà cái mặt Diệp Anh
vẫn cứ tỉnh như bơ. Đặc biệt, Diệp Anh có một trí nhớ rất tốt. Những câu truyện đã đọc hay đã
nghe, Diệp Anh đều nhớ như in và kể lại bằng đúng giọng nhân vật nên rất cuốn hút và sinh
động. Một mình Diệp Anh đóng đủ các vai, kết hợp với điệu bộ khơi hài khiến bọn em lăn lóc
cười đến vỡ bụng.
Diệp Anh ln ln làm ra những trị chơi thú vị. Bạn thường hay chơi cùng với chúng em trò
bịt mắt bắt dê hay bó khăn. Vừa chạy lại vừa kêu tiếng dê be be nghe rất ngộ nghĩnh. Diệp
Anh thường biểu diễn tiếng hát, tiếng ngựa hí và con sóc nâu hay leo trèo. Mỗi tiết mục, Diệp
Anh đều được hoan nghênh nhiệt liệt và gây ra những trận cười nứt nẻ.
Không chỉ là các bạn gái mà cả các bạn trai ngoài và trong lớp đều yêu mến bạn Diệp Anh.
Nhưng thật không may, hai tuần trước đây, một tai nạn giao thơng đã cướp đi tính mạng của
người bạn mà chúng em yêu quý. Dù biết bạn đã khuất nhưng chúng em vẫn cứ coi như bạn
vẫn sống và làm việc cùng chúng em, bây giờ bạn đang thi đỗ vào trường Amsterdam và đi du
học rồi. Cô giáo vẫn gọi bạn đứng lên đọc bài và vẫn cứ lấy cơm, lấy gối cho bạn ăn học.
Rồi mai đây phải xa mái trường thân yêu, em cũng sẽ mang theo nhiều kỷ niệm cùng với
những yêu mến của cả lớp với bạn Diệp Anh.