Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

sổ tay văn học 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (952.9 KB, 75 trang )


1


SỔ TAY VĂN HỌC 10 - PHỔ THÔNG TRUNG HỌC

Bài số 1. Nhìn chung nền văn học Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử
Phần thứ nhất. VĂN HỌC DÂN GIAN
Bài số 2. Đại cương về văn học dân gian
Bài số 3. Sử thi
Bài số 4. Đẻ đất đẻ nước
Bài số 5. Bài ca chàng Đam Săn
Bài số 6. Chử Đồng Tử
Bài số 7. Trầu cau
Bài số 8. Tiễn dặn người yêu
Bài số 9. Vượt biển
Bài số 10. Bài ca người thợ mộc
Bàisố11. Tát nước đầu đình

Phần thứ hai. VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ X ĐẾN THẾ KỶ XIX
Bài số 12. Khái quát về văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX
Bài số 13. Ngôn hoài
Bài số 14. Tụng giá hoàn kinh sư
Bài số 15. Thuật Hoài
Bài số 16. Bạch Đằng giang phú
Bài số 17. Thơ văn Nguyễn Trãi
Bài số 18. Bình Ngô đại cáo
Bài số 19. Bảo kích cảnh giới - 43
Bài số 20. Cây chuối
Bài số 21. Dục Thúy sơn
Bài số 22. Ngụ hứng ở quán Trung Tân


Bài số 23. Trông bốn bề
Bài số 24. Nỗi nhớ nhung sầu muộn của người chinh phụ
Bài số 25. Mời trầu
Bài số 26. Tự tình
Bài số 27. Cảnh chùa chiền
Bài số 28. Nguyễn Du và Truyện Kiều

2
Bài số 29. Trao duyên
Bài số 30. Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều
Bài số 31. Kim Trọng trở lại vườn Thúy
Bài số 32. Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Bài số 33. Độc Tiểu Thanh kí
Bài số 34. Thăng Long thành hoài cổ

Phần thứ ba. VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI - LÝ LUẬN VĂN HỌC
Bài số 35. Sử thi Hi Lạp
Bài số 36. Uylitxơ trở về
Bài số 37. Sử thi Ấn Độ
Bài số 38. Rama buộc tội
Bài số 39. Thơ Đường
Bài số 40. Hoàng Hạc lâu Tống mạnh hạo nhiên chi quảng lăng
Bài số 41. Thu hứng
Bài số 42. Hoàng lạc Lâu
Bài số 43. Tì Bà Hành
Bài số 44. Tam quốc diễn nghĩa
Bài số 45. Người lái buôn thành Vơnidơ
Bài số 46. Văn học là gì
Bài số 47. Nhà văn và quá trình sáng tạo



Nhìn chung nền văn học VN qua các thế kỷ:
Các thành phần cấu tạo của nền văn học Việt Nam

1. Nền Văn học dân gian ra đời từ thời viễn cổ và tiếp tục phát triển về sau này. Tính nhân dân,
tính dân tộc của nó từ nội dung tới hình thức có tác dụng sâu sắc đến sự hình thành và phát triển của
nền văn học viết.
2. Văn học viết ra đời vào khoảng thế kỷ thứ 10 (?) gồm có 3 bộ phận: Văn học viết bằng chữ Hán,
Văn học viết bằng chữ Nôm và Văn học viết bằng chữ quốc ngữ. Ba bộ phận văn học ấy nối tiếp, kế
thừa và phát triển cho thấy tinh thần sáng tạo, ý trí tự lập tự cường và sức mạnh Việt Nam vô cùng
to lớn.
3. Văn học dân gian là cội nguồn của nền văn học dân tộc. Hai thành phần Văn học viết và Văn
học dân gian luôn luôn tác động qua lại, hội tụ và kết tinh ở những thiên tài văn chương như Nguyễn
Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, v.v

Các thời kỳ phát triển


3
Có thể chia làm 3 thời kỳ lớn:
1. Thời kỳ từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XIX: Thơ văn Hán - Nôm.
2. Thời kỳ từ thế kỷ thứ XX đến năm 1945: Thơ văn Hán Nôm - thơ văn quốc ngữ.
3. Thời kỳ từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay: thơ văn quốc ngữ mang nội dung cách
mạng, kháng chiến, yêu nước và tiến bộ.

Mấy nét đặc sắc truyền thống của văn học Việt Nam

1. Truyền thống yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc
2. Tình nhân ái.
3. Thơ ca có một truyền thống lâu đời phát triển mạnh. Có nhiều kiệt tác.Văn xuôi phát triển chậm:

từ 1930 trở đi mới phát triển nhanh vọt, tiến lên hiện đại hoá.

I- Phần I – Văn học dân gian
1, Đại cương về văn học dân gian
Khái niệm văn học dân gian.

- Văn học dân gian là một thành tố của văn hoá dân gian, tức là phôncơlo (trí tuệ nhân dân).
- Văn học dân gian còn gọi là văn học truyền miệng hoặc văn học bình dân.
- Văn học dân gian là những sáng tác tập thể truyền miệng của nhân dân, ra đời từ thời viễn cổ,
phát triển qua các thời kì lịch sử, đến cả hiện nay và mai sau. Văn học dân gian có những đặc trưng
riêng so với văn học viết; nó cùng với văn học viết hợp thành nền văn học dân tộc.

Các thể loại văn học dân gian

1. Thơ ca dân gian: tục ngữ, câu đố, ca dao, hò, vè, truyện thơ.
2. Truyện dân gian: thần thoại, sử thi, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn.
3. Sân khấu dân gian: chèo, tuồng đồ.

Những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian

1. Tính tập thể (trong sáng tạo, trong lưu truyền, trong sử dụng và cảm thụ )
2. Tính truyền miệng.
3. Gắn với sinh hoạt xã hội (đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lao động )

Giá trị và vai trò của văn học dân gian trong nền văn học dân tộc

1. Văn học dân gian là kho báu về trí tuệ, tâm hồn và thẩm mĩ cao đẹp của nhân dân.
2. Văn học dân gian là ngọn nguồn, là cơ sở kết tinh của văn học dân tộc.

 Sử thi

Định nghĩa

Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xuôi) có quy mô hoành tráng, miêu tả và ca
ngợi những thành tựu có tính toàn dân và có ý nghĩ trọng đại (sống còn, vinh nhục) đối với cộng
đồng, ca ngợi những anh hùng bộ tộc mang sức mạnh thần kỳ, tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng
của bộ tộc.

4
Sử thi cổ đại là sản phẩm tinh thần - lễ nghi, nghệ thuật của xã hội thị tộc-bộ lạc, một thể loại một
đi không trở lại, phản ánh những kì tích của cộng đồng trong công cuộc xây dựng sự phát triển, chinh
phục tự nhiên và chiến đấu chiến thắng mọi kẻ thù của bộ tộc.

Những bộ sử thi của Việt Nam và thế giới

1. Việt Nam.
"Đẻ đất đẻ nước" của người Mường, bằng thơ. Bản sưu tầm ở Hoà Bình dài 3887 câu thơ; bản sưu
tầm ở Thanh Hóa dài 8503 câu (?)
- "Bài ca Đan Sẵn" của người Ê đê.
- "Xinh Nhã" của nhiều bộ tộc ở Tây Nguyên, chủ yếu của người Ê đê.
- “Y Ban” của nhiều bộ tộc ở Tây Nguyên.
- "Đăm Di" của người Ê đê và Giarai.
- "Xinh Chơ Niếp" của người Ê đê.
- v.v
2. Thế giới:
- "Ramayana" của Ấn Độ gồm có 24.000 câu thơ đôi.
- "Mahabharata" của Ấn Độ dài 110.000 câu thơ đôi.
- "Ôđixê" của Hi Lạp dài 12.110 câu thơ, tác giả Hômerơ.
- "Iliat" của Hi Lạp, dài 15.683 câu thơ, tác giả Hômerơ.
- v.v


Những ý kiến về sử thi

1. "Thời đại thịnh vượng nhất của giai đoạn cao trong thời đại dã man được diễn tả trong những
bài thơ của Hômerơ, nhất là tập Iliat.
Bản anh hùng ca của Hômerơ và toàn bộ thần thoại - đó là những di sản chủ yếu mà người Hi
Lạp đã đem được từ thời đại dã man sang thời đại văn minh ” (Ăng ghen)
2. "Chỉ thông qua sức mạnh phi thường của cộng đồng, người ta mới có thể giải thích được vẻ
đẹp tuyệt vời và sâu sắc của thần thoạivà anh hùng ca, một vẻ đẹp xây dựng trên sự hoà hợp triệt để
giữa nội dung và hình thức " (Gorki)
3. "Sử thi anh hùng bao hàm một bức tranh hoàn chỉnh của cuộc sống nhân dân dưới hình thức kể
truyện anh hùng về quá khứ. Thế giới sử thi lý tưởng và nhân vật dũng sĩ trong sự thống nhất hài hoà
của chúng - đó là những nhân tố chủ yếu của một nội dung sử thi anh hùng". (Mêlêtinxki)

 Đẻ đất, đẻ nước
Một vài nét về tác phẩm

1. Quy mô
Sử thi "Đẻ đất đẻ nước" có quy mô hoành tráng. Bản sưu tầm ở Thanh Hoá dài tới 8503 câu
thơ. Người Mường ở Nghĩ Lộ, Hoà Bình và miền tây Thanh Hoá còn truyền tụng "Đẻ đất đẻ nước".
Các thầy mo (thầy cúng) vẫn đọc "Đẻ đất đẻ nước" trong các tang lễ.
2. Tóm tắt
Thuở ấy, khi đất trời còn hỗn mang, bỗng "mưa dầm mưa dãi" nước ngập mênh mông, 50 ngày
sau mới rút hết. Tự nhiên mọc lên một cây xanh có 90 cành, có một cành cao trọc trời, biến thành
ông Thu Tha, Bà Thu Thiên. Hai Thần truyền lệnh làm ra Đất, Trời và Vạn vật. Sau đó, nắng dữ dội
suốt 12 năm liền, mặt đất xơ xác. Thần Pồng Pêu ao ước một trận mưa lớn. Tức thì mưa to gió lớn

5
suốt chín, mười ngày đêm; hạt mưa to bằng quả bưởi, nước lại ngập bao la. Bẩy tháng sau nước rút
cạn, có một cây si khổng lồ mọc lên tua tủa 1919 cành. Trời sai con Sâu Gang khoét ruỗng ruột cây
si. Cây đổ, mỗi cành hoá ra một bản mường:

"Một cành đổ về đất Sạp
Nên mường Sạp.
Một cành đổ về đất Giạp
Nên mường Giạp.
Một cành ngã về đất Bi, đất Lỗ.
Nên Mường Bi, Mường Lỗ "
Có một cành si lại hoá ra Mụ Dạ Dần; mụ đẻ ra hai cái trứng kì dị, nở ra cun Bướm Bạc và cun
Bướm Bờ. Vừa mới nở, cun Bướm Bạc đã ăn hết 9 chõ cơm; cun Bướm Bờ ăn hết 5 chõ xôi:
"Cun Bướm Bạc và cun Bướm Bờ
Lớn cao hơn đụn chính, đụn mười.
Tiếng cười như tiếng trống cái
Tiếng nói như tiếng sấm vang
Xương vai dài tám mươi lóng
Xương sống dài bẩy mươi gang "
Vua trời cho mười nàng tiên xuống trần gian du ngoạn. Hai cun cưõi ngựa bạc, vác ná đi sãn lợn
rừng, gặp các nàng tiên "lưng ong, tóc mượt". Hai nàng tiên quên đường về trời. Họ nên vợ nên chồng
. Sau 12 năm 9 tháng, hai nàng tiên sinh được một bầy con mà "Trống chim Tùng, mái chim tót là
con út con yêu". Đôi chim trống mái sau "9 ngày, 9 đêm, 9 tháng" để ra 1919 chiếc trứng nở ra Thần
Chớp, Thần Mây, nở ra chuột, lợn, voi, thú dữ Đôi chim đẻ ra lứa thứ hai "được một trứng đen đen
bốn khúc - Trứng bầu dục 4 khuôn - Mặt vuông mặt tròn chín cạnh -Rành rành mười hai quai" Mụ
Dạ Dần sai chim chiền chiện ấp, trứng nở ra một bầy con, mỗi đứa nói một thứ tiếng: tiếng Lào, tiếng
Thái, tiếng Kinh, tiếng Mọn, tiếng Mường, tiếng Mán, tiếng Mèo… Trứng cũng nở ra anh em nhà
lang: ông Dịt Dáng, ông Lang Tà Cái, ông Lang Cun Cần, bố Bướm Khang, ông Sang Si, nàng Vạ
Hai Chiếng Loài người có từ đấy. Bộ tộc Mường có từ đấy.
Thần Cuộng Minh Vàng Rậm, nàng ả Sấm Trời "đúc 9 mặt trời, đúc được 12 mặt trăng" làm chói
chang trời đất. Họ nhà Ngao "thần nỏ" dùng cung tên bắn rụng hết, chỉ để lại một mặt trăng, một mặt
trời. Rồi ông Thu Tha, bà Thu Thiên làm ra năm, tháng, ngày, đêm, bốn mùa cho người theo đó làm
ăn sinh sống.
Người Mường chưa có thủ lĩnh.Mường nước mời ông Dịt Dáng, rồi mời Lang Tá Cái ra "cầm binh
cầm mường”. Cả hai đều bất tài bị "ma đón đường, thuồng luồng xanh","rồng vàng ngăn ngõ". Mường

nước phải đi mời Lang Cun Cần ra tiễu trừ ma quỷ, thú dữ.
"Ma chạy từng bầy trốn vào trong núi
Ma rồng sơ Lang Cun Cần trời
Thuồng luồng sợ Lang Cun Cần chặt
Ma Trời, ma Đất cùng chạy nhanh nhanh"
Lang Cun Cần trở thành thủ lĩnh từ đó. Rùa Thần giúp lang dựng nhà cửa to đẹp. Tà Cắm Cọt (thần
lửa) cho Cun Cần lửa. Nàng tiên Mái Lúa (thần Trồng Trọt) giúp lang nhiều hạt giống để sản xuất.
Lang Khấm Dậm bày cho cách ủ men chế rượu cần. Mụ La, mụ Húng, (thần chăn nuôi) dạy cho
mường nước nuôi gia súc, gia cầm. Mường nước có trâu bò cày ruộng làm nương.
Hai chương 17, 18 gồm 1263 câu thơ kể chuyện Lang Cun Cần lấy vợ. Lang lấy em gái nàng Vạ
Hai Chiếng, bị làng bản coi khinh, bị vua Trời sai cun Sấm nàng Sét (thiên lôi) xuống trừng phạt,
may mà thoát chết. Lang Cun Cần sai bỏ nàng Vạ Hai Chiếng vào rừng sâu. Lang sai người đem lễ
vật đi khắp nơi tìm "gái đẹp con dòng". Cun Cần lấy được nhiều vợ: có vợ là con gái vua Trời, có vợ
là thần tiên, có vợ là con gái mường nước. Lang Cun Cần có một bầy con:
"Nàng Vậm Đầu Đất

6
Đẻ được cun Tồi, cái Sang
Nàng Vậm Đầu Nước
Đẻ ra cun Tàng, cái Lớn,
Nàng Ả Sao, Ả Sáng,
Ả Rạng nhà ông vua Trời
Đẻ được Lang Cun Khượng
Ả Gái nuôi trong mường
Đẻ ra chàng Toóng Ín "
Con cái trưởng thành. Lang Cun Cần chia đất cho các con. Anh em bất hoà. Toóng Ín vu cho Lang
Cun Khương làm giặc để âm mưu cướp đất của anh. Lang Cun Khương chạy lên vua Trời, nhờ ông
ngoại che chở. Trời giáng hoạ, gây ra lũ lụt, ép anh em nhà Lang phải giết Toóng Ín. Từ đó, Lang
Cun Khương trở nên một thủ lĩnh giàu có, đầy quyền uy.
Tậm Tạch là tôi tớ của lang đã tìm được cây Chu Đồng (cây thần) lấy được "bông thau, quả thiếc"

mà trở nên giàu có. Anh em Lang Cun Khương lập mưu chuốc rượu cho Tậm Tạch say, lừa lấy được
"bông thau, quả thiếc". Lang đưa cả mường nước đi chặt cây Chu Đồng kéo về làm nhà chu.Tậm
Tạch phản loại bị lang giết chết. Rùa Thần lại giúp lang làm nhà chu "sáng cả mường, kinh kì kẻ
chợ", "rạng trời rạng đất". Lang giết 10 voi ngà, 30 trâu mộng, 9 bò, 100 gà sao, nấu 1000 vò rượu,
để ăn mừng. Lang Cun Cần ban thưởng cho các con nhiều vàng bạc quý giá.
Con của Tậm Tạch lại đốt nhà chu để báo thù cho cha. Hắn lại bị lang giết chết, máu hắn hoá thành
con Moong khổng lồ, tàn phá bản mường. Lang Cun Cần đưa tất cả mường nước đi săn Moong, vô
cùng nguy hiểm mới giết được. Moong được ăn thịt; người Lào, người Thái, người Tày, người Mường
nhanh chân lấy được da Moong vằn vện mà học được cách thêu thùa, dệt vải rất đẹp. Người Kinh
đến sau lấy được thịt và mỡ Moong, từ đấy biết nấu nhiều món ăn ngon.Người "Mường ngoài" (Hoà
Bình) đến sau cùng, chẳng được thứ gì , chỉ nhìn thấy đống tro thui Moong, chẳng may, gió thổi tro
bay dính vào môi, nên môi người "Mường ngoài" bị đen là vì thế!
Tai hoạ còn nhiều. Chó ăn phải phổi Moong mà thành chó điên. Chó điên bị giết, xác bị quẳng
xuống sông, cá ăn phải biến thành Cá điên. Cá điên bị lang bắt giết, bầy quạ ăn phải hoá ra Quạ điên.
Mường nước săn nùng mãi, cuối cùng Lang Cun Khương bắn trúng Qụa, cả bày hoảng sợ bay trồn
vào rừng sâu. Nhưng rồi hồn Toóng Ín lại biến thành Ma Ruộng đưa bầy Rắn "mỏ vàng, mỏ đỏ"
đánh nhau với anh em Lang Cun Khương. Quân hai bên đánh nhau suốt đêm ngày, kịch chiến giữa
ruộng, quần nhau trên đồi gianh, đuổi nhau trong rừng sến, hỗn chiến tại bến sông Rồng, Toóng Ín
thất thế phải chạy xuống thuỷ phủ của Long Vương ẩn náu và xin cầu viện. Long Vương biến Toóng
Ín thành Ma May, Ma Lang. Hắn đưa binh mã gồm thuồng luồng, ba ba, cá ngao dâng nước làm lũ
lụt, dìm chết được Lang Cun Tàng, Lang Cun Khương cùng mường nước nổi chiêng cồng đem giáo
mác, cung nỏ, lưới vây các ngả sông đón đánh. Giặc Ma May, Ma Lang bị đại bại, bỏ lại trên bãi
chiến trường bao xác loài thuỷ quái, làm thổi cả bản mường.
Từ đó, mường nước yên vui, hoà bình thịnh vượng. Lang Cun Cần đã sống được trên vạn năm. Trẻ
già, trai gái mường nước nô nức sắm áo quần, lo kiệu lo ngai, rước vua về, "Đồng chì tam quan kẻ
chợ"
Giảng văn: Đẻ nước

1. Xuất xứ
Đoạn thơ này trích gần trọn chương "Đẻ nước" trong sử thi "Đẻ đất đẻ nước"; từ câu 268-334 theo

sưu tầm của Hoàng Anh Nhân (Thanh Hoá)
2. Ý chủ đạo
Đoạn thơ nói về trận đại hồng thuỷ thời tiền sử - buổi đầu khai thiên lập địa theo cách cảm nhận
riêng của người Mường xa xưa.
3. Ông Pồng Pêu

7
Là Thần Mưa theo cách gọi của ngưòi Mường.
Thiên tai kéo dài "Hạn 9 tháng biền biệt - nắng 12 năm xác đất" làm cho muôn loài đau khổ: "cây
cau úa cả tàu - rừng vàu không mọc măng", làm cho "chó mực, chó ngao lè lưỡi, rái cá phải chạy lên
đồi"
Ông Pồng Pêu lúc đó đang ngồi "đan chài" và "đan lưới" trong nhà, bình dị như con người lao động.
Ông ngước nhìn khắp trời đất, rồi gọi gió, gọi "mưa cho mát lòng các loài thú hiền thú dữ, cây lau
cây bái". Tức thì trời mưa to. Pồng Pêu là biểu tượng cho ý nguyện của muôn loài muôn vật và con
người vì sự sống bắt diệt trên trái đất.
4. Cảnh trời mưa
Mưa miêu tả dữ dội chẳng khác nào trận đại hồng thuỷ trong Kinh thánh nói đến. Mây vàng mây
đen đùn lên che kín cả bầu trời, gió ùn ùn thổi điên cuồng. Cun Sấm nàng Sét cùng ra oai:
"Lanh lảnh cun Sấm xuống thét
Lăm lăm nàng sét xuống đánh".
Mưa kéo dài "mưa 9 đêm, mưa liền 9 ngày". Hạt mưa " to bằng hột cà" về sau "to bằng quả bưởi".
Nước ngập mênh mông. Mưa để "rước nàng ngâu về trời" để "đưa chàng ngâu qua sông Ngân". Mưa
"ngập cây", "ngập bụi", mãi "bốn tháng nước rút - bẩy tháng nước xuôi". Mưa đem đến sự sống cho
đàn cua đá, đàn cá, đàn ba ba, đàn cá chuối, đàn nòng nọc, đàn cá cơm. Sau khi "đẻ nước" trời "đẻ
đất".
Có đất, đất đang xơ xác,
Có nước, nước ùn đục ngầu
Đó vẫn là cảnh thiên địa xơ khai.
Biện pháp lặp và liệt kê được nhà thơ dân gian xưa của tộc Mường, vận dụng tạo nên ấn tượng "đẻ
nước". Thần mưa, thần Sấm, thần Sét, Chức nữ, Ngưu lang được nói đến hồn nhiên đầy ý vị. Đoạn

sử thi đã giải thích hiện tượng mưa gió, lũ lụt qua cảm quan nghệ thuật “vạn vật hữu linh" của người
Mường thời viễn cổ.

 Bài ca chàng đam Săn

Xuất xứ

"Bài ca chàng Đam Săn" là sử thi anh hùng của tộc người Ê đê ở Tây Nguyên. Tác phẩm được
nhiều người sưu tầm tuy lời kể có khác nhau ít nhiều, nhưng cốt truyện đều giống nhau.

Tóm tắt

Theo tục "nối dây", Đam Săn phải lấy hai chị em Hơ Nhí và Hơ Bhí làm vợ. Anh đã chống lại,
nhưng bị trời lấy ống điếu gõ vào đầu 7 lần "Đam Săn chết lịm, rồi Trời cho sống lại". Cuối cùng
Đam Săn phải làm theo lời Trời. Đam Săn trở thành tù trưởng giàu mạnh, danh tiếng vang lừng rừng
núi, "đầu đội khăn kép, vai mang túi da". Đam Săn đã cùng bộ tộc đánh thắng hai tù trưởng hùng
mạnh khác là Mơtao Grứ và Mơtao Mơxây, bắt được nhiều nô lệ, thu được nhiều tài sản quý báu.
Ngang tàn coi thường thần linh, Đam Săn chặt cây thần. Chặt mãi cây mới đổ. Cây đổ quật chết cả
hai nàng Hơ Nhí và Hơ Bhí. Anh vác rìu đi lên trời, cầu xin Trời cứu sống vợ anh. Đang sống trong
yên vui giàu có, Đam Săn lại lên đường đi bắt Nữ thần Mặt Trời để có "hai vợ lẽ vợ thật đẹp”. Cuộc
cầu hôn thất bại, anh trở lại quê nhà, bị chết lún giữa rừng của bà Sun Y Rít. Đam Săn chết, cháu
Đam Săn ra đời, lại theo tục "nối dây" đi tiếp hành trình của cậu chàng, dấn thân vào cuộc chiến đấu
mới.


8
Giảng văn

Đi bắt nữ thâng Mặt Trời
1. Xuất xứ và ý tưởng chủ đạo

Đoạn trích "Đam Săn đi bắt nữ thần Mặt Trời" nằm trong chương 7 "Bài ca chàng Đam Săn"
Đoạn sử thi này nói lên khát vọng và dũng khí, lòng quả cảm của người anh hùng Đam Săn được bộ
tộc ngưỡng mộ.
2. Hình ảnh dũng sĩ Đam Săn
- Khát vọng phi thường. Là một tù trưởng giàu có và hùng mạnh: "Trăm chiêng núp anh đã có.
Trăm chiêng bằng anh đã có. Trăm con voi anh đã có ". Nhiều nồi đồng, lợn dê đầy sân. "Tiếng tăm
anh vang đến thần núi", ai cũng phải khen anh là "gan dạ, anh dũng", không hề lùi trước bất cứ địch
thủ nào! Đam Săn đi bắt nữ thần Mặt Trời vì nàng là "người đẹp nhất", "bắp chân nàng tròn, váy nàng
đẹp tuyệt vời". Đi bắt nữ thần Mặt Trời mới thành một tù trưởng "hết sức giàu mạnh trên đời không
ai bì kịp" Khi đến vương quốc của nữ thần Mặt Trời, Đam Săn đã nói với người đẹp: "Tôi muốn có
hai vợ lẽ, tôi muốn có một người vợ thật đẹp và tôi hứa với nàng tôi sẽ mang nàng xuống trần lập
một gia đình chung với Hơ Nhí và Hơ Bhí". Người tù trưởng phải có khát vọng phi thường như vậy
mới tiêu biểu cho phẩm chất cao đẹp của cộng đồng bộ tộc xa xưa.
- Dũng khí quả cảm vô song.
Lên đường với con tuấn mã, tay cầm lao, gươm dắt thắt lưng, khoác áo màu đen màu trắng, mang
theo bùa ngải "sẽ giúp tôi thắng!". Đừng đi đầy tê giác, hùm thiêng, cọp dữ, đã cắm chông, đã cắm
bẫy, nước đầy đỉa, cây đầy sên, bò cạp giữa đường, rết trên ngọn cây xương người và xương trâu
đầy rừng! Nhưng quyết tâm của Đam Săn không hề nao núng: "Mặc kệ! để tôi kiếm một nối đi. Tôi
sẽ tới chỗ tôi muốn! Gặp hùm tôi sẽ giết hùm".
Đam Săn ra đi từ lúc gà gáy. Chàng vượt qua rừng âm u, núi rậm chân và tay bị cỏ tranh, mây "cắt
nát". Đến ranh giới giữa trời và đất, Đam Săn đã "chặt một sườn núi ném xuống bùn làm con đường"
để vượt qua và tiến lên. Chàng dũng sĩ vô cùng ngạc nhiên trước cái nhà của nữ thần: cầu thang nhà
là chiếc cầu vồng, cối và chày giã gạo đều bằng vàng, sân nhà đầy voi, trong nhà đầy chiêng núp. Tôi
tớ trai và gái đi lại đông như mây. Đam Săn thì được người nhà của nữ thần ngắm nghía như nhìn
một "thần linh danh tiếng". Còn nữ thần Mặt Trời thay hai lần váy mới "nhấp nháy như chớp sáng".
Tóc chải bóng buông dài. Dáng đi thướt tha "như chim diều bay, như phượng hoàng liệng, như nước
chảy êm đềm". Cổ nàng "đẹp như cổ con công". Nàng là dòng dõi nhà "Trời và Đất". Với tưởng
tượng kì diệu, tác giả sử thi đã miêu tả hành trình của Đam Săn và hình ảnh nữ thần Mặt Trời để ca
ngợi dũng khí, lòng quả cảm và khát vọng về công danh, hạnh phúc của người dũng sĩ lỗi lạc.
Cuộc cầu hôn không thành, Đan Săn lên ngựa trở về. Thần ánh sáng đã làm cho đất nhão ra. Chàng

dũng sĩ đã chết trong tư thế lẫm liệt. Mặc dù vậy, Đam Săn là tù trưởng duy nhất đi tới được vương
quốc nữ thần Mặt Trời. Người Ê đê xưa và nay vô cùng tự hào về hành trình của Đam Săn. Cách giải
thích hiện tượng tự nhiên, Mặt Trời và ánh sáng của người Ê đê xa xưa rất kì diệu.
Đoạn Đam Săn đi bắt nữ thần Mặt Trời là đoạn hay nhất tràng lệ nhất, bi tráng nhất trong sử thi
"Bài ca chàng Đam Săn". Nghệ thuật phóng đại và so sánh được sử dụng trong miêu tả và chuyện kể
rất thần tình, đầy ấn tượng.

 Chữ đồng Tử
Một vài điều cần biết về chuyện cổ tích

1. Cổ tích là tích cũ, chuyện xa xưa, ra đời khi xã hội có áp bức, bóc lột. Cổ tích kể về những
truyện mang yếu tố hoang đường, sự tích kì lạ về con người, hoặc thế giới muôn loài, chứa đựng triết
lý nhân sinh sâu sắc.

9
2. Người ta chia truyện cổ tích thành 3 loại:
- Truyện cổ tích loài vật (Quạ và Công; Con thỏ tinh khôn )
- Truyện cổ tích thần kỳ (Chử Đồng Tử, Cây khế…)
- Truyện cổ tích sinh hoạt (Chàng ngốc, Cái cân thuỷ tinh )
3. Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giàu và nghèo, thống trị và bị thống trị, chính nghĩa và phi
nghĩa Các bài học về ở hiền gặp lành, ác giả ác báo, tham thì thâm rất dễ bắt gặp trong truyện cổ
tích. Cổ tích nêu cao khát vọng về tự do và hạnh phúc, công bằng ở đời.

Truyên "Chử Đồng Tử"

1. Tóm tắt.
Ngày xưa ở nàng Chử Xá có hai cha con Chử Cù Vân và Chử Đồng Tử, nghèo khổ, mò cua bắt
ốc, chỉ có một chiếc khố chung nhau, hễ ai đi đâu thì đóng: Chử Cù Vân ốm sắp chết dặn con cứ táng
trần cho cha. Nhưng khi Chử Cù Vân qua đời thì Chử Đồng Tử đã lấy khố đóng cho cha rồi mới chôn
cất. Ngày ngày Chử Đồng Tử vẫn xuống sông mò cua bắt cá kiếm sống. Thuở ấy có nàng Tiên Dung,

công chúa của vua Hùng thứ ba, nhan sắc tuyệt trần, đã 17, 18 tuổi mà không chịu lấy chồng, chỉ
thích chèo thuyền đi xem sông núi. Một hôm, thuyền của nàng đến khúc sông làng Chử Xá, thấy cảnh
sông nước bờ bãi xinh đẹp, nàng bèn ra lệnh cho thị nữ vây màn tứ vi vào một nơi có bóng mát để
tắm. Không ngờ nơi đó Chử Đồng Tử đang náu mình dưới cát. Tiên Dung giội nước một lúc, nàng
giật mình thấy một chàng trai trồi lên. Nàng hỏi duyên cớ thì Chử Đồng Tử nói vì không có quần áo,
thấy thuyền quan quân thì sợ nên phải vùi mình xuống cát để ẩn.
Tiên Dung nói với Chử Đồng Tử : "Tôi đã nguyện không lấy chồng, nay duyên trời run rủi, lại gặp
chàng chốn này mới biết cưỡng không được với trời". Nàng sai thị nữ đem áo quần cho Chử Đồng
Tử và sửa soạn tiệc hoa. "Chử Đồng Tử bối rối chối từ, Tiên Dung nói: "Thiếp với chàng là tự trời
xe duyên, việc gì mà từ chối!". Hai người nên vợ nên chồng từ đấy.
Vua Hùng được tin giận lắm, ra lệnh cho quân quan, người hầu của Tiên Dung phải về kinh đô.
Nàng sợ cha, đành cùng chồng ở lại làm ăn. Mấy năm sau, cuộc sống trở nên thịnh vượng. Nàng để
chồng ra biển tìm vật lạ đem về đổi lấy các thứ khác. Chử Đồng Tử lên đường. Đến một nơi núi non
hữu tình, thấy cái am nhỏ, chàng leo lên núi, may thay gặp sư Phật Quang. Thấy Chử Đồng Tử là
người chân thật, sư Phật Quang truyền cho phép lạ, hơn một năm sau thành tài. Chử Đồng Tử xuống
núi trở về nhà, lạy tạ nhà sư và được Phật Quang ban cho một cái gậy, một nón có phép mầu nhiệm
biến hoá. Chử Đồng Tử đem phép mầu truyền lại cho Tiên Dung rồi hai vợ chồng du ngoạn cảnh
sông núi. Có lần trời tối giữa đường, hai vợ chồng cắm cái gậy xuống đất, úp nón lên đầu gậy, hai
người tựa vào nhau dưới nón mà ngủ. Nửa đêm tỉnh giấc, hai vợ chồng thấy mình đang sống trong
một cung điện tráng lệ Tin lạ ấy bay đến tai vua Hùng. Vua cả giận, ngỡ là Chử Đồng Tử và Tiên
Dung làm phản bèn sai quân quan đi đánh dẹp. Binh mã triều đình chưa qua sông thì trời tối phải
dừng lại. Đêm ấy, Tiên Dung và Chử Đồng Tử cùng bay lên trời. Mưa to, gió lớn, cung điện cũng
biến mất. Về sau, bãi ấy gọi là bãi Tự Nhiên, đầm ấy gọi là đầm Nhất Dạ. Nghe nói, thời nước ta bị
tàu đô hộ, Chử Đồng Tử đã cưỡi rồng xuống giúp Triệu Việt Vương một cái vuốt rồng cắm lên mũ
đầu mâu Nhờ thế mà quân ta phản công, chém được tường giặc Lương là Dương Sằn, khôi phục lại
đất nước.
2. Ý nghĩa.
- Chử Đồng Tử " là một truyện cổ tích thần kì, có nhiều dị bản đậm sắc thần kỳ"
Nó cũng thuộc đề tài về những kẻ hèn mọn "lấy tiên, lấy công chúa được kể qua nhiều truyện cổ
tích thần kì. Truyện "Chử Đồng Tử" cũng vậy. Chử Đồng Tử mò cua, bắt cá, nghèo khổ, một cái khố

cũng không có, nhưng rất hiếu thảo, chân thật. Hạnh phúc cầm tay rồi mà chàng vẫn bối rối, muốn
chối từ. Với Tiên Dung thì nàng "gặp" và lấy Chử Đồng Tử là do "duyên trời run rủi", là " tự trời xe
duyên". Qua đó, ta thấy truyện Chử Đồng Tử nói lên quan niệm của nhân dân ta về vấn đề hôn nhân là

10
do duyên số, đồng thời thể hiện ước mơ tự do và dân chủ trong tình yêu, trong xây dựng hạnh phúc
lứa đôi. Tiên Dung đã chủ động kết duyên với Chử Đồng Tử vượt qua lễ giáo và đẳng cấp, vượt qua
mọi thử thách để bảo vệ hạnh phúc.
Tình tiết Chử Đồng Tử cưỡi rồng xuống hạ thế giúp Triệu Việt Vương chiếc vuốt rồng linh nghiệm
để quân ta chém được tướng giặc là Dương Sằn, Tổ quốc được giải phóng, đã làm cho truyện cổ tích
này thêm vị truyền thuyết thể hiện sâu sắc lòng yêu nước của nhân dân ta. Con người Việt Nam dù
đi đâu làm đâu cũng nhớ về cội nguồn, tìm mọi cách để giúp nước. Chử Đồng Tử và Tiên Dung đã
sống và hành động như vậy.
Nhà sư Phật quang, cái nón và chiếc gậy nhiệm màu, cung điện tự mọc lên, tự mất đi, Chử Đồng
Tử và Tiên Dung bay lên trời, Chử Đồng Tử giúp Triệu Quang Phục cái vuốt rồng đó là yếu tố
hoang đường, kì diệu làm cho truyện cổ tích này vô cùng hấp dẫn. Các địa danh: làng Chử Xá, bãi
Tự Nhiên, đầm Nhất Dạ nay vẫn còn đó, làm cho truyện cổ tích "Chử Đồng Tử" tuy mang màu sắc
hư ảo, thần kì mà như thật, có thật. Rất thú vị về những tên người, tên đất ấy.

 Trầu cau
Tóm tắt

Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao sinh được hai người con trai giống nhau như hai giọt nước,
thật khó phân biệt ai là anh, ai là em. Khi hai anh em đến tuổi 17, 18 thì cha mẹ đều qua đời cả. Anh
em lại càng yêu thương nhau nhiều hơn.
Hai anh em đến xin học ông đạo sĩ họ Lưu. Thấy hai anh em chăm chỉ học hành, lại đứng đắn nên
thầy quý như con. Ông đạo sĩ có một cô con gái xinh đẹp tươi giòn, tuổi đã 16, 17 sinh lòng yêu mến
hai chàng trai, muốn kết duyên với người anh như không thể phân biệt được người nào là anh, người
nào là em. Sau đó, cô mới nghĩ ra một kế: dọn 2 bát cháo mà chỉ đặt một đôi đũa rồi mời hai anh em
cung ăn. Người em lễ phép nhường đôi đũa cho người anh ăn trước. Cô gái xinh đẹp xin phép cha

mẹ cho được lấy người anh làm chồng.
Từ ngày lấy vợ, người anh hình như dồn tất cả tình yêu cho vợ nên tình cảm anh em không còn
được thắm thiết như trước nữa. Người em buồn tủi vô cùng. Một lần đi nương về, trời đã tối, cô gái
họ Lưu từ buồng ra gặp người em tưởng là chồng, vội ôm chầm lấy. Người em vội kêu lên, cả hai
đều xấu hổ. Còn người anh thì lại nghi ngờ chị dâu và em chồng có tình ý gì nên càng hững hờ với
em hơn trước.
Một buổi chiều, ở nhà một mình, trống vắng, buồn tủi, cô đơn, người em đã bỏ nhà ra đi, đi mãi
vào tận khu rừng âm u. Trời tối mịt, người em vẫn đi. Trăng đã lên. Phía trước là một con suối rộng,
sâu, nước xanh biếc, chẳng lội qua được. Chàng ngồi bên bờ suối mà khóc, khóc mãi. Sương khuya
lạnh thấm vào cõi lòng cô đơn. Chàng chết mà vẫn trơ trơ, biến thành một tảng đá.
Thấy em bỏ nhà ra đi mãi chưa về, người anh đi tìm em. Lại ngồi trước con suối, người anh rầu rĩ
than khóc, ngất đi rồi chết cứng, hoá thành một cây không cành mọc thẳng đứng bên tảng đá. Người
vợ lại bỏ ra đi tìm chồng, tìm em. Lạ thay người lại đi theo con đường vào rừng xanh, cũng đến bờ
suối, ngồi cạnh tảng đá, dưới gốc cây. Nàng vô cùng đau khổ khóc than, mình gầy xác ve, chết tự lúc
nào, biến thành một cây leo quấn chặt lấy cái cây không cành mọc bên tảng đá.
Trong vùng, ai cũng thương tâm. Một lần vua Hùng đi qua con suối ấy, nhân dân đem truyện ba
người kia kể lại cho vua nghe. Vua bảo thử lấy quả ở cây không cành nghiền với lá cây leo thì một
mùi thơm toả ra; nhai thử thấy thơm ngon đậm đà và nhổ vào tảng đá, lạ chưa bãi nước biến thành
sắc đỏ. Nhân dân đặt tên cây không cành ấy là cây cau, cây dây leo là cây trầu, lại lấy tảng đá nung
lên cho xốp để ăn với trầu, cau cho thơm miệng, đỏ môi.

11
Tục ăn trầu của dân ta có từ đấy. Trầu cau không thể thiếu trong lễ hội, trong cưới xin Mỗi lần
khách đến chơi nhà "miếng trầu là đầu câu chuyện" làm cho tình nghĩa thêm đẹp và đằm thắm, đậm
đà.

Phân tích

1. Ý nghía
Truyện "Trầu cau" là một trong những truyện cổ tích thần kì sớm nhất ở Việt Nam. Truyện đã giải

thích một cách nên thơ, cảm động, với bao tình tiết đậm đà chất trữ tình tục ăn trầu- một mĩ tục dân
gian, biểu hiện một nét đẹp truyền thống lâu đời giàu bản sắc của nền văn hoá Việt Nam. Đồng thời
truyện còn ca ngợi tình nghĩa thắm thiết, thuỷ chung của anh em, vợ chồng trong gia đình.
Cái chết của ba người-hai anh em họ Cao và cô gái họ Lưu- chỉ là một sự hoá thân kì diệu:cau -
trầu - vôi. Cây cau toả bóng chở che cho hòn đá, cây trầu quấn chặt lấy thân cau. Cũng như trầu với
cau ăn với tí vôi làm cho miệng thơm môi đỏ. Trầu cau đã gắn bó với lễ hội cổ truyền, trong thù tiếp
của cộng đồng người Việt xa xưa.
2. Lời bình
Dị bản thành văn của truyện "Trầu cau" xuất hiện ở thế kỷ 15 trong "Lĩnh Lam chích quái" (Truyện
Cây Trầu). Nhưng như thế là rất muộn so với nội dung xã hội được phản ánh trong truyện. Mằc dù
các tác giả "Lĩnh Lam chích quái" có cố gắng tô điểm lại thêm đôi nét cho thích hợp với quan điểm
đạo đức thời phong kiến, dị bản này vẫn bảo lưu được cái cốt lõi rất cổ của truyện kể. Đó là một kiểu
truyện kể về sự xung đột của hai quan điểm vì hình thái hôn nhân: một thuộc chế độ quần hôn (anh
em lấy chung một vợ) thời mẫu hệ và một thuộc chế độ hôn nhân và gia đình lứa đôi thời phụ hệ.
Sự xung đột đó phản ánh một bước tiến xã hội và thể hiện thành tâm trong đau khổ giằng xé giữa
tình anh em và tình yêu trai gái ở trong từng nhân vật của truyện. Tâm trạng ấy đưa đến cái chết sầu
muộn của cả ba người thật là cảm động. Kiểu truyện này phổ biến khắp vùng Đông Nam Á.
Nhưng cũng như ở nhiều nơi khác, truyện cổ tích thần kì Việt Nam đã lồng đề tài xã hội vào đề
tài thiên nhiên, đã kết thúc bằng đồng nhất các quan hệ tình cảm kia với sự hài hoà của thiên nhiên
(trầu, cau, vôi) gợi nên niềm thương cảm gắn bó giữa những con người chân thành với nhau, cũng là
một nội dung văn hoá lành mạnh của tục ăn trầu ở Việt Nam hàng ngàn năm qua.
Cao Huy Đỉnh
(Tìm hiểu tiến trình văn hoá dân gian Việt Nam)
 Tiễn dặn người yêu
Tóm tắt

"Tiễn dặn người yêu" là một truyện thơ dài 1846 câu của người Thái ở Tây Bắc nước ta. Truyện
kể về một mối tình chung thuỷ của lứa đôi, trải qua nhiều trắc trở đắng cay, cuối cùng cũng đoàn tụ.
Cốt truyện như sau:
Chàng trai nhà nghèo yêu một cô gái. Hai người có bao kỷ niệm đẹp êm đềm và từng gắn bó thề

nguyền:"Sông Đà cạn bằng chiếc đũa hãy quên". Anh nhờ người mối lái, lo lễ vật đến xin ở rể, nhưng
bố mẹ cô gái chê anh nghèo, không nhận lời. Cô bị bố mẹ ép gả cho một người con trai giàu có. Cô
kêu van chú thím anh chị em trong nhà, kêu van đến cả chim cu, nhưng ai cũng không giúp được,
"dẫu van xin bố mẹ cũng không buông, không tha".
Người con trai nhà giàu đến ở rể. Người yêu của cô đau khổ, phẫn chí bỏ nhà đi buôn, hy vọng trở
nên giàu có, sẽ trở về giành lại người yêu.
Trước lúc ra đi, cô trao lại người yêu chiếc đàn môi hẹn ngày tái ngộ. Cô mòn mỏi chờ trông mà
người yêu đi mãi vẫn chưa về. Năm tháng đã trôi qua, người con trai nhà giàu đã hết hạn "ở rể ngoài"
và được làm "rể trong". Hết hạn ở rể, cô phải về nhà chồng. Cùng lúc ấy, người yêu trở về, anh tiễn

12
chị đi. Đôi bạn tình bịn rịn, không muốn rời nhau. Anh tiễn người tình trước lúc chia tay: " Không
lấy được nhau thời trẻ" thì hãy lấy nhau "khi goá bụa về già".
Mấy năm sau, chị bị nhà chồng đuổi về nhà cha mẹ đẻ vì theo họ, chị không thể nào trở thành "vợ
hiền, dâu thảo". Rồi cha mẹ chị bán chị cho một nhà quan. Chị đau khổ như điên như dại. Gia đình
nhà quan đưa chị ra chợ bán với giá bán một cuộn dong. Người mua chị lại chính là người yêu cũ,
nay đã trở nên giàu có và đã có vợ. Chị đã quá thay đổi, anh chẳng nhận ra chị được nữa. Chị đem
đàn môi ra gảy. Anh chợt nhận ra chị qua tiếng đàn môi não nùng. Anh thu xếp cho người vợ trước
trở về nhà cha mẹ mình rồi cưới chị làm vợ như lời nguyền ngày trước.

Thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa

1. Đoạn thơ ghi lại tâm trạng hoảng hốt, đau khổ của cô gái Thái khi bị cha mẹ ép duyên.
- Đó là một buổi chiều, cô đang kiếm củi trên nương. Cô vừa hái củi vừa nghĩ đến người yêu: "
một bó dành nhen lửa sàn hoa - Lứa sàn hoa để bạn trai xa hơ áo - Em chỉ đón chờ mồi thuốc anh
yêu". Cô mơ ước "Hỡi vía anh yêu, về nhà theo nhau". Mặt trời được nhân hoá như đang đối thoại
với cô gái, mặt trời "qua sàn người thương", lúc "sắp lặn", lúc "khuất mây mờ", mặt trời "không
gọi không chờ", - chẳng khác nào chàng trai - người yêu của cô.
Gánh củi về nhà, cô ngạc nhiên nhìn thấy gói cà, gói xôi, gói thuốc lào Lúc đầu cô tưởng là hàng
hoá của người Xá mang tới đổi bán. Khi biết là sính lễ "ràng cuốn tình con", cô luống cuống hoảng

sợ, đau khổ "lập cập chạy ra sân" "nát ruột gan" nghĩ về người yêu. Kêu van bác trai, bác gái, chú
thím, chị em dâu rể, ai cũng bảo: "Không giúp nổi cháu ơi", "không giúp được em ơi!" Nghe chim cu
khuyên giải: "Bố gả chồng cho, đừng chối cô à!".
Như một định mệnh "dầu van xin cha cũng không buông không thả", cô gái tủi thân, tủi phận, than
khóc:
"Ngẫm thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa.
Bằng con chẫu chuộc thôi!"
2. Ý nghĩ, giá trị
- Đoạn thơ phản ánh tục lệ ép duyên, lên án lễ giáo phong kiến về hôn nhân đã chà đạp lên tình
yêu hạnh phúc của người phụ nữ. (Thái)
- Đoạn thơ có giá trị nhân đạo, thể hiện sự đồng cảm đối với nỗi đau khổ của người con gái bị ép
duyên.

 Vượt biển
Tóm tắt

"Vượt biển" là một truyện thơ dân gian Tày, Nùng, dài chừng 1.000 câu thơ. Tiếng Tày, Nùng gọi
là "Khảm hải". Truyện được lưu truyền rộng rãi ở vùng xung quanh hồ ba bể, tỉnh Bắc Cạn. Các thầy
cúng xưa nay vẫn đọc "Vượt biển" trong những buổi lễ cầu hôn, cầu mát nghe rất não nùng, ai oán.
Có thể tóm tắt truyện thơ "Vượt biển" như sau:
Có hai anh em nhà kia mồ côi, lúc nhỏ rất yêu thương nhau. Sau khi người anh lấy vợ, rồi giàu có.
Người anh trở nên nhạt nhẽo và bỏ mặc em sống nghèo đói lam lũ, rách rưới. Chị dâu thương tình vá
áo cho đứa em chồng. Lưng áo rách của em đã in những ngón tay chàm của chị dâu. người anh đi
làm về nhìn thấy vết tay chàm trên lưng áo em, ghen tức.
"Chém đầu em treo ngọn cọ,
Chặt chân em treo ở ngọn vông".
Em chết đau đớn, oan khuất. Linh hồn không nơi lưng tựa, bơ vơ. Rồi bị các quan slay ở âm phủ
bắt làm sa dạ sa đồng - phu chèo thuyền trên biển ma. Mỗi lần vượt biển là phải trải qua một hải trình

13

dài 12 rán nước, đay thuỷ quái, mặt biển réo sôi. Các sa dạ sa đồng lúc thì cất tiếng than hãi hùng,
lúc thì hối hả gọi nhau chèo gấp. Lúc các slay lên bờ kéo vào chợ Đường Chu (chợ xứ ma của Diêm
Vương), sa dạ ngồi trên bờ biển than khóc, khiếp sợ nghĩ đến cảnh phải vượt biển trở lại tiếp theo

Phân tích đoạn thơ "Chèo thuyền vượt biển"

Ở dương gian, người em trải qua nhiều cái khổ: mồ côi, cô đơn, đói rách, bị anh giết chết một cách
dã man và oan uổng. Xuống địa ngục lại trở thành sa dạ sa đồng, phải trèo thuyền vượt qua biển dữ,
biển ma. Hải trình là 12 rán nước, mỗi rán nước là một cửa tử, rùng rợn vô cùng. Phép liệt kê tăng
cấp cùng với tiếng than khóc, tiếng biển sôi, biển réo tạo nên cảnh chết vô cùng hãi hùng! Rán thứ
chín "mặt biển nước sôi gầm réo", rán thứ mười "nước trời băng băng, làm cho con thuyền "cánh dầm
tung bốn góc". Rán thứ mười một "sóng đuổi sóng xô đi", v.v… Thuỷ quái, nhất là con "ngọ lồm" -
quỷ biển ma - đón đường cắn xé sa dạ sa đồng. Phu chèo thuyền kinh hãi, cất tiếng khóc than:
"Biển ơi, đừng giết tôi
Nước hỡi, đừng lôi lấy thuyền".
Họ gọi nhau "chèo mau lên, chèo cố" giữa biển ma mịt mù và cái chết nơi cõi âm bủa vây.
Các slay - quan quân lên bờ, có người "ôm hoa", "ôm hương", có người "cầm nón", "cầm ô", "xách
giầy hoa giầy đẹp", gánh gồng bao của quý "đi lễ người". Còn các sa dạ sa đồng, hồn ma của người
em bất hạnh ngồi trên bờ biển càng cảm thấy cô đơn, nghĩ đường về nhà kinh hãi:
"Chèo thuyền qua lò than, qua biển
Nhìn đường về, nước cuộn ầm rung".
Hết rán nước này qua rán nước khác, chèo thuyền đi rồi lại chèo thuyền về trên biển ma - kết cấu
chuyển dịch nhằm diễn tả những kiếp người luân hồi đau khổ. "Vượt biển" qua giọng đọc và khấn
cầu của thầy cúng, ai đã một lần được nghe mới súc động trước âm điệu thê thiết não nùng, mới cảm
thấy cái khủng khiếp của bể trầm luân và thương sót với những kiếp người đau khổ, bất hạnh. Truyện
thơ "Vượt biển" là tiếng kêu đau thương từ cõi âm vọng về cõi dương. Đó là nội dung nhân đạo của
nó.

Bài ca người thợ mộc


Anh là thợ mộc Thanh Hoa,
Làm cầu, làm quán, làm nhà khéo thay!
Lựa cột anh dựng đòn tay,
Bào trơn đóng bén nó ngay một bề.
Bốn cửa anh chạm bốn dê
Bốn con dê đực chầu về tổ tông,
Bốn cửa anh chạm bồn rồng,
Trên thì rồng ấp, dưới thì rồng leo.
Bốn cửa anh chạm bốn mèo,
Con thì bắt chuột, con leo xà nhà.
Bốn cửa anh chạm bồn gà,
Đêm thì nó gáy, ngày ra ăn vườn.
Bốn cửa anh chạm bốn lươn,
Con thì thắt khúc, con trườn bò ra.
Bốn cửa anh chạm bốn hoa,
Trên là hoa sói, dưới là hoa sen.
Bốn cửa anh chạm bốn đèn,
Một đèn dệt cửi, một đèn quay tơ.

14
Một đèn đọc sách ngâm thơ,
Một đèn anh để đợi chờ nàng đây.
Lời bình
Tục ngữ có câu: "Thợ mộc xứ Thanh ở quanh Kinh kì", hoặc: "Thợ mộc xứ Thanh ở quanh Thuận
Quảng". Thợ mộc dù giỏi đến đâu cũng chỉ được gọi là phó cả. Thợ mộc làm cung điện vua chúa mới
được gọi là thợ cả. Xây dựng cung điện thời Lê - Thịnh, thời Nguyễn sau này, phần lớn là thợ mộc
Thanh Hoá. Câu đầu của bài ca dao này có dị bản ghi là "Anh làm thợ mộc Thanh Hoa". Theo ý
chúng tôi là “Anh là thợ mộc Thanh Hoa”; một chữ là biết mấy tự hào khi chàng trai xưng danh với
cô gái. Không phải thợ mộc tầm thường mà là thợ mộc Thanh Hoa xây dựng cung điện đấy nhé! Hai
chữ "khéo thay" cũng là lời tự khen, khoe tài của anh: "Làm cầu, làm quán, làm nhà khéo thay"!

Có tài thực mà khoe khoang thì cũng chẳng hay ho gì! Ở đây, chàng thợ mộc Thanh Hoa khoe tài là
để tỏ tình với cô gái mà anh đang yêu, nên rất dễ thương, được chúng ta đồng tình.
Câu 3,4 chỉ theo đà mà nói, chứ có tài cán gì ở cái việc "bào trơn, đóng bén" Từ câu thứ năm trở
đi, bằng biện pháp liệt kê, chàng thợ mộc khoe tài chạm trổ của anh. Năm bức chạm con vật: dê, rồng,
mèo, gà, lươn. Hai bức chạm cảnh: hoa và đèn. Có bức chạm tứ linh: rồng, nhưng đã được cách điệu
dân gian hoá, bình dị hoá.
"Trên thì rồng ấp, dưới thì rồng leo"
Con lươn có gì đáng chạm? Với tài nghệ điêu luyện, bức chạm lươn vô cùng sống động, tuyệt
khéo:
"Bốn cửa anh chạm bốn lươn
Con thì thắt khúc, con trườn bò ra".
Nghệ thuật cổ phương Đông lấy cái cân xứng làm thành một tiêu trí của cái đẹp. Hội hoạ, chạm
trổ, kiến trúc, thơ văn hay miêu tả cảnh vật qua bộ tứ bình: tùng, cúc, trúc, mai; xuân, hạ, thu, đông;
ngư tiều, canh, mục nghệ sĩ lấy cái đối xứng, cái hài hoà làm trọng. Trong bài ca dao này, các tiểu
đối đã làm rõ vẻ đẹp bức chạm đầy mĩ thuật của chàng thợ mộc:
- Trên thì rồng ấp // dưới thì rồng leo.
- Con thì bắt chuột // con leo xà nhà.
- Đêm thì nó gáy // ngày ra ăn vườn.
- Con thì thắt khúc // con trườn bò ra.
- Trên là hoa sói // dưới là hoa sen.
- v.v
Cái hồn của bức chạm 5 con vật được thể hiện ở trạng thái động: " Chầu về tổ tông", "rồng ấp rồng
leo", "bắt chuột leo xà nhà", "gáy ra ăn vườn", "thắt khúc trườn bò ra".
Tất cả các bức chạm đều cho thấy anh thợ mộc là con một người rất tài hoa.
Anh còn là một chàng trai đa tình. Làm nghề thợ mộc dù giỏi đến mấy cũng thuộc vị thế tầm
thường qua sự xếp đặt 4 lớp người trong xã hội phong kiến. Bức chạm hoa - hoa sói , hoa sen - là một
ngầm ý: khoe tâm hồn thanh cao. Chàng trai đang tỏ tình không phải là loại người vai u thịt bắp đâu
nhé! Bức chạm đèn mới thật kì diệu. Hai ngọn đèn cho người khéo tay hay lam hay làm - chính là cô
gái - để dệt vải, để quay tơ. Đèn thứ ba, để cho ai, "đọc sách ngâm thơ"? Một con người nho nhã đang
tỏ tình với nàng. Ngọn đèn thứ tư là ngọn đèn hạnh phúc:

"Một đèn anh để đợi chờ nàng đây".
Có thể nói bức chạm đèn rất đẹp, đẹp về mặt mĩ thuật, đẹp ở tâm tình chàng thợ "mộc", đó là một
con người luôn luôn hướng về một cuộc sống lao động, êm đềm hạnh phúc của lứa đôi trong mỗi gia
đình Việt Nam.
Cấu trúc bài ca dao cân xứng, hài hoà. Giọng điệu hồn nhiên tự tin và chân thành. Chàng thợ mộc
Thanh Hoa là một chàng trai tài hoa và đa tình: Anh là một con người dễ mến dễ thương.

Tát nước đầu đình

15

Hôm qua tát nước đầu đình,
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen.
Em được thì cho anh xin,
Hay là em để làm tin trong nhà.
Áo anh sứt chỉ đường tà,
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu.
Áo anh sứt chỉ đã lâu,
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng.
Khâu rồi anh sẽ trả công,
Đến khi lấy chồng anh sẽ giúp cho.
Giúp cho một thúng sôi vò,
Một con lợn béo, một vò rượu tăm.
Giúp cho đôi chiếu em nằm,
Đôi chăn em đắp, đôi trằm em đeo.
Giúp cho quan tám tiền cheo,
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.
Lời bình
"Tát nước đầu đình" là bài ca dao tỏ tình của anh trai cày với cô gái thôn nữ. Đã có bài "Mận hỏi
Đào" Cũng có cảnh thổ lộ tình yêu một cách mộc mạc:

"Gặp đây anh lắm cổ tay,
Anh hỏi câu này, có lấy anh không?"
Bài ca dao "Tát nước đầu đình" cho thấy, anh trai cày này dễ thương hơn. Gặp cô thôn nữ chắc anh
đã "phải lòng" rồi, anh lấy cớ "mất áo" để bắt chuyện. Sen làm gì có cành, đó chỉ là cách nói cho đậm
đà. Cô gái bị buộc vào một cảnh ngộ "khó xử":
"Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà"
Chiếc áo đã trở thành "cái cầu" thương nhớ! Thật là hồn nhiên, tự nhiên. Cô thôn nữ chắc là đã
"Lắng nghe lời nói như ru - Chiều thu dễ khiến nét thu ngại ngùng" (Kiều). Bỏ đi sao đành, khi nghe
chàng thổ lộ gia cảnh:
"Áo anh rứt chỉ đường tà,
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu"
Cái áo đã đi trọn một vòng đời khi anh nói: "Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng". Anh đang chăn
đơn gối chiếc, thiếu kẻ sửa túi nâng khăn. Anh chỉ có mẹ già, "mẹ già bằng ba lần cửa", "mẹ già như
chuối ba hương - như xôi nếp mật như đường mía lau" (ca dao).
Cảnh ngộ ấy, ai nghe mà chẳng động lòng. Từ chỗ gọi bằng "em", chàng trai cày chuyển sang gọi
bóng gió: "cô ấy".
Chàng trai nói về chuyện "trả công", nói về chuyện "giúp cho". Rất hậu hĩnh: "một thúng xôi vò",
"một con lợn béo", "một vò rượu tăm". Cũng với lời nói, đến đây, khoé mắt, đôi mày, nụ cười, mái
tóc như đều biết nói, cùng tham dự vào cuộc tỏ tình. Mỗi lúc một hé lộ, cánh cửa tâm tình mở rộng
dần ra. Từ "một" đã thành "đôi" rồi:
"Giúp em đôi chiếu em nằm
Đôi chăn em đắp, đôi trằm em đeo"
Bài ca dao, "bức thông điệp của tình yêu" đã thấm sâu vào tâm hồn người thiếu nữ khi bên tai nàng
một tiếng nói chân tình vang ngân:
"Giúp cho quan tám tiền cheo,
Quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau".

16
Các điệp từ, điệp ngữ: "giúp cho giúp cho " tạo nên ngữ điệu nồng nàn, ý vị, thiết tha, thể hiện

một cách chân thành nỗi ước mơ nên vợ nên chồng mà chàng trai cày đang hướng tới.
Cho chim khoe giọng hót. Anh thợ mộc Thanh Hoa khoe tài. Chàng trai cày nói chuyện bỏ quên
cái áo "sứt chỉ đường tà" v.v… Trai gái làng xưa đã tỏ tình, đã giao duyên đậm đà như vậy.
Lao động, hạnh phúc lứa đôi, cuộc sống êm đềm hạnh phúc "chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa",
là ước mong, khát vọng muôn đời của họ. Chân thành, tế nhị của chàng trai trong tỏ tình, trong
giao tiếp là một nét rất đẹp trong tâm hồn để ta trân trọng.

II- Phần thứ II- Văn học VN từ TK X đến TK XIX:
Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX tồn tại và phát triển trong lòng xã hội và văn
hoá phong kiến được gọi là Văn học trung đại Việt Nam.

1, Khái quát về văn học VN từ TK X đến TK XIX:

Các giai đoạn phát triển

1. Giai đoạn từ thế kỷ X đến thế kỷ XV.
- 3 cuộc kháng chiến vĩ đại: thời Lý đánh bại giặc Tống; thời Trần ba lần đánh thắng giặc Nguyên
- Mông; thời Lê đánh đuổi quân "cuồng Minh" tàn bạo.
- Chịu ảnh hưởng tư tưởng của đạo Phật, đạo Nho và đạo Lão; sâu sắc nhất và bao trùm nhất là đạo
Nho.
- Văn học Hán Nôm thấm nhuần tư tưởng yêu nước và tinh thần dân tộc, ý chí chống xâm lăng.
Tác giả tiêu biểu nhất: Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông.
2. Giai đoạn từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVIII.
- Chế độ phong kiến khủng hoảng. Nội chiến Nam - Bắc triều; Trịnh - Nguyễn phân tranh. Khởi
nghĩa nông dân nổi lên như vũ bão.
- Văn thơ chữ Nôm phát triển mạnh. Cảm hứng nhân đạo dào dạt nói lên nỗi đau thương của con
người, biểu lộ tấm lòng thương dân lo đời.
Tác giả tiêu biểu nhất là Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ
3. Giai đoạn từ nửa sau thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX.
Chế độ phong kiến Việt Nam (cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài) khủng hoảng trầm trọng và sụp đổ.

Khởi nghĩa nông dân Tây Sơn quét sạch thù trong giặc ngoài. Gia Long thiết lập triều Nguyễn. Nước
ta rơi vào hiểm hoạ xâm lăng của thực dân Pháp.
- Thiên chúa giáo được truyền vào nước ta. Chữ quốc ngữ xuất hiện.
- Văn học viết Hán, Nôm phát triển rực rỡ. Chủ nghĩa nhân đạo thấm đẫm văn chương. "Chinh phụ
ngâm", "Cung oán ngâm khúc","Truyện kiều" là những áng thơ kiệt tác. Tên tuổi những nữ sĩ Đoàn
Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan sáng chói cùng với Nguyễn Du, Nguyễn Công
Trứ, Cao Bá Quát
4. Giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX.
- Thực dân Pháp xâm lăng, rồi thống trị nước ta. Phong trào yêu nước chống Pháp.
- Bắt đầu có văn thơ viết bằng chữ quốc ngữ. Giai đoạn cuối cùng của văn học chữ Nôm.
Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương là những nhà thơ tiểu biểu nhất giai đoạn
này.
Mấy đặc điểm lớn về nội dung

1. Cảm hứng yêu nước.
2. Cảm hứng nhân đạo.


17
Mấy đặc điểm lớn về hình thức

1. Yếu tố Hán và yêu cầu dân tộc hoá hình thức văn học.
2. Tính quy phạm và việc phá vỡ tình quy phạm.
3. Phạm vi và quy mô kết tinh nghệ thuật của văn học.


Ngôn hoài
Không Lộ Thiền sư

Trạch đắc long xà địa khả cư,

Dã tình chung nhật lạc vô dư.
Hữu thì trực thượng cô phong đính,
Trưởng khiếu nhất thanh hàn thái hư.
Tỏ lòng
Kiều đất long xà chọn được nơi
Tình quê nào chán suốt ngày vui.
Có khi đỉnh núi trèo lên thẳng
Một tiếng kêu vang lanh cả trời.
Phan Võ dịch
Tác giả

Không Lộ Thiền sư (?- 1119) là Phật danh, họ Dương, quê ở Nam Định, vùng biển. Đức trọng tài
cao, tên tuổi gắn liền với nhiều giai thoại nhà chùa và hai bài tứ tuyệt: "Ngôn hoài", "Ngư nhàn".

Chủ đề

"Ngôn hoài"- giãi bày nỗi lòng của vị Thiền sư - thi sĩ - tình yêu đời chan hoà với tình yêu quê
hương, yêu thiên nhiên tạo vật.

Phân tích

Hai câu đầu nói lên niềm vui dào dạt "suốt ngày vui", đó là "dã tình", là mối tình quê nhà, đồng
ruộng, núi rừng. Vui vì chọn được "kiểu đất long xà" rất đẹp, rất thích để làm nhà. Niềm vui ấy bình
dị như mọi người. Không Lộ tuy là một vị Thiền sư nhưng không thoát tục, vui niềm vui bình dị, yêu
tình yêu quê hương.
Hai câu 3, 4 thể hiện khí phách và sự chan hoà của nhà thơ giữa thiên nhiên cao rộng, trèo thẳng
lên đỉnh núi cao rồi kêu lên một tiếng thật to và dài trấn động cả bầu trời, vũ trụ. Chữ dùng thật hay,
biểu lộ một chí khí. Một tâm thế hào hùng, kỳ lạ :
"Hữu thì trực thượng cô phong đính,
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư"


Đọc thêm

Ngư nhàn
Vạn lý thanh giang, vạn lý thiên.
Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên.
Ngư ông thụy trước vô nhân hoán,

18
Quá ngọ tinh lai tuyết mãn thuyền.
Không Lộ Thiền sư
Cảnh thanh nhàn của ngư ông
Mây xanh nước biếc muôn trùng,
Dâu chen khói toả một vùng thôn quê.
Ông chài giấc ngủ đang mê,
Quá trưa tỉnh dậy tuyết che đầy thuyền.
Đinh Văn Chấp dịch
(Tạp chí Nam Phong 1927)

Tụng giá hoàn kinh sư

Trần Quang Khải
Doạt sóc Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang sơn
Phò giá về kinh
Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm tử bắt quân thù
Thái Bình nên gắng sức

Non nước ấy nghìn thu
Trần Kim Trọng dịch
(Việt Nam sử lược)

Tác giả

Trần Quang Khải (1241 - 1294) là thượng tướng, có công lớn trong cuộc kháng chiến (lần thứ 2
và lần thứ 3) đánh thắng giặc Nguyên – Mông. Học rộng, giỏi thơ văn, có tài thao lược và ngoại giao.
Ông có tập thơ "Lạc đạo", nổi tiếng nhất là bài thơ "Tụng giá hoàn kinh sư"

Xuất xứ chủ đề

1. Tháng 4/1285, Trần Nhật Duật chém đầu Toạ Đô tại Hàm Tử quan. Tháng 6/1285, Trần Quang
Khải đại phá giặc Nguyên Mông tại Chương Dương độ, tiến lên giải phóng Thăng Long. Bài thơ
"Tụng giá hoàn kinh sư "được viết sau chiến thắng Chương Dương độ.
2. Bài thơ biểu lộ niềm tự hào, niềm vui thắng trận và nói lên khát vọng đem tài trí xây dựng đất
nước thanh bình bền vững muôn đời.

Phân tích

Bài thơ được viết theo thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt. Hai câu đầu bình đối như hai trang kí sự chiến
trường. Vị ngữ "đoạt sóc" (cướp giáo) và "cầm Hồ" (bắt giặc Mông Cổ) được đặt ở đầu câu, thể hiện
hai thế đánh, hai cú đánh liên tiếp giáng xuống đầu giặc với sức mạnh "Sát Thát" của tướng sĩ thời
Trần. Chương Dương độ và Hàm Tử quan, hai địa danh, hai chiến công đã được ghi vào sử sách và
thơ ca dân tộc trở nên trường tồn, chói lọi:
"Đoạt sóc Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan "

19
Câu thơ như một bản tin chiến sự, có một sức nén và vang xa, dạt dào tự hào. Phải là người tham

dự, chỉ huy trận đánh mới viết hàm súc và đĩnh đạc, hào hùng như vậy.
Hai câu cuối, một ý thơ mới xuất hiện. Trong khói lửa chiến trường, trong niềm vui chiến thắng giải
phóng kinh thành Thăng Long trên đống tro tàn do lũ giặc gây ra, nhà thơ nghĩ đến nhiệm vụ mới:
"Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san”
Trước mắt mọi người, từ vua tôi, tướng sĩ đến trăm họ, toàn dân, ai ai cũng phải đem tài trí sức
lực, của cải (trí lực) để xây dựng giang san đất nước bền vững trong thanh bình đến muôn đời. Nhãn
quan chính trị của Trần Quang Khải vô cùng sáng suốt. Câu thơ trên có ý nghĩa thời sự đối với chúng
ta hiện nay.
Tóm lại, "Tụng giá hoàn kinh sư" là bài thơ kiệt tác. Bản dịch của tác giả Trần Trọng Kim rất đặc
sắc.

Thuật hoài

Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.
Phạm Ngũ Lão
Tỏ lòng
Múa giáo non sông trải mấy thâu,
Ba quân hùng khí át sao Ngưu
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.
Trần Trọng Kim dịch.
(Việt Nam sử lược)

Tác giả

Phạm Ngũ Lão (1255-1320) quê ở làng Phù Ủng, Hải Dương. Là danh tướng thời Trần trăm trận

trăm thắng, văn võ toàn tài. Còn lưu lại hai bài thơ "Thuật Hoài" và "Vân thượng tướng quốc công
Hưng Đạo Đại Vương".

Chủ đề

Bài thơ "Thuật Hoài" nói lên chí khí và khát vọng công danh anh hùng của đấng nam nhi trong
thời loạn- khi Tổ Quốc bị xâm lăng.

Lời bình

Cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ thơ đanh thép hùng hồn. Trong đạo quân mạnh như hổ báo, chí khí
lẫm liệt làm át, làm mờ cả sao Ngưu trên bầu trời, thì người chiến sĩ thời Trần đã cầm ngang ngọn
giáo để bảo vệ giang sơn. Ngọn giáo ấy mang tầm vóc kì vĩ đo bằng kích thước non sông. Hình tượng
người anh hùng "Sát Thát" được thể hiện bằng ngôn ngữ tráng lệ, kì vĩ khác nào người anh hùng thần
thoại, người dũng sĩ trong sử thi xa xưa?

20
Người anh hùng thuở "Bình Nguyên" nung nấu trong lòng, cháy bỏng tâm hồn niềm khao khát:
đánh giặc lập công để đền ơn vua báo nợ nước. Mang nặng nợ công danh cũng là khát vọng anh hùng
cao đẹp. Tự tin và tự hào khi nhà thơ khẳng định.
"Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu"
Bài thơ là khúc tráng ca của người anh hùng Phạm Ngũ Lão trăm trận trăm thắng. Cùng với "Hịch
tướng sĩ " (Trần Quốc Tuấn), "Tụng giá hoàn kinh sư" (Trần Quang Khải) bài thơ "Thuật hoài" của
Phạm Ngũ Lão sáng ngời Hào khí Đông - Á.

 B ạch Đ ằng Giang Ph ú:
Tác giả

Trương Hán Siêu (?-1354), tự là Thăng Phủ, quê ở Ninh Bình. Vốn là môn khách của Hưng Đạo

Vương. Dưới triều Trần Anh Tông, Trần Dụ Tông, ông làm quan to trong triều. Lúc mất được truy
tặng Thái bảo, được thờ ở Văn Miếu.
Là bậc danh sĩ tài cao học rộng. Hiện còn để lại 4 bài thơ, 3 bài văn, nổi tiếng nhất là "Bạch Đằng
giang phú".

"Phú" là gì?

"Phú" nghĩa đen là bày tỏ, miêu tả, là thể văn xuôi có vần dùng để tả cảnh vật, phong tục, tính tình.
Phú được chia làm hai loại:
1. Phú cổ thể gọi là Phú lưu thuỷ, như một bài ca, hoặc một bài văn xuôi dài mà có vần.
2. Phú Đường luật là thể phú được đặt ra từ đời Đường vừa có vần vừa có đối, có luật bằng trắc
nghiêm nhặt.
Bố cục một bài phú gồm có 6 phần: 1, Lung; 2, Biện nguyên; 3, Thích thực; 4, Phu diễn; 5, Nghị
luận; 6, Kết.
Cách đặt câu trong một bài phú gồm có các kiểu sau: Câu tứ tự, câu bát tự, câu song quan, câu cách
cú, câu gối hạc.
Có hay chữ (tài giỏi), có tài hoa mới viết được phú. Cần hiểu thi pháp về phú mới cảm nhận được
cái hay của văn chương, tư tưởng của phú và văn tế

"Phú" là gì?

"Phú" nghĩa đen là bày tỏ, miêu tả, là thể văn xuôi có vần dùng để tả cảnh vật, phong tục, tính tình.
Phú được chia làm hai loại:
1. Phú cổ thể gọi là Phú lưu thuỷ, như một bài ca, hoặc một bài văn xuôi dài mà có vần.
2. Phú Đường luật là thể phú được đặt ra từ đời Đường vừa có vần vừa có đối, có luật bằng trắc
nghiêm nhặt.
Bố cục một bài phú gồm có 6 phần: 1, Lung; 2, Biện nguyên; 3, Thích thực; 4, Phu diễn; 5, Nghị
luận; 6, Kết.
Cách đặt câu trong một bài phú gồm có các kiểu sau: Câu tứ tự, câu bát tự, câu song quan, câu cách
cú, câu gối hạc.

Có hay chữ (tài giỏi), có tài hoa mới viết được phú. Cần hiểu thi pháp về phú mới cảm nhận được
cái hay của văn chương, tư tưởng của phú và văn tế

Những nét lớn cần biết

21

1. "Bạch Đằng giang phú" được viết theo thể phú lưu thuỷ, có vần, tác giả sử dụng phép đối nhiều
chỗ. "Bài ca cuối bài phú" là một sự sáng tạo. Nhân vật "khách" là nhân vật trữ tình - chính là nhà
thơ.
2. Đoạn tả cảnh sắc Bạch Đằng giang hùng vĩ tráng lệ bằng cảm hứng thiên nhiên chan hoà với
cảm hứng lịch sử là đoạn hay nhất:
"Bát ngát sóng kình muôn dặm
Thướt tha đuôi trĩ một mầu
Nước trời: một sắc
Phong cảnh: ba thu
Bờ lau san sát
Bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gẫy
Gò đầy xương khô "
3. Bô lão xuất hiện cuộc đối thoại giữa "khách" và "bô lão" làm cho giọng điệu bài phú từ cảm xúc
trữ tình chuyển thành anh hùng ca. Nhà thơ tái hiện lại cảnh tượng chiến trường một thời oanh liệt -
trận thuỷ chiến trên sông Bạch Đằng:
"Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã.
Cũng là bãi đất xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoàng Thao.
Đương khi ấy
Thuyền bè muôn đội
Tinh kỳ phấp phới.
Tì hổ ba quân.
Giáo gươm sáng chói

Trận đánh thư hùng chửa phân,
Chiến luỹ Bắc, Nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi
( ) Đến nay sông nước tuy chảy hoài
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi"
4. Trận thuỷ chiến trên sông Bạch Đằng khác nào trận Xích Bích, trận Hợp Phì trong Bắc sử. Nhà
thơ tự hào khẳng định và ngợi ca:
"Quả là trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ nhân tài giữ cuộc điện an
( ) Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng
Bởi Đại Vương coi thế giặc nhan "
5. Bài ca về sông Bạch Đằng
Sông Bạch Đằng hùng vĩ, là mồ chôn quân xâm lược:
"Sông Đằng một giải dài ghê
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông."
Bài học giữ nước là bài học "đức cao" đó là lòng yêu nước, tinh thần đại đoàn kết chống xâm lăng.
Ý tưởng sâu sắc, tiến bộ:
"Giặc tan muôn thuở thanh bình
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao."

Tổng kết


22
"Bạch Đằng giang phú" là bài ca yêu nước và tự hào dân tộc. Ngôn ngữ tráng lệ. Dòng sông hùng
vĩ, hiểm trở. Dân tộc anh hùng có nhiều nhân tài hào kiệt. Nhà thơ thể hiện những tư tưởng sâu sắc
tiến bộ về vinh và nhục, thắng và bại, tiêu vong và trường tồn, đất hiểm và đức cao Đó là bài
học lịch sử sáng giá đến muôn đời.
Có những câu văn như một châm ngôn khẳng định một chân lí lịch sử.

"Những người bất nghĩa tiêu vong
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh"

 Th ơ v ăn Nguy ễn Tr ãi:
Cuộc đời Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi (1380-1442) hiệu là Ức Trai, người ở làng Nhị Khê, Thường Tín, Hà Tây. Là con của
Nguyễn Phi Khanh, cháu ngoại tướng công Trần Nguyên Đán. Đỗ Thái học sinh năm 1400. Năm
1407 giặc Minh xâm chiếm nước ta, cha bị giặc bắt đưa về Trung Quốc, Nguyễn Trãi bị giặc giam
lỏng tại thành Đông Quang.
- Nguyễn Trãi biệt Đông Quan, trốn vào Lam Sơn dâng "Bình Ngô sách" lên Lê Lợi, trở thành vị
quân sư "viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời".
- Năm 1428, ông thay lời Lê Lợi thảo "Bình Ngô Đại Cáo" sau đó được cử làm Chánh chủ khảo
khoa thi tiến sĩ đầu tiên của triều Lê và viết chiếu cầu hiền. Chẳng bao lâu sau, ông bị bọn nịnh thần
chèn ép, gièm pha. Nguyễn Trãi xin về Côn Sơn. Năm 1440, ông lại được vua vời ra giúp nước.
- Năm 1442 xẩy ra vụ án Lệ Chi Viên, ông bị kết án "tru di tam tộc". Mãi đến năm 1464, vua Lê
Thánh Tông mới minh oan cho ông và truy tặng ông tước Tán trù bá.
Nguyễn Trãi là người anh hùng thủa"Bình Ngô", văn võ toàn tài.

Sự nghiệp trước tác của Nguyễn Trãi

1. "Quân trung từ mệnh tập".
- "Bình Ngô Đại Cáo"
"Dư địa chí " "Lam Sơn thực lực"
"Phú núi Chí Linh", "Quốc âm thi tập", "Ức Trai thi tập",
- v.v
2. Nội dung thơ văn Nguyễn Trãi.
a) Tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước và thương dân sâu sắc
- Thương dân, trừng phạt kẻ có tội (điếu phạt) tiêu diệt quân tàn bạo hại nước hại dân (trừ bạo),
đem lại yên vui, hạnh phúc cho nhân dân (yên dân), đó là việc nhân nghĩa:

"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
- Sức mạnh nhân nghĩa là sức mạnh Việt Nam để chiến thắng thù trong giặc ngoài. Đó là "Đại
nghĩa" (nghĩa lớn vì nước vì dân), là lòng "chí nhân" (thương người vô hạn):
"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo"
- Lòng căm thù giặc sôi sục, quyết không đội trời chung với quân "cuồng Minh":
Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống
- Tư tưởng nhân nghĩa của Ức Trai luôn luôn gắn liền với lòng "trung hiếu" và niềm "ưu ái" (lo
nước, thương dân).
"Bui có một lòng trung lẫn hiếu

23
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen"
(Thuận hứng - 24)
"Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông"
(Thuật hứng - 5)
b) Văn thơ Nguyễn Trãi thể hiện tình yêu thắm thiết đối với thiên nhiên, đối với quê hương, gia
đình.
- Yêu thiên nhiên:
+ Yêu cây cỏ hoa lá, trăng nước mây trời, chim muông
"Hái cúc ương lan, hương bén áo
Tìm mai, đạt nguyệt, tuyết xâm khăn"
"Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yên hà nặng vạy then"
"Cò nằm, hạc lẩn nên bầy bạn
Ủ ấp cùng ta làm cái con"
+ Yêu quê hương gia đình:

" Ngỏ cửa nho, chờ khách đến
Trồng cây đức, để con ăn"
"Nợ cũ chước nào báo bổ
Ơn thầy ơn chúa liễn ơn cha"
"Quê cũ nhà ta thiếu của nào
Rau trong nội, cá trong ao"
+ Yêu danh lam thắng cảnh.
"Muôn hàng giáo ngọc tre gài cửa
Bao dải tua châu đá rủ mành"
(Đề chùa Hoa yên, núi Yên Tử)
"Một vùng biếc sẫm gương lồng bóng,
Muôn hộc xanh om tóc mượt màu"
(Vân Đồn)
"Kình ngạc băm vằm non mấy khúc
Giáp gươm chìm gẫy bãi bao tầng"
(Cửa biển Bạch Đằng)
c) Một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao.
"Một tầm lòng son ngời lửa luyện.
Mười năm thanh chức ngọc hồ băng"
"Nước biển non xanh thuyền gối bãi
Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu".
"Say minh nguyệt, chè ba chén
Thú thanh phong, lều một gian "
"Sách một hai phiên làm bậu bạn.
Rượu năm ba chén đổi công danh"
3. Nghệ thuật
- Văn chính luận như "Bình Ngô Đại Cáo" thì hùng hồn, đanh thép, sắc sảo, đúng là tiếng nói của
một dân tộc chiến thắng, một đất nước có nền văn hiến lâu đời.
- Thơ chữ Hán hàm súc, tinh luyện, thâm trầm. Thơ chữ Nôm bình dị mà tài hoa, thiết tha đằm
thắm. Thơ thất ngôn xen lục ngôn là một dấu ấn kì lạ của nền thơ chữ Nôm dân tộc.


24
Nguyễn Trãi là anh hùng dân tộc, nhà văn hoá vĩ đại, là đại thi hào dân tộc. Nguyễn Trãi còn là
ông tiên ở trong lầu ngọc mà tâm hồn lộng gió thời đại. Cuộc đời và thơ văn Nguyễn Trãi là bài ca
yêu nước, tự hào dân tộc.

Bình Ngô Đại cáo
Xuất xứ

Năm 1407, giặc Minh xâm lăng nước ta. Năm 1417, tại núi rừng Lam Sơn, Thanh Hoá, Lê Lợi
phất cờ khởi nghĩa xưng là Bình Định Vương. Trải qua mười năm kháng chiến vô cùng gian lao và
anh dũng, nhân dân ta quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi. Mùa xuân năm 1428 thay lời Lê Lợi,
Nguyễn Trãi thảo "Bình Ngô Đại cáo". Nó là một luận văn chính trị, quân sự, đồng thời là áng "thiên
cổ hùng văn"

Chủ đề

"Bình Ngô đại cáo" khẳng định sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt căm thù lên án tội ác ghê tởm của
quân "cuồng Minh", ca ngợi những chiến công oanh liệt thuở "Bình Ngô", tuyên bố đất nươc Đại
Việt bước vào kỷ nguyên mới độc lập, thái bình bền vững muôn thuở.

Phân tích

1. Đại Việt là một đất nước có truyền thống nhân nghĩa cao đẹp.
a) Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa, đem "quân điếu phạt" để tiêu diệt quân
cường bạo, vì độc lập của nước, vì sự yên vui hạnh phúc của nhân dân:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
b) Nguồn gốc của nhân nghĩa Đại Việt là nền văn hiến lâu đời. Đâu phải "Nam man" là "man di
mọi rợ". Như bọn hoàng đế phương Bắc thường láo xược phán truyền. Trái lại, Đại Việt là một quốc

gia "vốn xưng nền văn hiễn đã lâu". Nền văn hiến ấp hợp thành bởi các nhân tố:
- Có núi sông bờ cõi "đã chia", đã " định phận tại Thiên thư".
- Có thuần phong mĩ tục.
- Có nền độc lập vững bền: "Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập", "hùng cứ một phương".
- Lắm nhân tài hào kiệt.
- Có truyền thống anh hùng chống ngoại xâm, có những trang sử vàng chói lọi từng làm cho "Lưu
Cung thất bại", "Triệu Tiết tiêu vong", "bắt sống Toa Đô", "giết tươi Ô mã".
2. "Bình Ngô đại cáo" là bản cáo trạng đanh thép, đầy căm thù tội ác quân "cuồng Minh". Tác giả
đứng trên quan điểm nhân nghĩa mà lên án quân xâm lược.
- Giặc Minh tàn sát dã man nhân dân ta:
"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ"
- Tàn phá môi trường môi sinh, bóc lột vơ vét thậm tệ:
"Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi"
- Bắt dân ta xuống bể mò ngọc trai, lên rừng bẫy hươu đen gây ra bao thảm cảnh. Bọn thái thú,
bọn tướng tá Thiên triều như một lũ quỷ khát máu vô cùng ghê tởm: "Thằng há miệng, đứa nhe răng,
máu mỡ bấy no nê chưa chán!".
Tội ác của giặc Minh chồng chất như núi, đầy mưu mô xảo quyệt "dối trời, lừa dân gây binh, kết
oán". Một cách nói thâm xưng đầy căm thù, ám ảnh:

25
"Dơ bẩn thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Độc ác thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được?"
Từ xưa tới nay, chưa có nhà văn nào viết cụ thể mà khái quát tội ác xâm lược đối với nhân dân ta
như Nguyễn Trãi.
3. Nguồn sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt:
a. Lãnh tụ nghĩa quân là một anh hung xuất chúng:

"Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
( ) Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều".
b. Sức mạnh của lòng căm thù giặc và tinh thần đại đoàn kết dân tộc để chiến thắng quân xâm
lược:
- “Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống"
- "Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới,
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào".
4. Quá trình phản công và toàn thắng:
a. Nguồn gốc của chiến thắng là sức mạnh nhân nghĩa:
"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy trí nhân để thay cường bạo"
b.Trận đầu thắng lớn, giáng sấm sét vào đầu lũ xâm lăng:
"Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay"
c. Giải phóng miền rộng lớn đất nước:
"Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về".
d. Quân ta càng đánh càng thắng to. Giặc Minh bị giáng những đòn chí mạng! Máu giặc chảy
thành sông thây chết đầy nội.
"Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tụy Động thây chết đầy nội, nhơ để ngàn năm".
e. Viện binh giặc bị tiêu diệt: Liễu Thăng "cụt đầu", bá tước Lương Minh "đại bại từ vong", thượng
thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn, Đô đốc "Thôi Tụ" lê gối dâng tờ tạ tội, thượng thư Hoàng Phúc "trói
tay để tự xin hàng". Cánh quân Vân Nam bị đánh "vỡ mật", quân Mộc Thạnh "xéo lên nhau để chạy
thoát thân". Cảnh tượng chiến trường vô cùng rùng rợn, thảm đạm:
"Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường,
Xương Giáng, Bình Than máu hôi đỏ

Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc,
Thành Đan Xá thây chất đầy núi cỏ nội đầm đìa máu đen"
f. Giặc Minh bị hoàn toàn thất bại thảm hại. Viện binh "hai đạo tan tành"; Quân giặc các thành
"cởi giáp ra hàng”. Lũ tướng tá Thiên triều và hàng chục vạn giặc bị bắt làm tù binh, hoặc đầu hàng
đã bị tha tội chết, được đối xử nhân đạo:
"Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc.
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước mà vẫn tim đập chân run.”
- Quá trình phản công là một quá trình vươn dậy của cả dân tộc với sức mạnh vỡ bờ, bất khả chiến
thắng. Ngôn ngữ tráng lệ, giọng văn mang âm điệu anh hùng ca:
" Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×