Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh tại công ty cổ phần may Bình Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.54 KB, 43 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đặng Thị Thanh Loan

Từ khi gia nhập WTO, nước ta đã hòa nhập vào nền kinh tế thế giới, vận
động theo nó. Gia nhập WTO đem lại nhiều cơ hội cũng như cho cả nền kinh tế nói
chung và các doanh nghiệp trong nước nói riêng. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay,
kinh tế thế giới diễn biến một cách phức tạp: lạm phát, khủng hoảng, suy thoái…
thêm vào đó là sự phát triển không ngừng của khoa học –công nghệ đã ảnh hưởng
sâu sắc đến hoạt động của các doanh nghiệp, làm cho cuộc cạnh tranh để tồn tại ngày
càng gay gắt, quyết liệt hơn không chỉ giữa các doanh nghiệp trong nước mà còn có
sự tham gia của doanh nghiệp nước ngoài . Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp
phải không ngừng hoàn thiện bản thân để nâng cao chất lượng, đa dạng hóa chủng
loại để đem lại nhiều sự lựa chọn và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Điều
này góp phần quan trọng vào việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
trên thị trường. Cạnh tranh để tồn tại và phát triển đây là quy luật đào thải tồn tại một
cách tất yếu của nền kinh tế thị trường. Để chạy theo được quy luật này, nhà quản trị
của công ty thường xuyên đi sâu nghiên cứu và phân tích các hoạt động sản xuất
kinh doanh theo chiều rộng và theo chiều sâu để có thể tìm ra các giải pháp cụ thể
nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Dựa trên thực tiễn và qua
thời gian thực tập tại công ty cổ phần May Bình Định, em đã chọn đề tài “ giải pháp
nâng cao khả năng cạnh tranh tại công ty cổ phần may Bình Định” làm đề tài cho
bài báo cáo thực tập tốt nghiệp của em.
Nội dung đề tài gồm ba phần:
Chương I : Cơ sở lý luận về cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Chương II : Phân tích thực trạng về khả năng cạnh tranh của công ty cổ
phần May Bình Định.
Chương III: Phương hướng và giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh
tại công ty cổ phần May Bình Định.
Trong thời gian thực tập được sự giúp đỡ tận của cô giáo hướng dẫn
Th.S Đặng Thị Thanh Loan, cùng với sự giúp đỡ tận tình của các chú, anh, chị
SVTH: Huỳnh Thị Kim Đài Trang:1


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đặng Thị Thanh Loan
trong công ty cổ phần May Bình Định đã giúp em hoàn thành bài báo cáo này. Do
thời gian còn hạn chế về kiến thức và thời gian nên không tránh khỏi những sai sót,
rất mong được sự chỉ bảo và góp ý của cô giáo và các anh chị để giúp em hiểu rõ
thêm vấn đề đã nghiên cứu.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Huỳnh Thị Kim Đài
SVTH: Huỳnh Thị Kim Đài Trang:2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đặng Thị Thanh Loan
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH
CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN MAY BÌNH ĐỊNH
I. Cơ sở lý luận cơ bản về cạnh tranh và tăng cạnh tranh
1.1 Một số vấn đề về cạnh tranh
1.1.1 Khái niệm :
Bất kỳ một DN nào tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh một loại hàng
hóa nào đó trên thị trường đều phải chấp nhận sự cạnh tranh. Đây là điều tất yếu và
cơ bản nhất của nền kinh tế thị trường.
Khái niệm cạnh tranh được nhiều tác giả trình bày dưới nhiều hình góc độ
khác nhau qua các giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế xã hội. Như sau:
- Theo Mac: “ cạnh tranh là sự phấn đấu ganh đua gay gắt giữa các nhà tư
bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và trong tiêu thụ để đạt
dược những lợi nhuận siêu ngạch”
- Theo kinh tế chính trị học: “Cạnh tranh là sự thôn tính lẫn nhau giữa các
đối thủ nhằm giành lấy thị trường, khách hàng cho DN mình”
- Còn theo cuốn từ điển kinh doanh( xuất bản 1992 ở Anh) cạnh tranh trong
cơ chế thị trường được định nghĩa là: “sự ganh đua, sự kình định giữa các nhà kinh
doanh nhằm tranh giành tài nguyên sản xuất cùng một loại về phía mình”
Để hiểu một cách khái quát nhất ta có khái niệm như sau: trong nền kinh tế
thị trường cạnh tranh được hiểu là sự ganh đua giữa các DN trên thị trường nằm

giành được ưu thế hơn về cùng một loại sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ, về cùng
một loại khách hàng so với các ĐTCT.
Từ khi nước ta thực hiện đường lối mở cửa nền kinh tế, từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước
theo định hướng XHCN thì vấn đề cạnh tranh bắt đầu xuất hiện vào từng bước đi của
DN. Môi trường hoạt động kinh doanh của DN lúc này đầy biến động và vấn đề cạnh
tranh trở nên cấp bách, có thể nói cạnh tranh đã hình thành và bao trùm lên mọi lĩnh
vực của đời sống, từ tầm vi mô đến vĩ mô, từ một cá nhân đơn lẻ đến tổng thể toàn
xã hội. Cạnh tranh vốn là một quy luật tự nhiênvà khách quan của nền kinh tế thị
trường, nó không phụ thuộc và ý muốn chủ quan của mỗi người, bởi tự do là nguồn
SVTH: Huỳnh Thị Kim Đài Trang:3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đặng Thị Thanh Loan
gốc của cạnh tranh, cạnh tranh là động lực thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa
phát triển.Bởi vậy, để giành được các điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm buộc các DN phải thường xuyên đổi mới, tích cực nhạy bén và năng động,
phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ mới, bổ xung xây
dựng các cơ sở hạ tầng, mua sắm thêm trang thiết bị máy móc, loại bỏ những máy
móc đã cũ kỹ lạc hậu và điều quan trọng là phải có phương pháp tôr chức quản lý có
hiệu quả, đào tạo và đãi ngộ trình độ chuyên môn, tay nghề cho người lao động.
Cạnh tranh không chỉ kích thích tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất mà
còn cải tiến mẫu mã, chủng loại hàng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm và chất
lượng dịch vụ làm cho sản xuất ngày càng gắn liền với tiêu dùng, pục vụ nhu cầu xã
hội đươc tốt hơn. Bên cạnh mặt tích cực cạnh tranh còn để lại nhiều hạn chế và tiêu
cực: đó là sự phân hóa sản xuất hàng hóa, làm pha sản những DN kinh doanh gặp
khó khăn khi thiếu vốn, cơ sở hạ tầng hạn hẹp, trình độ công nghệ thấp và có thể làm
cho DN phá sản khi gặp những rủi ro do khách quan mang lại như thiên tai, hỏa
hoạn… hoặc rơi vào những hoàn cảnh điều kiện không thuận lợi, thậm chí là việc
mất đạo đức trong kinh doanh của các DN.
Như vậy cạnh tranh được hiểu và được khái quát một cách chung nhất là
cuộc ganh đua gay gắt giữa các chủ thể đang hoạt động trên thị trường với nhau,

kinh doanh cùng một loại sản phẩm hoặc những sản phẩm tương tự thay thế lẫn nhau
nhằm chiếm lĩnh thị phần, tăng doanh số và lợi nhuận. Các DN thương mại cần nhận
thức đúng đắn về cạnh tranh để một mặt chấp nhận cạnh tranh theo khía cạnh tích
cực để từ đó phát huy yếu tố nội lực nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, mặt
khác tránh tình trạng cạnh tranh bất hợp lý đãn đến làm tổn hại lợi ích cộng đồng
cũng như làm suy yếu chính mình.
DN thương mại mang tính đặc thù phải chịu sự cạnh tranh quết liệt hơn so
với các loại hình DN khác.
1.1.2 Vai trò và chức năng của cạnh tranh:
 Vai trò:
- Đối với nền kinh tế quốc dân: cạnh tranh không chỉ là môi trường và động
lực thúc đẩy sự phát triển nói chung, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tăng năng suất
lao động mà còn là yếu tố quan trọng làm lành mạnh hóa quan hóa xã hội, cạnh tranh
SVTH: Huỳnh Thị Kim Đài Trang:4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đặng Thị Thanh Loan
còn là điều kiện giáo dục tính năng động của các DN. Bên cạnh đó cạnh tranh góp
phần gợi mở những nhu cầu mới của xã hội thông qua sự xuất hiện của những sản
phẩm mới.Điều đó chứng tỏ đời sống con người ngày càng được nâng cao về chính
trị, văn hóa kinh tế và văn hóa. Cạnh tranh đảm bảo sự thúc đẩy sự phát triển của
khoa học kỹ thuật, sự phân công xã hội ngày càng phát triển sâu và rộng. Tuy nhiên
bên cạnh những lợi ích to lớn mà cạnh tranh đem lại thì nó thì nó vẫn mang lại
những mặt hạn chế như: cạnh tranh không lành mạnh tạo sự phân hóa giàu
nghèo,làm ăn vi phạm pháp luật như trốn thuế, mất đạo đức trong kinh doanh…
- Đối với DN: bất kỳ một DN nào cũng vậy khi tham gia và nền kinh tế thị
trường đều muốn DN mình tồn tại và đứng vững. Để tồn tại và đứng vững các DN
phải có những chiến lược cạnh tranh cụ thể và lâu dài mang tính chiến lược ở tầm vi
mô và vĩ mô. Họ cạnh tranh để giành những lợi thế về mình, cạnh tranh để giành giật
khách hàng, làm cho khách hàng tự tin rằng sản phẩm của DN mình là tốt nhất, phù
hợp với thị hiếu, nhu cầu người tiêu dùng nhất. DN nào đáp ứng nhu cầu của khách
hàng, kịp thời, nhanh chóng và đầy đủ các sản phẩm cũng như dịch vụ kem theo với

mức giá phù hợp thì DN đó mới đủ tồn tại và phát triển. Do vậy cạnh tranh là rất
quan trọng và cần thiết.
- Đối với ngành: hiện nay đối với nền kinh tế nói chung và ngành dệt may
nói riêng, cạnh tranh đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất lượng
sản phẩm. Cạnh trạnh bình đẳng và lành mạnhsẽ tạo tiền đề rất tốt cho mọi ngành
nghề, nhất là đối với ngành may mặc- một trong những ngành nghề chủ đạo góp
phần làm tăng GDP trong nền kinh tế quốc dân. Cạnh tranh sễ tạo điêu kiện cho
nghành phát triển trên cơ sở khai thác lợi tthế của ngành đó có thể thu hút nguồn lao
động đồi dào và khai thác tối đa nguồn lực đó.
- Đối với sản phẩm: nhờ có cạnh tranh mà các sản phẩm mà hầu hết các sản
phẩm không những được nâng cao về số lượng mà cả về chất lượng, mầu mã và
phong phú về chủng loại. Đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng và
mang lại thu nhập ngày càng cao cho DN. Các mặt hàng sản xuất ra không chỉ đáp
ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài.
- Đối với người tiêu dùng: cạnh tranh tạo ra sự lựa chọn rộng rãi hơn, bảo
đảm cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng không thể áp đặt giá cả tuỳ tiện. Với khía
SVTH: Huỳnh Thị Kim Đài Trang:5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đặng Thị Thanh Loan
cạnh đó, cạnh tranh là yếu tố điều tiết thị trường, quan hệ cung cầu, góp phần hạn
chế sự trôi nổi về giá cả và lành mạnh hoá các mối quan hệ xã hội.
 Chức năng:
- Cạnh tranh có thể mang lại lợi ích cho người này và gây thiệt hại cho
người khác, nhưng nếu xét dưới góc độ toàn xã hội, cạnh tranh luôn có tác dụng tích
cực, nó đem lại phúc lợi cho toàn xã hội. Đối với nền kinh tế, cạnh tranh đảm nhận
một số chức năng quan trọng sau:
- Cạnh tranh đảm bảo điều chỉnh giữa cung và cầu. Cạnh tranh hướng việc
sử dụng các nhân tố sản xuất vào những nơi có hiệu quả nhất.
- Cạnh tranh tạo ra môi trường thuận lợi để sản xuất thích ứng với sự biến
động của cầu và công nghệ sản xuất.
- Cạnh tranh có tác động một cách tích cực đến phân phối thu nhập: cạnh

tranh sẽ hạn chế hành vi bóc lột trên cơ sở quyền lực thị trường và việc hình thành
thu nhập không tương ứng với năng suất.
- Cạnh tranh là động lực thúc đẩy cho sự cải tiến, đổi mới.
Tầm quan trọng này có thể thay đổi theo từng thời kỳ, từng ngành, từng
quốc gia và từng khu vực khác nhau trên thế giới. Và tuỳ theo việc đánh giá mà
người ta xây dựng những mô hình chính sách cạnh tranh khác nhau. Chính vì vậy
mỗi khu vực địa lý, mỗi quốc gia, mỗi DN đều phải có các chính sách cạnh tranh
riêng nếu tuỳ tiện áp dụng các chính sách cạnh tranh không có chọn lọc của nhau sẽ
gây ra hậu quả tai hại và không thu được kết quả.
• Tóm lại:
Mục tiêu duy nhất mà tất cả các DN sản xuất kinh doanh thương mại và
dịch vụ luôn hướng tới là lợi nhuận tối đa vì đó là thu nhập hiện tại của DN và là tiền
đề để DN mở rộng quy mô và phát triển sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra các thu
nhập tương lai. Mà trên thị trường có rất nhiều DN cùng kinh doanh một loại hàng
hoá, nên hầu như bất kỳ DN nào cũng phải chịu sức ép cạnh tranh vì lợi ích về vật
chất giữa các DN. Vì vậy cần phải có sự cạnh tranh lành mạnh để phát triển lực
lượng sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật và cũng là điều kiện để phát triển
tính tháo vác, năng động, nhạy bén và sáng tạo của các DN.
1.1.3 Các hình thức cạnh tranh:
SVTH: Huỳnh Thị Kim Đài Trang:6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đặng Thị Thanh Loan
Cạnh tranh trên thị trường được diễn ra muôn màu muôn vẽ. Do vậy để
phân loại cạnh tranh người ta có thể căn cứ vào một số tiêu chí:
 Căn cứ vào chủ thể tham gia tthị trường:
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua có thể hiểu theo nghĩa đơn giản
nhất là sự mặc cả theo nghĩa “ mua rẻ bán đắt”. Cả hai bên đều muốn được tối đa
hóa lợi ích của mình
- Cạnh tranh giữa người mua và người mua: là cuộc cạnh tranh trên cơ sở
cung -cầu. Khi trên thị trường mức cung < mức cầu, hàng hóa khan hiếm, người mua
để rhỏa mãn nhu cầu mong muốn của mình vì thế mà họ sẵn sàng trả với bất kỳ giá

nào dù là cao hơn. Lúc này sự cạnh tranh gay gắt giữa những người mua diễn ra. Kết
quả là hàng hóa tăng cao, người bán thu được lợi nhuận, người mua thiệt thòi về giá
cả vầ chất lượng. Trường hợp này chỉ tồn tại ở thời kỳ quan liêu bao cấp và bán đấu
giá một số hàng hóa mà thôi
- Cạnh tranh giữa người bán với nhau: đây là cuộc ganh đua gay gắt và
quyết liệt khi mà nền kinh tế sức cung > sức cầu, các DN sẽ loại trừ lẫn nhau để
giành lợi thế và ưu thế cho mình.
 Căn cứ vào hình thái và tính chất của cạnh tranh trên thị trường :
- Cạnh tranh hoàn hảo: là loại hình cạnh tranh mang đặc điểm có vô số
người bán người mua độc lập với nhau, sản phẩm đồng nhất, thông tin đầy đủ, không
có rào cản quy định. Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, DN là người chấp nhận
giá, tức là hoàn toàn không có sức cạnh tranh trên thị trường, mọi sản phẩm được
bán với mức giá hiện hành trên thị trường hay cách khác DN bị chi phối bởi quy luật
cung – cầu của thị trường. Vì vậy DN không thể bán được ở mức giá cao hơn so với
đối thủ khác
- Cạnh tranh không hoàn hảo: đây là hình thái rất phổ biến trên thị trườngmà
ở đó DN nào có đủ sức mạnh có thể chi phối được giá cả của sản phẩm thông qua
hình thức quảng cáo, khuyến mại các dịch vụ trong và sau khi bán. Cạnh tranh khônh
hoàn hảo là cạnh tranh mà phần lớn các sản phẩm không đồng nhất với nhau, mỗi
loại sản phẩm mang nhãn hiệu và đặc tính khác nhau dù xem xét về chất lượng thì sự
khác biệt giữa các sản phẩm là không đáng kể nhưng mức giá mặc định cao hơn rất
nhiều. Cạnh tranh hoàn hảo có hai loại:
SVTH: Huỳnh Thị Kim Đài Trang:7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đặng Thị Thanh Loan
+ Cạnh tranh độc quyền: tồn tại trong một thị trường có nhiều hãng bán
những sản phẩm tương tự nhưng được phân biệt khác nhau. Đặc điểm của loại hình
cạnh tranh này là sản phẩm đa dạng hoá, các hãng cạnh tranh với nhau bằng việc bán
sản phẩm khác nhau về nhãn hiệu, mẫu mã, bao bì, chất lượng, danh tiếng và giá cả.
Mỗi hãng là người sản xuất duy nhất sản phẩm của mình, hình thức cạnh tranh chủ
yếu là thông qua nhãn mác để phân biệt sản phẩm.

+ Độc quyền tập đoàn: xảy ra khi thị trường chỉ có vài hãng bán những sản
phẩm đồng nhất hoặc phân biệt. Đặc điểm cơ bản nhất của độc quyền tập đoàn là chỉ
có ít hãng cạnh tranh trực tiếp, các hãng phụ thuộc chặt chẽ vào nhau, tốc độ phản
ứng của thị trường rất nhanh, việc tham gia vào thị trường của các hãng mới là rất
khó khăn vì có rào chắn cao. Với hình thức cạnh tranh này thì giá cả thị trường bị chi
phối bởi số ít những tập đoàn sản xuất ra các sản phẩm độc quyền
 Căn cứ vào phạm vi kinh tế:
- Cạnh tranh nội bộ ngành: đây là cuộc chạy đua giữa các DN trong cùng
một nghành, các DN có thể thôn tính lần nhau để tồn tại. Các DN cùng sau sản xuất
cùng môt loại sản phẩm chính vì thế mà không ngừng đổi mới các sản phẩm của
mình bằng mọi cách như: cải tiến kỹ thuật, nâng cao trình độ tay nghề, nâng cao
năng suất lao động, giảm chi phí nhiều khâu quan trọng nhằm thu lại lợi nhuận siêu
ngạch. Kết quả là trình độ ngày càng phát triển, các DN không có sẽ bị thu hẹp thậm
chí phá sản.
- Cạnh tranh giữa các ngành: là cạnh tranh giữa các ngành kinh tế khác nhau
nhằm đem lại lợi nhuận cao nhất, là cạnh tranh giữa các DN hay đồng minh các DN
của một ngành với ngành khác. Cạnh tranh đem lại nhiều lợi nhuận cho các DN, vì
vậy đòi hỏi các DN phải có chiến thuật riêng để đem lại lợi nhuận về cho DN. Như
vậy giữa các ngành kinh tế do điều kiện kỹ thuật và các điều kiện kinh tế khác nhau
như: môi trường kinh doanh, thu nhập khu vực, thị hiếu người tiêu dùng… nên cùng
một số vốn đầu tư như nhau mà tỉ suất sinh lời của ngành này lại cao hơn hơn ngành
khác rất nhiều. Điều này dẫn đến các ngành có tỉ suất sinh lời thấp có xu hướng
cchuyển đổi sang ngành có tỉ suất sinh lời cao hơn, và đây cũng là biện pháp để thực
hiện cạnh tranh giữa các ngành. Kết quả là các ngành có tỷ suất lợi nhuận cao hơn sẽ
thu hút được nguồn lực mạnh và điều này dẫn đến cung vượt quá cầu làm cho giá cả
SVTH: Huỳnh Thị Kim Đài Trang:8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đặng Thị Thanh Loan
hàng hóa giảm xuống. Ngược lại các ngành có tỉ suất lợi nhuận thấp trước đây quy
mô ngành trở nên nhỏ hẹp và cung lại nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hôá lại càng tăng cao
và mang lại lợi nhuận cao.

1.1.4 Các công cụ cạnh tranh:
Công cụ cạnh tranh của DN có thể được xem là các yếu tố, các chính sách,
các chiến lược nhằm giúp cho DN có thể thắng được ĐTCT của mình. Từ đó có thể
thu được lợi nhuận cao hơn, lựa chọn công cụ cạnh tranh các DN lựa chọn những
công cụ riêng phù hợp với quy mô và điều kiện của DN mình. Sau đây là một số
công cụ quan trọng và tiêu biểu mà các DN cần có:
 Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm:
Các DN muốn tồn tại và phát triển mặt hàng sản phẩm trên thị trường, yếu
tố cần thiết cho mỗi mặt hàng của DN đó chính là chất lượng sản phẩm. DN nào có
mang lại chất lượng sản phẩm tốt tới thị hiếu người tiêu dùng thì DN đó đã thật sự
thành công. Cạnh tranh về chất lượng sản phẩm cũng như cuộc chạy đua về lợi
nhuận, chất lượng sản phẩm của DN sản phẩm sẽ được đánh giá qua chất lượng tiêu
dùng sản phẩm của khách hàng. Nâng cao chất lượng sản phẩm + cải tiến về mẫu
mã, bao bì phải luôn có sự mới lạ để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao hơn của người
tiêu dùng là điều kiện quan trọng nâng cao cạnh tranh của DN.
 Cạnh tranh về giá:
Giá là biểu tượng giá trị sản phẩm dịch vụ trong hoạt động trao đổi trên thị
trường, vì vậy mà không thể thiếu vắng giá trong bất kỳ hoạt động kinh doanh nào.
Cạnh tranh về giá của các DN diền ra gay go và lầ một trong những vần đề mà DN
quan tâm. Thực chất giá cả là sự biểu hiện bằng tiền về giá trị lao động sống và giá
trị lao động vật hóa để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm chịu ảnh hưởng của quy luật
cung cầu. Trong nền kinh tế có sự cạnh tranh giữa các DN, khách hàng được tôn là
“Thượng Đế” họ có quyền lựa chọn bất kỳ sản phẩm nào mà họ mong muốn. Khi có
cùng nhiều hàng hóa dịch vụ và chất lượng tương đương nhau, khách hàng tất nhiên
sẽ lựa chọn mặt hàng nào có giá thấp hơn để lợi ích thu được từ sản phẩm là tối ưu.
Do vậy mà giá cả như một biến số phục vụ mục đích kinh doanh của DN.
 Cạnh tranh bằng hệ thống phân phối:
SVTH: Huỳnh Thị Kim Đài Trang:9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đặng Thị Thanh Loan
Phân phối sản phẩm hợp lý là một trong những công cụ cạnh tranh đắc lực

vì nó hạn chế được tình hình ứ đọng hàng hóa và thiếu hàng. Để hoạt động sản xuất
của DN diễn ra thường xuyên và không bị gián đoạn các DN thường sử dụng hệ
thống kênh phân phối để nghiên cứu các đặc trưng thị trường và khách hàng.
Thông thường kênh phân phối của DN được chia làm 5 phần:
- Kênh ngắn: Người sản xuất Người bán lẻ Người tiêu dùng
- Kênh cực ngắn: Người sản xuất Người tiêu dùng
- kênh dài: Người sản xuất Người buôn bán Người tiêu dùng
- Kênh cực dài: Người sản xuất Đại lý Người bán buôn Người bán
lẻ Người tiêu dùng
- Kênh rút gọn: Người sản xuất Đại lý Người bán lẻ Người tiêu
dùng
 Cạnh tranh bằng chính sách marketing:
Để nâng cao khả năng cạnh tranh của DN thì chính sách marketing đóng vai
trò rất quan trọngbởi vì khi bắt đầu hoạt động kinh doanh, DN cần phải nghiên cứu
thị trường, tìm hiểu nhu cầu khách hàng đang có xu hươngs tiêu dùng sản phẩm gì?
Trong khi thực hiện hoạt động kinh doanh thì DN thì DN thường sử dụng chính sách
xúc tiến bán hàng tthông qua các hình thức quảng cáo, truyền bá sản phẩm đến tay
người tiêu dùng. Kết thúc qua trình bán hàng để tạo uy tín hơn nữa đối với khách
hàng, DN cần thực hiện hoạt động dịch vụ trước, trong và sau khi bán.
1.2 Khả năng cạnh tranh của DN:
1.2.1 Khái niệm khả năng cạnh tranh của DN:
“ Khả năng cạnh tranh” là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trên các
phương tiện thông tin đại chúng, trong sách báo, trong giao tiếp hằng ngày của các
chuyên gia kinh tế, các chính sách của các nhà kinh doanh. Nhưng cho đến nay vẫn
chưa có sự nhất ttrí cao trong các họ giả và giới chuyên môn về khr năng cạnh tranh
của DN
• Theo cách tiếp cận cạnh tranh ở tầm quốc gia:
- Cách tiếp cận dựa trên quan điểm diễn đàn kinh tế thế giới( gọi tắt WEF):
Theo định nghĩa WEF thì khả năng cạnh tranh của một quốc gia là đạt được và duy
SVTH: Huỳnh Thị Kim Đài Trang:10

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đặng Thị Thanh Loan
trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế vững vàng đặc trưng kinh
tế khác(WEF- 1997)
Như vậy khả năng cạnh tranh của một quốc gia được xác định trước hết
bằng mức độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân và sự có mặt( hay thiếu vắng) các
yếu tố quy định tăng trưởng kinh tế dài hạn trong các chính sách kinh tế đã được
thực hiện. Ví dụ điển hình là Nhật bản, sau chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế
Nhật Bản trở nên hoang tàn, nhân dân chìm trong cảnh mất mua, thiếu thốn. Vậy mà
đến năm 1968 Nhật Bản đã trở thành một nước có nền kinh tế đứng thứ hai trên thế
giớivà được xếp hàng các cường quốc kinh tế lớn nhất, kỷ lục về sự tăng trưởng này
là một trong những đỉnh cao để xác định khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Nhật
Bản.
- Cách tiếp cận dựa trên quan điểm của M.Poter về chỉ số năng suất: Ông
cho rằng chhỉ số năng suất là có ý nghĩa cho khái niệm về khả năng cạnh tranh quốc
gia bởi vì đây là yếu tố cơ bản cho việc nâng cao sức sống của một đất nước. Xét về
dài hạn chỉ số năng suất này phụ thuộc vào trình độ phát triển và tính năng động của
các DN. Do đó cạnh tranh của một quốc gia phụ thuộc vào việc các yếu tố nào trong
nền kinh tế quốc dân giữ vai trò quyết dịnh cơ bản cho phép công sáng tạo và duy trì
lợi thế cạnh tranh trên mọi lĩnh vực cụ thể.
• Tiếp cận cạnh tranh ở cấp ngành, cấp công ty:
- Quan điểm của M.Poter: “ Khả năng cạnh tranh là sức sản xuất có hiệu
quả làm cho DN các ngành các địa phương các quốc gia và khu vực phát triển bền
vững trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”.
- Theo tác giả Nguyễn Hữu Thắng: “khả năng cạnh tranh là chạy đua, tranh
giành giữa các DN và được thể hiện bằng phương thức cạnh tranh phù hợp”.
- Quan điểm tân cổ điển về khả năng cạnh tranh của một sản phẩm: quan
điểm này dựa trên lý thuyết thương mại truyền thống, đã xem xét cạnh tranh của
một sản phẩm thông qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và năng suất. Như vậy
khả năng cạnh tranh của một ngành, của công ty được đánh giá cao hay thấp tùy
thuộc vào chi phí sản xuất có giảm bớt hay không vì chi phí các yếu tố sản xuất thấp

vẫn được coi là điều kiện cơ bản của lợi thế cạnh tranh.
SVTH: Huỳnh Thị Kim Đài Trang:11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đặng Thị Thanh Loan
- Quan điểm tổng hợp của VarDwer, E.Martin và R.Westgren: VarDwer,
E.Martin và R.Westgen là những đồng tác giả của cuốn “ Assessing the
competivivenss of Canada’s agrifood Industry”-1991. Theo các tác giả này thì “ khả
năng cạnh tranh của một ngành, của công ty được thể hiện ở việc tạo ra và duy trì lợi
nhuận, thị phần trên các thị trường trong nước và nước ngoài”. Như vậy lợi nhuận và
thị phần, hai chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của công ty.
1.2.2. Các yếu tố cấu thành khả năng cạnh tranh.
Nguồn lực bên trong DN gồm quá trình sản xuất, nguồn vốn, kỹ năng của
nhân viên, bằng sáng chế khả năng quản lý và tài chính… Nguồn lực này có thể chia
thành nguồn lực hữu hình và nguồn lực vô hình.
Nguồn lực hữu hình: là những tài sản có thể nhìn thấy và xác định được như
đất đai, nhà xưởng, thiết bị, máy móc… Hay cách khác nguồn lực này bao gồm
nguồn lực về tài chính, nguồn lực về khả năng tổ chức quản lý, nguồn lực về vật
chất, nguồn lực về công nghệ… Trong đó:
+ Nguồn lực về tài chính: gồm vốn, các khả năng huy động vốn và các chỉ
tiêu tài chính;
+ Nguồn lực về hoạch định tổ chức: gồm kế hoạch, chiến lược kinh doanh,
cơ cấu tổ chức bộ máy DN, phương châm làm việc, các hệ thống lập kế hoạch đều
phối và kiểm tra;
+ Các hoạt động tập thể; Các hoạt động tinh thần; Văn hoá DN.
+ Các nguồn lực về vật chất: gồm các cơ sở hạ tầng như nhà xưởng, nhà
máy,… và khả năng tiếp cận các nguồn nguyên liệu;
+ Nguồn lực về kỷ thuật: gồm bằng sáng chế, thương hiệu, bí quyết kinh
doanh.
Nguồn lực vô hình là những tài sản không thể nhìn thấy và lượng hoá được,
chúng gắn liền với sự hình thành và phát triển của công ty được tích luỹ theo thời
gian. Đây là loại nguồn lực khó có thể tạo dựng được nhưng đó là thế mạnh riêng

của công ty vì ĐTCT khó có thể tìm được và bắt chước. Nguồn lực vô hình bao
gồm: tri thức, sự trung thành của nhân viên, ý tưởng khả năng sáng tạo, kỹ năng
quản lý, kỹ luật công việc, chính sách tuyển dụng đãi ngộ và cách thức hoạt động
của DN. Trong đó:
SVTH: Huỳnh Thị Kim Đài Trang:12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đặng Thị Thanh Loan
+ Nguồn lực tư duy sáng tạo: ý tưởng kinh doanh, kỷ năng nghiên cứu và
đưa ra sản phẩm mới, kỷ năng sáng tạo;
+ Nguồn lực về danh tiếng thương hiệu gồm: niềm tin từ phía khách hàng,
thương hiệu, sự am hiểu về chất lượng, niềm tin đối với sản phẩm;
Chính sự liên kết các nguồn lực nói trên tạo nên khả năng cạnh tranh của
công ty. Trong trường hợp bị thiếu hay mất cân đối một hoặc một số nguồn lực nào
đó sẽ làm cho sức cạnh tranh của DN giảm đi nhiều.
Trong nền kinh tế khi mà sự cạnh tranh giữa các DN đang ngày càng trở nên
gay gắt việc đánh giá chính xác được nguồn lực và khả năng của DN hay việc tìm ra
được cách sử dụng những nguồn lực đó hiệu quả sẽ có ý nghĩa với DN như: tạo ra
cho DN những khả năng để thành công trên thị trường.
1.2.3 Các cách đánh giá khả năng cạnh tranh
- Từ những ngành nghề khác nhau và các lĩnh vực khác nhau mà người ta
đưa ra các quan điểm đánh giá về khả năng cạnh tranh khác nhau.
Theo Mc.Porter trên quan điểm về chỉ số năng suất: Ông cho rằng chỉ có
chỉ số năng suất là có ý nghĩa cho khả năng cạnh tranh quốc gia. Bởi vì, đây là yếu
tố cơ bản cho việc nâng cao sức sống của một đất nước. Và xét về dài hạn chỉ số
năng suất này phụ thuộc vào trình độ phát triển và tính năng của DN. Do đó khả
năng cạnh tranh của một quốc gia phụ thuộc vào các yếu tố này, giữ vai trò quyết
định cho phép các công ty sáng tạo và duy trì về khả năng cạnh tranh trên mọi lĩnh
vực cụ thể. Với cách nhìn nhận vấn đề như vậy Mc.Porter đã đưa ra một khuôn khổ
các yếu tố tạo nên khả năng cạnh tranh mà ông gọi đó là “ mô hình Kim Cương” bao
gồm các nhóm được phân chia một cách tương đối:
Nhóm các điều kiện về nhân tố sản xuất (thể hiện vị thế của một quốc gia về

lao động được đào tạo, có tay nghề về tài nguyên, kết cấu hạ tầng, tiềm năng về khoa
học và công nghệ).
Nhóm các điều kiện về cầu: Phản ánh bản chất của nhu cầu thị trường trong
nước đối với sản phẩm và dịch vụ của một ngành.
Nhóm các yếu tố liên quan đến cơ cấu, chiến lược của DN của ĐTCT.
Nhóm các yếu tố về ngành phụ trợ và các ngành liên quan có khả năng cạnh
tranh quốc tế.
SVTH: Huỳnh Thị Kim Đài Trang:13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đặng Thị Thanh Loan
Nhưng đứng ở cấp độ ngành và công ty trích từ sách chiến lược cạnh tranh
của ông thì khả năng cạnh tranh của DN được thể hiện ở khả năng chiếm lĩnh thị
trường, tiêu thụ các sản phẩm cùng loại (hay sản phẩm thay thế) của công ty. Với
cách tiếp cận này thì khả năng cạnh tranh chịu tác động bởi các yếu tố sau:
Số lượng DN mới tham gia;
Mối đe doạ của các sản phẩm thay thế;
Sức ép của khách hàng;
Sức ép của các nhà cung cấp;
Cường độ cạnh tranh của các đối thủ đang kinh doanh trong ngành;
Và, khi nghiên cứu những yếu tố này sẽ giúp cho DN xây dựng và lựa chọn
một hay nhiều các chiến lược: chiến lược chi phí thấp, chiến lược khác biệt hoá sản
phẩm, Concentration (tập trung) để tự nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
Theo cách đánh giá của giáo sư Hamel tác giả cuốn cạnh tranh đón đầu
tương lai: để DN nâng cao khả năng cạnh tranh thì cần tạo ra sự khác biệt và khả
năng dự báo trước.
Thay vì tập trung vào tái lập quy trình lõi, DN cần phải tái tạo chiến lược
lõi;
Thay vì chủ yếu là kẻ chơi theo luật định, DN cần là kẻ tạo dựng luật chơi
mới;
Thay vì tập trung vào hiệu quả hoạt động, DN cần tập trung vào đổi mới và
tăng trưởng;

Thay vì cố gắng xây dựng lợi thế và theo đuổi DN cần đi tiên phong.
Theo phương pháp đánh giá khả năng cạnh tranh DN của diễn đàn kinh
tế thế giới( WEF): do các giáo sư trường Đại Học Havard như: Michael E.Porter,
Jefrey D.Sasch, Andrew M.Warner và các chuyên gia Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới
gồm Peter K.Cornelius, Mache Levinson và Klaus Schwab xây dựng. Đã đưa ra
những chỉ tiêu đánh giá về khả năng cạnh tranh của từng DN:
Theo phương pháp này, khả năng cạnh tranh của DN được đánh giá thông
qua các yếu tố nội tại của DN như: quy mô vốn, khả năng tăng trưởng, sản phẩm,
khả năng quản lý, trình độ công nghệ, nhân lực, uy tín DN, khả năng sản xuất, khả
năng thị trường… Trong đó :
SVTH: Huỳnh Thị Kim Đài Trang:14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đặng Thị Thanh Loan
- Chỉ tiêu khả năng tài chính: cụ thể gồm quy mô vốn, khả năng sinh lời,
mức độ rủi ro của DN;
- Các chỉ tiêu về khả năng tài chính sẽ giúp đánh giá được sức mạnh nội tại
của DN. Nó thể hiện được tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của DN tốt hay
xấu, có khả năng tồn tại và phát triển hay không;
- Khả năng tài chính là yếu tố quyết định, quan trọng nhất để có thể cải tiến
nâng cao các khả năng phi tài chính;
- Khả năng phi tài chính bao gồm:
* Khả năng sản phẩm dịch vụ: chất lượng, sự đa dạng hoá và tính độc đáo;
* Khả năng công nghệ: Khả năng ứng dụng và đổi mới công nghệ;
* Nguồn nhân lực: số lượng và đội ngũ cán bộ công nhân viên của DN;
* Uy tín DN, thị phần DN, sự tin cậy, quen thuộc với khách hàng..….
Để so sánh khả năng cạnh tranh giữa các DN người ta thường dùng ma trận
đánh giá khả năng cạnh tranh sau:
Bảng 01: Mẫu ma trận đánh giá khả năng cạnh tranh.
Yếu tố so sánh Trọng số
DN A DN B
Điểm phân

loại
Điểm trọng
số
Điểm
phân loại
Điểm trọng
số
1 2 3 4 = 2 x 3 5 6 = 2 x 5
Liệt kê các yếu
tố so sánh
Từ 0,00 đến
1,00
∑ = X ∑ = Y
Từ bảng này ta sẽ đánh gía DN nào có khả năng cạnh tranh mạnh hơn.
Theo quan điểm tổng hợp của VarDwer, E.Martin và R.Wesstgren là
những đồng tác giả của cuốn “cạnh tranh trong ngành công nghệ thực phẩm,
1991” thì khả năng cạnh tranh của một ngành một công ty thể hiện ở việc tạo ra và
duy trì lợi nhuận, thị phần trong các thị trường trong nước và nước ngoài. Như vậy
lợi nhuận và thị phần càng lớn thể hiện khả năng cạnh tranh của DN càng cao và
ngược lại. Tuy nhiên chúng chỉ là những chỉ số tổng hợp bao gồm những chỉ số
thành phần khác nhau:
- Chỉ số về năng suất lao động bao gồm các yếu tố về năng suất và tổng
năng suất các yếu tố sản xuất.
SVTH: Huỳnh Thị Kim Đài Trang:15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đặng Thị Thanh Loan
- Chỉ số về công nghệ bao gồm chỉ số về chi phí cho nghiên cứu và triển
khai sản phẩm bao gồm các chỉ số về chất lượng, sự khác biệt.
- Đầu vào và các chi phí khác: giá cả đầu vào và hệ số chi phí các nguồn
lực.
Ngoài ra còn có khả năng cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ: được đo

bằng thị phần của sản phẩm dịch vụ cụ thể trên thị trường. Khả năng cạnh tranh của
sản phẩm dịch vụ phụ thuộc vào lợi thế cạnh tranh của nó. Theo quan điểm cố điển
thì lợi thế cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ xuất phát từ sự so sánh các yếu tố cấu
thành nên sản phẩm ( vốn, nguyên liệu, chi phí, giá thành, giá cả..). Thế nhưng quan
điểm đó hiện nay đã bị thay đổi . Nó chú trọng vào chất lượng, tính độc đáo của sản
phẩm, dịch vụ, vào yếu tố công nghệ, chất xám trong sản phẩm…
1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp:
1.2.4.1 Nhân tố khách quan:
1.2.4.1.1 Nhà cung cấp:
Nhà cung cấp có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động SXKD của N, họ
đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của DN được tiến hành ổn định theo kế hoạch đã
định trước. Để giảm tính độc quyền và sức ép từ các nhà cung cấp, các DN phải biết
tìm đến các nguồn lực đáng tin cậy, ổn định và giá cả hợp lý với phương châm là đa
dạng hóa các nguồn lực các nguồn cuung cấp, thực hiện nguyên tắc “ không bỏ tiền
vào một ống” hay “ trứng không bỏ hết vào một giỏ”… Mặt khác trong quan hệ này
DN nên tìm cho mình một nhà cung cấp chính có đầy đủ sự tin cậy, nhưng phải luôn
tránh sự lệ thuộc, cần phải xây dựng kế hoạch cung ứng cho mình. Như vậy DN cần
phải thiết lập mối quan hệ lâu dài với các nhà cung cấp để họ cung cấp đầy đủ về số
lượng.
1.2.4.1.2 Đối thủ cạnh tranh:
ĐTCT là các doanh nghiệp hiện đang hoặc sẽ thâm nhập vào các hoạt động
trong các lĩnh vực như: sản xuất, kinh doanh, thương mại và dịch vụ …
ĐTCT được phân chia thành các loại như: ĐTCT hiện tại và ĐTCT tiềm ẩn.
Việc phân tích các ĐTCT chủ yếu dựa vào các yếu tố dự đoán như sơ đồ
dưới đây:
SVTH: Huỳnh Thị Kim Đài Trang:16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Đặng Thị Thanh Loan
Sơ đồ 03: sơ đồ phân tích các ĐTCT


Mức ganh đua giữa các công ty trong phạm vi một ngành diễn ra khi một
doanh nghiệp bị thách thức bởi hành động của các doanh nghiệp khác hay doanh
nghiệp nào đó nhận thức được cơ hội cải thiện vị thế của nó trên thị trường. Nếu sự
ganh đua trong ngành yếu các công ty ssẽ có cơ hội để tăng giá và nhận được lợi
nhuận cao hơn. Nhưng nếu sự gnh đua mạnh, cạnh tranh giá có thể xảy ra mạnh mẽ,
điều này sẽ dẫn đến các cuộc cạnh tranh giá cả. cạnh tranh làm hạn chế khả năng
sinh lợi do việc giảm lợi nhuận biên trên doanh số. Mức độ ganh đua giữa các công
ty trong ngành là một hàm số của ba nhân tố chính: (1) cấu trúc cạnh tranh ngành,(2)
các điều kiện nhu cầu,(3) rào cản rời khỏi ngành cao.
Để chống lại các ĐTCT tiềm ẩn, các doanh nghiệp thường thực hiện các
chiến lược như: phân biệt sản phẩm, nâng cao chất lượng ssản phẩm, bổ sung những
SVTH: Huỳnh Thị Kim Đài Trang:17
Mục tiêu tương lai:
Yếu tố nào thúc đẩy và
chi phối ĐTCT ở tất cả
các cấp quản lý và
nhiều phương diện
Khả năng; Cả những
điểm mạnh và những
điểm yếu
Giả Định: Về bản thân
ĐTCT ấy và ngành
nghề ĐT ấy đang hoạt
động
Chiến lược hiện tại:
ĐTCT đang và có thể
làm gì:
Tình hình cạnh tranh
hiện tại của công ty
như thế nào?

Phản ứng của ĐTCT
ĐTCT có thỏa mãn với
vị thế hiện tại của mình
ĐTCT có thể thực hiện
những bước đi hơcj
thay đổi những chiến
lược gì?
Điều gì có thể gây ra
sự trả đũa mạnh mẽ và
hiệu quả nhất từ phía
ĐTCT
Phản ứng của ĐTCT
ĐTCT có thỏa mãn với
vị thế hiện tại của mình
ĐTCT có thể thực hiện
những bước đi hơcj
thay đổi những chiến
lược gì?
Điều gì có thể gây ra
sự trả đũa mạnh mẽ và
hiệu quả nhất từ phía
ĐTCT

×