Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tổng hợp câu hỏi đáp án ôn thi môn Quản lý kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.35 KB, 31 trang )

Câu 1. Trình bày nội dung, vai trò của cơ chế quản lý kinh tế. Những giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý ?
Bài làm
Cơ chế quản lý kinh tế có vai trò rất quan trọng đến sự phát triển và thịnh vượng chung của mọi quốc gia, dân
tộc. Cơ chế quản lý kinh tế đúng đắn, phù hợp sẽ tạo động lực xã hội và trở thành công cụ phát triển kinh tế phục
vụ đắc lực cho việc tạo ra của cải và mang lại sự giàu có chung cho toàn xã hội. Ngược lại, cơ chế quản lý kinh tế
lạc hậu, đi ngược lại các quy luật khách quan sẽ làm kìm hãm, trì trệ sự phát triển kinh tế - xã hội, dẫn đến những
hậu quả mà khắc phục nó phải là tốn một thời gian rất dài không chỉ một vài năm mà phải là hàng mấy chục năm.
Vậy nội dung, vai trò của cơ chế quản lý kinh tế là gì ? Cơ chế quản lý kinh tế mà Việt Nam đang áp dụng là gì ?
Những giải pháp nào để hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra cho
sự phát triển đất nước ? Bằng những kiến thức về quản lý kinh tế, chúng ta hãy phân tích làm rõ vấn đề trên
Cơ cấu kinh tế của hệ thống kinh tế quốc dân luôn ở trạng thái động và phải bảo đảm nội dung biến động thỏa
mãn những nhu cầu không ngừng tăng lên của xã hội. Sự biến đổi, chuyển dịch của cơ cấu kinh tế vận hành theo
những quy luật vận động khách quan : đó chính là cơ chế kinh tế. Nhận thức cơ chế kinh tế khách quan để từ đó
xây dựng cơ chế điều khiển nhằm đảm bảo quá trình vận động, biến đổi cơ cấu kinh tế theo đúng yêu cầu, quy
luật khách quan là công việc hệ thống quản lý phải giải quyết và đây cũng chính là nội dung xây dựng cơ chế quản
lý kinh tế. Như vậy, cơ chế quản lý kinh tế được hiểu như là hệ thống các yếu tố, phương pháp, cách thức, công
cụ mà chủ thể quản lý sử dụng để vận hành, tác động, điều khiển quá trình vận động của hệ thống kinh tế nhằm
thực hiện các mục tiêu quản lý, mục tiêu phát triển đã hoạch định. Cơ chế quản lý kinh tế là sản phẩm sáng tạo
của chủ thể quản lý, vì vậy nó mang tính chủ quan của chủ thể quản lý nhưng đồng thời nội dung của nó cũng
phải dựa trên cơ sở nhận thức, phản ánh những nội dung khách quan của cơ chế kinh tế. Sự phù hợp hay không
phù hợp của cơ chế quản lý với cơ chế kinh tế hoặc sẽ tạo động lực hoặc sẽ tạo áp lực cản trở chính quá trình vận
động, phát triển cơ cấu kinh tế của hệ thống kinh tế quốc dân.
Về mặt cấu trúc, cơ chế quản lý kinh tế bao gồm 2 thành phần cơ bản : một là hệ thống các mục tiêu để định
hướng nội dung vận động của hệ thống kinh tế trong từng thời kỳ và hai là hệ thống các yếu tố, phương pháp,
công cụ quản lý kinh tế được chủ thể quản lý sử dụng để vận hành, điều khiển hoạt động của hệ thống kinh tế
nhằm thực hiện mục tiêu.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều sử dụng cơ chế quản lý kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước. Riêng ở Việt Nam, trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH, Đảng ta đã xác định rõ phải phát triển nền
kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nói rõ
hơn, đó chính là nền kinh tế mà phương thức vận hành của nó tuân theo các quy luật kinh tế khách quan của nền
kinh tế thị trường, các quy luật của thời kỳ quá độ đồng thời có sự quản lý của Nhà nước nhằm đạt được mục tiêu


“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Việc Việt Nam lựa chọn con đường phát triển kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn phù hợp với xu hướng phát triển khách quan của thời
đại bởi vì sử dụng cơ chế thị trường để quản lý nền kinh tế không phải là thuộc tính của CNTB mà nó được xem
như là một thành quả của văn minh nhân loại đồng thời trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta vẫn còn tồn tại
nhiều thành phần kinh tế, nhìều hình thức sở hữu, đây là những điều kiện tất yếu cho sự tồn tại của nền kinh tế thị
trường .
Về nội dung, nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là sự kết
hợp giữa nhân tố khách quan và chủ quan trong quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về nhân tố khách quan, cơ chế thị trường được sử dụng như “bàn tay vô hình” để điều tiết hoạt động của nền
kinh tế theo các quy luật khách quan : quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật giá cả, quy
luật lợi nhuận… Nội dung của cơ chế “Bàn tay vô hình” gồm ba yếu tố : một là quan hệ cung - cầu là cơ chế điều
tiết mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia hoạt động của nền kinh tế; hai là giá cả và lợi nhuận đóng vai trò đóng
vai trò phân phối các nguồn lực (giá cả) và tạo động lực cho các chủ thể (lợi nhuận); ba là cạnh tranh là cơ chế
phát triển của doanh nghiệp và của hệ thống kinh tế quốc dân đó. Chính cơ chế thị trường tạo nên tính năng
động, tính trách nhiệm và tính hiệu quả trong quá trình vận động của nền kinh tế. Tuy nhiên, phải thấy rằng cơ chế
thị trường như con dao 2 lưỡi, bên cạnh những mặt tích cực, nó còn có những mặt tiêu cực như : luôn chứa đựng
những yếu tố tự phát, dễ làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng do tính tất yếu của các chu kỳ kinh tế,
tình trạng độc quyền do cạnh tranh thị trường tạo ra sẽ dần dần hạn chế các nguồn lực, hàng hóa công cộng
không được thị trường quan tâm, thông tin trên thị trường bất cân xứng, mội trường sinh thái bị phá hủy, sự phân
hóa giữa các tầng lớp xã hội ngày càng rõ đe doạ đến tính ổn định của đất nước …
Vì vậy, để sử dụng rộng rãi cơ chế thị trường phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó thì cần phải
có sự can thiệp của Nhà nước thông qua chính sách, cơ chế quản lý nhằm xác lập trạng thái ổn định của cơ chế
thị trường trong quá trình tác động của cơ chế. Nếu cơ chế thị trường là cơ chế vận hành khách quan của nền thị
trường thì hoạt động quản lý của nhà nước mang dấu ấn chủ quan của chủ thể quản lý nhà nước Nhà nước thực
hiện chức năng quản lý thông qua công cụ định hướng như Luật pháp, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, mục
tiêu, các công cụ điều tiết, đòn bẩy kinh tế như chính sách (giá, thuế, tài chính, lãi suất, tín dụng, thương mại ) và
các công cụ giám sát như : thanh tra, kiểm tra Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường không phải bằng sự duy
ý chí của mình mà phải bằng nhận thức, tôn trọng và tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, những quyết
định của nhà nước phải tương hợp với điều kiện kinh tế thị trường
1-1

1-2
Đối với nền kinh tế thị trường Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ngoài việc dựa trên nguyên tắc và
quy luật của thị trường, nền kinh tế còn dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất
của CNXH thể hiện trên cả 3 mặt : sở hữu, quản lý và phân phối. Mục đích của nền kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất CNXH và nâng cao đời sống vật chất của người
dân. Về sở hữu, nền kinh tế phải dựa trên cơ sở công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu song song với đa dạng
hóa các hình thức sở hữu, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể là nền tảng của nền kinh tế. Về chế độ quản lý, nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực hiện việc quản lý nhằm kết hợp giữa tính cân đối kế hoạch và tính năng
động, nhạy cảm của thị trường. Về phân phối, sử dụng nhiều hình thức nhưng phân phối theo kết quả lao động và
hiệu quả kinh tế phải là hình thức phân phối chủ yếu. việc phân phối thông qua các quỹ phúc lợi XH và tập thể có
ý nghĩa quan trọng và gắn liền mỗi bước tăng trưởng kinh tế với cải thiện đời sống… Về chính sách xã hội, chúng
ta chủ trương làm giàu nhưng đó là làm giàu hợp pháp, cùng với làm giàu phải xóa đói giảm nghèo, hạn chế sự
phân cực quá đáng giàu nghèo trong nền kinh tế thị trường, phải chăm lo tiến bộ và công bằng XH ngay trong quá
trình phát triển kinh tế. Nền kinh tế thị trường XHCN cũng là nền kinh tế mở hội nhập nhưng vẫn giữ vững độc lập
chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại
Chủ thể vận hành trong cơ chế quản lý gồm thị trường, nhà nước và doanh nghiệp. Thị trường: có vai trò trực
tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất, kinh doanh, biểu
hiện trực tiếp qua những ảnh hưởng từ nội dung tác động của các quan hệ cung- cầu, giá cả, phân phối lợi nhuận,
cạnh tranh thị trường. Nhà nước thực hiện nội dung quản lý vĩ mô (điều tiết, điều chỉnh các quan hệ thị trường)
nhằm phát huy mặt tích cực đi đôi với việc ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường nhằm định hướng quá trình vận động của nền kinh tế quốc dân theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa và đảm bảo
các quan hệ cân đối cần thiết cho nội dung phát triển ổn định của nền kinh tế (như quan hệ cân đối hàng - tiền,
quan hệ cân đối xuất - nhập khẩu, quan hệ cân đối thu - chi ngân sách, quan hệ cân đối sản xuất - tiêu dùng…).
Doanh nghiệp: xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất, kinh doanh nhằm đảm bảo khả năng tiếp
cận, khả năng hoạt động theo nội dung điều tiết của cơ chế thị trường và theo nội dung định hướng của Nhà
nước.
Trong thời gian qua, việc thực hiện cơ chế quản lý kinh tế bằng thị trường có sự quản lý nhà nước theo định
hướng XHCN đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng cơ chế quản lý kinh tế của ta nhìn chung vẫn còn sơ
khai, vẫn còn chịu ảnh hưởng ít nhiều của nền kinh tế kế hoạch tập trung, thất thoát, lãnh phí còn nhiều và phát
triển chưa đúng đắn. Để đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế của nước ta hiện nay, cần tập trung vào

những giải pháp sau đây :
Một là thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, phát triển mạnh thị trường hàng hóa và dịch vụ, đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng
hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị
trường khoa học và công nghệ. Thị trường ở nước ta hiện nay đang được phát triển ở giai đoạn đầu, sơ khai, do
đó việc phát triển một thị trường đầy đủ, đồng bộ và lành mạnh không chỉ là một nội dung quan trọng trong chiến
lược chuyển đổi cơ cấu kinh tế mà còn là tiền đề quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế. Để
thực hiện điều đó, trước hết nhà nước cần tạo môi trường thể chế phát triển đồng bộ các loại thị trường, trước hết
là môi trường pháp lý để giải phóng những yếu tố sản xuất cơ bản : đất đai, lao động, vốn . Hai là phải phát triển
các tổ chức hỗ trợ thị trường từ tòa án, các cơ quan thông tin đại chúng, cách dịch vụ khoa học - công nghệ, kế
toán, kiểm toán, thiết kế, nghiên cứu thị trường, sử dụng số liệu, thông tin, quảng cáo và duy trì bảo dưỡng, các tổ
chức xúc tiến mậu dịch và các dịch vụ về đào tạo. Ba là tôn trọng các loại cạnh tranh thị trường, tạo môi trường
pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển, kiên trì phá bỏ chia cắt,
phong toả và độc quyền theo ngành và địa phương, thúc đẩy và bảo hộ cạnh tranh công bằng, coi cải cách giá cả
là vấn đề then chốt để thị trường trưởng thành
Hai là nâng cao năng lực và hiệu lực quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước bằng việc thực hiện đồng bộ các giải
pháp như sau :
- Nhà nước thực hiện tốt chức năng định hướng sự phát triển kinh tế, kiểm kê và kiểm soát mọi hoạt động
kinh tế XH bằng việc đổi mới công tác kế hoạch hóa, tăng cường thông tin kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế;
ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học- công nghệ trong dự bátrong, nâng cao chất lượng công tác xây dựng
các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đảm bảo phù hợp và định hướng được nền kinh
tế thị trường đang trong bước sơ khai và nhiều biến động. Tăng cường việc kiểm tra, kiểm soát thanh tra mọi hoạt
động kinh doanh theo quy định của pháp luật.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng đổi mới việc xây dựng, thay dần quy trình xây dựng
pháp luật theo kiểu từ trên xuống bằng quy trình từ dưới lên, các sáng kiến pháp luật, ban hành, thực thi pháp luật,
bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống, phải tạo điều kiện cho mọi loại hình kinh tế bình đẳng trước pháp luật và phù hợp
với luật pháp, thông lệ quốc tế trên cơ sở vừa đảm bảo yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vừa cân
nhắc những đặc điểm riêng biệt của nước ta, nhất là những đặc thù của nền kinh tế Việt Nam, bảo hộ sản xuất
trong nước . Bên cạnh đó, phải tăng cường pháp chế để nâng cao hiệu quả của công cụ pháp luật
- Tiếp tục cải cách hành chính để nhà nước thực hiện đúng chức năng quản lý vĩ mô và chức năng chủ sở

hữu tài sản công cộng của quốc gia, không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh và quyền tự chủ hạch
toán của doanh nghiệp. Kiện toàn và làm trong sạch bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế. Các cơ quan quản lý
(bao gồm các cấp chính quyền và các cơ quan quản lý chuyên ngành) cần phải sắp xếp, chấn chỉnh lại tổ chức bộ
2
1-3
1-4
1-5
1-4
máy theo hướng giảm bớt các đầu mối, các khâu trung gian, tập trung vào chức năng quản lý kinh tế vĩ mô, giảm
dần đi tới xóa bỏ chế độ chủ quản đối với doanh nghiệp, đảm bảo bộ máy tinh gọn, phân định rõ chức năng, trách
nhiệm và quyền hạn, đủ khả năng quản lý và xử lý tốt các vấn đề nảy sinh trong nền kinh tế thị trường. Việc sắp
xếp lại tổ chức bộ máy Nhà nước về kinh tế phải gắn liền với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước
có phẩm chất, trình độ và năng lực trong quản lý nền kinh tế thị trường và thực hiện cải cách thủ tục hành chính cả
về quy chế và tổ chức thực hiện, giảm đến mức tối đa các thủ tục, quy chế và phong cách quan liêu, phiền hà đối
với nhân dân và các doanh nghiệp.
- Xây dựng và hoàn chỉnh các chính sách kinh tế và xã hội một cách đồng bộ và nhất quán : về chính sách
tài chính - tiền tệ, phải tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và các cam kết quốc tế; đơn
giản hóa các sắc thuế và từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt đầu tư trong nước và đầu
tư nước ngoài; xóa bỏ sự can thiệp hành chính của các cơ quan Nhà nước đối với các hoạt động cho vay của các
ngân hàng thương mại Nhà nước, thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt theo cung cầu ngoại tệ, từng bước thực
hiện tự do hóa tỷ giá hối đoái có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, bảo đảm tính minh bạch, công bằng trong chi
ngân sách Nhà nước, thực hiện phân cấp mạnh đi đôi với tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa phương
trong việc thu và chi ngân sách địa phương. Về chính sách đầu tư : phải nâng cao hiệu quả các chương trình quốc
gia, bảo đảm tính hợp lý trong cơ cấu đầu tư tránh dàn trãi vốn mà tập trung vốn cho các chương trình trọng điểm,
trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực thiết yếu, nhất là cơ cấu hạ tầng để tạo ra môi trường ổn định và thuận lợi cho
giới kinh doanh làm ăn phát đạt, chuyển cơ chế phân bổ nguồn vốn vay Nhà nước mang tính hành chính sang cho
vay theo cơ chế thị trường, thường xuyên quan tâm xử lý tốt vốn đầu tư, tránh thất thoát vốn, tăng cường quản lý
nợ chính phủ; hoàn thiện cơ chế quản lý nợ nước ngoài cho phù hợp với tình hình mới. Về chính sách thương mại,
phải tiếp tục hoàn thiện và thực thi thể chế thương mại và từng bước thực hiện chính sách tự do hóa thương mại,
các thành phần kinh tế được tự do kinh doanh, được nhà nước bảo vệ nhưng phải hoạt động thương mại đúng

pháp luật; mở rộng giao lưu hàng hóa, tạo điều kiện mở rộng sản xuất, tiêu thụ hàng nông sản; mở rộng ngành
nghề.
- Tích cực đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đặc quyền, đặc lợi và coi đây là nhiệm vụ quan
trọng sống còn, nó phải được thực hiện bằng nhiều biện pháp cả tố chức hành chính, kinh tế và tâm lý giáo dục,
nhưng trước hết phải từ việc đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế phải kiên quyết loại trừ các phần tử
thoái hoá biến chất khỏi bộ máy quản lý nhà nước
Ba là nhà nước thực hiện các biện pháp nhằm bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã
hội như : thực hiện thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp, thực hiện các chương trình xóa đói
giảm nghèo, nhất là tín dụng cho người nghèo và các chính sách xã hội khác
Tóm lại, việc sử dụng cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa để quản
lý nền kinh tế là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và nhà nước ta, vừa phù hợp với xu hướng phát triển khách quan
của thời đại, vừa là sự tiếp thu các giá trị truyền thống của đất nước và những yếu tố tích cực trong giai đoạn phát
triển đã qua của chủ nghĩa xã hội kiểu cũ. Bước đầu, việc vận hành cơ chế kinh tế hàng hóa thị trường trong thời
kỳ quá độ lên CNXH đã đạt được một số thành tựu nhất định và điều đó giúp chúng ta khẳng định hơn về sự chọn
lựa này đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu mà chúng ta còn phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện hơn cơ chế
quản lý kinh tế để thúc đẩy hơn nữa sự tăng trưởng, phát triển và thịnh vượng chung của đất nước.
Câu 2 Vai trò, chức năng quản lý của nhà nước đối với phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Giải pháp nâng cao năng lực quản lý của nhà nước
Bài làm
Kinh tế thị trường là một chế độ kinh tế hay phương thức sản xuất có tính lịch sử, nó là thành quả của văn minh
nhân loại và được sử dụng nhằm phục vụ cho sự phát triển và thịnh vượng chung của mọi quốc gia, dân tộc. Tuy
nhiên, kinh tế thị trường nếu để tự do phát triển nó cũng sẽ sinh ra rất nhiều những hạn chế như : nền kinh tế dễ
rơi vào tình trạng khủng hoảng, tình trạng độc quyền do cạnh tranh thị trường tạo ra sẽ dần hạn chế các nguồn
lực, hàng hóa công cộng không được thị trường quan tâm, thông tin trên thị trường bất cân xứng, mội trường sinh
thái bị phá hủy, sự phân hóa giữa các tầng lớp xã hội ngày càng rõ đe doạ đến tính ổn định của đất nước. Khắc
phục những khiếm khuyết của thị trường nhất thiết phải có sự can thiệp của nhà nước. Ngày nay, không một quốc
gia nào sử dụng cơ chế kinh tế thị trường mà không có sự quản lý, điều tiết của nhà nước bất luận đó là nhà nước
tư bản chủ nghĩa hay nhà nước XHCN. Vai trò, chức năng quản lý của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế thị
trường là một yêu cầu tất yếu và nâng cao năng lực quản lý nhà nước là điều kiện vô cùng quan trọng để đạt được
những mục tiêu mong muốn trên cơ sở phát huy tối đa những mặt tích cực của thị trường và hạn chế tối thiểu

những tiêu cực sinh ra từ cơ chế thị trường
Mặt khác, sự cần thiết phải thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế còn xuất phát từ bản thân nhà
nước. Mọi Nhà nước sinh ra đều nhằm nắm giữ quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế để điều tiết mọi quan hệ kinh
tế - xã hội để phục vụ cho lợi ích của giai cấp cầm quyền. Để thực thi quyền lực, Nhà nước phải tiến hành quản lý
mọi lĩnh vực của xã hội, trong đó có lĩnh vực quản lý kinh tế đối với nền kinh tế quốc dân để tác động thúc đẩy nền
kinh tế phát triển đúng theo định hướng mục tiêu của giai cấp cầm quyền, đối với nhà nước ta mục tiêu đó chính là
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Ngày nay, lực lượng sản xuất phát triển, trình độ xã
hội hóa sản xuất cao do cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật tạo ra, cho nên sự quản lý của Nhà nước về kinh tế
càng cần thiết hơn.
3
1-61-6
2-1
Về vai trò quản lý kinh tế của nhà nước, bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân nên
với vai trò chủ thể quản lý của nền kinh tế, Nhà nước phải thực thi quyền lực của nhân dân, bảo vệ lợi ích của
quốc gia, lợi ích của nhân dân đồng thời cũng là cơ quan đại diện cho nhân dân làm chủ sở hữu mọi tài sản thuộc
sở hữu toàn dân. Nhà nước xây dựng mô hình kinh tế thị trường và vận hành nền kinh tế bằng cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, nền kinh tế thị trường của ta còn sơ khai nên
vai trò quản lý nhà nước rất quan trọng thể hiện qua các mặt như : Nhà nước phải tạo điều kiện thúc đẩy thị
trường ra đời, đồng thời điều tiết thị trường để nền kinh tế ổn định, phát triển; Nhà nước phải hạn chế khuyết tật
của cơ chế thị trường và khuyết điểm yếu kém của chính bộ máy Nhà nước khi bộ máy mới chuyển sang quản lý
nền kinh tế thị trường; Nhà nước phải vận hành nền kinh tế bằng cơ chế quản lý mới, định hướng xã hội chủ
nghĩa, phù hợp với bản chất Nhà nước ta.
Về chức năng quản lý kinh tế, nhà nước thực hiện các chức năng quản lý kinh tế vĩ mô tập trung với 4 nội dung
cơ bản. Một là nhà nước thực hiện chức năng tạo môi trường đầu tư an toàn, minh bạch, thuận lợi và bình đẳng
cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, bảo đảm sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội
cho sự phát triển của nền kinh tế, duy trì pháp luật, trật tự an toàn xã hội, thi hành nhất quán các chính sách và thể
chế theo hướng đổi mới, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, khống chế lạm phát, điều tiết các quan hệ thị trường và
xây dựng cơ sở hạ tầng đảm bảo điều kiện cơ bản cho hoạt động kinh tế trong kinh tế thị trường. Hai là nhà nước
thực hiện chức năng định hướng, dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực phát triển thông qua chiến lược, kế hoạch, các
chính sách kinh tế sử dụng có trọng điểm các nguồn lực, khai thông quan hệ kinh tế… Ba là nhà nước thực hiện

chức năng hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội, bảo đảm sự thống nhất giữa phát triển kinh tế và phát
triển xã hội. Bốn là kiểm tra và kiểm soát hoạt động của nền kinh tế trên lĩnh vực sử dụng tài nguyên, tài sản quốc
gia, bảo vệ môi trường, trật tự kỷ cương của nền kinh tế. Bốn chức năng này đều có vai trò quan trọng như nhau
và gắn chặt nhau không thể tách rời.
Nội dung chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước được thực hiện bằng việc sử dụng hệ thống các công
cụ quản lý kinh tế vĩ mô : công cụ luật pháp, công cụ chiến lược chiến lược quy hoạch, kế hoạch, chương trình
mục tiêu và công cụ tài chính, tiền tệ giá cả. Do đó, quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế gắn với quá trình đổi
mới và hoàn thiện các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô.
Về công cụ luật pháp, nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường trên cơ sở luật pháp, các văn bản dưới luật. Hệ
thống pháp luật là chính là cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tư, kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, duy trì trật
tự kỷ cương kinh tế, điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức trong kinh doanh theo các hướng xác định.
Chính vì vậy, pháp luật kinh tế phải rõ ràng, đồng bộ, thực tế, ổn định và phù hợp với luật pháp kinh tế quốc tế.
Về công cụ chiến lược, kế hoạch, chương trình kinh tế - xã hội : Nhà nước thông qua việc hoạch định
chiến lược kinh tế xã hội và kế hoạch hóa ở tầm vĩ mô để định hướng cho các doanh nghiệp hoạt động và đảm
bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng đã lựa chọn. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội được xem như
là sự lựa chọn có căn cứ khoa học các mục tiêu dài hạn và cơ bản của quá trình phát triển kinh tế- xã hội, gắn với
chọn lọc các phương tiện, biện pháp chủ yếu để đạt mục tiêu đó. Chiến lược được cụ thể hóa thành các chương
trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ nhằm đảm bảo những cân đối chủ yếu cho nền kinh tế
và định hướng cho sự vận động của nền kinh tế. Chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế đồng thời cũng phải thể
hiện quan điểm phát triển nhanh nhưng bền vững, với mục tiêu tăng trưởng GDP dựa trên các giải pháp huy động
và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, khắc phục những điểm yếu, phát huy mọi thế mạnh, nắm bắt tốt những cơ hội
và dự đoán mọi thách thức, rủi ro để có những giải pháp ứng phó phù hợp.
Về công cụ các chính sách tài chính - tiền tệ - giá cả : đây là những công cụ chủ yếu của quản lý kinh tế vĩ
mô trong nền kinh tế thị trường bởi lẽ kinh tế thị trường thực chất là kinh tế tiền tệ. Vì vậy, Nhà nước cần phải nắm
các công cụ này, sử dụng linh hoạt các hình thức biện pháp tài chính, tiền tệ, giá cả để điều tiết thị trường, tác
động vào các giai đoạn và thời kỳ phát triển của nền kinh tế, nhằm đảm bảo kích thích tăng trưởng nhanh và phát
triển bền vững. Một số chính sách quan trọng mà nhà nước sử dụng để quản lý điều tiết nền kinh tế thị trường bao
gồm :
Một là ngân sách Nhà nước : ngân sách Nhà nước có vai trò quan trọng đối với việc quản lý vĩ mô toàn
bộ nền kinh tế, nó giúp Nhà nước điều tiết vĩ mô trên các lĩnh vực như : điều tiết thị trường, bình ổn giá cả

và chống lạm phát, định hướng phát triển sản xuất, hoạt động đầu tư, hoạt động tài chính, điều chỉnh lĩnh
vực thu nhập.
Hai là chính sách thuế : chính sách thuế là một bộ phận trọng yếu của nền tài chính quốc gia, thuế
không chỉ giữ vai trò là nguồn thu chủ yếu của Nhà nước để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ trên
mọi lĩnh vực của Nhà nước mà còn giữ vai trò là công cụ quản lý vĩ mô. Thuế là công cụ điều tiết các hoạt
động sản xuất kinh doanh đúng hướng trên cơ sở Nhà nước sử dụng chính sách thuế có phân biệt giữa
các ngành, nghề, các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau, chính sách này sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển
của các ngành nghề, hàng hóa, dịch vụ hoặc tạo sự tác động ngược lại. Thuế là công cụ để điều tiết thu
nhập của các tầng lớp dân cư khác nhau, điều tiết quan hệ lợi ích kinh tế giữa các vùng, các miền để đảm
bảo thực hiện chính sách xã hội, sự phát triển kinh tế - xã hội tương đối đồng đều giữa các vùng, các miền
đất nước. Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế thị trường, thuế là công cụ điều tiết áp lực cạnh
tranh, bảo hộ sản xuất trong nước, điều tiết quan hệ xuất nhập khẩu và thực hiện chính sách kinh tế mở
cửa.
4
2-2
2-3
Ba là chính sách giá cả : quản lý giá cả của thị trường bằng chính sách “giá” là một trong những nội
dung chủ yếu về sự can thiệp của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường. Sự can thiệp này nhằm các
mục tiêu : điều tiết quan hệ cung - cầu, điều tiết hành vi, mối quan hệ giữa các doanh nghiệp, các ngành
kinh tế, điều tiết quan hệ cạnh tranh, bảo hộ các hoạt động sản xuất kinh doanh. Những mục tiêu trên
được thực hiện trên cơ sở Nhà nước xác định chính sách giá cả hợp lý trong từng thời kỳ, chính sách này
bao gồm 3 nội dung cơ bản : định giá trực tiếp, quản lý gián tiếp, khống chế tổng mức vật giá. Phạm vi
hàng hóa do Nhà nước định giá trực tiếp chỉ giới hạn trong một số ít sản phẩm cơ bản có tính chiến lược
hoặc có tính phục vụ xã hội như: than, dầu mỏ, điện, hàng không, bưu điện… Tuy nhiên việc Nhà nước
định giá trực tiếp cũng không thể đi ngược quy luật cung cầu của thị trường trong thời gian dài. Hình thức
thứ hai là Nhà nước chỉ đạo mức giá (quản lý gián tiếp) thông qua việc xác định mức giá cao nhất, giá bảo
hộ thấp nhất, nhịp độ thả nổi, chênh lệch kinh doanh…trong giá cả hàng hóa. Hình thức quản lý này đòi
hỏi phải điều chỉnh thường xuyên giá cả chỉ đạo để làm cho nó tiếp cận với giá cả thị trường. Hình thức
nhà nước khống chế từng mức giá cả có mục đích, đảm bảo sự ổn định cơ bản tổng mức giá cả và biện
pháp khống chế từng mức giá cả là hệ thống các biện pháp như: biện pháp hành chính, biện pháp tài

chính, biện pháp tiền tệ, biện pháp khống chế lương và hối suất…
Bốn là hệ thống ngân hàng : ngân hàng là “linh hồn của nền kinh tế thị trường” và được Nhà nước sử
dụng để điều tiết tiền tệ trong lưu thông, xác lập môi trường tài chính lành mạnh, phù hợp với yêu cầu đầu
tư, phát triển kinh tế và là công cụ để thực hiện các chiến lược tài chính, tiền tệ quốc gia. Vai trò đó được
thực hiện thông qua việc tổ chức hoạt động ngân hàng hai cấp trong nền kinh tế thị trường bao gồm :
Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý
Nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, cung ứng và điều hòa lưu thông tiền tệ, ổn định giá trị đồng
tiền. Các ngân hàng thương mại thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, thực hiện các dịch vụ tài chính,
ngân hàng. Công cụ sử dụng trong hoạt động ngân hàng là hệ thống luật, văn bản dưới luật, lãi suất, chiết
khấu, hệ thống thị trường tài chính- tiền tệ… Hoạt động của hệ thống ngân hàng hai cấp, trong từng điều
kiện cụ thể về quy mô, hiệu quả sẽ giữ được vai trò trung tâm tín dụng, trung tâm tiền tệ, trung tâm
thanh toán và từ đó có thể khống chế, kiểm soát, điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế quốc dân.
Thực tế nước ta hiện nay, nền kinh tế thị trường mới chỉ ở mức manh nha, tức là còn ở giai đoạn thấp, sơ khai
và còn thiếu nhiều điều kiện để phát triển; tính cạnh tranh còn kém, sản phẩm còn nghèo nàn; công tác quản lý
nhà nước về kinh tế cũng còn nhiều hạn chế như : công tác dự báo kém, quản lý nhà nước chưa ngang tầm với
đòi hỏi thời kỳ mới, hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách chưa đồng bộ, nhất quán, quản lý nhà nước trên các
lĩnh vực tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hóa, thương mại, phân phối, đất đai, vốn và tài sản nhà nước chưa
thật tốt, chậm được đổi mới và lúng túng trong chuyển sang cơ chế thị trường, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước
còn cồng kềnh, kém hiệu quả, năng lực và phẩm chất cán bộ chưa tương xứng, một bộ phận cán bộ quản lý tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, thủ tục hành chính phức tạp Chính những hạn chế này là rào cản lớn cho sự phát
triển kinh tế
Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả q/lý của nhà nước, cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu như sau đây:
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng đổi mới việc xây dựng, thay dần quy trình xây dựng
pháp luật theo kiểu từ trên xuống bằng quy trình từ dưới lên, các sáng kiến pháp luật, ban hành, thực thi pháp luật,
bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống, phải tạo điều kiện cho mọi loại hình kinh tế bình đẳng trước pháp luật và phù hợp
với luật pháp, thông lệ quốc tế trên cơ sở vừa đảm bảo yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vừa cân
nhắc những đặc điểm riêng biệt của nước ta, nhất là những đặc thù của nền kinh tế Việt Nam, bảo hộ sản xuất
trong nước . Bên cạnh đó, phải tăng cường pháp chế để nâng cao hiệu quả của công cụ pháp luật.
- Đổi mới công tác kế hoạch hóa, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế
hoạch phát triển kinh tế -xã hội; tăng cường thông tin kinh tế xã hội trong nước và quốc tế nhằm đảm bảo phù

hợp và định hướng được nền kinh tế thị trường đang trong bước sơ khai và nhiều biến động.
- Tiếp tục cải cách hành chính để nhà nước thực hiện đúng chức năng quản lý vĩ mô và chức năng chủ sở hữu
tài sản công cộng của quốc gia, không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh và quyền tự chủ hạch toán
của doanh nghiệp. Kiện toàn và làm trong sạch bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, giảm bớt các đầu mối, các
khâu trung gian, tập trung vào chức năng quản lý kinh tế vĩ mô, giảm dần đi tới xóa bỏ chế độ chủ quản đối với
doanh nghiệp, đảm bảo bộ máy tinh gọn, phân định rõ chức năng, trách nhiệm và quyền hạn, đủ khả năng quản lý
và xử lý tốt các vấn đề nảy sinh trong nền kinh tế thị trường. Việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy Nhà nước về kinh tế
phải gắn liền với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước có phẩm chất, trình độ và năng lực trong
quản lý nền kinh tế thị trường : phải thực hiện tốt quy chế tuyển chọn đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý,
không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực của cán bộ đặc biệt là cán bộ quản lý kinh tế. Kết hợp chặt chẽ
giữa đào tạo, tuyễn dụng, bố trí, đề bạc, đãi ngộ và khen thưởng tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ phát huy tính
chủ động, sáng tạo, toàn tâm toàn ý với sự phát triển của đất nước. Song song đó phải thực hiện cải cách thủ tục
hành chính cả về quy chế và tổ chức thực hiện, giảm đến mức tối đa các thủ tục, quy chế và phong cách quan liêu,
phiền hà đối với nhân dân và các doanh nghiệp và thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và
hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước về kinh tế.
5
2-4
2-5
- Xây dựng và hoàn chỉnh các chính sách kinh tế và xã hội một cách đồng bộ và nhất quán. Về chính sách
thuế, phải tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và các cam kết quốc tế; đơn giản hóa
các sắc thuế và từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt đầu tư trong nước và đầu tư nước
ngoài. Về chính sách tài chính - tiền tệ, phải bảo đảm tính minh bạch, công bằng trong chi ngân sách Nhà nước,
thực hiện phân cấp mạnh đi đôi với tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc thu và chi
ngân sách địa phương. Về hoạt động ngân hàng, phải xây dựng hệ thống ngân hàng thương mại đáp ứng nhu cầu
tín dụng, cung ứng các dịch vụ ngân hàng thuận lợi cho xã hội, kiện toàn các ngân hàng thương mại Nhà nước
thành những doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ tự chủ, tự chịu trách nhiệm, có uy tín, đủ sức cạnh tranh trên thị
trường, xóa bỏ sự can thiệp hành chính của các cơ quan Nhà nước đối với các hoạt động cho vay của các ngân
hàng thương mại Nhà nước, thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt theo cung cầu ngoại tệ, từng bước thực hiện tự
do hóa tỷ giá hối đoái có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, . Về chính sách đầu tư : phải nâng cao hiệu quả các
chương trình quốc gia, bảo đảm tính hợp lý trong cơ cấu đầu tư tránh dàn trãi vốn mà tập trung vốn cho các

chương trình trọng điểm, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực thiết yếu, nhất là cơ cấu hạ tầng để tạo ra môi
trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt, chuyển cơ chế phân bổ nguồn vốn vay Nhà nước
mang tính hành chính sang cho vay theo cơ chế thị trường, thường xuyên quan tâm xử lý tốt vốn đầu tư, tránh thất
thoát vốn, tăng cường quản lý nợ chính phủ; hoàn thiện cơ chế quản lý nợ nước ngoài cho phù hợp với tình hình
mới. Về chính sách thương mại, phải tiếp tục hoàn thiện và thực thi thể chế thương mại và từng bước thực hiện
chính sách tự do hóa thương mại, các thành phần kinh tế được tự do kinh doanh, được nhà nước bảo vệ nhưng
phải hoạt động thương mại đúng pháp luật; mở rộng giao lưu hàng hóa, tạo điều kiện mở rộng sản xuất, tiêu thụ
hàng nông sản; mở rộng ngành nghề.
- Tích cực đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đặc quyền, đặc lợi và coi đây là nhiệm vụ quan
trọng sống còn, nó phải được thực hiện bằng nhiều biện pháp cả tố chức hành chính, kinh tế và tâm lý giáo dục,
nhưng trước hết phải từ việc đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế phải kiên quyết loại trừ các phần tử
thoái hoá biến chất khỏi bộ máy quản lý nhà nước
Tóm lại, nước ta trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, điều đó đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn
thiện các công cụ quản lý vĩ mô, nâng cao năng lực hiệu quả của bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, đặc biệt là
phải đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vừa có tâm, vừa có tầm để thực hiện tốt các chức năng quản lý của
nhà nước, đảm bảo sự phát triển nền kinh tế ở nước ta không đi chệch hướng XHCN.
Câu 3: trình bày vai trò của chính sách kinh tế. Phân tích một số chính sách đầu tư chủ yếu ở nước ta.
BÀI LÀM
Trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta, vai trò của các chính sách kinh tế có ý nghĩa rất lớn trong
việc đảm bảo xây dựng thành công một nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững và theo đúng định hướng XHCN bởi một chính
sách đúng đắn, phù hợp sẽ khơi dậy những tiềm năng và kích thích sự phát triển. Vậy chính sách kinh tế là gì ? vai trò của các
chính sách kinh tế đến quá trình hoạt động và phát triển của nền kinh tế quốc dân ? Bằng kiến thức quản lý kinh tế, chúng ta
hãy phân tích làm rõ vấn đề trên
Chính sách kinh tế là một hệ thống các quan điểm, mục tiêu phương thức công cụ mà chủ thể quản lý sử dụng tác động lên
hành vi của chủ thể và đối tượng nhằm thực hiện những nội dung quản lý kinh tế hướng đến những mục tiêu đã xác định. Nói
cách khác, chính sách kinh tế đó là những giải pháp mà nhà nước sử dụng để xử lý và giải quyết các nội dung kinh tế lớn trong
quá trình hoạt động và phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Trong hoạt động quản lý kinh tế, chính sách kinh tế có những vai trò như sau : một là định hướng cho hoạt động kinh tế xã
hội của đất nước; hai là tổ chức để xử lý, giải quyết các vấn đề kinh tế lớn mang tầm vĩ mô của kinh tế như: các chính sách đầu
tư, chính sách thương mại, chính sách tài chính - tiền tệ; ba là hỗ trợ để phát triển các mục tiêu kinh tế đã được xác định. Như

vậy, chính sách kinh tế có giá trị như là những quyết định trong dài hạn của nhà nước nhằm tổ chức quá trình phát triển của
nền kinh tế quốc dân theo mục tiêu định hướng. Từ những cơ sở trên ta có thể nói chính sách kinh tế là những quyết định kinh
tế ở tầm vĩ mô do nhà nước đưa ra nhằm thực hiện các chương trình, kế hoạch trong một thời gian dài theo mục tiêu đã xác
định.
Mục tiêu của kinh tế vĩ mô thường dựa trên các dấu hiệu chủ yếu như : ổn định, tăng trưởng và công bằng xã hội. Để đạt
được mục tiêu kinh tế vĩ mô nêu trên, nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ chính sách khác nhau. Mỗi chính sách phải có
những công cụ riêng biệt. Chính sách bao gồm nhiều lĩnh vực của kinh tế xã hội : tài chính - tiền tệ, giá cả, đầu tư, thương
mại Trong nền kinh tế thị trường, chính sách khuyến khích đầu tư có vị trí quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Khi đất
nước chuyển sang thời kỳ xây dựng và phát triển kinh tế thì vấn đề mấu chốt, quyết định của mọi sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia là giải quyết các bài toán tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, suy đến cùng là giải quyết
vấn đề đầu tư.
Chính sách đầu tư là hệ thống những quan điểm, những biện pháp mà nhà nước sử dụng các công cụ, đòn bẩy kinh tế
tác động vào các hoạt động đầu tư của các chủ thể nhằm định hướng hoạt động, bảo đảm sự tăng trưởng và hiệu quả cao cho
nền kinh tế trong từng thời kỳ. Nói cách khác, chính sách đầu tư là hệ thống chính sách khuyến kích và bảo đảm đầu tư của nhà
nước đối với các chủ thể tham gia đầu tư. Đây là hệ thống đồng bộ từ quan điểm chiến lược, cơ chế chính sách tạo môi trường
thuận lợi bình đẳng cho hoạt động đầu tư. Chính sách đầu tư bao gồm các chính sách về tích luỹ tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư,
chính sách tạo vốn và sử dụng vốn.
6
2-6
Lực lượng tham gia đầu tư được mở rộng gồm nhà nước, doanh nghiệp, dân cư và người nước ngoài. Nguồn vốn đầu tư
được mở rộng : vốn ngân sách, vốn tự có của doanh nghiệp, nguồn vốn của dân cư, nguồn vốn đầu tư của nước ngoài. Hình
thức đầu tư cũng được mở rộng bao gồm đầu tư của ngân sách, tín dụng nhà nước, tín dụng, ngân hàng và đầu tư giao tiếp
thông qua cổ phiếu, trái phiếu . . .
Hiện nay trong quá trình phát triển kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế diễn ra trong xu thế toàn cầu hoá, chính
sách đầu tư là nhạy cảm và phải thường xuyên thay đổi để phù hợp quá trình vận động và phát triển của nền kinh tế nhưng phải
luôn tuân thủ nguyên tắc : bảo đảm môi trường đầu tư hấp dẫn ổn định, những biện pháp bảo hộ đầu tư trong nước phải từng
bước bác bỏ những cản trở để phù hợp lộ trình kinh tế, những biện pháp khuyến khích đầu tư, hấp dẫn tin cậy, phải bảo đảm ổn
định và lành mạnh hoá môi trường chính trị xã hội
Riêng ở nước ta, để có môi trường đầu tư lý tưởng, một số điều kiện cần đảm bảo bao gồm : Ổn định về chính trị mà sự
lãnh đạo duy nhất của Đảng là điều kiện đảm bảo, luật pháp phải đồng bộ và hiệu lực, phải có hệ thống chính sách hữu hiệu,

công cụ hoạt động hiệu quả, ngăn chặn quan liêu tham nhũng và phải tạo ra một môi trường thị trường tạo hệ thống thúc đẩy
thị trường hình thành, phải xây dựng kết cấu hạ tầng, nâng cao trình độ dân trí.
Việc ban hành Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài (1988) đã có tác dụng mạnh mẽ đối với thu hút đầu tư. Đầu tư trực
tiếp của nước ngoài đã trở thành một nguồn lực quan trọng, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta. Bên
cạnh đó, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (1998) cũng đã có tác động tích cực trong việc huy động nguồn vốn tiềm ẩn,
khả năng quản lý của nhân dân vào phát triển kinh tế xã hội, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của xã hôi
Để khuyến khích đầu tư phát triển, ngoài quan điểm khuyến khích phát triển sản xuất - kinh doanh, nhà nước còn sử
dụng hệ thống các công cụ chính sách, tạo điều kiện và môi trường khuyến khích đầu tư. Việc quản lý kinh tế vĩ mô với hệ
thống luật lệ, thể chế ổn định, kiềm chế lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ giá hợp lý ở mức cho phép, cải cách thủ tục hành chính
là những điều kiện quan trọng khuyến khích các nguồn lực đầu tư phát triển. Bằng hệ thống chính sách công cụ , nhà nước có
thể khuyến khích đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, vùng cần thiết thông qua các công cụ thuế, tín dụng, giá đất đai, tỷ giá,
chính sách bảo hộ có chọn lọc và có thời hạn để phát triển những ngành công nghiệp non trẻ. Bên cạnh hệ thống chính sách
khuyến khích đầu tư, nhà nước còn có cơ chế chính sách bảo đảm đầu tư để tạo niềm tin cho các nhà đầu tư. Đảng ta đã khẳng
định rằng, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là vấn đề chiến lược lâu dài, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế các
loại hình sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho các chủ đầu tư tham gia tự do làm ăn công khai hợp pháp…Đây là những
chính sách quan trọng đã tạo được niềm tin và môi trường thuận lợi cho các chủ đầu tư.
Để khuyến khính nguồn vốn đầu tư trong nước, trong kỳ họp thứ ba ngày 7 tháng 5 năm 1998 của Quốc hội khoá X đã
thông qua Luật khuyến kích đầu tư trong nước có sửa đổi với nội dung thể hiện tinh thần của Nghị quyết TW IV (khoá 8)
nhằm phát huy nội lực để thúc đẩy công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Qua đó đã thể hiện quan điểm nhất quán của
Đảng và Nhà nước trong việc mở rộng các hình thức đầu tư như : BOT, BTO,OT thí điểm việc người nước ngoài tham gia góp
vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp VN, mở rộng nguồn vốn tham gia đầu tư sở hữu trí tuệ, bí quyết kỹ thuật, khuyến khích
đầu tư mở rộng và đầu tư chiều sâu, đầu tư xây dựng dây truyền sản xuất mới, duy chuyển các cơ sỏ sản xuất ra khỏi thành phố
mà trước mắt là các cơ sở gây ô nhiễm, qua việc xây dựng, thành lập các khu chế xuất, khu công nghiệp, đa dạng hoá sản xuất
ngành nghề cả thiện môi trường sinh thái…hành lang pháp lý ổn định qua việc nhà nước ta khẳng định bảo vệ tài sản và vốn
đầu tư hợp pháp không bị quốc hữu quá, không bị tịch thu …bên cạch đó là cách chính sách về hỗ trợ như: hỗ trợ đất đai, mặc
bằng sản xuất doanh nghiệp, chế độ cho vay ưu đãi trung hạn và dài hạn, chế độ bảo hành, tuyển dụng đầu tư, quỹ hỗ trợ xuất
khẩu, quỹ hỗ trợ phát triển khoa học công nghệ nhằm hỗ trợ việc nghiên cứu áp dụng công nghệ mới vào sản xuất.
Để tăng cường phát triển kinh tế, cần phải có vốn. Song vốn đang là thứ nguồn lực khan hiếm, nhất là ở một nước có
thu nhập thấp: như nước ta hiện nay vì vậy cùng với huy động tối đa nguồn vốn trong nước, cần phải huy động các nguồn vốn
bên ngoài. Huy động nguồn vốn bên ngoài có thể thông qua đi vay, vay của các nhà nước và các tổ chức tài chính quốc tế

thông qua hình thức viện trợ phát triển chính thức (ODA) hoặc vay thương mại của tư nhân thông qua phát hành cổ phiếu, trái
phiếu. Việc huy động vốn thông qua đi vay có thể chủ động giúp chúng ta đầu tư vào ngành và lĩnh vực cần thiết, song vấn đề
cần lưu ý ở đây là, vấn đề trả vốn và lãi, các tỷ xuất cho vay thường cao, hoặc vay có các điều kiện kèm theo. Vay thương mại
trong vị thế của nước đang phát triển như Việt Nam thường chịu lãi suất cao. Hiện nay các nguồn vốn vay từ ODA đang chựng
lại, do vậy Đảng và Nhà nước ta đang có những xu hướng khuyến khích vay từ nguồn FDI. Từ những nguồn vốn vay này
nhằm phát triển, mở rộng thị trường, đổi mới công nghệ, có thêm nguồn lực và kinh nghiệm quản lý, nhằm chuẩn bị tốt cho
quá trình hội nhập.
Trong chính sách đầu tư cần quán triệt một số quan điểm cần trong chính sách đầu tư : - Việc hoạch định xét duyệt
dự án đầu tư nhằm hoạt động sử dụng có hiệu quả tìm năng, nguồn lực của nền kinh tế, nhất là tài nguyên và lực lượng lao
động. Phải bảo đảm tính hợp lý trong cơ cấu đầu tư (về quy mô, về tổ chức), tránh dàn trãi vốn, phải thường xuyên quan tâm
và xử lý tốt vốn đầu tư, tránh thất thoát vốn dẫn đến yếu kém trong quản lý vốn thiếu thông tin trình độ quản lý thấp, lợi ích
cục bộ. Hướng ưu tiên tiên đầu tư cần : ưu tiên đầu tư ngành sản xuất vật chất, những ngành sử dụng nguyên liệu và lao động
tạo chổ, ưu tiên đầu tư ngành sử dụng công nghệ cao, sử dụng có sức cạnh tranh, khả năng thu hồi vốn cao.
Trước mắt chú trọng đầu tư cho công nghiệp, hướng vào những ngành phục vụ cho CNH-HĐH nông nghiệp nông
thôn : đầu tư xây dựng phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội , nâng cao trình độ dân trí, tạo nguồn nhân lực. Đầu tư xây
dựng chương trình văn hoá Xh, hình thành những vùng kinh tế trọng điểm, phải huy động tổng hợp lực lượng XH tham gia đầu
tư, nhà nước chuyển đầu tư, những chương trình trọng điểm, đòi hỏi vốn lớn, khuyến khích tạo điều kiện cho tất cả chủ thể
thuộc các thành phần kinh tế tham gia đầu tư.
Mặt khác, để tiếp tục đổi mới chính sách nhằm tạo môi trường đầu tư thuận lợi, hấp dẫn, khuýên kích kinh doanh cần
tập trung vào một số vấn đề sau đây :
7
Một là, phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách để thu hẹp và đi đến chấm dứt mọi sự phân biệt đối xử không bình
đẳng như hiện nay trong các quan hệ vay vốn tín dụng ngân hàng, miễn giảm thuế, giá thuê đất, giá cước dịch vụ,thuê và tuyển
chọn lao động giữa các thành phần kinh tế, giữa doanh nhà nước với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, giữa doanh nghiệp
trong nước với doanh nghiệp nước ngoài, giữa người trong nước với người nước ngoài. Đi đôi với việc nhanh chóng xoá bỏ sự
phân biệt đối xử không bình đẳng, phải tiếp tục đổi mới chính sách, bảo đảm sự ổn định, công khai minh bạch và tăng cường
sức cạnh tranh lành mạnh. Tiếp tục tăng cường đầu tư của nhà nước và khuyến khích các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư xây
dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội.
Hai là, phải đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo qui chế ‘’một cửa’’. Coi trọng việc điều hành vĩ mô của nhà nước
nhằm tiếp tục duy trì được môi trường tài chính tiền tệ, giá cả lạm pháp thị trường ổn định. Từng bước điều chỉnh giá hàng

hoá dịch vụ do nhà nước định giá xuống ngang bằng các nước khu vực, xây dựng cơ chế quản lý, kiểm soát các mặt hàng độc
quyền, cơ chế chống bán phá giá và cơ chế kiểm soát việc chuyển giá nội bộ trong doanh nghiệp để đảm bảo môi trường kinh
doanh lành mạnh mẽ theo chiều hướng đổi mới mang tính cách mạng trong nhận thức, tư duy, cách làm việc của hệ thống các
cơ quan công quyền, của đội ngũ cán bộ, công chức, các chủ doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế của từng người có sức
lao động có tiền tiết kiệm có vốn ,tài sản …
Ba là đa dạng hoá các kênh và hình thức động viên nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội, tập trung tăng tỷ lệ
động viên từ các nguồn thu, thúc đẩy cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Đối với khu vực kinh tế tập thể, cần nhanh
chóng xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử. Coi trọng hỗ trợ về tài chính để đầu tư giống mới ,chuyển giao các kỷ thuật khuyến
nông khuyến lâm, khuyến ngư, đào tạo cán bộ quản lý, hỗ trợ xuất khẩu, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng (thuỷ sản, làng nghề,
chợ đầu mối). Đối với khu vực kinh tế tư nhân, rà soát xoá bỏ mọi phân biệt đối xử trong các quan hệ tài chính, tín dụng, giá
thuê đất, đơn giản hoá thủ tục hành chính trong thành lập doanh nghiệp. Nhà nước tạo môi trường thuận lợi để thành phần kinh
tế này phát huy cao độ các nguồn lực trong nhân dân để đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh ở mọi ngành nghề mà pháp luật
không cấm .Sớm nghiên cứu ban hành cơ chế tài chính đối vối doanh nghiệp dân doanh. Đối với khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài : tiếp tục hoàn thiện mô trường đầu tư thông thoáng, minh bạch và ổn định chính sách. Mở rộng các hình thức thu
hút nhà đầu tư nước ngoài đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng, bất động sản dưới các hính thức
BT,BOT…Tăng cường thu hút vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài, xúc tiến tổ chức phát hành trái phiếu chính phủ ra thị
trường vốn quốc tế để tạo điều kiện phát hành trái phiếu công ty, tíchcực tham gia thị trường trái phiếu châu Á, tạo môi trường
thuận lợi cho các quỹ đầu tư nước ngoài vào hoạt động tại Việt Mam. Mở rộng giới hạn mức đầu tư của tổ chức, cá nhân nước
ngoài tham gia vào quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp trong
nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài về thuế giá thuê đất giá cước dịch vụ ,điện nước …Tiếp tục có biện pháp đẩy
mạnh xúc tiến vay vốn ODA để đẩy nhanh hơn và chấm dứt việc giải ngân vốn này chậm như hiện nay (đạt 50%tổng số vốn đã
ký kết),chuẩn bị đủ vốn đối ứng ,chuẩn bị tốt các dự án đầu tư ,nâng cao hiệu quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn.
Cuối cùng, nhằm để nâng cao khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả việc đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, khả năng huy
động phải đặt trong mối tương quan trong việc sử dụng nguồn vốn trong nước và nguồn vốn đi vay, phải cải thiện môi trường
đầu tư đi đôi với các biện pháp khuếch trương đầu tư thông qua các ưu đãi về đầu tư. Bên cạnh đó chúng ta phải có hướng bồi
dưỡng nâng cao năng lực ở phía Việt Nam trong các xí nghiệp liên doanh và năng lực quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, đào tạo và bố trí cán bộ có năng lực phẩm chất vào các vị trí chủ chốt trong các xí nghiệp liên doanh
Tóm lại, chính sách kinh tế là một loại quyết định quản lý mà tầm ảnh hưởng của nó rất rộng lớn và quyết định rất lớn
đến tốc độ phát triển kinh tế của một quốc gia. Việc đề ra những chính sách phù hợp sẽ làm khơi dậy những tiềm năng mới, tạo
động lực thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển kinh tế và ngược lại, nếu chính sách không phù hợp thì nền kinh tế sẽ phải trả giá

bằng sự đình trệ, thậm chí là khủng hoảng nghiêm trọng. Vì vậy, việc ban hành chính sách kinh tế phải được thực hiện xem xét
một cách toàn diện và phải được đưa ra từ những nhà quản lý có trình độ năng lực giỏi
Câu 3: trình bày vai trò của chính sách kinh tế. Phân tích một số chính sách thương mại chủ yếu ở nước ta.
BÀI LÀM
Trong sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta, nhiệm vụ đổi mới quản lý kinh tế trong đó vai trò chính
sách kinh tế có ý nghĩa rất lớn và giữ một vai trò cơ bàn chủ yếu, đây là cơ sở lý luận nhằm bảo đảm, giữ vững cho công cuộc
xây dựng đất nước theo định hướng XHCN và quyết định sự thành công CNH-HĐH. Để hiểu rõ vai trò của chính sách kinh tế
trong quản lý kinh tế, trước hết chúng ta đi vào các khái niệm. Vậy chính sách là một hệ thống các quan điểm, mục tiêu,
phướng thức, công cụ hay những giải pháp mà nhà nước sử dụng để xử lý và giải quyết các nội dung kinh tế lớn trong quá
trình hoạt động và phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Trong hoạt động quản lý kinh tế, chính sách kinh tế có những vai trò: Thứ nhất, định hướng cho hoạt động kinh tế xã
hội của đất nước, vai trò này mang tính bao quát, vĩ mô nhằm hướng tất cả các hoạt động kinh tế xã hội của đất nước theo một
mục tiêu đặt sẵn; Thứ hai, tổ chức để xử lý, giải quyết các vấn đề kinh tế lớn, vai trò này nhằm đưa ra các phương pháp và biện
pháp thực hiện các chính sách KT-XH mang tầm vĩ mô, xử lý và giải quyết các vấn đề lớn của kinh tế như các chính sách đầu
tư, chính sách thương mại, chính sách tài chính-tiền tệ…; Thứ ba, hỗ trợ để phát triển các mục tiêu kinh tế đã được xác định.
Như vậy, Chính sách kinh tế có giá trị như là những quyết định trong dài hạn của nhà nước nhằm tổ chức quá trình phát triển
của nền kinh tế quốc dân theo mục tiêu định hướng.
Từ những cơ sở trên, ta có thể nói chính sách kinh tế là những quyết định kinh tế ở tầm vĩ mô do nhà nước đưa ra nhằm
thực hiện các chương trình, kế hoạch trong một thời gian dài theo mục tiêu đã xác định.
Mục tiêu của kinh tế vĩ mô thường dựa trên các dấu hiệu chủ yếu như: ổn định, tăng trưởng và công bằng xã hội. Để đạt
được mục tiêu kinh tế vĩ mô nêu trên, Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ chính sách khác nhau. Mỗi chính sách lại có
8
3-2
3-1
những công cụ riêng biệt. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước thường có những chính sách kinh tế vĩ mô về thương mại,
đầu tư, tài chính - tiền tệ .v.v…
Sau đây, chúng ta hãy tìm hiểu một trong những chính sách quan trọng của nhà nước, đó là chính sách thương mại. Ngày
này với sự phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường trong nước và cả trên thế giới, việc xác định chính sách thương mại sao
cho phù hợp và mang lại hiệu quả trong quá trình đổi mới đất nước hiện nay là một vấn đề hết sức cần thiết.
Trước hết, thương mại là gì ? vai trò của nó như thế nào đối với nền kinh tế nước ta hiện nay?

Thương mại không chỉ giải quyết đầu vào, đầu ra cho sản xuất, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội mà còn có vai
trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân trong quá trình đổi mới. Cụ thể: Thương mại khai thác mọi tiềm năng và
lợi thế sẵn có của đất nước để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh (Lợi thế của Việt
Nam: vị trí, điều kiện thổ nhưỡng, tự nhiên, khí hậu, lao động); Tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý
và hiệu quả hơn; Thúc đẩy ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ vào sản xuất và đời sống, tác động phá vỡ SX nhỏ, khép
kín, tự cấp tự túc; Mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế, hòa nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, từ đó nâng cao uy tín của
nước ta trên trường quốc tế. Do vậy, ngày nay người ta không coi thường mại là hoạt động buôn bán thuần túy mà còn bao
gồm các hoạt động dịch vụ thương mại và hoạt động xúc tiến thương mại, gắn thương mại với hoạt động sản xuất. Điều này có
nghĩa là trong hoạt động sản xuất kinh doanh, giá trị doanh nghiệp còn bao gồm có cả giá trị thương hiệu (sản phẩm hay doanh
nghiệp), giá trị thương hiệu được xác định qua thị phần và uy tín mà nó đã được khẳng định.
Trong điều kiện nền kinh tế mở, hệ thống thương mại quốc gia bao gồm 2 bộ phận cơ bản: thương mại nội địa và thương
mại quốc tế, trong đó thương mại nội địa luôn là cái quyết định và thương mại quốc tế là quan trọng.
Chính sách thương mại là một hệ thống các quan điểm, các chuẩn mực, các giải pháp, thủ thuật mà Nhà nước tác động
vào thị trường để phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong một giai đoạn nhất định. Vai trò của nó thể hiện qua tính
định hướng, tổ chức xử lý, giải quyết những vấn đề lớn của Nhà nước trong lĩnh vực thương mại, cả về nội địa và quốc tế.
Trong một quốc gia, tuỳ theo mục tiêu và phương thức quản lý, chính sách thương mại được phân theo các nhóm như:
thương mại nội địa và thương mại quốc tế; bảo hộ thương mại và tự do hóa thương mại; chính sách thương mại đối với từng
thành phần kinh tế; chính sách thuế quan, chính sách hạn ngạch, chính sách tỷ giá hối đoái.
Chính sách thương mại đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tế sẽ có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế đất
nước theo định hướng đã định. Vì thế, đối với nước ta việc lựa chọn một chính sách thương mại như thế nào cho phù hợp với
điều kiện kinh tế thị trường mới được chuyển đổi và phát triển từ 20 năm nay, điểm xuất phát của nền kinh tế thấp, sức cạnh
tranh kém… là bài toán khó đặt ra cần phải giải quyết. Quan điểm Đảng ta là: sản xuất hàng hóa chủ yếu là hướng vào xuất
khẩu nhưng đồng thời phải coi trọng việc sản xuất hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu.
* Thực hiện Chính sách thương mại nước ta thời gian qua:
Về thành tựu: Nhà nước ta đã từng bước thực hiện chính sách thương mại mở, tự do hóa thương mại; giảm mạnh các biện
pháp hành chính; tôn trọng điều tiết thị trường và khuyến khích sự cạnh tranh. Phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước về
thương mại và hoạt động thương mại. Nhà nước ban hành và thực thi các biện pháp, chính sách thương mại theo hướng linh
hoạt, đảm bảo hoạt động nhanh nhạy, phù hợp với cơ chế thị trường.
Hạn chế: Chính sách thương mại đã qua chưa đủ mạnh và chưa đủ hiệu lực để tạo thị trường cạnh tranh bình đẳng, lành
mạnh; chưa tác động tốt và có hiệu quả trong phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn để chuyển sang sản xuất hàng

hóa phát triển ở trình độ cao; Chưa thực sự tạo ra động lực để nâng cao sức cạnh tranh trong nước và quốc tế; Còn thể hiện sự
lúng túng, bị động trước những biến động thị trường.
3. Định hướng đổi mới chính sách thương mại và một số chính sách thương mại chủ yếu nước ta:
Trong qúa trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta, tất cả những chính sách thương mại đều có mối liên hệ tác
động lẫn nhau, ảnh hưởng đến nhà kinh doanh và toàn xã hội. Hệ thống chính sách thương mại là một hệ thống nhiều cấp bậc,
trong đó có những chính sách chung, bao quát nhiều chính sách cụ thể, chi tiết. Đó là chính sách thương mại nội địa và chính
sách thương mại quốc tế.
3.1* Chính sách thương mại nội địa.
Chính sách thương mại nội địa là chính sách tác động vào hoạt động thương mại không có quan hệ trực tiếp với hoạt động
xuất nhập khẩu, có nghĩa là những chính sách điều chỉnh các quan hệ thương mại nội địa. Bao gồm: Chính sách thương mại
đối với các thành phần kinh tế; Chính sách thương mại đối với các vùng kinh tế nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa; Chính
sách thuế.
*- Chính sách thương mại đối với các thành phần kinh tế.
Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh tế được tự do kinh doanh
thương mại một cách hợp pháp và bình đẳng trước pháp luật. Trong đó, các doanh nghiệp nhà nước được nhà nước định hướng
kinh doanh các mặt hàng cần thiết, bảo đảm giữ được vai trò chủ đạo trong hoạt động thương mại được coi là công cụ của nhà
nước để điều tiết cung - cầu, ổn định giá cả, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, góp phần thực hiện những mục tiên kinh tế-
xã hội của đất nước. Do đó, chính sách thương mại đối với doanh nghiệp nhà nước là khuyến khích phát triển các doanh
nghiệp kinh doanh có hiệu quả, có sức cạnh tranh cao, những doanh nghiệp công ích tham gia kinh doanh những lĩnh vực
không thu lợi nhuận hoặc lợi nhuận thấp mà các thành phần kinh tế khác không muốn kinh doanh. Đối với các mặt hàng mà
tất cả các thành phần khác đều có quyền tham gia kinh doanh thì doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động theo cơ chế thị trường,
cạnh tranh bằng năng suất, chất lượng, thái độ phục vụ và giá cả. Nhà nước chủ trương hạn chế độc quyền. Thời gian qua,
thương mại nhà nước thực hiện vai trò điều tiết chưa được tốt; nhiều ngành, khâu trong thương mại nội địa gần như bị “bỏ rơi,
buông lỏng” để cho các thành phần kinh tế khác nắm giữ và chi phối. Không thực hiện được vai trò làm đầu mối phân phối
hàng hóa ở trong nước. Điển hình trong việc xuất khẩu gạo, khu vực DN và các tổ chức Nhà nước thực hiện 94%, chỉ có 6% là
9
3-3
3-4
tư nhân, nhưng khâu thu gom mua nguyên liệu chế biến gạo xuất khẩu thì phần lớn do các doanh nghiệp tư nhân thực hiện trực
tiếp đối với người sản xuất, DNNN thường là không tổ chức được và kém hiệu quả khâu này, dẫn đến hầu hết các chính sách

của nhà nước nhằm trợ giúp người trồng lúa thông qua doanh nghiệp thường kém hiệu quả….
Nhà nước có chính sách bảo hộ quyền sở hữu, quyền và lợi ích khác nhau của thương nhân thuộc các thành phần kinh tế
nước ngoài quốc doanh như hợp tác xã, cá thể, tư bản tư nhân; thực hiện kiểm tra, kiểm soát, thanh tra mọi hoạt động kinh
doanh theo quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại. Khuyến khích các doanh nghiệp tư bản
nhà nước, hình thức đại lý phát triển các hình thức kinh tế hợp tác trong thương mại.
*- Chính sách thương mại đối với các vùng kinh tế nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Đây là khu vực rộng lớn
với 80% dân số và trên 70% lao động cả nước sinh sống và làm việc; là nơi cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và nông sản
hàng hoá cho xuất khẩu; là thị trường tiêu thụ hàng hoá của công nghiệp và của hệ thống thương mại cả nước. Để chuyển nông
nghiệp sang sản xuất hàng hoá, thực hiện mục tiêu CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn phải khuyến kích phát triển rộng, mạnh
thương mại dịch vụ ở nông thôn. Đây là địa bàn mà doanh nghiệp thương mại nhà nước phải phát huy vai trò của mình, đặt lợi
ích của nhân dân trên mục tiêu lợi nhuận để khắc phục khó khăn, phục vụ tốt nhân dân trong sản xuất và đời sống. Nhà nước
cần thực hiện các chích sách ưu đãi về thuế, tín dụng, trợ giá, trợ cước cho các thương nhân thuộc các thành phần kinh tế cung
cấp các mặt hàng thiết yếu; đồng thời có chính sách đầu tư kết cấu hạ tầng như giao thông, xây dựng các trung tâm thương mại
ở các vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn.
*- Chính sách thuế. Nhà nước sử dụng chính sách thuế để nhằm điều tiết thu nhập của người kinh doanh và các tầng lớp
dân cư, điều tiết cung-cầu, kích thích sản xuất kinh doanh có hiệu quả và tạo nguồn thu chủ yếu cho nhân sách nhà nước để
phục vụ cho sự phát triển của đất nước.
3.2- Chính sách thương mại quốc tế.
Chính sách thương mại quốc tế có liên quan mật thiết với chính sách thương mại nội địa, tạo điều kiện cho nhau cùng
phát triển vì mục tiêu KT-XH chung của đất nước. Một số chính sách thương mại có tính đặc thù với kinh tế đối ngoại như:
*- Chính sách độc quyền ngoại thương. Trong cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, Nhà nước thực hiện chính sách độc
quyền ngoại thương, nghĩa là chỉ các DNNN đốc quyền hoạt động xuất nhập khẩu, các thành phần kinh tế khác không được
tham gia. Trong quá trình đổi mới quản lý kinh tế, chính sách Nhà nước độc quyền ngoại thương đã từng bước được tháo gỡ.
Cụ thể, tại Điều 6 Luật Thương mại (5-1997) quy định: “Cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đủ điều kiện theo quy
định của pháp luật được hoạt động thương mại trong các lĩnh vực, tại các địa bàn mà pháp luật không cấm. Để đảm bảo lợi ích
quốc gia, Nhà nước độc quyền kinh doanh thương mại trong một số lĩnh vực, tại một số địa bàn, đối với một số mặt hàng, dịch
vụ theo danh mục do Nhà nước công bố”. Cùng với quá trình mở cửa nền kinh tế, tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và
thế giới, chính sách độc quyền thương mại sẽ tiếp tục được tháo gỡ để phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực theo những quy
định của pháp luật.
* Chính sách tự do hóa thương mại. đã thay thế chính sách bảo hộ thương mại chủ yếu bằng hạn ngạch (quota), kiểm

soát giá cả, trợ cấp thương mại trong nước và đặc quyền dành cho khu vực ưu tiên sang chính sách thuế quan, chủ yếu bằng
thuế nhập khẩu và trợ cấp xuất khẩu ôn hòa (không quá cao); đồng thời từng bước giảm mứu thuế xuống để chống lại hàng
rào thuế quan quá cao nhằm bảo hộ thương mại, hạn chế tự do hóa thương mại. Chính sách tự do hóa thương mại tạo điều
kiện thuận lợi, cho phép khai thác và sử dụng tài nguyên có hiệu quả hơn, thúc đẩy việc đổi mới kỹ thuật và công nghệ, phản
ứng nhanh với sự biến động của thị trường, giảm lãng phí cho nền kinh tế do độc quyền. Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới
nền kinh tế, tự do hóa thương mại là một cuộc thử thách lâu dài với nhiều khó khăn đòi hỏi phải có sự bình tĩnh, khôn khéo.
Đối với nước ta hiện nay, để thực hiện chính sách tự do hóa thương mại, trước mắt sẽ thực hiện các cam kết trong khuôn khổ
AFTA và các tổ chức thương mại quốc tế khác mà chúng ta tham gia. Điều quan trọng là phải nâng cao sức cạnh tranh của
hàng hóa của các doanh nghiệp trong nước, tiếp tục điều chỉnh chính sách bảo hộ thương mại hợp lý hàng hóa sản xuất trong
nước, có chọn lọc, có đk và thời gian phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế, đồng thời sử dụng các biện pháp chống buôn lậu
trên các tuyến biên giới, vùng biển và thị trường nội địa.
* Chính sách xuất, nhập khẩu: Đảng và Nhà nước chủ trương chiến lược hướng mạnh ra xuất khẩu, đồng thời coi trọng
sản xuất trong nước để thay thế các sản phẩm hàng hóa nhập khẩu mà trong nước có khả năng sản xuất. Chính sách xuất, nhập
khẩu chủ yếu là: Chính sách mặt hàng, xác định thứ tự ưu tiên và mức độ khuyến khích xuất và nhập các loại mặt hàng. Trong
điều kiện hiện nay, Nhà nước ta coi trọng xuất khẩu các mặt hàng nông hải sản, hàng may mặc, dầu thô, dịch vụ… nhưng
khuyến khích giảm dần tỉ trọng sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng sản phẩm tinh chế. Chính sách thị trường, coi trọng quan
hệ với các nước láng giềng, khôi phục liên minh châu Âu, Mỹ … theo đường lối đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ thương
mại quốc tế, tăng cường quan hệ và thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA, APEC và WTO. Chính sách khuyến khích
và hỗ trợ xuất khẩu, bao gồm một hệ thống chính sách và biện pháp, trong đó đáng chú ý là: Thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu;
Đầu tư cho sản xuất phục vụ xuất khẩu gồm cả trang thiết bị, khoa học công nghệ, thông tin và quản lý; giảm và miễn thuế cho
hàng hóa xuất khẩu; Cải cách thủ tục hành chính, giảm phiền hà cho hoạt động xuất khẩu; Thành lập các hiệp hội ngành hàng
xuất khẩu; Lập cơ quan đại diện, chi nhánh ở nước ngoài cho các doanh nghiệp và hiệp hội.
Nhà nứơc thường sử dụng một số loại công cụ chủ yếu để thực hiện chính sách thương mại như: hạn ngạch, thuế nhập
khẩu, thuế xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu, tỷ giá hối đoái….
Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ mở cửa và tham gia thị trường quốc tế nên vấn đề đặt ra là vừa phải tiếp tục đổi mới
các chính sách, vừa chuẩn bị các điều kiện để có thể gia nhập và cạnh với các nước. Nghị quyết HNTW4 (khóa 8) nhấn mạnh:
“Chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cán bộ, luật pháp và nhất là những sảo phẩm mà chúng ta có khả năng cạnh
tranh để hội nhập thị trường khu vực và thị trường thế giới”.
10
3-6

3-5
Câu 4. Trình bày vai trò của chính sách tài chính, tiền tệ phù hợp yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường
Bài làm
Trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta, vai trò của các chính sách kinh tế có ý nghĩa rất
lớn trong việc đảm bảo xây dựng thành công một nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững và theo đúng định hướng
XHCN bởi một chính sách đúng đắn, phù hợp sẽ khơi dậy những tiềm năng và kích thích sự phát triển. Vậy chính sách
kinh tế là gì ? vai trò của các chính sách kinh tế đến quá trình hoạt động và phát triển của nền kinh tế quốc dân ? Bằng
kiến thức quản lý kinh tế, chúng ta hãy phân tích làm rõ vấn đề trên
Chính sách kinh tế là một hệ thống các quan điểm, mục tiêu phương thức công cụ mà chủ thể quản lý sử dụng tác
động lên hành vi của chủ thể và đối tượng nhằm thực hiện những nội dung quản lý kinh tế hướng đến những mục tiêu
đã xác định. Nói cách khác, chính sách kinh tế đó là những giải pháp mà nhà nước sử dụng để xử lý và giải quyết các
nội dung kinh tế lớn trong quá trình hoạt động và phát triển của nền kinh tế quốc dân. Trong hoạt động quản lý kinh tế,
chính sách kinh tế có những vai trò như sau : một là định hướng cho hoạt động kinh tế xã hội của đất nước; hai là tổ
chức để xử lý, giải quyết các vấn đề kinh tế lớn mang tầm vĩ mô của kinh tế như: các chính sách đầu tư, chính sách
thương mại, chính sách tài chính - tiền tệ; ba là hỗ trợ để phát triển các mục tiêu kinh tế đã được xác định. Như vậy,
chính sách kinh tế có giá trị như là những quyết định trong dài hạn của nhà nước nhằm tổ chức quá trình phát triển của
nền kinh tế quốc dân theo mục tiêu định hướng. Từ những cơ sở trên ta có thể nói chính sách kinh tế là những quyết
định kinh tế ở tầm vĩ mô do nhà nước đưa ra nhằm thực hiện các chương trình, kế hoạch trong một thời gian dài theo
mục tiêu đã xác định.
Mục tiêu của kinh tế vĩ mô thường dựa trên các dấu hiệu chủ yếu như : ổn định, tăng trưởng và công bằng xã hội. Để
đạt được mục tiêu kinh tế vĩ mô nêu trên, Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ chính sách khác nhau. Mỗi chính
sách phải có những công cụ riêng biệt. Chính sách bao gồm nhiều lĩnh vực của kinh tế xã hội : tài chính - tiền tệ, giá cả,
đầu tư, thương mại Trong nền kinh tế thị trường, chính sách tài chính - tiền tệ giữ vai trò trung tâm
Chính sách tài chính là tổng thể các quan điểm, giải pháp mà nhà nước sử dụng để tạo nguồn vốn, điều động, phân
phối và sử dụng cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Về bản chất, chính sách tài chính quốc gia là chính sách huy
động các nguồn lực xã hội dưới hình thái giá trị để thực hiện một cách có hiệu quả những nhiệm vụ của đất nước. Chính
sách đó phải nhằm hướng tới mục tiêu tăng trưởng, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân
dân, giữ vững độc lập tổ quốc, an ninh quốc gia, trật tự xã hội, bảo đảm sự công bằng xã hội, kìm chế lạm phát thất
nghiệp và hội nhập với thế giới.
Chính sách tài chính của mỗi quốc gia khác nhau nhưng nhìn chung phải đáp ứng những yêu cầu như sau : một là

để thực hiện mục tiêu của chính sách tài chính cần thường xuyên đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính phù
hợp với quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, hai là tăng khả năng và tốc độ vốn (thông qua các biện pháp khuyến
khích đầu tư, bảo vệ quyền lợi của chủ đầu tư và tạo môi trường đầu tư hấp dẫn ), ba là thực hiện các điều chỉnh và
cân đối lớn giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa tích tụ vốn và tập trung vốn, bốn là nhà nước quản lý nền tài chính một cách
thống nhất bằng hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo lợi ích của các chủ thể kinh tế trong một môi pháp lý kinh tế lành
mạnh và công bằng.
Về nội dung, chính sách tài chính bao gồm chính sách về vốn, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp, chính sách
dịch vụ ngân sách nhà nước, Chính sách tài chính đối ngoại, chính sách tài chính hộ gia đình Các chính sách tài chính
nới lỏng và thắt chặt
Chính sách về vốn là chính sách sử dụng các công cụ tài chính vào việc khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn
vốn và mọi tiềm năng về vốn trong nước và từ nước ngoài để phục vụ cho đầu tư và phát triển kinh tế. Nội dung chính
sách về vốn phải phù hợp và được sử dụng đa dạng với các hình thức huy động vốn, nhất là hình thức trái phiếu, cổ
phiếu ở cấp nhà nước, địa phương và doanh nghiệp; phát triển các tổ chức tài chính trung gian như : hệ thống các công
ty tài chính, các công ty bảo hiểm quỹ đầu tư, quỹ phát triển,quỹ bảo trợ,quỹ bảo hiểm,công trái quốc gia nhằm giải tỏa
nguồn vốn ứ đọng hoặc vốn "chết" trong dân cư và các doanh nghiệp. Hiện nay chính sách về vốn của ta còn nhiều bất
cập : cơ cấu phân bổ nguồn vốn còn chưa hợp lý : dàn trãi, chưa tính đến hiệu quả sử dụng vốn, phân bổ nguồn vốn vay
Nhà nước mang tính hành chính sangchưa khơi dậy và huy động hết nhiều nguồn vốn và tiềm năng về vốn. Việc tiến
hành đổi mới và hoàn thiện cơ cấu phân bổ các nguồn vốn trong nền kinh tế quốc dân đòi hỏi : một là có các chính sách
ưu đãi về đầu tư, thuế để các nguồn vốn tập trung vào những khu vực có lợi thế tự nhiên chưa được "đánh thức", vào
các ngành kinh tế mũi nhọn; hai là sử dụng vốn ngân sách để hỗ trợ cho các khu vực, các ngành cần phát triển nhưng
không thu hút được các nguồn vốn trong xã hội; ba là thực hiện nguyên tắc tự chủ tài chính trong các doanh nghiệp để
tiến hành phân phối vốn theo cơ chế hợp lý nhất, bốn là sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn vốn và các nguồn
lực phát triển trong nền kinh tế quốc dân
Chính sách tài chính đối với doanh nghiệp là sử dụng các công cụ tài chính nhằm kích thích hoạt động kinh doanh
có hiệu quả của các thành phần kinh tế, làm cho nguồn vốn chu chuyển nhanh và linh hoạt, từ đó tạo cơ sở để nhà nước
có khả năng kiểm soát được nền kinh tế tài chính quốc gia. Hiện nay chính sách tài chính doanh nghiệp còn chưa chặt
chẽ, hợp lý : đã có nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động không hiệu quả nhưng vẫn được nhà nước nâng đỡ cho tồn
tại, thậm chí còn xoá nợ hoặc tiếp tục cho hưởng nhiều hình thức bao cấp; trên thực tế, trách nhiệm trước việc sử dụng
vốn vay là thuộc về doanh nghiệp, nhưng bằng nhiều cách, nhiều thủ thuật lại chuyển giao cho nhà nước chịu trách
nhiệm. Trong môi trường ấy, động lực cho sự phát triển chẳng những không được nhân lên mà thậm chí còn có thể bị

triệt tiêu. Vì vậy, đổi mới chính sách tài chính doanh nghiệp là rất cần thiết trong đó cần tập trung vào một số vấn đề
11
4-1
4-2
như : nghiên cứu áp dụng cơ chế chủ động tạo vốn để đổi mới nhanh công nghệ của các doanh nghiệp nhà nước kinh
doanh có hiệu quả. hoàn chỉnh các chính sách tài chính đối với trước, trong và sau khi thực hiện cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước, bổ sung phương pháp định giá doanh nghiệp, nghiên cứu ban hành chính sách tài chính áp dụng cho
mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước ‘’công ty mẹ - công ty con ‘’công ty đầu tư tài chính nhà nước, cơ chế tài chính đối
với hoạt động và sản phẩm công ích, nghiên cứu sớm ban hành luật sử dụng vốn nhà nước vào sản xuất kinh doanh
Chính sách dịch vụ ngân sách nhà nước là chính sách động viên hợp lý các nguồn tài chính vào quỹ ngân sách
nhà nước để đảm bảo ổn đinh và bền vững các nguồn thu của. quỹ ngân sách nhà nước trên cơ sở thu không làm suy
yếu đối tượng nộp ngân sách mà ngược lại, tạo điều kiện các ngân sách nhà nước có đủ điêu kiện tài chính để liếp tục
phát triền. Điều chỉnh cơ cấu chi ngân sách của nhà nước cho các mục đích kinh tế và xã hội trong nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần. Hiện nay, so với nhu cầu vốn cần cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội thực hiện nhiệm vụ CNH-HĐH
là rất lớn, vì vậy ngoài việc sử dụng các công cụ tạo lập vốn truyền thống, cần nghiên cứu đa dạng hóa công cụ thu hút
các nguồn lực theo cơ chế thị trường cùng với việc đổi mới mạnh mẽ trong tư duy và phương thức tạo vốn kinh doanh,
chấm dứt tư tưởng ỷ lại vào ngân sách nhà nước, thường xuyên quan tâm xử lý tốt vốn đầu tư, tránh thất thoát vốn, tăng
cường quản lý nợ chính phủ
Chính sách tài chính đối ngoại là chính sách mở rộng các quan hệ tài chính giữa trong nước và ngoài nước, sử
dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư bên ngoài để phát triển kinh tế và cải thiện các điều kiện xã hội, đẩy nhanh xuất
khẩu hàng hóa đã chế biến, hạn chế xuất kháu sản phẩm thô và nguyên liệu; khuyến khích nhập khẩu các thiết bị, công
nghệ hiện đại, kỹ thuật cao; hoàn thiện các chính sách về đầu tư nước ngoài. đơn giản hóa các thủ tục hành chính; nâng
cấp cơ sở hạ tầng nhằm tạo sức hấp dẫn nguồn vốn đầu tư nước ngoài và tăng cường liềm lực tài chính, định hướng và
sử dụng có hiệu quả các khoản vốn vay từ nước ngoài. Tăng cường hoạt động ngoại giao, mở rộng các quan hệ kinh tế
đối ngoại
Chính sách tài chính hộ gia đình là sử dụng công cụ tài chính nhằm đảm bảo thu nhập hợp cho người lao động và
huy động nguồn vốn trong dân cho đầu tư phát triển .
Các chính sách tài chính nới lỏng và thắt chặt : Chính sách nới lỏng là chính sách thông qua hoạt động thu chi tài
chính để làm tăng và kích thích tổng cầu xã hội (khi tổng cầu nền kinh tế thấp, biện pháp của chính sách tài chính nới
lỏng là giảm thuế và tăng chi tài chính nhằm kích thích mở rộng tổng cầu xã hội). Chính sách tài chính thắt chặt là chính

sách thông qua thu chi tài chính để giảm bớt và hạn chế tổng cầu (khi tổng cầu trong nền kinh tế quá lớn, áp dụng biện
pháp tăng thu thuế và giảm chi tài chính sẽ góp phần giảm cầu, đạt được sự cân đối trong cung cầu, từ đó giảm áp lực
lạm phát)
Ngày nay với sự phát triển của kinh tế hàng hoá, đồng tiền chiếm vị trí quan trọng trong tất cả các lĩnh vực kinh tế.
Do đó cùng với chính sách tài chính, chính sách tiền tệ là một công cụ không thể thiếu được trong điều tiết vĩ mô nền
kinh tế. Chính sách tiền tệ là hệ thống các quan điểm, các chủ trương và biện pháp của nhà nước nhằm tác động và
điều chỉnh các hoạt động về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng và ngoại hối, tạo ra sự ổn định của nền kinh tế thị trường để
thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển. Ở một mức độ nào đó thì chính sách tiền tệ là một bộ phận của chính sách tài
chính quốc gia và chính sách phát triển kinh tế. Về mặt định lượng chính sách tiền tệ cần phải phản ánh khối lượng tiền
cung ứng tăng thêm (hay giảm bớt) trong một khoảng thời gian nhất định, bao gồm tiền mặt và tiền chuyển khoản (tiền
ghi số).
Chính sách tiền tệ gồm ba bộ phận chính : chính sách cung ứng và điều phối tiền; chính sách tín dụng và chính
sách ngoại hối, trong đó chính sách cung ứng và điều hoà khối tiền là bộ phận quan trong nhất của chính sách tiền tệ.
Chính sách này nhằm duy trì một sự cân đối giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ trong nền kinh tế, đảm bảo cho nền kinh
tế vừa tránh được lạm phát nặng nề, vừa đảm bảo cung cấp đủ phương tiện cho nền kinh tế, nhờ đó mà thúc đẩy nền
kinh tế phát triển. Cung ứng và điều hoà khối tiền được thực hiện theo các nhu cầu đối ứng, tức là đi từ gốc theo 3 kênh
tạo tiền : tín dụng tăng cho nền kinh tế; tạm ứng cho ngân sách; mua vàng và ngoại tệ. Chính sách cung ứng và điều
hoà khối tiền được thực hiện một cách tốt nhất trên cơ sở quan sát các tín hiệu của thị trường như: chỉ số giá cả hàng
hoá thiết yếu, giá vàng và tỉ giá hối đoái. Những tín hiệu trên có biến động hay tăng giảm đều kéo theo một sự thay đổi
về nhu cầu tiền tệ tăng giảm tương ứng. Vì vậy, ta có thể dựa vào đó để cung ứng và điều hoà khối tiền.
Mục tiêu và phương pháp sử dụng các công cụ để thỏa mãn mục tiêu là nội dung việc soạn thảo chính sách tiền tệ
của ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương là một cấp trong hệ thống ngân hàng hai cấp của Việt Nam. Hệ thống
ngân hàng có đặc điểm : phân định rõ ràng chức năng quản lý nhà nước của ngân hàng trung ương với chức năng tác
nghiệp kinh doanh của ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín
dụng khác hoạt động với tư cách là những doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng và dịch vụ nhằm thu
lợi nhuận một cách chính đáng, góp phần thúc đẩy các hoạt động sản xuất - kinh doanh cùng phát triển. Hoạt động của
ngân hàng trung ương là những hoạt động quản lý ở tầm vĩ mô không nhằm mục đích lợi nhuận mà nhằm mục đích ổn
định tiền tệ, ổn định giá cả thị trường, ngoại hối để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vì vậy, nó được phép sử dụng những
công cụ quản lý vĩ mô quan trọng, phù hợp với luật pháp để thực hiện nhiệm vụ của mình.
Mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định giá cả, ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định và thúc

đẩy sự tăng trưởng; giảm tỷ lệ thất nghiệp, ổn định trật tự xã hội. Các mục tiêu trên đây tuỳ theo đặc điểm kinh tế xã hội
của mỗi thời kỳ cụ thể mà cần phải xác định mục tiêu chủ yếu, thứ yếu và thậm chí còn gạt bỏ một vài mục tiêu nào đó. .
Chính sách tiền tiền tệ được thực thi bằng những công cụ như : dự trữ bắt buộc, lãi suất, thị trường mở, ấn định hạn
mức tín dụng và điều chỉnh tỷ giá hối đoái, thanh tra và kiểm soát hoạt động ngân hàng trong nước. Dự trữ bắt buộc :
Tất cả ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng đều bắt buộc phải duy trì một mức "dự trữ tối thiểu bắt buộc" tính theo
tỷ lệ. phần trăm trên nguồn vốn huy động. Dự trữ bắt buộc lăng làm nguồn vốn cho vay của ngân hàng thương mại giảm,
từ đó lượng cung tiền giảm. Lãi suất : Về nguyên tắc, lãi suất huy động phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát, lãi suất cho vay
bình quân phải lớn hơn lãi suất huy động bình quân, lãi suất dài hạn phải lớn hơn lãi suất ngắn hạn. Sử dụng công cụ lãi
suất tín dụng để thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương có thể: ấn định lãi suất hoặc thả nổi lãi suất. . . .Tuy
12
4-3
4-4
nhiên, ngân hàng trung ương vẫn có thể tác động gián tiếp đến lãi suất tín dụng bằng lãi suất tái chiết khấu. Lãi suất tái
chiết khấu là lãi suất do ngân hàng trung ương áp dụng cho các ngân hàng thương mại với tư cách là người cung cấp tín
dụng qua nghiệp vụ tái chiết khấu, các thương phiếu hoặc các chứng từ có giá trị khác. Lãi suất tái chiết khấu tăng (hoặc
giảm) sẽ làm giảm hoặc tăng nguồn vốn cho vay của các ngân hàng thương mại. Thị trường mở : Thị trường mở là nơi
ngân hàng trung ương phát hành tiền hoặc thu hẹp khối tiền của nền kinh tế thông qua việc mua hoặc bán các trái phiếu
ngắn hạn. Ấn định hạn mức tín dụng Ngân hàng trung ương sẽ phân bố "hạn mức tín dụng" cho mỗi ngân hàng
thương mại trên cơ sở dư nợ tín dựng và vốn tự có của mỗi ngân hàng. Khi ngân hàng trung ương tăng hay giảm hạn
mức nói trên thì khối lượng tín đựng của nền kinh tế tăng hay giảm theo. Điều chỉnh tỷ giá hối đoái : Biện pháp này
được áp dựng trong trường hợp tỷ giá thực tế trên thị trường biến động với biên độ lớn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
tình hình kinh tế - xã hội. Các biện pháp điều chỉnh gồm: thay đổi lãi suất, can thiệp ngoại hối, nâng giá hoặc phá giá
tiền trong nước . . .
Như đã trình bày ở trên, chính sách tiền tệ cần phản ánh khối lượng cung ứng tăng thêm (hay giảm bớt) trong một
khoảng thời gian nhất định bao gồm tiền mặt và tiền chuyển khoản (tiền ghi sổ). Tuỳ theo nội dung của chính sách tiền tệ
là tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế mà ta có các chính sách tiền tệ mở rộng và chính sách
tiền tệ thắt chặt. Thời gian qua, trong quá trình quản lý kinh tế cho thấy khi thực hiện chính sách tiền tệ cần chú ý những
vấn đề sau : Cho phép tỷ giá hối đoái danh nghĩa thay đổi khiến tỷ giá hối đoái thực ổn định, duy trì các mức dự trữ
ngoại hối hoặc các mức tín dụng dự phòng đầy đủ, đánh thuế vào các dòng vốn ngắn hạn đổ vào hoặc kiểm soát việc
vay mượn của các ngân hàng nước ngoài, áp dụng giám sát chặt chẽ các ngân hàng và các công ty tài chính, cải thiện

tính minh bạch cũng như hệ thống kế toán của tư nhân và nhà nước, cải thiện việc quản trị Công ty và Luật phá sản,
phát triển và gia tăng thị trường cổ phiếu và trái phiếu nội địa áp dụng hệ thống chế độ lương hưu tự cấp vốn, cố gắng
thu hút các nguồn vốn FDI và dài hạn, ngăn chặn tình trạng quá nóng của nền kinh tế bằng các chính sách tài chính và
tiền tệ, tăng cường tính cạnh tranh của các ngân hàng.
Để góp phần thúc đẩy công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá trình chủ động hội nhập khu vực và quốc tế
của nước ta, chính sách tài chính - tiền tệ cần được tiếp tục đổi mới theo các hướng sau:
Một là tạo lập môi trường tài chính lành mạnh, thông thoáng kết hợp chặt chẽ kế hoạch hoá với các chính sách kinh
tế, tài chính để định hướng và khuyến khích nhằm giải phóng và phát triển các nguồn lực tài chính và tiềm năng sản xuất
của doanh nghiệp, của các tầng lớp dân cư. Đa dạng hoá các công cụ và các hình thức tổ chức tài chính, tiền tệ phi
ngân hàng và các quỹ đầu tư nhằm động viên cho các nguồn lựcphát triển kinh tế.
Hai là thực hiện nguyên tắc công bằng, hiệu quả trong chính sách phân phối và phân phối lại các nguồn thu nhập
trong xã hội.
Ba là cải thiện quản lý doanh nghiệp và luật phá sản.
Bốn là xây dựng hệ thống ngân hàng thương mại đáp ứng nhu cầu tín dụng, cung ứng các dịch vụ ngân hàng thuận
lợi cho xã hội: kiện toàn các ngân hàng thương mại nhà nước thành những doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ tự chủ, tự
chịu trách nhiệm, có uy tín, đủ sức cạnh trạnh trên thị trường; xoá bỏ sự can thiệp hành chính của các cơ quan nhà
nứơc đối với các hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại nhà nước; nâng cao năng lực giám sát của ngân
hàng nhà nước và công tác kiểm tra nội bộ của các ngân hàng thương mại.
Năm là tách tín dụng ưu đãi theo chính sách khỏi tín dụng thương mại.
Sáu là thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt theo cung cầu ngoại tệ, từng bước tự do hoá tỷ giá hối đoái có sự quản lý
vĩ mô của nhà nước.
Bảy là xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy sản xuất,
tiêu dùng, kích thích đầu tư phát triển, bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng cao và bền vững. Đổi mới chính sách tiền tệ
theo hướng vận dụng các công cụ chính sách gián tiếp. Thực hiện chính sách tỷ giá, lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở
rộng cung cầu trên thị trường, từng bước nâng cao khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, trước hết là đối với
những tài khoản vãng lai. Nâng cao vai trò ngân hàng nhà nước trong lĩnh vực điều hành, quản lý tiền tệ, giám sát các
hoạt động tín dụng; tăng cường năng lực của ngân hàng Nhà nước về tổ chức, thể chế và cán bộ.
Tóm lại, chính sách kinh tế là một loại quyết định quản lý mà tầm ảnh hưởng của nó rất rộng lớn và quyết định rất
lớn đến tốc độ phát triển kinh tế của một quốc gia. Việc đề ra những chính sách phù hợp sẽ làm khơi dậy những tiềm
năng mới, tạo động lực thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển kinh tế và ngược lại, nếu chính sách không phù hợp thì nền

kinh tế sẽ phải trả giá bằng sự đình trệ, thậm chí là khủng hoảng nghiêm trọng. Vì vậy, việc ban hành chính sách kinh tế
phải được thực hiện xem xét một cách toàn diện và phải được đưa ra từ những nhà quản lý có trình độ năng lực giỏi
Câu 5. Cơ sở khách quan và vai trò của DN nhà nước. Nêu rõ giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả hoạt
động của Doanh nghiệp nhà nước ?
Bài làm
Phát triển và quản lý có hiệu quả các loại hình doanh nghiệp ở nước ta hiện nay đang là một yêu cầu cấp thiết,
tạo ra sức cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình CNH-HĐH và hội nhập quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường,
các doanh nghiệp là những tế bào kinh tế - xã hội của nền kinh tế quốc dân tạo ra sự năng động của nền kinh tế
và có thể nói rằng sức mạnh của nền kinh tế là dựa vào sức mạnh của các doanh nghiệp. Muốn có nền kinh tế
mạnh phải có những doanh nghiệp mạnh, có nhiều sản phẩm đủ sức cạnh tranh với hàng hoá của thế giới. Trong
hệ thống doanh nghiệp, doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân.
Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý hoạt động sản xuất
kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu khoa học-xã hội do nhà nước giao. Doanh
nghiệp nhà nước là hình thức tổ chức kinh tế phổ biến ở tất cả các nước chứ không phải là hình thức đặc thù,
riêng có của các nước XHCN, tuy nhiên số lượng và tính chất hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước khác
13
4-5
4-6
5-1
nhau tuỳ theo từng quốc gia. Doanh nghiệp nhà nước hình thành xuất phát từ yêu cầu khách quan của quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và là sức mạnh vật chất của nhà nước. Việt Nam đang phát triển theo
con đường XHCN dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Vì vậy, trong quá trình phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, các doanh nghiệp nhà nước phải chiếm giữ vai trò, vị
trí then chốt và thể hiện vai trò chủ đạo, là công cụ để nhà nước định hướng - điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Về vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường, trước hết doanh nghiệp nhà nước được xây
dựng và phát triển trong những ngành có ý nghĩa chiến lược quan trọng của mỗi quốc gia và có vốn đầu tư lớn.
Với tư cách là tổ chức kinh tế lớn của một quốc gia, doanh nghiệp nhà nước có đủ sức mạnh và uy tín để thu hút
vốn đầu tư, liên doanh với nước ngoài, đồng thời có khả năng vươn ra thị trường thế giới khi có điều kiện. Bên
cạnh đó, trong quá trình phát triển kinh tế để bảo đảm giữ vững độc lập tự chủ trong quá trình phát triển, giữ gìn và
phát huy bản sắc dân tộc trong nền kinh tế thị trường, mỗi quốc gia đều phải dựa trên sức mạnh kinh tế của chính

nội lực mà doanh nghiệp nhà nước chính là tổ chức kinh tế đảm bảo điều đó. Doanh nghiệp nhà nước còn góp
phần quan trọng bảo đảm dự trữ quốc gia đồng thời nó còn có đầy đủ các khả năng làm chủ đầu tư vào các
ngành, các lĩnh vực thuộc các thành phần kinh tế khác, nhằm chủ động liên kết, hợp tác và dẫn dắt các thành
phần kinh tế khác, bảo đảm sự phát triển ổn định và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Nói cách khác, doanh
nghiệp nhà nước có vị trí, vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân bởi doanh nghiệp nhà nước nắm đầu
cầu chi phối và cuốn hút các thành phần kinh tế khác hoạt động hướng vào mục tiêu chung.
Trong những năm qua, doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam nắm 60% giá trị tài sản sản xuất của đất nước, thu
hút khoảng 1,4 triệu lao động và tạo ra 42%cơ cấu GDP của cả nước. Doanh nghiệp nhà nước đã khẳng định vai
trò quan trọng trong sự ổn định phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đã và đang chiếm giữ vị trí trọng yếu của
nhiều ngành kinh tế chủ chốt, bảo đảm phần lớn những điều kiện về hạ tầng cơ sở xã hội với chất lượng ngày
càng tốt hơn. Một số doanh nghiệp duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao, đóng góp vào nguồn ngân sách và
tăng sản phẩm quốc nội. Một số doanh nghiệp nhà nước khi chuyển sang cổ phần hóa đã cho thấy hiệu quả ngày
càng tốt hơn. Quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước với các doanh nghiệp đã thay đổi theo hướng phân định rõ
quyền quản lý nhà nước với quyền sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, hoạt động của doanh nghiệp nhà nước vẫn còn bộc lộ nhiều nhược điểm. Mặc dù từ năm 1989 đến
năm 2004, vốn tích lũy của doanh nghiệp nhà nước tăng gấp 5 lần (từ 34.000 tỷ Việt Nam đồng lên 186.000 tỷ Việt
Nam đồng) nhưng tình trạng sử dụng vốn kém hiệu quả còn phổ biến, tình trạng thiếu vốn lưu động của các doanh
nghiệp nhà nước vẫn còn rất lớn dẫn đến tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp nhà nước.
Trang thiết bị của các doanh nghiệp nhà nước còn đầu tư thiếu đồng bộ, chậm đổi mới công nghệ, lạc hậu từ 2-5
thế hệ kỹ thuật nên tính cạnh tranh yếu. Trong kinh tế nhà nước, cơ cấu doanh nghiệp nhà nước tuy đã được điều
chỉnh nhiều lần nhưng vẫn còn nhiều bất hợp lý và mang tính tự phát, cơ chế tài chính vẫn còn nhiều sơ hở, việc
thành lập một số tổng công ty cũng làm nảy sinh nhiều nhân tố hạn chế cạnh tranh. Năm 2004, tổng số doanh
nghiệp nhà nước là 4.722 doanh nghiệp (giảm 62% số lượng so với năm 1989 có 12.300 doanh nghiệp nhà nước)
nhưng trong đó chỉ có 40% doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, còn lại 40% doanh nghiệp huề vốn và 20%
doanh nghiệp làm ăn thua lổ. Những doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả phần lớn là những doanh nghiệp hoạt
động trong những những ngành, những lĩnh vực khai thác tài nguyên quý hiếm hoặc những ngành do nhà nước
độc quyền. Điều này cho thấy rằng năng lực và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước còn
nhiều yếu kém, chưa tương xứng với tiềm lực mà nhà nước trang bị cho doanh nghiệp nhà nước kể cả các Tổng
công ty lớn của nhà nước đều yếu về khả năng cạnh tranh, do đó chỉ hoạt động chủ yếu ở trong nước, chưa đủ
tiềm lực để vươn ra và hoạt động có hiệu quả ở nước ngoài.

Những nhược điểm, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước có nguyên nhân khách quan nhưng nguyên nhân
chủ quan vẫn là chủ yếu, nó xuất phát từ việc doanh nghiệp nhà nước luôn được sự bảo vệ của chính phủ, trách
nhiệm vật chất giữa chủ sở hữu và người quản lý chưa được rõ ràng nên không tạo áp lực buộc doanh nghiệp
phải vươn lên, cơ chế quản lý còn thiếu đồng bộ, thiếu động lực, còn thiếu nhiều cán bộ quản lý kinh tế kinh doanh
giỏi và đội ngũ công nhân làm nghề, một bộ phận cán bộ quản lý trình độ năng lực yếu kém, sa sút phẩm chất
hoặc do động cơ cá nhân nên đã gây thất thoát, lãnh phí, tham ô, tham nhũng trong hệ thống doanh nghiệp nhà
nước.
Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc sắp xếp, đổi mới và phát triển hệ thống doanh nghiệp nhà nước đang là
yêu cầu bức bách có tính quyết định sống còn đối với nền kinh tế nhà nước. Để doanh nghiệp nhà nước phát huy
vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, thực sự là một công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô về kinh tế, đi
đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng hiệu quả kinh tế -
xã hội và chấp hành pháp luật, cần tập trung một số giải pháp như sau:
Giải pháp thứ nhất là phải tiến hành phân loại, sắp xếp đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp : Thời
gian qua, nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách chỉ đạo tập trung rà soát, sắp xếp thu hẹp hơn lĩnh vực
kinh doanh mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn sở hữu. Đối với các doanh nghiệp nhà nước thuộc nhóm 1 duy trì
100% vốn nhà nước (=1.931 doanh nghiệp) thuộc lĩnh vực không cổ phần hoá bao gồm một số doanh nghiệp nhà
nước đang có đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước hoặc có vị trí quan trọng trong cân đối xuất, nhập khẩu trong
đổi mới công nghệ, ưu tiên phục vụ vùng sâu, vùng xa : giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động chính là : nhanh
chóng kiện toàn tổ chức, ưu tiên bổ sung vốn lưu động, cho vay một phần vốn với lãi xuất ưu đãi để doanh nghiệp
đầu tư chiều sâu. Đối với các doanh nghiệp thuộc nhóm 3 bao gồm những doanh nghiệp thua lỗ kéo dài, không trả
được nợ đến hạn, không nộp đủ thuế cho nhà nước, sẽ xử lý theo 2 hướng : một là nếu doanh nghiệp có thị
14
5-2
5-3
5-4
trường tiêu thụ nhưng hoạt động kém hiệu quả do thiếu vốn, năng lực quản lý yếu kém (khoảng 205 doanh nghiệp)
sẽ áp dụng biện pháp khoán kinh doanh hoặc cho thuê, khi hoạt động có hiệu quả sẽ tiến hành thực hiện biện
pháp chuyển đổi cơ cấu sở hữu; hai là trường hợp doanh nghiệp không còn khả năng khắc phục, bế tắt trong kinh
doanh (146 doanh nghiệp) sẽ làm thủ tục giải thể, phá sản. Còn lại đông nhất là các doanh nghiệp thuộc nhóm 2
sẽ tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp, đây là một hướng đi đúng để từng bước thiết lập môi trường cạnh tranh

bình đẳng, huy động vốn toàn xã hội để đầu tư thay đổi trang thiết bị công nghệ, tạo thêm việc làm nâng cao sức
cạnh tranh cho doanh nghiệp; tạo điều kiện cho người lao động được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản
lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản nhà nước nâng thu nhập cho người lao
động. Hình thức cổ phần hoá gồm có 4 hình thức sau : hoặc giữ nguyên giá trị thuộc vốn nhà nước tại doanh
nghiệp và phát hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn; hoặc bán một phần giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại
doanh nghiệp; hoặc tách một bộ phận của doanh nghiệp đủ điều kiện để cổ phần hoá và phát hành thêm cổ phiếu;
hoặc bán toàn bộ giá trị của doanh nghiệp hiện có để chuyển thành công ty cổ phần. Thực tế cho thấy tuyệt đại đa
số các doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hoá đều có cải thiện rõ rệt về hiệu quả sản xuất kinh doanh, điều
đó cho thấy chủ trương cổ phần hoá là đúng và phù hợp với quy luật phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Hầu hết các địa phương và các ngành đều đã có chương trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước
và sự cam kết về lịch trình thực hiện, nhưng thực tế tiến độ này vẫn còn diễn ra rất chậm chạp. Tình trạng trên có
nhiều nguyên nhân (phức tạp trong cách tính giá trị tài sản, giải quyết công nợ của doanh nghiệp ), nhưng nguyên
nhân chủ yếu là do tâm lý ợ mất chức-mất việc, tư tưởng ỷ lại, dựa dẫm vào cơ chế bao cấp. Để đẩy nhanh tiến
độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, xóa bỏ cơ chế bao cấp,
bảo hộ, thực hiện tốt quy chế dân chủ, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân
Giải pháp thứ hai là củng cố, hoàn thiện cơ chế hoạt động các Tổng công ty nhà nước. Các tổng công
ty nhà nước hiện nay có trên 300 tổng công ty, đây là những tổ chức kinh tế lớn của nhà nước. Để nâng cao hiệu
quả hoạt động, cần phải đổi mới cơ chế hoạt động của các tổng công ty bao gồm : đổi mới mối quan hệ giữa chủ
tịch hội đồng quản trị với các tổng giám đốc (Hội đồng quản trị mới có thực quyền, tổng giám đốc phải chịu sự
giám sát toàn diện của hội đồng quản trị), quan hệ giữa Tổng Công ty với các đơn vị thành viên (Tổng công ty phải
cấp vốn, bảo lãnh, hỗ trợ, cung cấp thông tin, xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển cho các công ty con, tạo
tính năng động nhưng không phụ thuộc của các công ty con) .
Giải pháp thứ ba là lập kế hoạch đổi mới công nghệ và hoàn thiện quản lý nhằm nâng cao sức cạnh
trạnh trong quá trình hội nhập quốc tế. Đây cũng là yêu cầu khách quan đòi hỏi khi Việt Nam đã tham gia vào
các khu vực mậu dịch tư do của hiệp hội các quốc gia Đông nam á (AFTA – năm 1995), diễn đàn hợp tác sản xuất
Châu á – Thái Bình Dương (OPEC – năm 1998), và sẽ tham gia tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Bốn là hoàn thiện cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước. Trước hết phải lành mạnh hóa tài chính
doanh nghiệp: xác định tài sản doanh nghiệp chính xác, bổ sung phương pháp định giá doanh nghiệp, xác định
đúng công nợ, phân tích rõ nguyên nhân của công nợ khó đòi, vật tư ứ đọng để có biện pháp xử lý, hoàn chỉnh
các chính sách tài chính đối với trước, trong và sau khi thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, tạo điều

kiện cho các doanh nghiệp nhà nước hạch toán đúng và thực hiện bảo toàn phát triển vốn. Đổi mới cơ chế quản lý
theo hướng tiếp tục mở rộng quyền tự chủ tài chính trong hoạt động của danh nghiệp nhà nước về vay vốn, quản
lý tài sản ,quyết định kế hoạch sản xuất, kinh doanh, chế độ trả lương, thưởng, chấm dứt tình trạng can thiệp trực
tiếp của các bộ quản lý ngành và các bộ chức năng vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Phân định rõ
quyền của cơ quan nhà nước với tư cách là chủ sở hữu và trách nhiệm của người sử dụng vốn nhà nước tại
doanh nghiệp nhà nước : chủ sở hữu có quyền quyết định thành lập, sát nhập, chia tách, giải thể, chuyển đổi sở
hữu doanh nghiệp, quyết định mục tiêu, nhiệm vụ, chiến lược phát triển và định hướng kế hoạch kinh doanh trung
hạn, dài hạn của doanh nghiệp, ban hành điều lệ mẫu tổ chức hoạt động doanh nghiệp, bổ nhiệm, miễn nhiệm,
khen thưởng, kỷ luật các chức danh quản lý chủ chốt, tổ chức kiểm tra giám sát thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ
nhà nước giao và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, người sử dụng vốn nhà nước có trách nhiệm sử dụng
có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn nhà nước để thực hiện các mục tiêu kinh doanh và nhiệm vụ do nhà nước
giao; thực hiện đúng chế độ và các quy định về quản lý vốn, tài sản, các quỹ về hạch toán, kế toán, chế độ kiểm
toán và các chế độ khác do nhà nước quy định, về tính trung thực và hợp pháp của các hoạt động tài chính, các
báo cáo tài chính. Bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển doanh nghiệp nhà nước, hoàn thiện hệ
thống đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ quản lý doanh nghiệp, đặc biệt là giám đốc, thực hiện chế độ
tuyển chọn, bổ nhiệm, gắn quyền lợi, nghĩa vụ với kết quả sản xuất kinh doanh. Kết hợp đào tạo bồi dưỡng trong
nước và nước ngoài, kết hợp việc đào tạo bồi dưỡng qua các trường lớp với khuyến khích dám nghĩ, dám làm,
dám hành động và trưởng thành qua hoạt động thực tiễn. Có chính sách khuyến khích vật chất và tinh thần cho
những người có tay nghề cao, trình độ chuyên môn giỏi, đóng góp lớn để họ gắn bó lâu dài và cống hiến ngày
càng nhiều cho doanh nghiệp. Đồng thời với các biện pháp trên là phải nâng cao vai trò của tổ chức Đảng ở doanh
nghiệp nhà nước và tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Tóm lại, chúng ta đang đứng trước nhu cầu bức xúc của thực tiển phải cải cách mạnh mẽ nền kinh
tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, nhất là đất nước đang đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn
về kinh tế, việc đổi mới, phát triển và nâng cao năng lực hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà
nước đóng vai trò quyết định rất lớn và vì vậy nó đòi hỏi phải có sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa về mặt quản lý
15
5-5
5-6
nhà nước cũng như của bản thân các doanh nghiệp nhà nước. Có như vậy, doanh nghiệp nhà nước phải hoàn
thành vai trò chủ đạo, có ý nghĩa quyết định tạo môi trường cho sự hợp tác liên kết nhằm giải phóng mọi năng lực

sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội.
Câu 6. Về xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế ở Việt Nam
Bài làm
Mục tiêu của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mà nước ta đang hướng tới là xây dựng Việt Nam thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiên tiến,
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng và an ninh
vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội, công bằng, dân chủ, văn minh. Trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội
để đạt được những mục tiêu đó, vai trò của người quản lý kinh tế có ý nghĩa quyết định rất lớn đến sự thành công
hay thất bại. Trong bất cứ lĩnh vực hoạt động kinh tế nào, người quản lý cũng phải là những chủ thể hội đủ các
phẩm chất và năng lực tương ứng. Làm gì để xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế giỏi, bản lĩnh và đáp ứng
được nhu cầu phát triển kinh tế đất nước đang là vấn đề bức xúc đặt ra hàng đầu cho Đảng và nhà nước ta.
Cán bộ quản lý kinh tế là tất cả các cá nhân thực hiện chức năng quản lý nhất định trong bộ máy quản lý kinh
tế, họ cũng là người lao động nhưng khác những người trực tiếp hoạt động sản xuất - kinh doanh ở chỗ lao động
mà họ thực hiện là lao động quản lý - một thứ lao động sản xuất đặc biệt, nó không nằm ngoài mà nằm trong quá
trình sản xuất vật chất, tạo ra giá trị mang lại lợi nhuận cho từng đơn vị kinh tế. Do đó, quản lý kinh tế trước hết là
một nghề có chuyên môn nghiệp vụ. Mặt khác, nói đến cán bộ là nói đến con người và người cán bộ phải được
đặt trong mối quan hệ xác định; quan hệ với đường lối, nhiệm vụ, chính trị trong từng thời kỳ nhất định; quan hệ
với bộ máy và cơ chế chính sách; quan hệ với thực tiễn hoạt động kinh tế của đất nước.
Trong hoạt động kinh tế, cán bộ quản lý giữ vai trò cực kỳ quan trọng, là nhân tố quyết định sự thành công hay
thất bại trong phát triển kinh tế của một quốc gia, một doanh nghiệp, bởi họ trực tiếp tham gia xây dựng đường lối,
thể chế, kế hoạch chính sách, công cụ quản lý kinh tế và cũng là người trực tiếp thực hiện những đường lối, kế
hoạch đó, sử dụng những công cụ, thực lực kinh tế để tác động quản lý, điều tiết nền kinh tế thị trường hoặc trực
tiếp tổ chức hoạt động sản xuất, đặc biệt là đối với cán bộ quản lý kinh tế, các quyết định quản lý mà họ đưa ra có
tác động sâu sắc, lâu dài đến đời sống KTXH … . Có hai nhóm cán bộ quản lý kinh tế hoạt động ở hai lĩnh vực
khác nhau : quản lý nhà nước về kinh tế và quản lý trong sản xuất - kinh doanh. Hai nhóm cán bộ này thực hiện
chức năng quản lý có khác nhau, có những đặc điểm và yêu cầu riêng khác nhau nhưng có đặc điểm và yêu cầu
chung của một loại nghề nghiệp đặc biệt : nghề quản lý. Do vậy họ phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản về phẩm
chất chính trị, đạo đức và năng lực quản lý nhất định.
Về phẩm chất chính trị, biểu hiện cao nhất và tập trung nhất của cán bộ quản lý kinh tế hiện nay là phải nắm
vững quán triệt được quan điểm, đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, nhà nước và ở từng cấp phải biết

cụ thể hoá đường lối quan điểm vào nội dung quản lý, vào trong hoạt động thực tiễn của đơn vị, biểu hiện qua việc
làm, kết quả cống hiến vào sự nghiệp phát triển kinh tế của từng ngành, từng địa phương. Cụ thể hơn, yêu cầu về
phẩm chất chính trị cho mỗi cán bộ quản lý là : phải có quan điểm, lập trường chính trị vững vàng, có bản lĩnh và
kiên định trong công việc được giao, có ý chí và có khả năng làm giàu cho tập thể - xã hội và cho bản thân, có khả
năng tự hoàn thiện, tự quản lý, tự đánh giá kết quả công việc của bản thân, đánh gía con người mà mình quản lý,
biết cách biến nhận thức chính trị của mình thành nhận thức của mọi người, tạo được lòng tin và lôi cuốn mọi
người tham gia cũng như hoạt động trong quá trình đổi mới họ vừa phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, vừa phải
rất năng động sáng tạo.
Về phẩm chất đạo đức, người quản lý kinh tế phải sống và làm việc theo pháp luật, đồng thời với tư cách là
người quản lý, họ phải biết chăm lo việc công của đơn vị, của nhà nước cũng như chăm lo đến con người, tập thể,
cộng đồng, biểu hiện qua cách xử sự công bằng, công tâm, khách quan, có văn hoá, tôn trọng con người… Bên
cạnh đó, người quản lý phải là tấm gương cho người dưới quyền và người lao động trực tiếp noi theo, điều đó đòi
hỏi mỗi cán bộ quản lý phải là người liêm khiết, khiêm tốn, trung thực, thẳng thắn, không vụ lợi. Sự công bằng,
công tâm của người lãnh đạo, quản lý và thực hiện bình đẳng giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa quyền lợi và
trách nhiệm là yếu tố hết sức quan trọng bởi nó đem lại sự đồng thuận, đoàn kết và thống nhất cao của tập thể mà
họ quản lý. Cuối cùng, người quản lý kinh tế còn phải biết lưu giữ và hàm chứa những truyền thống dân tộc, kết
hợp hài hòa giữa yếu tố truyền thống và yếu tố hiện đại trong tính cách.
Về yêu cầu năng lực quản lý, họ phải có khả năng hoàn thành một hoạt động nhất định, bao gồm năng lực
chuyên môn và năng lực tổ chức quản lý.
Về năng lực chuyên môn, người quản lý kinh tế phải có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực được giao trách
nhiệm quản lý mới thực để biết sử dụng và tập hợp các chuyên gia giỏi, các cán bộ chuyên môn dưới quyền, giao
đúng việc và tạo điều kiện cho họ phát huy khả năng chuyên môn cho nhiệm vụ chung. Bên cạnh đó, người quản
lý kinh tế không những phải có kiến thức về lĩnh vực kinh tế thị trường; nắm vững bản chất, quy chế vận động để
ứng xử, lựa chọn trong kinh doanh, để sử dụng công cụ điều tiết kinh tế thị trường trong quản lý nhà nước mà còn
phải có kiến thức về khoa học quản lý hiện đại đồng thời trong hoạt động quản lý, người quản lý kinh tế phải xuất
phát từ thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh, thực tế địa phương, thực tế đời sống kinh tế - xã hội để tìm lời giải,
biện pháp cụ thể, tránh giáo điều sách vở.
16
Về năng lực tổ chức quản lý, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế là những người trực tiếp tổ chức điều hành bộ
máy quản lý để phối hợp hoạt động của từng đơn vị kinh tế cụ thể, do đó người cán bộ quản lý phải có năng lực

thực tế và phân tích các tình huống, năng lực quyết sách và giải quyết các vấn đề, năng lực tổ chức và chỉ huy để
tạo được chuyển biến nhảy vọt về lực lượng sản xuất và năng suất lao động. Người quản lý kinh tế phải có bản
lĩnh, kiên quyết, nhạy cảm, linh hoạt, có khả năng quan sát, biết thích nghi kinh tế thị trường, năng động và lợi
dụng được các tác động qua lại giữa thị trường với sản xuất kinh doanh để thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát
triển. Họ cũng phải là người có tầm nhìn xa trông rộng, ít phải trả giá cho những sai lầm, bình tĩnh, tự chủ nhưng
quyết đoán, dứt khoát trong công việc, có kế hoạch làm việc rõ ràng và tiến hành công việc nhất quán theo kế
hoạch, dám nghĩ dám làm, dám mạo hiểm, dám chịu trách nhiệm, biết dồn đúng tiềm lực vào khâu yếu, biết tận
dụng thời cơ có lợi cho hệ thống. Người quản lý kinh tế phải có tác phong đúng mực, thông cảm và hiểu cấp dưới,
có thái độ chân thành, cộng tác, đồng thời hướng cho cấp dưới tác phong cộng tác, giúp đỡ lẫn nhau, biết sử dụng
đúng tài năng từng người, đánh giá đúng con người, biết xử lý tốt các mối quan hệ ở trong và ngoài hệ thống,
quan hệ với người dưới quyền; quan hệ với cấp trên trực tiếp …
Ở Việt Nam, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế được hình thành, phát triển gắn liền với chủ trương, đường lối cán
bộ của Đảng và nhà nước. Bên cạnh những ưu điểm như : đã có đội ngũ cán bộ tương đối đủ vể cơ cấu trình độ,
có bản lĩnh chính trị vững vàng, tận tuỵ tâm huyết với công việc; có những bước phát triển về số lượng và chất
lượng; có phẩm chất trong sáng, thích ứng nhanh và có nhiều đóng góp xây dựng cơ chế kinh tế mới… Song
trước những yêu cầu đặt ra từ thực tế biến động không ngừng của nền kinh tế thị trường, sự thách thức cạnh
tranh kinh tế, sự phát triển khoa học-công nghệ và hòa nhập kinh tế quốc tế, các nước trên thế giới , đội ngũ cán
bộ quản lý kinh tế nước ta cũng bộc lộ những hạn chế và khuyết điểm : đó là tình trạng mất cân đối về cơ cấu trình
độ, về ngành nghề lứa tuổi; thiếu những nhà kinh doanh và công chức quản lý kinh tế giỏi, cán bộ quản lý doanh
nghiệp không đáp ứng được yêu cầu mới về trình độ năng lực do kiến thức về kinh tế thị trường, về luật pháp và
năng lực quản lý còn nhiều bất cập; công tác quản lý cán bộ còn yếu chưa đồng bộ ở tất cả các khâu; một bộ phận
cán bộ sa sút về phẩm chất đạo đức - chính trị, chạy theo lối sống thực dụng, lợi dụng các sơ hở yếu kém để trục
lợi cá nhân…
Từ thực trạng trên, vấn đề bức xúc hiện nay là phải xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế có đủ khả năng
thích nghi, làm chủ và vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Đầu tư cho cán
bộ quản lý kinh tế cũng chính là đầu tư cho phát triển, chống lại nguy cơ tụt hậu. Do đó, đây là một quá trình lâu
dài và gắn chặt với quá trình đổi mới hoàn thiên cơ chế, cải cách hành chính, bao gồm việc thực hiện đồng bộ các
giải pháp như sau:
Một là phải đổi mới quan niệm, nhận thức về đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế : vấn đề chăm lo xây dựng đội ngũ
cán bộ là vấn đề hệ trọng của sự nghiệp đổi mới, vì vậy Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý cán

bộ. Mặt khác, quản lý kinh tế cần phải được nhìn nhận như một chức nghiệp, một nghề nghiệp lao động đặc biệt
trong cơ cấu lao động xã hội, nó đòi hỏi cán bộ quản lý bên cạnh những phẩm chất, năng lực đặc biệt còn phải
được đào tạo thật bài bản, chuyên nghiệp. Song song đó, cần tiếp tục cụ thể hoá Nghị quyết Hội nghị TW 3 (khoá
VIII) về cán bộ quản lý kinh tế, chuẩn bị đội ngũ cán bộ thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, từ đó có biện
pháp cụ thể từ phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, sử dụng, đãi ngộ, đánh giá cán bộ quản lý kinh tế. Để việc tuyển
chọn, đánh giá cán bộ được khách quan, khoa học, cần xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn có tính chất pháp lý cho
từng loại cán bộ quản lý trên hai mặt cơ bản : phẩm chất và năng lực đồng thời cần phân định rõ chức năng quản
lý nhà nước về kinh tế và chức năng quản lý sản xuất - kinh doanh để trền cơ sở đó mà tiêu chuẩn hoá đội ngũ
cán bộ quản lý kinh tế cho từng lĩnh vực.
Hai là phải xây dựng chiến lược về cán bộ quản lý kinh tế : Đối với cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế, phải có
chiến lược đào tạo những cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế vĩ mô bởi họ là những người có sự tác động rộng,
toàn diện trên các mặt chính trị, xã hội và toàn bộ nền kinh tế quốc dân, do đó phải là những công chức có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng, có năng lực chuyên môn đủ cao khả năng hoạch định
chính sách, định hướng đúng đắn cho sự phát triển nến kinh tế nước ta. Đối với cán bộ quản lý sản xuất - kinh
doanh nhất là trong các doanh nghiệp then chốt của nhà nước, ngoài những yêu cầu và đặc trưng chung của một
nhà quản trị thực thụ, cần phải đào tạo đội ngũ các nhà quản trị doanh nghiệp giỏi, mang đậm bản sắc Việt Nam,
có những phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, tận tâm đối với sự nghiệp phát triển kinh tế của đất
nước, đảm bảo kinh doanh có hiệu quả cao, năng động, tôn trọng pháp luật, văn minh và hiện đại, phù hợp với
định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, của nhà nước, hội nhập được với quốc tế và khu vực. Từ chiến
lược xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, cần cụ thể hoá thành kế hoạch ở mọi cấp, mọi ngành và địa
phương, cơ sở; tập trung một số kế hoạch như: kế hoạch dự báo tình hình cán bộ trong dài hạn; kế hoạch đào tạo
nguồn, kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng, kế hoạch sử dụng… đây là biện pháp rất cần thiết để đội ngũ cán bộ
không bị hụt hẫng, đảm bảo tính liên tục cũa hệ thống quản lý.
Ba là tiến hành đào tạo cán bộ theo những tiêu chuẩn đã xác định nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu
của quá trình chuyển sang mô hình kinh tế mới, cơ chế quản lý mới; đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, mở cửa và hội nhập vào đời sống kinh tế quốc tế. Kinh nghiệm các một nước có nền kinh tế
phát triển trong khu vực và thế giới, hầu như nước nào cũng có chiến lược phát triển giáo dục, đề ra mục tiêu và
đầu tư thỏa đáng. Ô-xtrây-li-a đưa ra khẩu hiệu: "Hãy cứu lấy nền kinh tế bằng giáo dục". Đảng ta trong quá trình
đổi mới cũng đã xác định giáo dục và đào tạo là "Quốc sách hàng đầu". Trong đào tạo, phải đổi mới về nội dung,
về phương pháp, phương thức sao cho những kiến thức quản lý và kiến thức kinh tế được tiếp nhận qua đào tạo

17
phải kết hợp lý luận cơ bản với khoa học quản lý hiện đại, chuyên môn nghiệp vụ phải gắn liền với kiến thức thị
trường, phù hợp với yêu cầu cơ chế thị trường, đồng thời phải coi trọng nguồn từ thế hệ trẻ đã qua đào tạo từ các
trường đại học, cao đẳng dạy nghề, cần tin và mạnh dạn giao việc cho họ để thông qua thực tiễn mà họ trưởng
thành được nhanh chóng cũng phát hiện những khiếm khuyết của họ để tiếp tục bồi dưỡng.
Bốn là phải thực hiện nghiêm túc, đồng bộ các khâu sử dụng cán bộ từ tuyển dụng, phân công, bố trí, đề
bạt Trong tuyển chọn cán bộ quản lý kinh tế phải “coi trọng cả tài và đức là gốc”, cần tìm hiểu đúng vị trí và mối
quan hệ chặt chẽ cả đức và tài để tránh cực đoan tuyệt đối hoá từng mặt. Đồng thời cần sử dụng nhiều phương
pháp tuyển chọn như: phương pháp thi tuyển, phương pháp quan sát phát hiện năng khiếu, phương pháp thử
nghiệm: thử nghiệm trong trí tuệ, tài năng nghề nghiệp, tính cách, thử nghiệm trong thực tiễn; phương pháp trưng
cầu ý kiến bỏ phiếu kín. Đồng thời để phát hiện các nhà doanh nghiệp trẻ, tài năng, cần mở rộng nhiều hình thức
phát hiện nhân tài như chương trình “khởi nghiệp” Trong khâu bố trí và sử dụng cán bộ, phải đảm bảo đúng tiêu
chuẩn và sở trường, đề bạt, bổ nhiệm đúng lúc, giao việc đúng tầm và công việc thích hợp để họ có môi trường
phát triển được khả năng cống hiến, bảo đảm tính phù hợp giữa trình độ, năng lực với đòi hỏi của công việc; xác
định rõ chức năng quyền hạn, trách nhiệm của từng vị trí nhằm tạo chủ động cho cán bộ và thuận lợi cho việc
đánh giá cán bộ. Đồng thời, phải cải cách tiền lương và có chính sách đãi ngộ, thực hiện sự trân trọng, ưu đãi, biệt
đãi đối với những người có cống hiến lớn, có tài năng, có trình độ quản lý khoa học công nghệ cao, không phân
biệt người Việt trong nước hay đang sinh sống ở nước ngoài. Đồng thời phải thực hiện chế độ thưởng phạt rõ
ràng, kịp thời căn cứ vào hiệu quả của nhiều mặt, nhưng trước hết là hiệu quả kinh tế. Việc sử dụng, bố trí cán bộ
quản lý kinh tế đúng - sai phụ thuộc vào cơ quan làm công tác cán bộ, vì thế cần đổi mới từ chính bản thân cơ
quan tổ chức về những người làm công tác cán bộ. Trong khâu đánh giá cán bộ, phải đổi mới quan niệm và
phương pháp đánh giá theo hướng thật sự dân chủ, theo một quy trình chặt chẽ, nội dung đánh giá bao gồm nhiều
mặt, trước hết cần tập trung và hai nội dung chủ yếu: phẩm chất và năng lực, những nhận xét đánh giá, kết luận
về cán bộ nhất thiết phải do tập thể có thẩm quyền quyết định; nhằm khắc phục cánh làm giản đơn, phiến diện,
thái độ gia trưởng, thành kiến, thiếu công tâm.
Nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa-hiện đại hóa, với mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh", thực hiện tiến trình hội nhập quốc tế. Do đó càng đòi hỏi phải phát huy trí tuệ con
người Việt Nam vào công cuộc kiến thiết đất nước, đặc biệt là xây dựng dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế giỏi,
bản lĩnh - những con người "duy lý và khoa học, kỹ thuật và công nghệ, năng động, biết cách làm giàu và giàu lòng
nhân ái". Chỉ có những con người như vậy mới có thể là động lực phát triển xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế.

Các Mác nói: "Lao động ngành nghề là bội số của lao động giản đơn", hay: "Sức lao động của con người tồn tại
trong nhân cách sinh động của con người đó".
Câu 2 Vai trò, chức năng quản lý của nhà nước đối với phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Giải pháp nâng cao năng lực quản lý của nhà nước
Bài làm
Kinh tế thị trường là một chế độ kinh tế hay phương thức sản xuất có tính lịch sử, nó là thành quả của văn minh
nhân loại và được sử dụng nhằm phục vụ cho sự phát triển và thịnh vượng chung của mọi quốc gia, dân tộc. Tuy
nhiên, kinh tế thị trường nếu để tự do phát triển nó cũng sẽ sinh ra rất nhiều những hạn chế như : nền kinh tế dễ
rơi vào tình trạng khủng hoảng, tình trạng độc quyền do cạnh tranh thị trường tạo ra sẽ dần hạn chế các nguồn
lực, hàng hóa công cộng không được thị trường quan tâm, thông tin trên thị trường bất cân xứng, mội trường sinh
thái bị phá hủy, sự phân hóa giữa các tầng lớp xã hội ngày càng rõ đe doạ đến tính ổn định của đất nước. Khắc
phục những khiếm khuyết của thị trường nhất thiết phải có sự can thiệp của nhà nước. Ngày nay, không một quốc
gia nào sử dụng cơ chế kinh tế thị trường mà không có sự quản lý, điều tiết của nhà nước bất luận đó là nhà nước
tư bản chủ nghĩa hay nhà nước XHCN. Vai trò, chức năng quản lý của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế thị
trường là một yêu cầu tất yếu và nâng cao năng lực quản lý nhà nước là điều kiện vô cùng quan trọng để đạt được
những mục tiêu mong muốn trên cơ sở phát huy tối đa những mặt tích cực của thị trường và hạn chế tối thiểu
những tiêu cực sinh ra từ cơ chế thị trường
Mặt khác, sự cần thiết phải thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế còn xuất phát từ bản thân nhà
nước. Mọi Nhà nước sinh ra đều nhằm nắm giữ quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế để điều tiết mọi quan hệ kinh
tế - xã hội để phục vụ cho lợi ích của giai cấp cầm quyền. Để thực thi quyền lực, Nhà nước phải tiến hành quản lý
mọi lĩnh vực của xã hội, trong đó có lĩnh vực quản lý kinh tế đối với nền kinh tế quốc dân để tác động thúc đẩy nền
kinh tế phát triển đúng theo định hướng mục tiêu của giai cấp cầm quyền, đối với nhà nước ta mục tiêu đó chính là
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Ngày nay, lực lượng sản xuất phát triển, trình độ xã
hội hóa sản xuất cao do cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật tạo ra, cho nên sự quản lý của Nhà nước về kinh tế
càng cần thiết hơn.
Về vai trò quản lý kinh tế của nhà nước, bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân nên
với vai trò chủ thể quản lý của nền kinh tế, Nhà nước phải thực thi quyền lực của nhân dân, bảo vệ lợi ích của
quốc gia, lợi ích của nhân dân đồng thời cũng là cơ quan đại diện cho nhân dân làm chủ sở hữu mọi tài sản thuộc
sở hữu toàn dân. Nhà nước xây dựng mô hình kinh tế thị trường và vận hành nền kinh tế bằng cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, nền kinh tế thị trường của ta còn sơ khai nên

vai trò quản lý nhà nước rất quan trọng thể hiện qua các mặt như : Nhà nước phải tạo điều kiện thúc đẩy thị
trường ra đời, đồng thời điều tiết thị trường để nền kinh tế ổn định, phát triển; Nhà nước phải hạn chế khuyết tật
18
2-1
2-2
của cơ chế thị trường và khuyết điểm yếu kém của chính bộ máy Nhà nước khi bộ máy mới chuyển sang quản lý
nền kinh tế thị trường; Nhà nước phải vận hành nền kinh tế bằng cơ chế quản lý mới, định hướng xã hội chủ
nghĩa, phù hợp với bản chất Nhà nước ta.
Về chức năng quản lý kinh tế, nhà nước thực hiện các chức năng quản lý kinh tế vĩ mô tập trung với 4 nội dung
cơ bản. Một là nhà nước thực hiện chức năng tạo môi trường đầu tư an toàn, minh bạch, thuận lợi và bình đẳng
cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, bảo đảm sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội
cho sự phát triển của nền kinh tế, duy trì pháp luật, trật tự an toàn xã hội, thi hành nhất quán các chính sách và thể
chế theo hướng đổi mới, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, khống chế lạm phát, điều tiết các quan hệ thị trường và
xây dựng cơ sở hạ tầng đảm bảo điều kiện cơ bản cho hoạt động kinh tế trong kinh tế thị trường. Hai là nhà nước
thực hiện chức năng định hướng, dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực phát triển thông qua chiến lược, kế hoạch, các
chính sách kinh tế sử dụng có trọng điểm các nguồn lực, khai thông quan hệ kinh tế… Ba là nhà nước thực hiện
chức năng hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội, bảo đảm sự thống nhất giữa phát triển kinh tế và phát
triển xã hội. Bốn là kiểm tra và kiểm soát hoạt động của nền kinh tế trên lĩnh vực sử dụng tài nguyên, tài sản quốc
gia, bảo vệ môi trường, trật tự kỷ cương của nền kinh tế. Bốn chức năng này đều có vai trò quan trọng như nhau
và gắn chặt nhau không thể tách rời.
Nội dung chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước được thực hiện bằng việc sử dụng hệ thống các công
cụ quản lý kinh tế vĩ mô : công cụ luật pháp, công cụ chiến lược chiến lược quy hoạch, kế hoạch, chương trình
mục tiêu và công cụ tài chính, tiền tệ giá cả. Do đó, quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế gắn với quá trình đổi
mới và hoàn thiện các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô.
Về công cụ luật pháp, nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường trên cơ sở luật pháp, các văn bản dưới luật. Hệ
thống pháp luật là chính là cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tư, kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, duy trì trật
tự kỷ cương kinh tế, điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức trong kinh doanh theo các hướng xác định.
Chính vì vậy, pháp luật kinh tế phải rõ ràng, đồng bộ, thực tế, ổn định và phù hợp với luật pháp kinh tế quốc tế.
Về công cụ chiến lược, kế hoạch, chương trình kinh tế - xã hội : Nhà nước thông qua việc hoạch định
chiến lược kinh tế xã hội và kế hoạch hóa ở tầm vĩ mô để định hướng cho các doanh nghiệp hoạt động và đảm

bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng đã lựa chọn. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội được xem như
là sự lựa chọn có căn cứ khoa học các mục tiêu dài hạn và cơ bản của quá trình phát triển kinh tế- xã hội, gắn với
chọn lọc các phương tiện, biện pháp chủ yếu để đạt mục tiêu đó. Chiến lược được cụ thể hóa thành các chương
trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ nhằm đảm bảo những cân đối chủ yếu cho nền kinh tế
và định hướng cho sự vận động của nền kinh tế. Chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế đồng thời cũng phải thể
hiện quan điểm phát triển nhanh nhưng bền vững, với mục tiêu tăng trưởng GDP dựa trên các giải pháp huy động
và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, khắc phục những điểm yếu, phát huy mọi thế mạnh, nắm bắt tốt những cơ hội
và dự đoán mọi thách thức, rủi ro để có những giải pháp ứng phó phù hợp.
Về công cụ các chính sách tài chính - tiền tệ - giá cả : đây là những công cụ chủ yếu của quản lý kinh tế vĩ
mô trong nền kinh tế thị trường bởi lẽ kinh tế thị trường thực chất là kinh tế tiền tệ. Vì vậy, Nhà nước cần phải nắm
các công cụ này, sử dụng linh hoạt các hình thức biện pháp tài chính, tiền tệ, giá cả để điều tiết thị trường, tác
động vào các giai đoạn và thời kỳ phát triển của nền kinh tế, nhằm đảm bảo kích thích tăng trưởng nhanh và phát
triển bền vững. Một số chính sách quan trọng mà nhà nước sử dụng để quản lý điều tiết nền kinh tế thị trường bao
gồm :
Một là ngân sách Nhà nước : ngân sách Nhà nước có vai trò quan trọng đối với việc quản lý vĩ mô toàn
bộ nền kinh tế, nó giúp Nhà nước điều tiết vĩ mô trên các lĩnh vực như : điều tiết thị trường, bình ổn giá cả
và chống lạm phát, định hướng phát triển sản xuất, hoạt động đầu tư, hoạt động tài chính, điều chỉnh lĩnh
vực thu nhập.
Hai là chính sách thuế : chính sách thuế là một bộ phận trọng yếu của nền tài chính quốc gia, thuế
không chỉ giữ vai trò là nguồn thu chủ yếu của Nhà nước để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ trên
mọi lĩnh vực của Nhà nước mà còn giữ vai trò là công cụ quản lý vĩ mô. Thuế là công cụ điều tiết các hoạt
động sản xuất kinh doanh đúng hướng trên cơ sở Nhà nước sử dụng chính sách thuế có phân biệt giữa
các ngành, nghề, các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau, chính sách này sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển
của các ngành nghề, hàng hóa, dịch vụ hoặc tạo sự tác động ngược lại. Thuế là công cụ để điều tiết thu
nhập của các tầng lớp dân cư khác nhau, điều tiết quan hệ lợi ích kinh tế giữa các vùng, các miền để đảm
bảo thực hiện chính sách xã hội, sự phát triển kinh tế - xã hội tương đối đồng đều giữa các vùng, các miền
đất nước. Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế thị trường, thuế là công cụ điều tiết áp lực cạnh
tranh, bảo hộ sản xuất trong nước, điều tiết quan hệ xuất nhập khẩu và thực hiện chính sách kinh tế mở
cửa.
Ba là chính sách giá cả : quản lý giá cả của thị trường bằng chính sách “giá” là một trong những nội

dung chủ yếu về sự can thiệp của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường. Sự can thiệp này nhằm các
mục tiêu : điều tiết quan hệ cung - cầu, điều tiết hành vi, mối quan hệ giữa các doanh nghiệp, các ngành
kinh tế, điều tiết quan hệ cạnh tranh, bảo hộ các hoạt động sản xuất kinh doanh. Những mục tiêu trên
được thực hiện trên cơ sở Nhà nước xác định chính sách giá cả hợp lý trong từng thời kỳ, chính sách này
bao gồm 3 nội dung cơ bản : định giá trực tiếp, quản lý gián tiếp, khống chế tổng mức vật giá. Phạm vi
19
2-3
2-4
hàng hóa do Nhà nước định giá trực tiếp chỉ giới hạn trong một số ít sản phẩm cơ bản có tính chiến lược
hoặc có tính phục vụ xã hội như: than, dầu mỏ, điện, hàng không, bưu điện… Tuy nhiên việc Nhà nước
định giá trực tiếp cũng không thể đi ngược quy luật cung cầu của thị trường trong thời gian dài. Hình thức
thứ hai là Nhà nước chỉ đạo mức giá (quản lý gián tiếp) thông qua việc xác định mức giá cao nhất, giá bảo
hộ thấp nhất, nhịp độ thả nổi, chênh lệch kinh doanh…trong giá cả hàng hóa. Hình thức quản lý này đòi
hỏi phải điều chỉnh thường xuyên giá cả chỉ đạo để làm cho nó tiếp cận với giá cả thị trường. Hình thức
nhà nước khống chế từng mức giá cả có mục đích, đảm bảo sự ổn định cơ bản tổng mức giá cả và biện
pháp khống chế từng mức giá cả là hệ thống các biện pháp như: biện pháp hành chính, biện pháp tài
chính, biện pháp tiền tệ, biện pháp khống chế lương và hối suất…
Bốn là hệ thống ngân hàng : ngân hàng là “linh hồn của nền kinh tế thị trường” và được Nhà nước sử
dụng để điều tiết tiền tệ trong lưu thông, xác lập môi trường tài chính lành mạnh, phù hợp với yêu cầu đầu
tư, phát triển kinh tế và là công cụ để thực hiện các chiến lược tài chính, tiền tệ quốc gia. Vai trò đó được
thực hiện thông qua việc tổ chức hoạt động ngân hàng hai cấp trong nền kinh tế thị trường bao gồm :
Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý
Nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, cung ứng và điều hòa lưu thông tiền tệ, ổn định giá trị đồng
tiền. Các ngân hàng thương mại thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, thực hiện các dịch vụ tài chính,
ngân hàng. Công cụ sử dụng trong hoạt động ngân hàng là hệ thống luật, văn bản dưới luật, lãi suất, chiết
khấu, hệ thống thị trường tài chính- tiền tệ… Hoạt động của hệ thống ngân hàng hai cấp, trong từng điều
kiện cụ thể về quy mô, hiệu quả sẽ giữ được vai trò trung tâm tín dụng, trung tâm tiền tệ, trung tâm
thanh toán và từ đó có thể khống chế, kiểm soát, điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế quốc dân.
Thực tế nước ta hiện nay, nền kinh tế thị trường mới chỉ ở mức manh nha, tức là còn ở giai đoạn thấp, sơ khai
và còn thiếu nhiều điều kiện để phát triển; tính cạnh tranh còn kém, sản phẩm còn nghèo nàn; công tác quản lý

nhà nước về kinh tế cũng còn nhiều hạn chế như : công tác dự báo kém, quản lý nhà nước chưa ngang tầm với
đòi hỏi thời kỳ mới, hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách chưa đồng bộ, nhất quán, quản lý nhà nước trên các
lĩnh vực tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hóa, thương mại, phân phối, đất đai, vốn và tài sản nhà nước chưa
thật tốt, chậm được đổi mới và lúng túng trong chuyển sang cơ chế thị trường, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước
còn cồng kềnh, kém hiệu quả, năng lực và phẩm chất cán bộ chưa tương xứng, một bộ phận cán bộ quản lý tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, thủ tục hành chính phức tạp Chính những hạn chế này là rào cản lớn cho sự phát
triển kinh tế
Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước, cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu như sau
đây:
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng đổi mới việc xây dựng, thay dần quy trình xây dựng
pháp luật theo kiểu từ trên xuống bằng quy trình từ dưới lên, các sáng kiến pháp luật, ban hành, thực thi pháp luật,
bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống, phải tạo điều kiện cho mọi loại hình kinh tế bình đẳng trước pháp luật và phù hợp
với luật pháp, thông lệ quốc tế trên cơ sở vừa đảm bảo yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vừa cân
nhắc những đặc điểm riêng biệt của nước ta, nhất là những đặc thù của nền kinh tế Việt Nam, bảo hộ sản xuất
trong nước . Bên cạnh đó, phải tăng cường pháp chế để nâng cao hiệu quả của công cụ pháp luật.
- Đổi mới công tác kế hoạch hóa, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế
hoạch phát triển kinh tế -xã hội; tăng cường thông tin kinh tế xã hội trong nước và quốc tế nhằm đảm bảo phù
hợp và định hướng được nền kinh tế thị trường đang trong bước sơ khai và nhiều biến động.
- Tiếp tục cải cách hành chính để nhà nước thực hiện đúng chức năng quản lý vĩ mô và chức năng chủ sở hữu
tài sản công cộng của quốc gia, không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh và quyền tự chủ hạch toán
của doanh nghiệp. Kiện toàn và làm trong sạch bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, giảm bớt các đầu mối, các
khâu trung gian, tập trung vào chức năng quản lý kinh tế vĩ mô, giảm dần đi tới xóa bỏ chế độ chủ quản đối với
doanh nghiệp, đảm bảo bộ máy tinh gọn, phân định rõ chức năng, trách nhiệm và quyền hạn, đủ khả năng quản lý
và xử lý tốt các vấn đề nảy sinh trong nền kinh tế thị trường. Việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy Nhà nước về kinh tế
phải gắn liền với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước có phẩm chất, trình độ và năng lực trong
quản lý nền kinh tế thị trường : phải thực hiện tốt quy chế tuyển chọn đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý,
không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực của cán bộ đặc biệt là cán bộ quản lý kinh tế. Kết hợp chặt chẽ
giữa đào tạo, tuyễn dụng, bố trí, đề bạc, đãi ngộ và khen thưởng tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ phát huy tính
chủ động, sáng tạo, toàn tâm toàn ý với sự phát triển của đất nước. Song song đó phải thực hiện cải cách thủ tục
hành chính cả về quy chế và tổ chức thực hiện, giảm đến mức tối đa các thủ tục, quy chế và phong cách quan liêu,

phiền hà đối với nhân dân và các doanh nghiệp và thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và
hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước về kinh tế.
- Xây dựng và hoàn chỉnh các chính sách kinh tế và xã hội một cách đồng bộ và nhất quán. Về chính sách
thuế, phải tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và các cam kết quốc tế; đơn giản hóa
các sắc thuế và từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt đầu tư trong nước và đầu tư nước
ngoài. Về chính sách tài chính - tiền tệ, phải bảo đảm tính minh bạch, công bằng trong chi ngân sách Nhà nước,
thực hiện phân cấp mạnh đi đôi với tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc thu và chi
ngân sách địa phương. Về hoạt động ngân hàng, phải xây dựng hệ thống ngân hàng thương mại đáp ứng nhu cầu
20
2-5
2-6
tín dụng, cung ứng các dịch vụ ngân hàng thuận lợi cho xã hội, kiện toàn các ngân hàng thương mại Nhà nước
thành những doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ tự chủ, tự chịu trách nhiệm, có uy tín, đủ sức cạnh tranh trên thị
trường, xóa bỏ sự can thiệp hành chính của các cơ quan Nhà nước đối với các hoạt động cho vay của các ngân
hàng thương mại Nhà nước, thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt theo cung cầu ngoại tệ, từng bước thực hiện tự
do hóa tỷ giá hối đoái có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, . Về chính sách đầu tư : phải nâng cao hiệu quả các
chương trình quốc gia, bảo đảm tính hợp lý trong cơ cấu đầu tư tránh dàn trãi vốn mà tập trung vốn cho các
chương trình trọng điểm, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực thiết yếu, nhất là cơ cấu hạ tầng để tạo ra môi
trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt, chuyển cơ chế phân bổ nguồn vốn vay Nhà nước
mang tính hành chính sang cho vay theo cơ chế thị trường, thường xuyên quan tâm xử lý tốt vốn đầu tư, tránh thất
thoát vốn, tăng cường quản lý nợ chính phủ; hoàn thiện cơ chế quản lý nợ nước ngoài cho phù hợp với tình hình
mới. Về chính sách thương mại, phải tiếp tục hoàn thiện và thực thi thể chế thương mại và từng bước thực hiện
chính sách tự do hóa thương mại, các thành phần kinh tế được tự do kinh doanh, được nhà nước bảo vệ nhưng
phải hoạt động thương mại đúng pháp luật; mở rộng giao lưu hàng hóa, tạo điều kiện mở rộng sản xuất, tiêu thụ
hàng nông sản; mở rộng ngành nghề.
- Tích cực đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đặc quyền, đặc lợi và coi đây là nhiệm vụ quan
trọng sống còn, nó phải được thực hiện bằng nhiều biện pháp cả tố chức hành chính, kinh tế và tâm lý giáo dục,
nhưng trước hết phải từ việc đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế phải kiên quyết loại trừ các phần tử
thoái hoá biến chất khỏi bộ máy quản lý nhà nước
Tóm lại, nước ta trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, điều đó đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn

thiện các công cụ quản lý vĩ mô, nâng cao năng lực hiệu quả của bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, đặc biệt là
phải đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vừa có tâm, vừa có tầm để thực hiện tốt các chức năng quản lý của
nhà nước, đảm bảo sự phát triển nền kinh tế ở nước ta không đi chệch hướng XHCN.
Câu 3: trình bày vai trò của chính sách kinh tế. Phân tích một số chính sách đầu tư chủ yếu ở nước ta.
BÀI LÀM
Trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta, vai trò của các chính sách kinh tế có ý nghĩa rất lớn trong
việc đảm bảo xây dựng thành công một nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững và theo đúng định hướng XHCN bởi một chính
sách đúng đắn, phù hợp sẽ khơi dậy những tiềm năng và kích thích sự phát triển. Vậy chính sách kinh tế là gì ? vai trò của các
chính sách kinh tế đến quá trình hoạt động và phát triển của nền kinh tế quốc dân ? Bằng kiến thức quản lý kinh tế, chúng ta
hãy phân tích làm rõ vấn đề trên
Chính sách kinh tế là một hệ thống các quan điểm, mục tiêu phương thức công cụ mà chủ thể quản lý sử dụng tác động lên
hành vi của chủ thể và đối tượng nhằm thực hiện những nội dung quản lý kinh tế hướng đến những mục tiêu đã xác định. Nói
cách khác, chính sách kinh tế đó là những giải pháp mà nhà nước sử dụng để xử lý và giải quyết các nội dung kinh tế lớn trong
quá trình hoạt động và phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Trong hoạt động quản lý kinh tế, chính sách kinh tế có những vai trò như sau : một là định hướng cho hoạt động kinh tế xã
hội của đất nước; hai là tổ chức để xử lý, giải quyết các vấn đề kinh tế lớn mang tầm vĩ mô của kinh tế như: các chính sách đầu
tư, chính sách thương mại, chính sách tài chính - tiền tệ; ba là hỗ trợ để phát triển các mục tiêu kinh tế đã được xác định. Như
vậy, chính sách kinh tế có giá trị như là những quyết định trong dài hạn của nhà nước nhằm tổ chức quá trình phát triển của
nền kinh tế quốc dân theo mục tiêu định hướng. Từ những cơ sở trên ta có thể nói chính sách kinh tế là những quyết định kinh
tế ở tầm vĩ mô do nhà nước đưa ra nhằm thực hiện các chương trình, kế hoạch trong một thời gian dài theo mục tiêu đã xác
định.
Mục tiêu của kinh tế vĩ mô thường dựa trên các dấu hiệu chủ yếu như : ổn định, tăng trưởng và công bằng xã hội. Để đạt
được mục tiêu kinh tế vĩ mô nêu trên, nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ chính sách khác nhau. Mỗi chính sách phải có
những công cụ riêng biệt. Chính sách bao gồm nhiều lĩnh vực của kinh tế xã hội : tài chính - tiền tệ, giá cả, đầu tư, thương
mại Trong nền kinh tế thị trường, chính sách khuyến khích đầu tư có vị trí quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Khi đất
nước chuyển sang thời kỳ xây dựng và phát triển kinh tế thì vấn đề mấu chốt, quyết định của mọi sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia là giải quyết các bài toán tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, suy đến cùng là giải quyết
vấn đề đầu tư.
Chính sách đầu tư là hệ thống những quan điểm, những biện pháp mà nhà nước sử dụng các công cụ, đòn bẩy kinh tế
tác động vào các hoạt động đầu tư của các chủ thể nhằm định hướng hoạt động, bảo đảm sự tăng trưởng và hiệu quả cao cho

nền kinh tế trong từng thời kỳ. Nói cách khác, chính sách đầu tư là hệ thống chính sách khuyến kích và bảo đảm đầu tư của nhà
nước đối với các chủ thể tham gia đầu tư. Đây là hệ thống đồng bộ từ quan điểm chiến lược, cơ chế chính sách tạo môi trường
thuận lợi bình đẳng cho hoạt động đầu tư. Chính sách đầu tư bao gồm các chính sách về tích luỹ tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư,
chính sách tạo vốn và sử dụng vốn.
Lực lượng tham gia đầu tư được mở rộng gồm nhà nước, doanh nghiệp, dân cư và người nước ngoài. Nguồn vốn đầu tư
được mở rộng : vốn ngân sách, vốn tự có của doanh nghiệp, nguồn vốn của dân cư, nguồn vốn đầu tư của nước ngoài. Hình
thức đầu tư cũng được mở rộng bao gồm đầu tư của ngân sách, tín dụng nhà nước, tín dụng, ngân hàng và đầu tư giao tiếp
thông qua cổ phiếu, trái phiếu . . .
Hiện nay trong quá trình phát triển kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế diễn ra trong xu thế toàn cầu hoá, chính
sách đầu tư là nhạy cảm và phải thường xuyên thay đổi để phù hợp quá trình vận động và phát triển của nền kinh tế nhưng phải
luôn tuân thủ nguyên tắc : bảo đảm môi trường đầu tư hấp dẫn ổn định, những biện pháp bảo hộ đầu tư trong nước phải từng
21
bước bác bỏ những cản trở để phù hợp lộ trình kinh tế, những biện pháp khuyến khích đầu tư, hấp dẫn tin cậy, phải bảo đảm ổn
định và lành mạnh hoá môi trường chính trị xã hội
Riêng ở nước ta, để có môi trường đầu tư lý tưởng, một số điều kiện cần đảm bảo bao gồm : Ổn định về chính trị mà sự
lãnh đạo duy nhất của Đảng là điều kiện đảm bảo, luật pháp phải đồng bộ và hiệu lực, phải có hệ thống chính sách hữu hiệu,
công cụ hoạt động hiệu quả, ngăn chặn quan liêu tham nhũng và phải tạo ra một môi trường thị trường tạo hệ thống thúc đẩy
thị trường hình thành, phải xây dựng kết cấu hạ tầng, nâng cao trình độ dân trí.
Việc ban hành Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài (1988) đã có tác dụng mạnh mẽ đối với thu hút đầu tư. Đầu tư trực
tiếp của nước ngoài đã trở thành một nguồn lực quan trọng, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta. Bên
cạnh đó, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (1998) cũng đã có tác động tích cực trong việc huy động nguồn vốn tiềm ẩn,
khả năng quản lý của nhân dân vào phát triển kinh tế xã hội, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của xã hôi
Để khuyến khích đầu tư phát triển, ngoài quan điểm khuyến khích phát triển sản xuất - kinh doanh, nhà nước còn sử
dụng hệ thống các công cụ chính sách, tạo điều kiện và môi trường khuyến khích đầu tư. Việc quản lý kinh tế vĩ mô với hệ
thống luật lệ, thể chế ổn định, kiềm chế lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ giá hợp lý ở mức cho phép, cải cách thủ tục hành chính
là những điều kiện quan trọng khuyến khích các nguồn lực đầu tư phát triển. Bằng hệ thống chính sách công cụ , nhà nước có
thể khuyến khích đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, vùng cần thiết thông qua các công cụ thuế, tín dụng, giá đất đai, tỷ giá,
chính sách bảo hộ có chọn lọc và có thời hạn để phát triển những ngành công nghiệp non trẻ. Bên cạnh hệ thống chính sách
khuyến khích đầu tư, nhà nước còn có cơ chế chính sách bảo đảm đầu tư để tạo niềm tin cho các nhà đầu tư. Đảng ta đã khẳng
định rằng, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là vấn đề chiến lược lâu dài, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế các

loại hình sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho các chủ đầu tư tham gia tự do làm ăn công khai hợp pháp…Đây là những
chính sách quan trọng đã tạo được niềm tin và môi trường thuận lợi cho các chủ đầu tư.
Để khuyến khính nguồn vốn đầu tư trong nước, trong kỳ họp thứ ba ngày 7 tháng 5 năm 1998 của Quốc hội khoá X đã
thông qua Luật khuyến kích đầu tư trong nước có sửa đổi với nội dung thể hiện tinh thần của Nghị quyết TW IV (khoá 8)
nhằm phát huy nội lực để thúc đẩy công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Qua đó đã thể hiện quan điểm nhất quán của
Đảng và Nhà nước trong việc mở rộng các hình thức đầu tư như : BOT, BTO,OT thí điểm việc người nước ngoài tham gia góp
vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp VN, mở rộng nguồn vốn tham gia đầu tư sở hữu trí tuệ, bí quyết kỹ thuật, khuyến khích
đầu tư mở rộng và đầu tư chiều sâu, đầu tư xây dựng dây truyền sản xuất mới, duy chuyển các cơ sỏ sản xuất ra khỏi thành phố
mà trước mắt là các cơ sở gây ô nhiễm, qua việc xây dựng, thành lập các khu chế xuất, khu công nghiệp, đa dạng hoá sản xuất
ngành nghề cả thiện môi trường sinh thái…hành lang pháp lý ổn định qua việc nhà nước ta khẳng định bảo vệ tài sản và vốn
đầu tư hợp pháp không bị quốc hữu quá, không bị tịch thu …bên cạch đó là cách chính sách về hỗ trợ như: hỗ trợ đất đai, mặc
bằng sản xuất doanh nghiệp, chế độ cho vay ưu đãi trung hạn và dài hạn, chế độ bảo hành, tuyển dụng đầu tư, quỹ hỗ trợ xuất
khẩu, quỹ hỗ trợ phát triển khoa học công nghệ nhằm hỗ trợ việc nghiên cứu áp dụng công nghệ mới vào sản xuất.
Để tăng cường phát triển kinh tế, cần phải có vốn. Song vốn đang là thứ nguồn lực khan hiếm, nhất là ở một nước có
thu nhập thấp: như nước ta hiện nay vì vậy cùng với huy động tối đa nguồn vốn trong nước, cần phải huy động các nguồn vốn
bên ngoài. Huy động nguồn vốn bên ngoài có thể thông qua đi vay, vay của các nhà nước và các tổ chức tài chính quốc tế
thông qua hình thức viện trợ phát triển chính thức (ODA) hoặc vay thương mại của tư nhân thông qua phát hành cổ phiếu, trái
phiếu. Việc huy động vốn thông qua đi vay có thể chủ động giúp chúng ta đầu tư vào ngành và lĩnh vực cần thiết, song vấn đề
cần lưu ý ở đây là, vấn đề trả vốn và lãi, các tỷ xuất cho vay thường cao, hoặc vay có các điều kiện kèm theo. Vay thương mại
trong vị thế của nước đang phát triển như Việt Nam thường chịu lãi suất cao. Hiện nay các nguồn vốn vay từ ODA đang chựng
lại, do vậy Đảng và Nhà nước ta đang có những xu hướng khuyến khích vay từ nguồn FDI. Từ những nguồn vốn vay này
nhằm phát triển, mở rộng thị trường, đổi mới công nghệ, có thêm nguồn lực và kinh nghiệm quản lý, nhằm chuẩn bị tốt cho
quá trình hội nhập.
Trong chính sách đầu tư cần quán triệt một số quan điểm cần trong chính sách đầu tư : - Việc hoạch định xét duyệt
dự án đầu tư nhằm hoạt động sử dụng có hiệu quả tìm năng, nguồn lực của nền kinh tế, nhất là tài nguyên và lực lượng lao
động. Phải bảo đảm tính hợp lý trong cơ cấu đầu tư (về quy mô, về tổ chức), tránh dàn trãi vốn, phải thường xuyên quan tâm
và xử lý tốt vốn đầu tư, tránh thất thoát vốn dẫn đến yếu kém trong quản lý vốn thiếu thông tin trình độ quản lý thấp, lợi ích
cục bộ. Hướng ưu tiên tiên đầu tư cần : ưu tiên đầu tư ngành sản xuất vật chất, những ngành sử dụng nguyên liệu và lao động
tạo chổ, ưu tiên đầu tư ngành sử dụng công nghệ cao, sử dụng có sức cạnh tranh, khả năng thu hồi vốn cao.
Trước mắt chú trọng đầu tư cho công nghiệp, hướng vào những ngành phục vụ cho CNH-HĐH nông nghiệp nông

thôn : đầu tư xây dựng phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội , nâng cao trình độ dân trí, tạo nguồn nhân lực. Đầu tư xây
dựng chương trình văn hoá Xh, hình thành những vùng kinh tế trọng điểm, phải huy động tổng hợp lực lượng XH tham gia đầu
tư, nhà nước chuyển đầu tư, những chương trình trọng điểm, đòi hỏi vốn lớn, khuyến khích tạo điều kiện cho tất cả chủ thể
thuộc các thành phần kinh tế tham gia đầu tư.
Mặt khác, để tiếp tục đổi mới chính sách nhằm tạo môi trường đầu tư thuận lợi, hấp dẫn, khuýên kích kinh doanh cần
tập trung vào một số vấn đề sau đây :
Một là, phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách để thu hẹp và đi đến chấm dứt mọi sự phân biệt đối xử không bình
đẳng như hiện nay trong các quan hệ vay vốn tín dụng ngân hàng, miễn giảm thuế, giá thuê đất, giá cước dịch vụ,thuê và tuyển
chọn lao động giữa các thành phần kinh tế, giữa doanh nhà nước với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, giữa doanh nghiệp
trong nước với doanh nghiệp nước ngoài, giữa người trong nước với người nước ngoài. Đi đôi với việc nhanh chóng xoá bỏ sự
phân biệt đối xử không bình đẳng, phải tiếp tục đổi mới chính sách, bảo đảm sự ổn định, công khai minh bạch và tăng cường
sức cạnh tranh lành mạnh. Tiếp tục tăng cường đầu tư của nhà nước và khuyến khích các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư xây
dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội.
22
Hai là, phải đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo qui chế ‘’một cửa’’. Coi trọng việc điều hành vĩ mô của nhà nước
nhằm tiếp tục duy trì được môi trường tài chính tiền tệ, giá cả lạm pháp thị trường ổn định. Từng bước điều chỉnh giá hàng
hoá dịch vụ do nhà nước định giá xuống ngang bằng các nước khu vực, xây dựng cơ chế quản lý, kiểm soát các mặt hàng độc
quyền, cơ chế chống bán phá giá và cơ chế kiểm soát việc chuyển giá nội bộ trong doanh nghiệp để đảm bảo môi trường kinh
doanh lành mạnh mẽ theo chiều hướng đổi mới mang tính cách mạng trong nhận thức, tư duy, cách làm việc của hệ thống các
cơ quan công quyền, của đội ngũ cán bộ, công chức, các chủ doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế của từng người có sức
lao động có tiền tiết kiệm có vốn ,tài sản …
Ba là đa dạng hoá các kênh và hình thức động viên nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội, tập trung tăng tỷ lệ
động viên từ các nguồn thu, thúc đẩy cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Đối với khu vực kinh tế tập thể, cần nhanh
chóng xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử. Coi trọng hỗ trợ về tài chính để đầu tư giống mới ,chuyển giao các kỷ thuật khuyến
nông khuyến lâm, khuyến ngư, đào tạo cán bộ quản lý, hỗ trợ xuất khẩu, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng (thuỷ sản, làng nghề,
chợ đầu mối). Đối với khu vực kinh tế tư nhân, rà soát xoá bỏ mọi phân biệt đối xử trong các quan hệ tài chính, tín dụng, giá
thuê đất, đơn giản hoá thủ tục hành chính trong thành lập doanh nghiệp. Nhà nước tạo môi trường thuận lợi để thành phần kinh
tế này phát huy cao độ các nguồn lực trong nhân dân để đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh ở mọi ngành nghề mà pháp luật
không cấm .Sớm nghiên cứu ban hành cơ chế tài chính đối vối doanh nghiệp dân doanh. Đối với khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài : tiếp tục hoàn thiện mô trường đầu tư thông thoáng, minh bạch và ổn định chính sách. Mở rộng các hình thức thu

hút nhà đầu tư nước ngoài đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng, bất động sản dưới các hính thức
BT,BOT…Tăng cường thu hút vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài, xúc tiến tổ chức phát hành trái phiếu chính phủ ra thị
trường vốn quốc tế để tạo điều kiện phát hành trái phiếu công ty, tíchcực tham gia thị trường trái phiếu châu Á, tạo môi trường
thuận lợi cho các quỹ đầu tư nước ngoài vào hoạt động tại Việt Mam. Mở rộng giới hạn mức đầu tư của tổ chức, cá nhân nước
ngoài tham gia vào quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp trong
nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài về thuế giá thuê đất giá cước dịch vụ ,điện nước …Tiếp tục có biện pháp đẩy
mạnh xúc tiến vay vốn ODA để đẩy nhanh hơn và chấm dứt việc giải ngân vốn này chậm như hiện nay (đạt 50%tổng số vốn đã
ký kết),chuẩn bị đủ vốn đối ứng ,chuẩn bị tốt các dự án đầu tư ,nâng cao hiệu quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn.
Cuối cùng, nhằm để nâng cao khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả việc đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, khả năng huy
động phải đặt trong mối tương quan trong việc sử dụng nguồn vốn trong nước và nguồn vốn đi vay, phải cải thiện môi trường
đầu tư đi đôi với các biện pháp khuếch trương đầu tư thông qua các ưu đãi về đầu tư. Bên cạnh đó chúng ta phải có hướng bồi
dưỡng nâng cao năng lực ở phía Việt Nam trong các xí nghiệp liên doanh và năng lực quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, đào tạo và bố trí cán bộ có năng lực phẩm chất vào các vị trí chủ chốt trong các xí nghiệp liên doanh
Tóm lại, chính sách kinh tế là một loại quyết định quản lý mà tầm ảnh hưởng của nó rất rộng lớn và quyết định rất lớn
đến tốc độ phát triển kinh tế của một quốc gia. Việc đề ra những chính sách phù hợp sẽ làm khơi dậy những tiềm năng mới, tạo
động lực thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển kinh tế và ngược lại, nếu chính sách không phù hợp thì nền kinh tế sẽ phải trả giá
bằng sự đình trệ, thậm chí là khủng hoảng nghiêm trọng. Vì vậy, việc ban hành chính sách kinh tế phải được thực hiện xem xét
một cách toàn diện và phải được đưa ra từ những nhà quản lý có trình độ năng lực giỏi
Câu 4. Trình bày vai trò của chính sách tài chính, tiền tệ phù hợp yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường ?
Bài làm
Trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta, vai trò của các chính sách kinh tế có ý nghĩa rất
lớn trong việc đảm bảo xây dựng thành công một nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững và theo đúng định hướng
XHCN bởi một chính sách đúng đắn, phù hợp sẽ khơi dậy những tiềm năng và kích thích sự phát triển. Vậy chính sách
kinh tế là gì ? vai trò của các chính sách kinh tế đến quá trình hoạt động và phát triển của nền kinh tế quốc dân ? Bằng
kiến thức quản lý kinh tế, chúng ta hãy phân tích làm rõ vấn đề trên
Chính sách kinh tế là một hệ thống các quan điểm, mục tiêu phương thức công cụ mà chủ thể quản lý sử dụng tác
động lên hành vi của chủ thể và đối tượng nhằm thực hiện những nội dung quản lý kinh tế hướng đến những mục tiêu
đã xác định. Nói cách khác, chính sách kinh tế đó là những giải pháp mà nhà nước sử dụng để xử lý và giải quyết các
nội dung kinh tế lớn trong quá trình hoạt động và phát triển của nền kinh tế quốc dân. Trong hoạt động quản lý kinh tế,
chính sách kinh tế có những vai trò như sau : một là định hướng cho hoạt động kinh tế xã hội của đất nước; hai là tổ

chức để xử lý, giải quyết các vấn đề kinh tế lớn mang tầm vĩ mô của kinh tế như: các chính sách đầu tư, chính sách
thương mại, chính sách tài chính - tiền tệ; ba là hỗ trợ để phát triển các mục tiêu kinh tế đã được xác định. Như vậy,
chính sách kinh tế có giá trị như là những quyết định trong dài hạn của nhà nước nhằm tổ chức quá trình phát triển của
nền kinh tế quốc dân theo mục tiêu định hướng. Từ những cơ sở trên ta có thể nói chính sách kinh tế là những quyết
định kinh tế ở tầm vĩ mô do nhà nước đưa ra nhằm thực hiện các chương trình, kế hoạch trong một thời gian dài theo
mục tiêu đã xác định.
Mục tiêu của kinh tế vĩ mô thường dựa trên các dấu hiệu chủ yếu như : ổn định, tăng trưởng và công bằng xã hội. Để
đạt được mục tiêu kinh tế vĩ mô nêu trên, Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ chính sách khác nhau. Mỗi chính
sách phải có những công cụ riêng biệt. Chính sách bao gồm nhiều lĩnh vực của kinh tế xã hội : tài chính - tiền tệ, giá cả,
đầu tư, thương mại Trong nền kinh tế thị trường, chính sách tài chính - tiền tệ giữ vai trò trung tâm
Chính sách tài chính là tổng thể các quan điểm, giải pháp mà nhà nước sử dụng để tạo nguồn vốn, điều động, phân
phối và sử dụng cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Về bản chất, chính sách tài chính quốc gia là chính sách huy
động các nguồn lực xã hội dưới hình thái giá trị để thực hiện một cách có hiệu quả những nhiệm vụ của đất nước. Chính
sách đó phải nhằm hướng tới mục tiêu tăng trưởng, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân
23
4-1
dân, giữ vững độc lập tổ quốc, an ninh quốc gia, trật tự xã hội, bảo đảm sự công bằng xã hội, kìm chế lạm phát thất
nghiệp và hội nhập với thế giới.
Chính sách tài chính của mỗi quốc gia khác nhau nhưng nhìn chung phải đáp ứng những yêu cầu như sau : một là
để thực hiện mục tiêu của chính sách tài chính cần thường xuyên đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính phù
hợp với quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, hai là tăng khả năng và tốc độ vốn (thông qua các biện pháp khuyến
khích đầu tư, bảo vệ quyền lợi của chủ đầu tư và tạo môi trường đầu tư hấp dẫn ), ba là thực hiện các điều chỉnh và
cân đối lớn giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa tích tụ vốn và tập trung vốn, bốn là nhà nước quản lý nền tài chính một cách
thống nhất bằng hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo lợi ích của các chủ thể kinh tế trong một môi pháp lý kinh tế lành
mạnh và công bằng.
Về nội dung, chính sách tài chính bao gồm chính sách về vốn, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp, chính sách
dịch vụ ngân sách nhà nước, Chính sách tài chính đối ngoại, chính sách tài chính hộ gia đình Các chính sách tài chính
nới lỏng và thắt chặt
Chính sách về vốn là chính sách sử dụng các công cụ tài chính vào việc khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn
vốn và mọi tiềm năng về vốn trong nước và từ nước ngoài để phục vụ cho đầu tư và phát triển kinh tế. Nội dung chính

sách về vốn phải phù hợp và được sử dụng đa dạng với các hình thức huy động vốn, nhất là hình thức trái phiếu, cổ
phiếu ở cấp nhà nước, địa phương và doanh nghiệp; phát triển các tổ chức tài chính trung gian như : hệ thống các công
ty tài chính, các công ty bảo hiểm quỹ đầu tư, quỹ phát triển,quỹ bảo trợ,quỹ bảo hiểm,công trái quốc gia nhằm giải tỏa
nguồn vốn ứ đọng hoặc vốn "chết" trong dân cư và các doanh nghiệp. Hiện nay chính sách về vốn của ta còn nhiều bất
cập : cơ cấu phân bổ nguồn vốn còn chưa hợp lý : dàn trãi, chưa tính đến hiệu quả sử dụng vốn, phân bổ nguồn vốn vay
Nhà nước mang tính hành chính sangchưa khơi dậy và huy động hết nhiều nguồn vốn và tiềm năng về vốn. Việc tiến
hành đổi mới và hoàn thiện cơ cấu phân bổ các nguồn vốn trong nền kinh tế quốc dân đòi hỏi : một là có các chính sách
ưu đãi về đầu tư, thuế để các nguồn vốn tập trung vào những khu vực có lợi thế tự nhiên chưa được "đánh thức", vào
các ngành kinh tế mũi nhọn; hai là sử dụng vốn ngân sách để hỗ trợ cho các khu vực, các ngành cần phát triển nhưng
không thu hút được các nguồn vốn trong xã hội; ba là thực hiện nguyên tắc tự chủ tài chính trong các doanh nghiệp để
tiến hành phân phối vốn theo cơ chế hợp lý nhất, bốn là sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn vốn và các nguồn
lực phát triển trong nền kinh tế quốc dân
Chính sách tài chính đối với doanh nghiệp là sử dụng các công cụ tài chính nhằm kích thích hoạt động kinh doanh
có hiệu quả của các thành phần kinh tế, làm cho nguồn vốn chu chuyển nhanh và linh hoạt, từ đó tạo cơ sở để nhà nước
có khả năng kiểm soát được nền kinh tế tài chính quốc gia. Hiện nay chính sách tài chính doanh nghiệp còn chưa chặt
chẽ, hợp lý : đã có nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động không hiệu quả nhưng vẫn được nhà nước nâng đỡ cho tồn
tại, thậm chí còn xoá nợ hoặc tiếp tục cho hưởng nhiều hình thức bao cấp; trên thực tế, trách nhiệm trước việc sử dụng
vốn vay là thuộc về doanh nghiệp, nhưng bằng nhiều cách, nhiều thủ thuật lại chuyển giao cho nhà nước chịu trách
nhiệm. Trong môi trường ấy, động lực cho sự phát triển chẳng những không được nhân lên mà thậm chí còn có thể bị
triệt tiêu. Vì vậy, đổi mới chính sách tài chính doanh nghiệp là rất cần thiết trong đó cần tập trung vào một số vấn đề
như : nghiên cứu áp dụng cơ chế chủ động tạo vốn để đổi mới nhanh công nghệ của các doanh nghiệp nhà nước kinh
doanh có hiệu quả. hoàn chỉnh các chính sách tài chính đối với trước, trong và sau khi thực hiện cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước, bổ sung phương pháp định giá doanh nghiệp, nghiên cứu ban hành chính sách tài chính áp dụng cho
mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước ‘’công ty mẹ - công ty con ‘’công ty đầu tư tài chính nhà nước, cơ chế tài chính đối
với hoạt động và sản phẩm công ích, nghiên cứu sớm ban hành luật sử dụng vốn nhà nước vào sản xuất kinh doanh
Chính sách dịch vụ ngân sách nhà nước là chính sách động viên hợp lý các nguồn tài chính vào quỹ ngân sách
nhà nước để đảm bảo ổn đinh và bền vững các nguồn thu của. quỹ ngân sách nhà nước trên cơ sở thu không làm suy
yếu đối tượng nộp ngân sách mà ngược lại, tạo điều kiện các ngân sách nhà nước có đủ điêu kiện tài chính để liếp tục
phát triền. Điều chỉnh cơ cấu chi ngân sách của nhà nước cho các mục đích kinh tế và xã hội trong nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần. Hiện nay, so với nhu cầu vốn cần cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội thực hiện nhiệm vụ CNH-HĐH

là rất lớn, vì vậy ngoài việc sử dụng các công cụ tạo lập vốn truyền thống, cần nghiên cứu đa dạng hóa công cụ thu hút
các nguồn lực theo cơ chế thị trường cùng với việc đổi mới mạnh mẽ trong tư duy và phương thức tạo vốn kinh doanh,
chấm dứt tư tưởng ỷ lại vào ngân sách nhà nước, thường xuyên quan tâm xử lý tốt vốn đầu tư, tránh thất thoát vốn, tăng
cường quản lý nợ chính phủ
Chính sách tài chính đối ngoại là chính sách mở rộng các quan hệ tài chính giữa trong nước và ngoài nước, sử
dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư bên ngoài để phát triển kinh tế và cải thiện các điều kiện xã hội, đẩy nhanh xuất
khẩu hàng hóa đã chế biến, hạn chế xuất kháu sản phẩm thô và nguyên liệu; khuyến khích nhập khẩu các thiết bị, công
nghệ hiện đại, kỹ thuật cao; hoàn thiện các chính sách về đầu tư nước ngoài. đơn giản hóa các thủ tục hành chính; nâng
cấp cơ sở hạ tầng nhằm tạo sức hấp dẫn nguồn vốn đầu tư nước ngoài và tăng cường liềm lực tài chính, định hướng và
sử dụng có hiệu quả các khoản vốn vay từ nước ngoài. Tăng cường hoạt động ngoại giao, mở rộng các quan hệ kinh tế
đối ngoại
Chính sách tài chính hộ gia đình là sử dụng công cụ tài chính nhằm đảm bảo thu nhập hợp cho người lao động và
huy động nguồn vốn trong dân cho đầu tư phát triển .
Các chính sách tài chính nới lỏng và thắt chặt : Chính sách nới lỏng là chính sách thông qua hoạt động thu chi tài
chính để làm tăng và kích thích tổng cầu xã hội (khi tổng cầu nền kinh tế thấp, biện pháp của chính sách tài chính nới
lỏng là giảm thuế và tăng chi tài chính nhằm kích thích mở rộng tổng cầu xã hội). Chính sách tài chính thắt chặt là chính
sách thông qua thu chi tài chính để giảm bớt và hạn chế tổng cầu (khi tổng cầu trong nền kinh tế quá lớn, áp dụng biện
pháp tăng thu thuế và giảm chi tài chính sẽ góp phần giảm cầu, đạt được sự cân đối trong cung cầu, từ đó giảm áp lực
lạm phát)
Ngày nay với sự phát triển của kinh tế hàng hoá, đồng tiền chiếm vị trí quan trọng trong tất cả các lĩnh vực kinh tế.
Do đó cùng với chính sách tài chính, chính sách tiền tệ là một công cụ không thể thiếu được trong điều tiết vĩ mô nền
24
4-2
4-3
4-4
kinh tế. Chính sách tiền tệ là hệ thống các quan điểm, các chủ trương và biện pháp của nhà nước nhằm tác động và
điều chỉnh các hoạt động về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng và ngoại hối, tạo ra sự ổn định của nền kinh tế thị trường để
thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển. Ở một mức độ nào đó thì chính sách tiền tệ là một bộ phận của chính sách tài
chính quốc gia và chính sách phát triển kinh tế. Về mặt định lượng chính sách tiền tệ cần phải phản ánh khối lượng tiền
cung ứng tăng thêm (hay giảm bớt) trong một khoảng thời gian nhất định, bao gồm tiền mặt và tiền chuyển khoản (tiền

ghi số).
Chính sách tiền tệ gồm ba bộ phận chính : chính sách cung ứng và điều phối tiền; chính sách tín dụng và chính
sách ngoại hối, trong đó chính sách cung ứng và điều hoà khối tiền là bộ phận quan trong nhất của chính sách tiền tệ.
Chính sách này nhằm duy trì một sự cân đối giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ trong nền kinh tế, đảm bảo cho nền kinh
tế vừa tránh được lạm phát nặng nề, vừa đảm bảo cung cấp đủ phương tiện cho nền kinh tế, nhờ đó mà thúc đẩy nền
kinh tế phát triển. Cung ứng và điều hoà khối tiền được thực hiện theo các nhu cầu đối ứng, tức là đi từ gốc theo 3 kênh
tạo tiền : tín dụng tăng cho nền kinh tế; tạm ứng cho ngân sách; mua vàng và ngoại tệ. Chính sách cung ứng và điều
hoà khối tiền được thực hiện một cách tốt nhất trên cơ sở quan sát các tín hiệu của thị trường như: chỉ số giá cả hàng
hoá thiết yếu, giá vàng và tỉ giá hối đoái. Những tín hiệu trên có biến động hay tăng giảm đều kéo theo một sự thay đổi
về nhu cầu tiền tệ tăng giảm tương ứng. Vì vậy, ta có thể dựa vào đó để cung ứng và điều hoà khối tiền.
Mục tiêu và phương pháp sử dụng các công cụ để thỏa mãn mục tiêu là nội dung việc soạn thảo chính sách tiền tệ
của ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương là một cấp trong hệ thống ngân hàng hai cấp của Việt Nam. Hệ thống
ngân hàng có đặc điểm : phân định rõ ràng chức năng quản lý nhà nước của ngân hàng trung ương với chức năng tác
nghiệp kinh doanh của ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín
dụng khác hoạt động với tư cách là những doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng và dịch vụ nhằm thu
lợi nhuận một cách chính đáng, góp phần thúc đẩy các hoạt động sản xuất - kinh doanh cùng phát triển. Hoạt động của
ngân hàng trung ương là những hoạt động quản lý ở tầm vĩ mô không nhằm mục đích lợi nhuận mà nhằm mục đích ổn
định tiền tệ, ổn định giá cả thị trường, ngoại hối để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vì vậy, nó được phép sử dụng những
công cụ quản lý vĩ mô quan trọng, phù hợp với luật pháp để thực hiện nhiệm vụ của mình.
Mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định giá cả, ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định và thúc
đẩy sự tăng trưởng; giảm tỷ lệ thất nghiệp, ổn định trật tự xã hội. Các mục tiêu trên đây tuỳ theo đặc điểm kinh tế xã hội
của mỗi thời kỳ cụ thể mà cần phải xác định mục tiêu chủ yếu, thứ yếu và thậm chí còn gạt bỏ một vài mục tiêu nào đó. .
Chính sách tiền tiền tệ được thực thi bằng những công cụ như : dự trữ bắt buộc, lãi suất, thị trường mở, ấn định hạn
mức tín dụng và điều chỉnh tỷ giá hối đoái, thanh tra và kiểm soát hoạt động ngân hàng trong nước. Dự trữ bắt buộc :
Tất cả ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng đều bắt buộc phải duy trì một mức "dự trữ tối thiểu bắt buộc" tính theo
tỷ lệ. phần trăm trên nguồn vốn huy động. Dự trữ bắt buộc lăng làm nguồn vốn cho vay của ngân hàng thương mại giảm,
từ đó lượng cung tiền giảm. Lãi suất : Về nguyên tắc, lãi suất huy động phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát, lãi suất cho vay
bình quân phải lớn hơn lãi suất huy động bình quân, lãi suất dài hạn phải lớn hơn lãi suất ngắn hạn. Sử dụng công cụ lãi
suất tín dụng để thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương có thể: ấn định lãi suất hoặc thả nổi lãi suất. . . .Tuy
nhiên, ngân hàng trung ương vẫn có thể tác động gián tiếp đến lãi suất tín dụng bằng lãi suất tái chiết khấu. Lãi suất tái

chiết khấu là lãi suất do ngân hàng trung ương áp dụng cho các ngân hàng thương mại với tư cách là người cung cấp tín
dụng qua nghiệp vụ tái chiết khấu, các thương phiếu hoặc các chứng từ có giá trị khác. Lãi suất tái chiết khấu tăng (hoặc
giảm) sẽ làm giảm hoặc tăng nguồn vốn cho vay của các ngân hàng thương mại. Thị trường mở : Thị trường mở là nơi
ngân hàng trung ương phát hành tiền hoặc thu hẹp khối tiền của nền kinh tế thông qua việc mua hoặc bán các trái phiếu
ngắn hạn. Ấn định hạn mức tín dụng Ngân hàng trung ương sẽ phân bố "hạn mức tín dụng" cho mỗi ngân hàng
thương mại trên cơ sở dư nợ tín dựng và vốn tự có của mỗi ngân hàng. Khi ngân hàng trung ương tăng hay giảm hạn
mức nói trên thì khối lượng tín đựng của nền kinh tế tăng hay giảm theo. Điều chỉnh tỷ giá hối đoái : Biện pháp này
được áp dựng trong trường hợp tỷ giá thực tế trên thị trường biến động với biên độ lớn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
tình hình kinh tế - xã hội. Các biện pháp điều chỉnh gồm: thay đổi lãi suất, can thiệp ngoại hối, nâng giá hoặc phá giá
tiền trong nước . . .
Như đã trình bày ở trên, chính sách tiền tệ cần phản ánh khối lượng cung ứng tăng thêm (hay giảm bớt) trong một
khoảng thời gian nhất định bao gồm tiền mặt và tiền chuyển khoản (tiền ghi sổ). Tuỳ theo nội dung của chính sách tiền tệ
là tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế mà ta có các chính sách tiền tệ mở rộng và chính sách
tiền tệ thắt chặt. Thời gian qua, trong quá trình quản lý kinh tế cho thấy khi thực hiện chính sách tiền tệ cần chú ý những
vấn đề sau : Cho phép tỷ giá hối đoái danh nghĩa thay đổi khiến tỷ giá hối đoái thực ổn định, duy trì các mức dự trữ
ngoại hối hoặc các mức tín dụng dự phòng đầy đủ, đánh thuế vào các dòng vốn ngắn hạn đổ vào hoặc kiểm soát việc
vay mượn của các ngân hàng nước ngoài, áp dụng giám sát chặt chẽ các ngân hàng và các công ty tài chính, cải thiện
tính minh bạch cũng như hệ thống kế toán của tư nhân và nhà nước, cải thiện việc quản trị Công ty và Luật phá sản,
phát triển và gia tăng thị trường cổ phiếu và trái phiếu nội địa áp dụng hệ thống chế độ lương hưu tự cấp vốn, cố gắng
thu hút các nguồn vốn FDI và dài hạn, ngăn chặn tình trạng quá nóng của nền kinh tế bằng các chính sách tài chính và
tiền tệ, tăng cường tính cạnh tranh của các ngân hàng.
Để góp phần thúc đẩy công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá trình chủ động hội nhập khu vực và quốc tế
của nước ta, chính sách tài chính - tiền tệ cần được tiếp tục đổi mới theo các hướng sau:
Một là tạo lập môi trường tài chính lành mạnh, thông thoáng kết hợp chặt chẽ kế hoạch hoá với các chính sách kinh
tế, tài chính để định hướng và khuyến khích nhằm giải phóng và phát triển các nguồn lực tài chính và tiềm năng sản xuất
của doanh nghiệp, của các tầng lớp dân cư. Đa dạng hoá các công cụ và các hình thức tổ chức tài chính, tiền tệ phi
ngân hàng và các quỹ đầu tư nhằm động viên cho các nguồn lựcphát triển kinh tế.
Hai là thực hiện nguyên tắc công bằng, hiệu quả trong chính sách phân phối và phân phối lại các nguồn thu nhập
trong xã hội.
Ba là cải thiện quản lý doanh nghiệp và luật phá sản.

25
4-5
4-6

×