Tải bản đầy đủ (.pdf) (150 trang)

Nghiên cứu về giải phẫu học và sinh lý mắt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.99 MB, 150 trang )

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
SVTH: NGUYỄN MINH TRUNG - 1 - GVHD: TH.S LÊ CAO ĐĂNG
NGUYỄN ANH TUẤN
CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
SVTH: NGUYỄN MINH TRUNG - 2 - GVHD: TH.S LÊ CAO ĐĂNG
NGUYỄN ANH TUẤN
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN
I.1. GIỚI THIỆU:
Năm 2005 giới cảnh sát đã phát hiện: nguyên nhân của 3034 vụ tai nạn, trong
đó có 1786 vụ gây nên thương tích, chính là sự buồn ngủ và mất tập trung của
người lái, chiếm 0,5% các vụ tai nạn nghiêm trọng. Tuy nhiên, các chuyên gia
ước tính rằng những trường hợp không thể xác định nguyên nhân chiếm 10 - 20%
các vụ tai nạn. Sự mệt mỏi và buồn ngủ của người lái dễ gây tai nạn hơn gấp 2,5
lần so với bất kỳ nguyên nhân nào khác
[1]
. Theo điều tra của các công ty bảo
hiểm Đức thì cứ 4 vụ tai nạn thảm khốc trên xa lộ, có 1 vụ là do sự buồn ngủ của
tài xế gây ra. Thực tế này cũng đã được kiểm chứng bởi các nhà nghiên cứu tai
nạn ở nhiều quốc gia khác nhau. Trong đó tại Việt Nam, các tai nạn nghiêm trọng
xảy ra do tình trạng buồn ngủ của tài xế cũng không phải là hiếm.
Để khắc phục tình trạng buồn ngủ, nhiều biện pháp tránh tai nạn ngày càng
được ứng dụng. Các biện pháp chủ yếu được sử dụng là các công cụ xử lí ảnh
chẳng hạn như nhờ vào sự quan sát động tác chớp mắt. Theo đó, một camera
hồng ngoại được đặt ngay trên đầu người lái sẽ liên tục ghi lại trạng thái chớp
mắt và phân tích thời gian mắt nhắm lại. Nếu thời gian này lâu hơn một khoảng
thời gian định sẵn, khi đó nó sẽ phát ra âm thanh để cảnh báo. Một vài phương
pháp khác dựa vào khả năng đo trạng thái của các động tác lái xe thông thường
như cách cầm vô lăng hay đạp thắng... để phát tín hiệu cảnh báo. Ví dụ như
trường hợp người lái không di chuyển vô lăng trong thời gian quá lâu...


Tuy nhiên công cụ xử lí ảnh vẫn có những nhược điểm nhất định như xử lí
không được đối với trường hợp những người ngủ nhưng vẫn mở mắt. Trong khi
phương pháp EOG đánh giá tình trạng hoạt động của mắt thông qua các thông số
điện sinh học được thu nhận qua các điện cực bề mặt có khả năng giải quyết được
trường hợp trên. Do đó nhóm quyết định đánh giá tình trạng buồn ngủ bằng
phương pháp đo “điện động nhãn đồ_EOG”. Vấn đề được đặt ra xoay quanh ba
câu hỏi sau:
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
SVTH: NGUYỄN MINH TRUNG - 3 - GVHD: TH.S LÊ CAO ĐĂNG
NGUYỄN ANH TUẤN
 Làm sao để thu nhận được tín hiệu EOG, cũng như là các thông tin có ích
từ EOG?
 Dùng EOG đánh giá tình trạng buồn ngủ có được hay không?
 Nếu được thì làm sao để cảnh báo tình trạng buồn ngủ?
I.2. PHƯƠNG PHÁP LUẬN:
Để trả lời câu hỏi thứ nhất, nhóm đã tìm được thiết bị MP_30 của hãng
BIOPAC cùng chương trình BSL đi kèm cho phép thu nhận cũng như là phân
tích các dữ liệu thu được. Chương trình BSL còn cho phép liên kết với các
công cụ xử lí khác chẳng hạn như MATLAB để có thể rút ra các thông số có
ích từ tín hiệu EOG.
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về EOG và cũng đã có nhiều bài báo
công bố kết quả dùng EOG đánh giá tình trạng hoạt động của mắt và một số
bệnh về thần kinh. Do đó, có thể dùng EOG đánh giá tình trạng buồn ngủ
thông qua hoạt động của mắt. Nhóm đã nghiên cứu và bước đầu đã lập được
một số thông số liên quan giữa tình trạng buồn ngủ và hoạt động của mắt.
Trạng thái buồn ngủ thực ra rất phức tạp và tạo nên nhiều hiệu ứng khác nhau.
Dựa vào các phép tính xác suất để so sánh các dữ liệu với nhau rồi lưu trữ,
một thư mục thông tin cá nhân về người lái sẽ được khởi tạo. Từ đó kịp thời
đưa ra những cảnh báo về trạng thái buồn ngủ. Nói cách khác, tài xế đã được
cảnh báo kịp thời ngay khi chuyển đổi trạng thái tỉnh táo sang buồn ngủ trong

khi lái xe. Đây cũng là phương pháp luận của nhóm để có thể hoàn thành đề
tài này.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
SVTH: NGUYỄN MINH TRUNG - 4 - GVHD: TH.S LÊ CAO ĐĂNG
NGUYỄN ANH TUẤN
CHƯƠNG II:
GIẢI PHẪU HỌC VÀ SINH
LÝ MẮT
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
SVTH: NGUYỄN MINH TRUNG - 5 - GVHD: TH.S LÊ CAO ĐĂNG
NGUYỄN ANH TUẤN
CHƯƠNG II: GIẢI PHẪU HỌC VÀ SINH LÝ MẮT
Ở con người, mắt hình thành rất sớm, vào khoảng tuần lễ thứ 3 của thai kỳ.
Khi đó, phôi chỉ dài 3 mm. Mắt bắt nguồn từ não dưới dạng 2 túi thị nguyên thủy,
lồi dần ra phía trước để cuối cùng tạo nên… võng mạc. Đây là phần nhạy cảm
nhất của mắt đối với ánh sáng. Về sau, vào khoảng tháng thứ 2 của thai kỳ, lớp da
của thai mới tạo nên những thành phần khác của mắt (như thủy tinh thể….).
II.1. CẤU TẠO MẮT
[2][3]
:
Mắt (organon visus) gồm có nhãn cầu, thần kinh mắt và những bộ phận phụ
thuộc như mí mắt, lông mi, các cơ mắt, các cân mạc, tuyến lệ và các màng tiếp
hợp (Hình 2.1).
Hình 2.1: Cấu tạo mắt
Nhãn cầu tương tự như máy thu của hệ thống quang học, chuyển năng lượng
ánh sáng thành xung thần kinh. Những xung thần kinh theo đường dẫn truyền thị
giác tới vỏ não chẩm và ở đây chuyển thành hình ảnh thị giác. Nhãn cầu muốn
hoạt động tốt cần phải có những bộ phận phụ thuộc. Bộ phận che chở đó là xương
hốc mắt bảo vệ phía sau và mí mắt cử động bảo vệ phía trước. Bộ phận cơ ngoại
nhãn giúp nhãn cầu hoạt động mọi hướng. Bộ lệ để gìn giữ giác mạc luôn được

trong suốt (Hình 2.2).
Nhãn cầu được bao trong một lớp mô liên kết cứng nhưng đàn hồi gọi là củng
mạc (sclera). Phần trước của củng mạc là giác mạc (cornea) trong suốt và cong
nhiều, đóng vai trò là thành phần đầu tiên trong hệ thống tập trung ánh sáng của
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
SVTH: NGUYỄN MINH TRUNG - 6 - GVHD: TH.S LÊ CAO ĐĂNG
NGUYỄN ANH TUẤN
mắt. Lớp phía trong củng mạc là mạch mạc (choroid). Ðó là một lớp mô màu
sẫm có nhiều mạch máu chạy qua. Chúng vừa có vai trò cung cấp máu cho phần
còn lại của mắt, vừa là một lớp màng để hấp thu ánh sáng.
Ngay trước vùng tiếp nối giữa phần chính của củng mạc và giác mạc, mạch
mạc trở nên mỏng hơn và có nhiều cơ trơn bên trong. Phần này được gọi là thể
mi (ciliary body). Phía trước thể mi, mạch mạc tách khỏi cầu mắt và mở rộng
vào xoang mắt, hình thành mống mắt (iris). Mống mắt có nhiều sợi cơ trơn sắp
thếp theo hình vòng và hình tia. Khi các sợi cơ vòng co lại, đồng tử (pupil) ở
trung tâm mống mắt củng co và ngược lại. Như vậy, mống mắt có vai trò trong
việc điều hòa lượng ánh sáng đi vào mắt.
Hình 2.2: Sơ đồ lát cắt ngang mắt người
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
SVTH: NGUYỄN MINH TRUNG - 7 - GVHD: TH.S LÊ CAO ĐĂNG
NGUYỄN ANH TUẤN
Hố mắt giữa nằm trong khu vực gần chính giữa võng mạc, và nằm thẳng dọc
theo trục chính của mỗi mắt. Cũng gọi là “điểm vàng”, hố mắt nhỏ (dưới 1
mm
2
), nhưng rất chuyên biệt. Những vùng này chứa các tế bào hình nón chi chít,
mật độ cao (trên 200.000 tế bào hình nón/mm
2
đối với mắt người trưởng thành,
xem Hình 2.3).

Hố mắt giữa là khu vực nhìn sắc nét nhất, và tạo ra độ phân giải không gian,
độ tương phản và màu sắc rõ nhất. Mỗi mắt có chừng bảy triệu tế bào hình nón,
chúng rất mỏng (đường kính 3 mm) và thon dài. Mật độ tế bào hình nón giảm ở
bên ngoài hố mắt do tỉ lệ tế bào hình que so với tế bào hình nón tăng dần lên
(Hình 2.3).
Tại vùng rìa của võng mạc, tổng số cả hai loại cơ quan thụ cảm thị giác này
đều giảm về cơ bản, gây ra sự mất mát sâu sắc độ nhạy thị giác tại rìa ngoài của
võng mạc. Điều này có thể bù lại bởi thực tế thì người ta nhìn liên tục các vật
trong tầm nhìn (do cử động mắt nhanh tự nhiên), nên ảnh nhận được có độ nét
đồng đều. Trong thực tế, khi ảnh bị ngăn cản không cho chuyển động tương đối
so với võng mạc (thông qua một quang cụ nào đó), thì mắt không còn cảm nhận
được cảnh sau một vài giây.
Hình 2.3 : Sự phân bố tế bào hình que và hình nón trên võng mạc
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
SVTH: NGUYỄN MINH TRUNG - 8 - GVHD: TH.S LÊ CAO ĐĂNG
NGUYỄN ANH TUẤN
II.1.1. NHÃN CẦU:
Nhãn cầu có thể tích 6,5 ml (khoảng 1/6 thể tích hốc mắt), nặng 7,5 mg, chu
vi 75 mm, đường kính trước sau 24 mm. Nó được cấu tạo bởi 3 lớp vỏ bọc chứa
đựng các môi trường trong suốt bên trong đó là thủy dịch, thủy tinh thể và pha lê
thể lần lượt từ trước ra sau. Hai lớp ngoài của vỏ bọc tương tự như màng não của
hệ thống thần kinh trung ương, còn lớp trong cùng tương tự như mô não.
Màng xơ bọc ngoài (màng cứng) có nhiệm vụ che chở , gồm có giác mạc (1/6
chu vi trước) và củng mạc (5/6 còn lại). Nơi củng mạc và giác mạc gặp nhau gọi
là rìa giác củng mạc. Màng mạch máu giữa (màng nuôi và màng nhện) gồm có
hắc mạc, thể mi, và mống mắt gọi chung là màng bồ đào. Nó cung cấp dinh
dưỡng phần lớn cho những lớp khác. Lớp trong cùng là võng mạc. Đây là lớp
cảm thụ quang chuyên hóa cao tinh tế có nguồn gốc từ ngoại bì thần kinh và
nghèo khả năng tái sinh (Hình 2.2).
II.1.1.1. CÁC LỚP MÀNG BỌC:

 CÁC LỚP MÀNG BỌC:
GIÁC MẠC:
Giác mạc là phần trước nhất của lớp bọc ngoài, trong suốt so với củng mạc
màu trắng đục. Đó là mặt khúc xạ chính của mắt, chiếm 2/3 công suất khúc xạ
của toàn bộ nhãn cầu, khoảng 43 D ở mặt trước giác mạc.
Cấu tạo: giác mạc có 5 lớp cơ bản đó là biểu mô, màng Bowmann, chủ mô,
màng Descemet và nội mô ( Hình 2.4).
Hình 2.4 : Cấu tạo của
giác mạc
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
SVTH: NGUYỄN MINH TRUNG - 9 - GVHD: TH.S LÊ CAO ĐĂNG
NGUYỄN ANH TUẤN
Dinh dưỡng: dinh dưỡng giác mạc thông qua bơm thủy dịch cung cấp
glucose, muối khoáng, vitamine C và lấy đi những chất biến dưỡng. Máy bơm nội
mô chịu trách nhiệm cho sự trong suốt của giác mạc thông qua sự khử nước (94
%), 6% còn lại thông qua sự bốc hơi ngang qua biểu mô. Hệ thống mạch máu rìa
cũng góp phần nhỏ vào sự dinh dưỡng giác mạc.
Thần kinh: giác mạc rất nhạy cảm gồm các thần kinh mi ngắn và mi dài sau
từ mặt trong củng mạc ra ngoài rìa rồi vào giác mạc bằng 70  80 nhánh. Đi
khoảng 2-3 mm những nhánh này mất bao myeline và chia thành hai nhóm:
(1) Nhóm trước đi dưới màng Bowmann, xuyên qua tạo thành mạng dưới biểu mô;
(2) Nhóm sâu đi trong lớp sâu của chủ mô nhưng không đến vùng trung tâm.
CŨNG MẠC :
Lớp sợi có vai trò chính bảo vệ nhãn cầu. Nó có màu trắng đục do cấu tạo của
các sợi đan chéo nhau và có kích thước khác nhau, có độ ngậm nước cao hơn so
với giác mạc (68% là nước).
Cấu tạo: củng mạc có 3 lớp không rõ ràng (lớp thượng củng mạc, lớp nhủ
mô và lớp trong cùng gồm bó sợi nhỏ hơn, chứa tế bào sắc tố và sợi đàn hồi).
Củng mạc được nuôi dưỡng bởi mạch máu thượng củng mạc phía ngoài và hắc
mạc ở bên trong, nhưng nhu mô củng mạc được xem như vô mạch.

Cách cực sau 3 mm phía trong và 1mm phía dưới là lá sàng nơi gắn của thần
kinh thị vào nhãn cầu.
RÌA CŨNG GIÁC MẠC :
Rìa là vùng chuyển tiếp rộng 1 mm ở ngoại vi giác mạc. Đó là vùng nối kết
giữa biểu mô lát tầng có gai của giác mạc và biểu mô hình trụ của kết mạc nhãn
cầu. Kết mạc rìa cũng có nhiệm vụ cho sự tái sinh của lớp biểu mô giác mạc bị
mất đi. Ngoài ra nó còn chứa nhiều tế bào của hệ thống miễn nhiễm: bạch cầu đa
nhân, lympho bào, đại thực bào, sắc tố bào và tương bào.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
SVTH: NGUYỄN MINH TRUNG - 10 - GVHD: TH.S LÊ CAO ĐĂNG
NGUYỄN ANH TUẤN
 MÀNG BỒ ĐÀO:
MỐNG MẮT:
Mống mắt là màn chắn sáng điều chỉnh lượng ánh sáng vào phần sau nhãn
cầu. Mống mắt có dạng chóp nón cụt dẹt, đáy là chân mống, đỉnh là bờ đồng tử
được nâng đỡ bởi thủy tinh thể. Màu sắc của mống tùy thuộc số lượng sắc tố
trong nhủ mô trước.
Cơ mống mắt: mống mắt có 2 lớp cơ trơn. Lớp phía trước là cơ vòng chạy
vòng quanh đồng tử, được điều khiển bởi hệ giao cảm. Cơ tia được điều khiển bởi
hệ giao cảm, đó là mảng cơ khu trú phía sau nhu mô mống mắt , trải rộng xung
quanh lớp cơ vòng cho tới thể mi.
Cấu tạo: từ trước ra sau gồm có:
(1) Nội mô liên tục với nội mô lưới bè;
(2) Màng ngăn trước do sự đậm đặc của nhủ mô;
(3) Nhu mô gồm mô liên kết lỏng lẻo chứa những cấu trúc như cơ vòng, thần kinh,
và mạch máu, tế bào sắc tố;
(4) Màng ngăn sau là màng phát triển ra trước của màng Bruch;
(5) Biểu mô sau gồm 2 lớp tế bào đều chứa sắc tố, có nguồn gốc từ phần trước nhất
của chén thị.
THỂ MI:

Bên cạnh cấu tạo mạch máu dồi dào (cung động mạch mống mắt lớn và
nhánh nối động mạch mi trước và mi dài sau), thể mi có ba chức năng: điều tiết,
sản xuất thủy dịch và đường thoát bồ đào củng mạc.
Cấu tạo: thể mi có thể chia làm 2 lớp phôi thai: lớp biểu mô thần kinh và
trung bì.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
SVTH: NGUYỄN MINH TRUNG - 11 - GVHD: TH.S LÊ CAO ĐĂNG
NGUYỄN ANH TUẤN
HẮC MẠC:
Hắc mạc là lớp mô mỏng chứa sắc tố và mạch máu cung cấp dinh dưỡng cho
lớp ngoài võng mạc. Chiều dày thay đổi từ 0,1 mm phía trước đến 0,22 mm ở
phía sau.
Cấu tạo: từ ngoài vào trong, hắc mạc được chia thành những lớp sau đây
(1) Thượng hắc mạc gồm những phiến sợi đàn hồi và sợi keo có chứa tế bào sợi, tế
bào cơ trơn và tế bào sắc tố;
(2) Lớp mạch gồm lớp mạch máu lớn, chủ yếu là tĩnh mạch (còn gọi là lớp Haller) và
lớp mạch máu nhỏ hơn ở trong (lớp Sattler);
(3) Lớp mao mạch hắc mạc gồm những mao mạch lớn nuôi dưỡng lớp ngoài võng
mạc suốt chiều rộng hắc mạc.
(4) Màng Bruch hay màng đáy, thực ra gồm 2 lớp: lớp ngoài có nguồn gốc trung bì
thuộc hắc mạc, cấu tạo bằng sợi đàn hồi và lớp trong có nguồn gốc ngoại bì do biểu
mô sắc tố tiết ra, cấu tạo bởi một mạng đặc những sợi cực mịn.
 VÕNG MẠC:
Võng mạc là mô mỏng trong suốt trải từ miệng thắt tới gai thị và bám chắc
nhất tại 2 nơi này. Võng mạc bao gồm:
(1) LỎM HOÀNG ĐIỂM (fovea) là một lỏm nhỏ cực tâm, khoảng 0,35 mm đường
kính, trong vùng này cảm thụ quang toàn là tế bào nón và đặc biệt ở đây có bao
nhiêu tế bào cảm thụ có bấy nhiêu sợi thần kinh, điều này lí giải tại sao vùng này có
khả năng phân tích cao cho thị lực cao nhất, gọi là thị lực trung tâm;
(2) HOÀNG ĐIỂM (macula) là một hỏm nhẹ bao quanh lỏm hoàng điểm, có đường

kính khoảng 1,5 mm tương đuơng một đường kính gai thị;
(3) CỰC SAU vùng rộng 6 mm đường kính từ bờ thái dương gai thị tới 2,7 mm phía
thái dương của tâm hoàng điểm.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
SVTH: NGUYỄN MINH TRUNG - 12 - GVHD: TH.S LÊ CAO ĐĂNG
NGUYỄN ANH TUẤN
Cấu tạo: võng mạc có thể chia thành 10 lớp rõ rệt, đánh số từ 1-10 kể từ
ngoài vào trong:
Hình 2.5 : Tổ chức của võng mạc
Lớp biểu mô sắc tố (pigment epithelium): gồm một lớp tế bào độc nhất trải
từ bờ gai tới miệng thắt. Tế bào có dạng lục giác, mật độ sắc tố khác nhau tùy vị
trí trong võng mạc, nhân khu trú ở phần đáy tế bào, có nhiều chồi tế bào chất tựa
như những tua, phát triển vào bên trong lớp ngoài của tế bào nón và tế bào que.
Tại miệng thắt, biểu mô sắc tố võng mạc liên tục với lớp biểu mô sắc tố của vùng
phẳng thể mi;
Lớp tế bào nón và que (rods & cones): tế bào que hình trụ thon, phần ngoài
chứa quang sắc tố rhodopsine. Tế bào nón thấp hơn, có dạng hình chóp nón với
một vài thay đổi trong kích thước và hình dạng tại những nơi khác nhau trong
võng mạc;
Màng ngăn ngoài (outer limiting membrane): đó là cấu trúc tinh tế chứa
những lỗ nhỏ cho trụ giác tế bào nón và que xuyên qua;
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
SVTH: NGUYỄN MINH TRUNG - 13 - GVHD: TH.S LÊ CAO ĐĂNG
NGUYỄN ANH TUẤN
Lớp nhân ngoài: gồm 2 nhóm nhân, lớp ngoài là nhân tế bào nón, lớp trong
là nhân tế bào que. Lớp này dày nhất tại mép vùng hoàng điểm;
Lớp rối ngoài: đó là nơi nối tiếp trụ giác tế bào nón và que với thụ trạng của
tế bào lưỡng cực. Lớp này có một sự chọn sẵn cho sự tích tụ của xuất huyết và
xuất tiết;
Lớp nhân trong: chứa nhân tế bào lưỡng cực, nhân tế bào ngang, tế bào

amacrine, và nhân bầu dục của tế bào Muller;
Lớp rối trong: đó là nơi tiếp vận giữa các tế bào lưỡng cực, tế bào amacrine
và tế bào hạch.
Lớp tế bào hạch (ganglion cells): gồm tế bào hạch và tế bào nâng đỡ thần
kinh.
Lớp sợi thần kinh (nerve fiber layer): gồm trụ giác của các tế bào hạch,
mỏng ở ngoại vi, dày nhất ở bờ gai thị;
Màng ngăn trong (inner limiting membrane): màng mỏng thành lập ở mặt
trong võng mạc.
Các tế bào cấu tạo võng mạc ngoài:
(1) Tế bào tham gia dẫn truyền (tế bào cảm thụ nón que, tế bào lưỡng cực, tế bào
hạch) ,còn có
(2) Tế bào liên kết dẫn truyền (tế bào amcrine và tế bào ngang) và
(3) Tế bào nâng đỡ Muller. Tế bào Muller đi xuyên qua lớp tế bào hạch trở nên gắn
chặt vào màng này. Pha lê thể gắn vào màng này bằng những mối gắn sợi mịn.
Võng mạc chấm dứt tại vùng miệng thắt. Ở đây 9 lớp trong của võng mạc (trừ
lớp biểu mô sắc tố) biến thành một lớp duy nhất là lớp biểu mô không sắc tố. Tại
gai thị võng mạc được giới hạn bởi mô ngăn cách trung gian của Kuhnt.
Dinh dưỡng: Võng mạc tiêu thụ oxygen cao nhất trên một đơn vị cân nặng so
với bất kì mô nào trong cơ thể, nên có 2 hệ thống tuần hoàn phục vụ yêu cầu này:
1/3 ngoài được cung cấp bởi tuần hoàn hắc mạc, còn 2/3 trong nhận nuôi dưỡng
từ tuần hoàn võng mạc. Động mạch trung tâm võng mạc vào gai thị chia thành 2
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
SVTH: NGUYỄN MINH TRUNG - 14 - GVHD: TH.S LÊ CAO ĐĂNG
NGUYỄN ANH TUẤN
nhánh, động mạch gai trên và gai dưới. Mỗi nhánh lại cho ra nhánh thái dương và
nhánh mũi, lại tiếp tục phân đôi cho tới vùng miệng thắt, tạo thành những quai
mạch.
Vùng sát biên võng mạc xem như vô mạch, động mạch có khuynh hướng uốn
vòng để trở thành tĩnh mạch. Những mạch máu này nằm ở những lớp trong võng

mạc, còn những mạch máu chính nằm nông trong lớp sợi thần kinh ngay sau
màng ngăn trong. Mao mạch tạo thành 2 lớp mạng: mạng nông nằm trong phần
nông của lớp sợi thần kinh. Mạng sâu nằm giữa lớp nhân trong và đám rối ngoài.
Khoảng 20 - 30 % số người có một động mạch mi võng mạc, xuất hiện từ bờ
thái dương của gai thị, tiến về phía hoàng điểm, tưới máu toàn bộ hoặc một phần
vùng này. Như vậy khu vực được tưới máu bởi động mạch này độc lập với khu
vực được tưới máu bởi động mạch trung tâm võng mạc.
Hàng rào máu – võng mạc: đó là hàng rào chọn lọc đóng vai trò cơ bản trong
sự trao đổi giữa mô võng mạc và các mạch máu võng mạc. Người ta phân biệt
hàng rào máu – võng mạc trong và ngoài.
II.1.1.2. CÁC MÔI TRƯỜNG TRONG SUỐT:
 THỦY DỊCH :
Thủy dịch chứa trong khoảng không gian giới hạn bởi mặt sau giác mạc và
mặt trước thể mi và thủy tinh thể. Khoảng này được mống mắt ngăn ra làm hai 2
phòng: hậu phòng phía sau mống có thể tích 0,06 ml, tiền phòng phía trước mống
có thể tích 0, 25 ml. Thủy dịch do thể mi tiết ra, vào hậu phòng, ra tiền phòng
bằng lỗ đồng tử, rồi thoát ra ngoài theo góc tiền phòng.
 THỦY TINH THỂ:
Thủy tinh thể là thấu kính 2 mặt lồi, mặt sau có bán kính độ cong là 6 mm,
mặt trước 10 mm, bờ tròn ở xích đạo. Nó có khoảng 1/3 - 1/4 công suất khúc xạ
của giác mạc. Thủy tinh thể được nuôi dưỡng chủ yếu nhờ thủy dịch.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
SVTH: NGUYỄN MINH TRUNG - 15 - GVHD: TH.S LÊ CAO ĐĂNG
NGUYỄN ANH TUẤN
Thủy tinh thể được bao quanh bởi một lớp bao đàn hồi chắc có độ dày thay
đổi. Bao này được nâng đỡ bởi dây chằng Zinn và qua nó cơ thể mi truyền tải lực
co thắt đến bao làm thay đổi kích thước thủy tinh thể.
Cấu tạo: thủy tinh thể trưởng thành được bọc bởi một lớp bao, đó là một
màng đáy thực sự được tiết ra bởi tế bào biểu mô. Bao dày ở phía trước nhiều hơn
ở phía sau, dày ở chỗ bám dây chằng Zinn hơn ở cực.

Cơ chế của sự điều tiết: ngày nay người ta chấp nhận lí thuyết của Helmoltz.
Sự điều tiết dẫn đến sự gia tăng độ cong thủy tinh thể do độ đàn hồi của bao tạo
cho nó một hình dạng cong hơn bất cứ khi nào sức căng của dây chằng Zinn được
nới lỏng. Sự nới lỏng này theo sau sự co thắt của các cơ thể mi.
 PHA LÊ THỂ:
Đó là chất keo trong suốt chiếm 2/3 sau của thể tích nhãn cầu. Pha lê thể dính
vào bao sau thủy tinh thể theo một vòng tròn đường kính 8 – 9 mm, chỗ dính này
được gọi là dây chằng Wiegger.
Cấu tạo: pha lê thể có thể chia làm 3 phần như màng bọc, lớp vỏ, và phần lỏi.
Những tế bào của pha lê thể nằm trong phần vỏ keo có 2 chức năng là thực
bào và tổng hợp acide hyaluronique. Một số lượng tế bào nhỏ hơn chiếm 10% số
tế bào pha lê thể là tế bào sợi và tế bào nâng đỡ.
II.1.2. BỘ PHẬN PHỤ THUÔC CỦA NHÃN CẦU:
 BỘ PHẬN CHE CHỞ: gồm có xương hốc mắt ở phía sau và mí mắt
ở phía trước
XƯƠNG HỐC MẮT:
Xương hốc mắt có dạng một hình tháp vuông góc, đáy mở ra phía trước, đỉnh
ứng với lỗ thị và khe bướm thông với tầng giữa đáy sọ. Nó được cấu tạo bằng 7
xương liên kết thành bốn thành (thành trên hay trần hốc mắt; thành trong; thành
dưới hay sàn hốc mắt và thành bên hốc mắt).
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
SVTH: NGUYỄN MINH TRUNG - 16 - GVHD: TH.S LÊ CAO ĐĂNG
NGUYỄN ANH TUẤN
MÍ MẮT:
Mí mắt là thành phần mềm cử động được, hoạt động như một màng bảo vệ
nhãn cầu khỏi chấn thương và ánh sáng quá mức. Nó cũng giúp đồng tử trong
việc điều chỉnh lượng ánh sáng đến võng mạc. Nhưng chính yếu nó có chức năng
kép liên quan đến nước mắt.
 CƠ VẬN NHÃN NGOÀI:
Mỗi mắt có 6 cơ: 4 cơ trực và 2 cơ chéo, gọi là cơ vận nhãn ngoài để phân

biệt với các cơ vận nhãn trong (các cơ trơn gồm cơ vòng và cơ tia ở mống mắt và
các cơ ở mi thể). Cơ vận nhãn chuyên hóa cao hơn các cơ khác trong cơ thể.
Thay vì đúc nhập thành từng bó phân cách bởi mô liên kết đậm đặc, những
sợi cơ nhỏ liên kết với nhau lỏng lẻo và vì vậy dễ bóc tách rời ra. Giữa các sợi cơ
có nhiều sợi thần kinh, và nhiều sợi đàn hồi. Với cấu trúc đặc biệt chứa nhiều sợi
đàn hồi và nhiều sợi thần kinh (một nhánh thần kinh cho mỗi sợi cơ mắt, tương
đối nhiều so với các cơ có kích thước lớn khác trong cơ thể), điều đó góp phần
cho tính chất cử động mềm mại và tinh tế của cơ mắt.
Bốn cơ trực đều xuất phát từ vòng gân Zinn. Do độ dốc của trần hốc mắt, gốc
cơ trực trên và cơ trực trong nằm trong mặt phẳng phía trước các cơ khác và vì
vậy 2 cơ này bám nhiều hơn vào màng cứng của thần kinh thị.
Chuyển động của nhãn cầu thực hiện quanh tâm của chuyển động mà gần như
tương ứng với tâm nhãn cầu, khoảng 13,4 mm phía sau tâm mặt trước giác mạc.
Chuyển động xảy ra quanh 3 trục đi ngang qua tâm chuyển động và thẳng góc với
nhau. Ba trục đó là:
(1) Trục dọc, quanh trục này tâm giác mạc di chuyển ra ngoài hoặc vào trong;
(2) Trục ngang, đi từ phải sang trái, quanh nó tâm giác mạc sẽ di chuyển lên trên
(nâng) hay xuống dưới (hạ);
(3) Trục trước sau tương ứng với trục thị giác, quanh nó chuyển động xoay xảy ra, vị
trí 12 giờ của giác mạc di chuyển về phía mũi hay về phía thái dương.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
SVTH: NGUYỄN MINH TRUNG - 17 - GVHD: TH.S LÊ CAO ĐĂNG
NGUYỄN ANH TUẤN
 LỆ BỘ :
Lệ bộ gồm có tuyến lệ với những ống thoát dẫn vào củng đồ trên ngoài và hệ
thống thoát dẫn nước mắt vào hốc mũi bao gồm 2 tiểu lệ quản, túi lệ và kênh lệ
mũi. Nước mắt rửa và làm ướt mắt, phần lớn bốc hơi ở bề mặt mắt, chỉ phần thừa
chảy xuống mũi.
II.1.3. THẦN KINH:
 ĐƯỜNG DẪN TRUYỀN THỊ GIÁC:

Đường dẫn truyền thị giác bắt đầu từ võng mạc và chấm dứt ở vỏ não chẩm,
có thể chia làm 6 phần: thần kinh thị, giao thoa thị, dải thị, thể gối bên, tia thị, và
vỏ não cảm thụ. Sáu phần này sẽ lần lượt được khảo sát về mối tương quan giải
phẫu học và sự định vị các bó thần kinh bên trong (Hình 2.6).
Hình 2.6: Tương quan của
đường dẫn truyền thị giác
và sự phân bố bó sợi thần
kinh bên trong đường này
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
SVTH: NGUYỄN MINH TRUNG - 18 - GVHD: TH.S LÊ CAO ĐĂNG
NGUYỄN ANH TUẤN
Tương quan :
Thần kinh thị: bắt đầu ở góc ngoài trước của giao thoa thị, hướng ra trước,
phía ngoài và hơi xuống dưới để vào ống thị. Tiếp tục theo hướng trên thần kinh
vào hốc mắt gắn vào nhãn cầu, nơi gắn ở ngay phía trên và cách cực sau nhãn cầu
3 mm về phía trong. Chiều dài tổng cộng của thần kinh thị là 5-6 cm.
Giao thoa thị: là một dải dẹt thon, kích thước 8×12 mm, đặt tại chỗ nối của
thành trước và sàn sau của não thất thứ ba, nằm nghiêng với bờ sau ở trên bờ
trước, ngay trên cách mô hố yên, phía trên và sau rãnh thị của xoang bướm.
Nó được bao quanh bởi lớp màng nuôi và bởi dịch não tủy. Giao thoa thị có
liên quan mật thiết với các thành phần sau đây:
– Phía ngoài: động mạch cảnh trong tiếp xúc với giao thoa thị trong góc giữa thần
kinh thị và dải thị.
– Phía sau: củ xám là đám chất xám nằm giữa giao thoa thị ở phía trước và thể vú ở
phía sau.
– Phía trên: sàn não thất thứ tư và rể trong của dải khứu giác nằm sát trên và phía
ngoài của góc trước giao thoa thị.
– Phía dưới:
(1) Thông qua cuống não thùy là tuyến não thùy;
(2) Xoang hang ở hai bên tuyến não thùy tương quan mật thiết với thần kinh III.

Dây này nằm trên cách mô hố yên trước khi vào xoang hang;
(3) Màng nhện: đặc biệt trong góc giao thoa thị và tuyến não thùy và cuống não
thùy có một màng lưới mạch máu dày đặc nối kết màng nhện với màng nuôi.
Dải thị: là một dải hình trụ hơi dẹp bắt đầu từ góc ngoài sau của giao thoa thị,
hướng ra về phía sau giống như một dây đai thắt quanh cuống não ngăn cách bao
trong và chân cuống não. Những sợi thần kinh trong dải thị xuất phát từ tế bào
hạch của võng mạc chấm dứt ở 3 trạm chính sau đây:
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
SVTH: NGUYỄN MINH TRUNG - 19 - GVHD: TH.S LÊ CAO ĐĂNG
NGUYỄN ANH TUẤN
(1) Thể gối bên để tiếp hợp với tế bào kế tiếp tới vỏ não;
(2) Nhân tiền lưới cho phản xạ đồng tử với ánh sáng;
(3) Củ não trên cho những đường phản xạ tổng quát (vận nhãn, cơ cổ, thân và chi).
Thể gối bên: có dạng yên ngựa của người Moor gồm cựa, thân và đầu yên.
Tia thị: còn gọi bó gối cựa mang sợi tiếp vận mới dẫn xung thần kinh đến vỏ
não. Từ thể gối bên, tia thị đi ra trước và phía ngoài tạo nên cuống thị, từ đây tỏa
vòng về phía sau như nan quạt thoạt đầu nằm theo chiều dọc rồi trở thành nằm
ngang khi gần đến vỏ thị giác. Tia thị còn chứa những sợi đi từ vỏ não trở lại thể
gối bên, đồi thị, và củ não trên về nhân vận nhãn.
Vỏ thị giác hay vỏ vằn: khu trú phần lớn ở mặt trong của thùy chẩm (bên
trong và cạnh rãnh cựa).
Sự định vị trong đường dẫn truyền thị giác:
Sự sắp xếp các sợi thần kinh trong đường dẫn truyền thị giác có một thứ tự rõ
rệt (Hình 2.6):
Trong võng mạc: các sợi thần kinh trong võng mạc bao gồm sợi gai thị hoàng
điểm và bó sợi ngoại biên đều hội tụ về gai thị. Tương tự các sợi ở phía thái
dương củng ngăn cách bởi các sợi ở phía mũi bởi một đường đi ngang qua hoàng
điểm.
Trong thần kinh thị:
(1) Đoạn xa (phía nhãn cầu), bó mũi ở phía trong, bó thái dương ở phía ngoài. Bó

thái dương trên và dưới bị ngăn cách ngăn cách bởi bó hoàng điểm (trong võng mạc
vùng hoàng điểm chỉ chiếm khoảng 1/20 thiết diện của võng mạc);
(2) Đoạn xa (phía não), bó hoàng điểm lấn dần vào chính giữa thần kinh thị.
Trong giao thoa thị: những sợi phía thái dương tiếp tục đi thẳng còn những
sợi phía mũi bắt chéo qua dải thị phía đối diện. Những sợi mũi của góc tư dưới
khi đã bắt chéo thì đánh vòng ra trước trong đoạn cuối của thần kinh thị phía đối
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
SVTH: NGUYỄN MINH TRUNG - 20 - GVHD: TH.S LÊ CAO ĐĂNG
NGUYỄN ANH TUẤN
diện. Những sợi mũi của góc tư trên đánh vòng ra phía sau ở đoạn cuối của dải
thị cùng bên trước khi bắt chéo qua dải thị đối diện.
Trong dải thị: các sợi thần kinh được sắp xếp trở lại. Bó hoàng điểm sợi chéo
và không chéo chiếm vùng lưng ngoài, bó của những góc tư võng mạc dưới nằm
phía ngoài, bó của những góc tư trên nằm phía trong.
Trong thể gối ngoài: những sợi của võng mạc trên chiếm phần trong của thể
gối ngoài, còn sợi võng mạc phần dưới chiếm phần ngoài (cựa).
Trong tia thị: những sợi xuất phần trong (thân) của thể gối ngoài biểu thị
phần trên của võng mạc thành lập phần trên của tia thị. Những sợi ở phía ngoài
(cựa) thể gối ngoài thành lập phần dưới tia thị.
Trong vỏ thị giác hay vỏ vằn: sự phản ánh của võng mạc trên vỏ vằn được
lặp lại như sau: vùng hoàng điểm ở phía sau, vùng ngoại biên ở phía trước, vùng
võng mạc trên chiếm bờ trên của rãnh cựa, vùng võng mạc dưới chiếm bờ dưới
của rãnh này.
 CÁC THẦN KINH VẬN NHÃN III, IV, VI :
Nhân và rễ: các dây thần kinh vận
nhãn đều xuất phát từ những chất
xám nằm ở phần lưng của thân não,
trong sàn não thất thứ tư. Đoạn từ
nhân cho đến lúc dây thần kinh xuất
hiện ra ngoài, phần nằm kín trong

thân não, gọi là rễ dây thần kinh.
Hình 2.7: Vị trí của các nhân thần kinh
trong sàn não thất thứ tư
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
SVTH: NGUYỄN MINH TRUNG - 21 - GVHD: TH.S LÊ CAO ĐĂNG
NGUYỄN ANH TUẤN
Thân thần kinh (đoạn ngoài thân não):
Thân thần kinh III: chia thành 2 nhánh: nhánh trên đến cơ trực trên và cơ
nâng mi, nhánh dưới đến cơ trực trong, trực dưới, và cơ chéo bé. Đặc biệt, nhánh
tới cơ chéo bé phát ra một nhánh đi vào hạch mi (gọi là rể vận động của hạch mi).
Thân thần kinh IV: nằm trên cơ nâng mi và trực trên, rồi chia làm 3, 4
nhánh dạng nan quạt tới điều khiển cơ chéo trên.
Thân thần kinh VI: trong hốc mắt, thần kinh chia làm 3, 4 nhánh đến mặt
trong khoảng giữa cơ trực ngoài.
 THẦN KINH V:
Gồm 2 thành phần: phần vận động có kích thước nhỏ và phần cảm giác lớn
hơn với hạch tam thoa có một cấu trúc tương tự như hạch rễ sau thần kinh tủy
sống. Từ hạch tam thoa nằm trong hố xương phía trước đỉnh xương đá thái
dương, thần kinh chia làm 3 nhánh:
(1) Nhánh V.1 còn gọi thần kinh mắt;
(2) Nhánh V.2 còn gọi thần kinh hàm trên;
(3) Nhánh V.3 còn gọi thần kinh hàm dưới.
Thần kinh mắt: hướng về thành bên xoang hang và phân chia làm 3 nhánh
ngay sau khe bướm để vào hốc mắt (nhánh thần kinh lệ; nhánh thần kinh trán
và nhánh thần kinh mũi mi)
Thần kinh hàm trên: từ hạch tam thoa đi ra trước góc dưới của xoang hang,
qua lỗ tròn vào hố bướm khẩu cái, rồi vào khe dưới hốc.
Thần kinh hàm dưới: gồm 2 phần với rễ cảm giác và rễ vận động cùng đi
qua lỗ bầu dục thì chập lại thành một để vào vùng bướm khẩu cái.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM

SVTH: NGUYỄN MINH TRUNG - 22 - GVHD: TH.S LÊ CAO ĐĂNG
NGUYỄN ANH TUẤN
 THẦN KINH VII:
Thần kinh VII ra khỏi sọ bằng lỗ tâm chủm và phân chia làm 5 nhánh: thái
dương gò má, miệng, cằm, cổ và lưng. Nhánh gò má tiếp tục ra trước phát ra 2
nhánh: nhánh trên vắt ngang qua cung xương gò má đến điều khiển cơ vòng mí
trên, nhánh dưới đi ngang gò má đến cơ vòng cung mí dưới (Hình 2.8).
Hình 2.8: Thần kinh VII và sự phân nhánh sau khi rời khỏi sọ
 THẦN KINH TỰ ĐỘNG:
Thần kinh đối giao cảm: Gồm có:
- Tế bào thần kinh thứ nhất, phát sinh từ thân não (nhân Edinger-Wesphal), đi theo
thần kinh III để tận cùng ở hạch mi.
- Tế bào thần kinh thứ hai, phát sinh từ hạch mi, đi theo các thần kinh mi ngắn và tận
cùng ở mống mắt (cơ thu đồng tử và các cơ trong thể mi).
Hệ đối giao cảm chủ yếu điều khiển hai cung phản xạ điều tiết và quang vận.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
SVTH: NGUYỄN MINH TRUNG - 23 - GVHD: TH.S LÊ CAO ĐĂNG
NGUYỄN ANH TUẤN
Thần kinh giao cảm: Gồm có:
- Tế bào thần kinh thứ nhất phát sinh từ vùng Karpus-Kridl (trong vùng dưới đồi) đi
xuống thân não và chấm dứt tại trung khu mi-tủy gai Budge (C8-T1) ở tủy cổ dưới.
- Tế bào thần kinh thứ hai từ trung khu Budge ra hạch trước sống bắt đầu từ hạch
sau, đi lên hạch cổ dưới, hạch cổ giữa rồi tận cùng tại hạch cổ trên.
- Tế bào thần kinh thứ ba phát sinh từ hạch cổ trên, đi theo đám rối quanh động
mạch cảnh, qua hạch Gasser, thần kinh mắt, các thần kinh mi dài để vào nhãn cầu và
tận cùng tại cơ giãn đồng tử.
Tổn thương bất cứ vị trí nào trên đường giao cảm đều gây ra hội chứng
Horner bao gồm: sụp mí nhẹ do liệt cơ Muller, thu đồng tử, mắt thụt và khô mặt
nửa bên. Tuy nhiên tổn thương sợi hậu hạch (tế bào thứ ba) có thể gây hội chứng
Horner không hoàn toàn (không có khô mặt nữa bên) vì tế bào này chia 2 nhánh,

một theo động mạch cảnh trong và một theo động mạch cảnh ngoài.
II.1.4. MẠCH MÁU:
 ĐỘNG MẠCH:
ĐỘNG MẠCH NUÔI DƯỠNG HỐC MẮT:
Động mạch mắt xuất phát từ
động mạch cảnh trong ngay khi
động mạch này xuyên qua trần
màng cứng của xoang hang để
rời khỏi xoang này.
Hình 2.9: Động mạch mắt và các
nhánh phân bố
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
SVTH: NGUYỄN MINH TRUNG - 24 - GVHD: TH.S LÊ CAO ĐĂNG
NGUYỄN ANH TUẤN
ĐỘNG MẠCH NUÔI DƯỠNG ĐƯỜNG DẪN TRUYỀN THỊ GIÁC:
Động mạch nuôi dưỡng giao thoa
thị: có nhiều động mạch tham gia vào việc
nuôi dưỡng giao thoa thị động mạch não
trước, động mạch não trước, động mạch
não giữa, động mạch thông sau (Hình
2.10).
Hình 2.10: Các mạch máu nuôi dưỡng giao
thoa thị
 TĨNH MẠCH:
Hốc mắt được dẫn thoát bởi tĩnh mạch mắt trên và dưới rối đổ về xoang hang.
Những tĩnh mạch này và những nhánh phụ hệ đặc biệt không có van, rất ngoằn
ngoèo và có nhiều nối tiếp như mạng lưới. Thêm nửa chúng thông thương với
tĩnh mạch mặt, với tĩnh mạch giường, và những tĩnh mạch mũi.
 BẠCH HUYẾT:
Không có hạch bạch huyết trong hốc mắt. Mí mắt và kết mạc phần lớn được

dẫn lưu tới hạch trước tai, một ít ở khoé trong tới hạch dưới cằm. Từ các phần sâu
trong hốc mắt, bạch huyết rời khe dưới hốc ngang qua hố dưới thái dương để đến
những hạch bạch huyết sâu trong tuyến mang tai.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
SVTH: NGUYỄN MINH TRUNG - 25 - GVHD: TH.S LÊ CAO ĐĂNG
NGUYỄN ANH TUẤN
II.2. SỰ ĐIỀU TIẾT CỦA MẮT
[3]
:
Sự điều tiết của mắt là hoạt động sinh lí điều chỉnh thành phần thủy tinh thể
nhằm làm thay đổi hệ số khúc xạ và mang các vật ở gần mắt vào điểm hội tụ sắc
nét. Trong sự điều tiết, sự co cơ tròn làm thư giãn sức căng trên thủy tinh thể,
mang lại sự thay đổi hình dạng của mô trong suốt và mềm dẻo đó, đồng thời
củng hơi đưa nó ra trước. Kết quả dây chuyền của sự biến đổi thủy tinh thể là
điều chỉnh tiêu cự của mắt để mang ảnh chính xác vào tiêu điểm trên lớp tế bào
nhạy sáng có trên võng mạc.
Tiêu điểm trong mắt được điều khiển bởi sự kết hợp của các thành phần gồm
mống mắt, thủy tinh thể, giác mạc, và mô cơ, có thể làm thay đổi hình dạng của
thủy tinh thể sao cho mắt có thể hội tụ cả những vật ở gần lẫn ở xa.
Hình 2.11. Sự điều tiết của mắt người
II.3. SỰ MÃ HÓA THÔNG TIN THỊ GIÁC
[4]
:
Khi các tác nhân môi trường ngoài tác dụng lên các cơ quan thụ cảm ở người
sẽ xuất hiện một cảm giác đặc biệt phản ánh sự nhận biết tác nhân đó. Mối quan
hệ giữa độ lớn S của cảm giác và độ lớn R của kích thích được thể hiện trong
định luật Weber_Freshner:
S = a log R + b a, b : hằng số

×