Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

quy định của wto về đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các thành viên đang phát triểnvà các nền kinh tế chuyển đổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.38 KB, 16 trang )

QUY ĐỊNH CỦA WTO VỀ ĐỐI XỬ ĐẶC BIỆT VÀ KHÁC BIỆT DÀNH CHO
CÁC THÀNH VIÊN ĐANG PHÁT TRIỂNVÀ CÁC NỀN KINH TẾ CHUYỂN
ĐỔI
Các quy định ban đầu của GATT không phân biệt giữa các nước phát triển và
các nước đang phát triển. Tất cả các bên tham gia hiệp định có quyền và nghĩa vụ như
nhau, bất kể trình độ phát triển như thế nào. Tuy nhiên, hiện nay WTO có khoảng 3/4
số thành viên là những nước đang phát triển và chậm phát triển. Các nước này ngày
càng đóng vai trò quan trọng và tích cực hơn nhờ số lượng đông đảo của mình tại
WTO, nhờ vị trí ngày càng lớn của họ trong nền kinh tế thế giới, nhờ việc càng ngày
họ càng nhận thức rõ hơn thương mại là công cụ quan trọng hàng đầu trong nỗ lực
phát triển kinh tế của mỗi đất nước. Do đó sẽ là không thực tế nếu kỳ vọng các nước
đang và kém phát triển cạnh tranh trong cùng điều kiện với các nước phát triển. Từ đó
dẫn tới việc phải rà soát lại các quy định trong WTO hướng tới nguyên tắc đối xử đặc
biệt và khác biệt dành cho các nước đang và kém phát triển.
1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÁC THÀNH VIÊN CỦA WTO
Tính đến ngày 26/10/2012, WTO có tổng số 158 Thành viên chính thức. Có thể nói
WTO là tổ chức quốc tế lớn nhất đưa ra các quy định điều tiết thương mại ở phạm vi
toàn cầu. Các Thành viên của WTO đến từ mọi châu lục với chế độ chính trị, kinh tế,
xã hội không hoàn toàn giống nhau và với trình độ phát triển không đồng đều. Vì vậy,
để có cách nhìn toàn diện và khách quan, để có những quy định phù hợp, WTO đã
phân các Thành viên ra thành bốn nhóm nước cơ bản. Đó là:
- Nhóm các nước kém phát triển nhất (Least-developed countries LDCs)
- Nhóm các nước đang phát triển (Developing countries)
- Nhóm các nước có nền kinh tế chuyển đổi (Economies in transition)
- Nhóm các nước phát triển (Developed countries)
Ngoài ra, tại Hội nghị Bộ trưởng của WTO (họp ở Geneva) năm 1998, lần đầu tiên
người ta cũng đã bàn đến “một số nền kinh tế nhỏ bé” trong khuôn khổ của nhóm các
nước đang phát triển.
Tuy nhiên, WTO không đưa ra tiêu chí để phân biệt mỗi một trong bốn nhóm nước
nói trên. Việc phân loại các Thành viên nói trên được tiến hành như sau:
1.1. Các nước kém phát triển nhất


Căn cứ vào những tiêu chí do Liên hiệp quốc đưa ra để xếp hạng các nước kém phát
triển nhất, WTO đưa ra quan điểm là những nước nào được Liên hiệp quốc xếp hạng
là nước “kém phát triển nhất” cũng được WTO đối xử như các nước kém phát triển
nhất trong hệ thống WTO. Theo quy định của Ủy ban kinh tế và xã hội của Liên hiệp
quốc (ECOSOC), để xem xét một nước có phải là nước kém phát triển nhất hay
không, có thể dựa vào các chỉ số sau:
- GNP bình quân đầu người;
- Tỷ lệ sống của trẻ sơ sinh;
- Tỷ lệ biết chữ của người lớn tuổi;
- Tỷ lệ nhập trường tiểu học và trung học;
- Tỷ lệ ngành kỹ thuật chế tạo trong GDP;
- Tỷ lệ tiêu thụ điện năng bình quân đầu người;
- Tỷ lệ tập trung xuất khẩu.
Các chỉ số này và danh sách các nước LDCs được ECOSOC xem xét lại 3 năm một
lần. Vì vậy, sau mỗi lần xem xét, số các nước LDCs có thể giảm xuống. Hiện nay, các
nước thuộc nhóm này chủ yếu là ở châu Phi, châu Á và châu Mỹ La tinh. Đó là:
Angola, Afganistan, Bangladesh, Cộng hòa Trung Phi, Gambia, Guinea, Haiti, Lào,
Liberia, Madagascar, Myanmar, Nepal, Somalia, Togo, Tanzania, Zambia v.v…
Khi gia nhập WTO, những nước này được hưởng những biện pháp đối xử thuận lợi
mà không đòi hỏi phải có đi có lại. Quyết định có lợi cho các nước LDCs, được thông
qua tại Marakesh vào năm 1994, cho phép các nước này được quyền cam kết và được
hưởng các ưu đãi ở chừng mực phù hợp với nhu cầu phát triển và các điều kiện về
tài chính và thương mại của họ. Một số Hiệp định đa phương của WTO cũng đưa ra
các quy định dành riêng cho các nước LDCs. Ví dụ, Hiệp định TRIPs cho phép các
nuớc LDCs không áp dụng các quy định của Hiệp định này trong vòng 10 năm. Hiệp
định GATS yêu cầu các nước tạo điều kiện để các Thành viên LDCs tham gia tích cực
hơn nữa vào thương mại dịch vụ toàn cầu.
1.2. Các nước đang phát triển
Nhóm các nước đang phát triển (Developing countries) cũng không được xếp loại
theo các tiêu chí cụ thể. Để xem xét một nước có phải là một nước đang phát triển

hay không, WTO dựa trên nguyên tắc “tự nhận”. Điều này có nghĩa là nếu một nước
Thành viên của WTO cho rằng mình không phải là nước nằm trong nhóm các nước
LDCs thì có thể tự nhận mình là nước đang phát triển. Việt Nam nằm trong nhóm các
nước này.
1.3. Các nước có nền kinh tế chuyển đổi
Các nước có nền kinh tế chuyển đổi (Economies in transition) là tên gọi được dùng để
chỉ các nước có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung nay đang chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường. Những nước này còn được các nước phát triển như Mỹ… gọi là
những nền kinh tế phi thị trường. Đó là các nước Xã hội chủ nghĩa ở Trung và Đông
Âu hoặc Liên Xô (cũ) trước đây. Trung Quốc, Việt Nam và một số nước khác có xuất
phát điểm từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung (centrally-planned economies – CPE)
cũng thuộc nhóm nước này.
1.4. Các nước phát triển
Nhóm nước phát triển là các Thành viên của WTO còn lại ngoài ba nhóm nước nêu
trên. Các nước phát triển hầu hết là Thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh
tế (OECD). OECD được thành lập năm 1961 như tổ chức kế nhiệm của Tổ chức Hợp
tác kinh tế châu Âu (OEEC). Tổ chức OECD còn được gọi là “câu lạc bộ của những
nước giàu”. Mục tiêu của OECD nói riêng và của các nước phát triển nói chung là:
- Đạt được sự tăng trưởng kinh tế và việc làm ổn định cao nhất, đồng thời tăng mức
sống của các nước Thành viên trong đó vẫn phải duy trì sự ổn định về tài chính nhằm
góp phần đóng góp vào sự phát triển kinh tế thế giới;
Đóng góp vào sự mở rộng kinh tế vững chắc ở các nước Thành viên cũng như các
nước không phải là Thành viên trong tiến trình phát triển kinh tế;
- Đóng góp vào sự mở rộng kinh tế thế giới trên cơ sở đa phương, không phân biệt đối
xử phù hợp với các nghĩa vụ quốc tế. Số lượng các nước phát triển (cũng đồng thời là
Thành viên của OECD) hiện nay gồm: Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Bỉ, Canada, Australia,
Đan Mạch, Phần Lan, Hy Lạp, Ý, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hà Lan, Luxembourg, New
Zealand, Na Uy, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Thổ Nhĩ Kỳ, Bồ Đào Nha, Ailen,
Iceland, Hungary, Cộng hòa Séc, Ba Lan. Trong số các nước này, Ba Lan, Cộng hòa
Séc và Hungary là những nước có nền kinh tế chuyển đổi mới gia nhập vào OECD:

Cộng hòa Séc gia nhập tháng 12/1995 và Hungary gia nhập tháng 03/1995. Mặc dù
các Thành viên của WTO được phân loại thành bốn nhóm nước nói trên, nhưng, trong
thực tế, dựa vào các quy định của WTO, có thể chia bốn loại Thành viên nêu trên chủ
yếu thành hai loại. Thứ nhất là nhóm các Thành viên phát triển. Thứ hai là nhóm các
Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi. Phần trình bày dưới đây sẽ
phân tích sự hội nhập của các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển
đổi vào WTO.
2. ĐẶC ĐIỂM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN VÀ
CÁC NỀN KINH TẾ CHUYỂN ĐỔI TRONG WTO
2.1. Đặc điểm
Các nước đang phát triển nói chung và các nước có nền kinh tế chuyển đổi đều có
chung những đặc điểm cơ bản sau đây:
- Nền kinh tế có cơ cấu lạc hậu, chủ yếu dựa vào nông nghiệp và khai thác tài nguyên
thiên nhiên.
- Năng suất lao động thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém. Thiếu vốn, lạc hậu về công nghệ.
- Bộ máy quản lý không hiệu quả. Thủ tục hành chính cồng kềnh, tiêu cực, tham
nhũng.
- Nguồn nhân lực chưa được đào tạo đầy đủ và chuyên nghiệp.
Ở một số nước châu Phi, châu Á, sự thiếu ổn định về chính trị cũng là một đặc điểm
của những nước này. Riêng đối với các nền kinh tế chuyển đổi, cơ chế quản lý kinh tế
lạc hậu, quan liêu, không thích ứng với tiến trình toàn cầu hóa và tự do hóa thương
mại cũng có những tác động không tốt đến năng lực cạnh tranh quốc gia khi những
nước này gia nhập WTO. Nguyên tắc tự do hóa thương mại trên cơ sở không phân biệt
đối xử khi vào “sân chơi chung WTO” cũng đang làm cho các nền kinh tế chuyển đổi
đã, đang và sẽ phải đối mặt với rất nhiều thách thức.
Những đặc điểm nêu trên đã khiến cho các nước đang phát triển và các nền kinh tế
chuyển đổi ở vào các vị trí không cân bằng với các nước phát triển. Vì vậy, họ phải
xem xét cơ chế của WTO một cách cụ thể hơn để đưa ra những yêu cầu của mình.
2.2. Vị trí, vai trò
WTO được thành lập ngày 01/01/1995 trên cơ sở kế thừa và mở rộng phạm vi điều

chỉnh thương mại quốc tế của Hiệp định GATT. Vì vậy khi nói đến vị trí, vai trò của
các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi trong WTO không thể
không nhắc đến sự tham gia của những Thành viên này trong GATT.
GATT được ký kết tại Geneva vào ngày 30/10/1947 và có hiệu lực từ tháng 01/1948.
Cho đến khi WTO ra đời để thay thế GATT, GATT đã tồn tại 47 năm (1948 -1995).
GATT hoạt động theo hai cơ chế. Theo cơ chế thứ nhất, các nước Thành viên sẽ tiến
hành, trên cơ sở hàng ngày, các hoạt động thi hành pháp luật, qui định của GATT về
thương mại, thảo luận các vấn đề chung và giải quyết tranh chấp. Với cơ chế thứ hai,
các nước Thành viên có nghĩa vụ tham gia các vòng đàm phán để xây dựng các quy
tắc, nguyên tắc, các thỏa thuận nhằm mục tiêu thúc đẩy nhanh hơn quá trình tự do hóa
thương mại. Trong 47 năm tồn tại, GATT đã tổ chức được 8 vòng đàm phán và càng
ở những vòng đàm phán về sau, sự tham gia của các nước đang phát triển và các nền
kinh tế chuyển đổi càng đông hơn.
Ở Vòng đàm phán đầu tiên – Vòng Geneva 1947 – mới chỉ có 23 nước Thành viên.
Nhưng số các nước đang phát triển cũng chiếm hơn 50%. Cho đến trước Vòng
Kennedy, các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi chỉ 23 nước này là:
Anh, Pháp, Mỹ, Úc, Bỉ, Canada, Hà Lan, Luxembourg, Na Uy, New Zealand, Tiệp
Khắc, Brazil, Chilê, Ceylon (Sri Lanka), Cuba, Ấn Độ, Libăng, Pakistan, Nam
Rhodesia (Zimbabwe), Syria, Nam Phi, Myanma, Trung Quốc. đóng vai trò, vị trí thứ
yếu trong các cuộc đàm phán của GATT. Điều này được giải thích ở tiếng nói của họ
chưa được chú ý. Trong khoảng thời gian từ năm 1948 đến trước năm 1963, các phiên
đàm phán của GATT chỉ tập trung chủ yếu vào vấn đề thuế quan mà không quan tâm
đến vấn đề thể chế, quy tắc và hệ thống. Các nước đang phát triển và các nền kinh tế
chuyển đổi ở thời gian này chưa quan tâm lắm đến vấn đề thuế quan vì hoạt động xuất
khẩu của họ còn yếu kém. Hàng hóa của họ chưa phải đối mặt với rào cản khi thâm
nhập vào thị trường các nước phát triển vì thị phần còn rất nhỏ bé.
Vòng đàm phán Kennedy, bắt đầu năm 1963, là bước đột phá lớn đối với các nước
đang phát triển và đang chuyển đổi. Với sự tham gia của 62 nước trong đó gần 2/3 là
các nước đang phát triển, lần đầu tiên GATT dành hẳn nội dung đàm phán của mình
là bàn về các nước đang phát triển. Tuyên bố của Hội nghị Bộ trưởng đưa ra trong

Vòng đàm phán này là phải “thông qua các biện pháp nhằm mở rộng thương mại của
các nước đang phát triển và coi đó là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế của các
nước này”.
Vòng đàm phán Tokyo với số lượng các nước Thành viên là 102, trong đó 2/3 là các
nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi. Sự tham gia ngày càng đông hơn
về số lượng của các nước đang phát triển trong vòng đàm phán này đã đưa đến kết
quả là các Thành viên của GATT đã thông qua một quyết định liên quan đến các
nước đang phát triển. Đó là những quy định của GATT về đối xử đặc biệt và khác
biệt dành cho các nước đang phát triển, các nước kém phát triển nhất và các nền kinh
tế chuyển đổi.
Đây là thành công của các nước đang phát triển. Điều này cho thấy vị trí của các nước
đang phát triển ngày càng được chú ý và các nước phát triển đã không thể bỏ qua các
yêu cầu của các nước đang phát triển. Vòng Uruguay với sự tham gia của 123 nước,
chủ yếu là các nước đang phát triển. Sự tham gia đông đảo của các nước đang phát
triển trong Vòng Uruguay đã có những tác động nhất định khi Vòng này kết thúc sau
8 năm đàm phán, với sự ra đời của WTO. Với sự ra đời của WTO, đến nay, Thành
viên của WTO đã là 158, trong đó 3/4 Thành viên là các nước đang phát triển và các
nền kinh tế chuyển đổi ở mọi châu lục. Điều này cho thấy vị trí, vai trò của các nước
đang phát triển trong WTO ngày càng lớn mạnh. Tiếng nói của các nước này cũng như
sự ảnh hưởng của họ trong các cuộc đàm phán của WTO ngày càng được khẳng định.
Vị trí, vai trò của các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi thể hiện ở sự
tham gia ngày càng đông của những nước này trong WTO: trong tổng số 158 Thành
viên thì các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi là 114, chiếm
75,33% (xem bảng 12.2). Trong số đó, các nước đang phát triển ở khu vực tiểu vùng
Sahara (châu Phi) là 37 nước, ở Mỹ Latinh và Caribê là 32 nước, ở châu Âu và Trung
Á là 17 nước, ở Đông Á và Thái Bình Dương là 12 nước, ở Trung Đông và Bắc Phi là
6 nước và ở Nam Á là 6 nước. Sự tham gia ngày càng đông của các nước này từ mọi
châu lục trong WTO đã làm thay đổi mục tiêu của WTO so với GATT. Đó là mục tiêu
WTO phải “nỗ lực tích cực để bảo đảm rằng các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là
những quốc gia kém phát triển nhất, duy trì được tỷ phần tăng trưởng trong thương

mại quốc tế tương xứng với nhu cầu phát triển kinh tế của các quốc gia đó”. Điều này
cho thấy vị trí, vai trò của các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi ngày
càng được chú ý hơn khi WTO ra đời. Và cũng từ khi WTO chính thức hoạt động đến
nay, các nước đang phát triển ngày càng có tiếng nói mạnh hơn qua các Vòng Đàm
phán để xây dựng các quy tắc điều tiết thương mại toàn cầu. Một trong những kết quả
cụ thể là WTO đã phải đưa ra quy định về đối xử đặc biệt và khác biệt dành riêng cho
các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi. Đối xử đặc biệt và khác biệt
này thường mang tính giảm nhẹ so với những nghĩa vụ, cam kết chung mà WTO quy
định. Ví dụ như được miễn không phải thực hiện nghĩa vụ; mức độ cam kết thấp hơn;
thời gian thực hiện dài hơn v.v…Dưới đây sẽ phân tích cụ thể các quy định về đối xử
đặc biệt và khác biệt mà WTO đã dành cho các nước LCDs và các nền kinh tế chuyển
đổi.
3. CÁC QUY ĐỊNH CỦA WTO VỀ ĐỐI XỬ ĐẶC BIỆT VÀ KHÁC BIỆT
DÀNH CHO CÁC THÀNH VIÊN ĐANG PHÁT TRIỂNVÀ CÁC NỀN KINH
TẾ CHUYỂN ĐỔI.
Đối xử đặc biệt và khác biệt (Special and differential treatment -S&D): Là những quy
định của WTO dành riêng cho các Thành viên đang và kém phát triển, theo đó, các
Thành viên này có thể được miễn hoặc giảm nhẹ việc thực hiện nghĩa vụ cam kết, thời
gian thực hiện dài hơn so với các Thành viên khác.
Trước WTO, GATT đã có những ưu đãi nhất định dành cho các Thành viên đang
phát triển thông qua hệ thống các đối xử đặc biệt và khác biệt (S&D). Tuy nhiên, chỉ
đến khi WTO ra đời, sự đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các Thành viên đang
phát triển mới được khẳng định là nguyên tắc cơ bản điều chỉnh hệ thống thương mại
đa phương. Nguyên tắc này không chỉ kế thừa những quy định ưu đãi của GATT về
thương mại hàng hóa dành cho các nước đang phát triển, mà còn mở rộng áp dụng
cho cả thương mại dịch vụ, đầu tư và quyền sở hữu trí tuệ.
Đây là thành quả đấu tranh liên tục của các nước đang phát triển qua những vòng
đàm phán trong khuôn khổ GATT, đặc biệt là Vòng đàm phán Uruguay. Bởi vì, một
trong những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ quốc tế nói chung, thương mại quốc tế
nói riêng là bình đẳng và cùng có lợi. Tuy nhiên, trên thực tế, ưu thế trong thương mại

quốc tế thuộc về những nước công nghiệp phát triển với tiềm lực lớn về công nghệ, tài
chính. Trong khi đó, bất lợi thuộc về các nước đang phát triển do khoảng cách lớn về
trình độ phát triển công nghệ và khả năng hạn hẹp về tài chính so với các nước phát
triển. Vì vậy, nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử trong thương mại dịch vụ
chỉ có ý nghĩa đối với các nước đang phát triển khi họ được hưởng những ưu đãi nhất
định so với các nước phát triển.
Các quy định của WTO về đối xử đặc biệt và khác biệt (Special and Differential
Treatment – S&D) dành cho các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển
đổi được chia thành ba nhóm chính. Nhóm thứ nhất là những quy định, theo đó các
Thành viên của WTO, đặc biệt là các Thành viên phát triển phải áp dụng các biện
pháp tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại của các Thành viên đang phát triển và
các nền kinh tế chuyển đổi. Nhóm thứ hai là các quy định cho phép các Thành viên
đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi được hưởng sự linh hoạt trong việc
chấp nhận các nghĩa vụ do WTO và các hiệp định của WTO quy định. Nhóm thứ ba
là những quy định yêu cầu các Thành viên của WTO phải có sự hỗ trợ kỹ thuật để
giúp các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi nâng cao năng lực
cạnh tranh.
Phần phân tích cụ thể dưới đây sẽ giúp làm rõ nhóm quy định thứ nhất nói trên của
WTO về S&D dành cho các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi.
3.1. Nhóm các biện pháp S&D để tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại của các
Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi
Hiệp định GATT 1947 có một đoạn đặc biệt (Phần IV) về thương mại và phát
triển quy định phải áp dụng nguyên tắc không có đi có lại trong đàm phán thương mại
giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển, đặc biệt, khi một nước phát triển
cho một nước đang phát triển cụ thể được hưởng những nhân nhượng thương mại, thì
nước phát triển đó không được gây áp lực để buộc nước đang phát triển đưa ra các
cam kết nhượng bộ tương đương.
“Các bên ký kết phát triển không chờ đợi sự đãi ngộ đối đẳng khi cam kết trong
đàm phán thương mại, qua giảm bớt hay triệt tiêu thuế quan và các trở ngại khác với
thương mại của các bên ký kết kém phát triển hơn”

Điều XXXVI khoản 8 Phần IV Hiệp định GATT
Điều cần chú ý là cả Hiệp định GATT 1994 và Hiệp định GATS đều quy định
dành cho các nước đang phát triển và các nước chậm phát triển một số đối xử ưu đãi
khác biệt nhất định. Một số hiệp định khác của WTO cũng có quy định những biện
pháp khác dành cho các nước đang phát triển như: dành cho các nước này thời hạn dài
hơn để thực hiện đầy đủ các cam kết của mình; tạo cơ hội thương mại cho các nước
này thông qua điều kiện mở rộng hơn khả năng tiếp cận thị trường; yêu cầu các nước
thành viên của WTO phải bảo đảm lợi ích của các nước đang phát triển khi đưa ra các
biện pháp tự vệ ở cấp độ quốc gia hoặc quốc tế; định ra các phương thức hỗ trợ thích
hợp cho các nước đang phát triển, chẳng hạn giúp các nước này thực hiện các cam kết
về các tiêu chuẩn sức khoẻ động vật và bảo vệ thực vật, bảo đảm các tiêu chuẩn kỹ
thuật hoặc phát triển khu vực viễn thông nội địa của các nước đó
WTO quy định rằng các Thành viên (gồm các Thành viên là những nước phát
triển và cả các nước đang phát triển) phải thực thi các biện pháp S&D để tạo điều kiện
thuận lợi cho thương mại của các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế
chuyển đổi có thể có được những lợi ích khi tham gia vào WTO.
.3.1.1. Nhóm các biện pháp S&D để tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại của
các Thành viên đang phát triển
Các biện pháp đơn phương mà các nước phát triển dành cho hàng hóa của các nước
đang phát triển được nhập khẩu trên cơ sở ưu đãi và các nước phát triển gồm Hệ thống
ưu đãi thuế quan phổ cập (Hệ thống GSP), những đối xử ưu đãi hơn đối với các nước
kém phát triển và những thỏa thuận tạo điều kiện tiếp cận thị trường ưu đãi cho một số
nước đang phát triển nhất định.
- Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP)
GATT khuyến khích các nước thành viên có những cân nhắc đặc biệt nhằm cải
thiện mức sống ở các nước đang phát triển, hỗ trợ các nước này phát triển bền vững,
đồng thời nêu rõ rằng nguồn thu từ xuất khẩu của các nước này cần phải tăng lên. Hơn
nữa, GATT cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc tăng mức độ tiếp cận thị
trường cho các sản phẩm của các nước đang phát triển và tầm quan trọng của việc đảm
bảo các nền kinh tế này đa dạng hóa sản phẩm của mình.

Một điều khoản đặc biệt từ năm 1979 được gọi là “điều khoản hỗ trợ thực hiện”
cho phép duy trì một số ngoại lệ đối với quy tắc đối xử bình đẳng theo nguyên tắc
MFN theo hướng có lợi cho các nước đang phát triển, có nghĩa là có thể dành những
nhân nhượng thương mại cho các nước đang phát triển không trên cơ sở có đi có lại.
Hệ thống ưu đãi phổ cập, tên tiếng Anh là Generalized System of Preferences
(viết tắt GSP), là biện pháp đơn phương do các nước phát triển đưa ra để áp dụng
dành riêng cho các nước đang phát triển. Hệ thống GSP quy định rằng, hàng hóa nhập
khẩu từ các nước đang phát triển sẽ được hưởng chế độ miễn thuế nhập khẩu (thuế
suất thuế nhập khẩu bằng 0) hoặc hưởng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi. Hệ thống
GSP sẽ được áp dụng khi các nước phát triển nhập khẩu các sản phẩm công nghiệp và
một số sản phẩm nông nghiệp từ các nước đang và kém phát triển. Nếu được hưởng
Hệ thống GSP, hàng công nghiệp của các nước này sẽ có khả năng cạnh tranh khi
thâm nhập vào thị trường các nước phát triển. Chế độ ưu đãi được xây dựng trên cơ sở
không có sự phân biệt và không đòi hỏi bất kỳ nghĩa vụ nào từ phía các nước đang
phát triển.
Các mục tiêu chính của GSP là:
 Tạo điều kiện để các nước đang phát triển thấy được khả năng tiềm tàng về mở
rộng buôn bán phát sinh từ chế độ GSP và tăng cường khả năng sử dụng chế độ
này.
 Tăng kim ngạch xuất khẩu của các nước được hưởng.
 Thúc đẩy công nghiệp hoá của các nước này.
 Đẩy mạnh mức tăng trưởng kinh tế của những nước này.
 Phổ biến thông tin về các quy định và thủ tục điều chỉnh buôn bán theo chế độ này.
 Giúp đỡ các nước được hưởng thiết lập những điểm trọng tâm trong nước để tăng
cường sử dụng GSP.
 Cung cấp thông tin về các quy định liên quan đến thương mại như thuế chống phá
giá và chống bù giá, các quy định hải quan, thủ tục giấy phép nhập khẩu, và pháp
luật thương mại khác quy định các điều kiện thâm nhập thị trường các nước cho
hưởng.
Nước cho hưởng ưu đãi GSP:

Hiện nay, có 16 chế độ ưu đãi khác nhau đang hoạt động tại 28 nước phát triển, bao
gồm 15 nước thành viên của EU và Nhật, New Zealand, Thuỵ Sĩ, Bulgary, Hungary,
Séc, Ba Lan, Nga, các quốc gia trung lập (CIS), Canada, Nauy, Australia, Rumani.
15 nước thành viên EU: Áo, Bỉ, Đan Mạch, Đức, Ailen, Italy, Luxembua, Hà Lan,
Anh, Hy Lạp, Phần Lan, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển, Bồ Đào Nha, Pháp.
Nước được hưởng GSP:
Bao gồm những nước đang phát triển và những nước kém phát triển. Các nước kém
phát triển thường được hưởng một chế độ đặc biệt riêng, có nhiều ưu đãi hơn các nước
đang phát triển. Đối với mỗi quốc gia dành ưu đãi, các nước được hưởng được liệt kê
trong danh sách ban hành kèm theo chế độ GSP. Danh sách này có thể được sửa đổi bổ
sung.
Tuy nhiên, Hệ thống GSP cũng đưa ra một số điều kiện hạn chế:
• Các nước phát triển thường quy định rằng hàng nhập khẩu theo một số lượng
nhất định trong hạn ngạch mới được hưởng chế độ thuế quan ưu đãi của Hệ thống
GSP; Số lượng hàng nhập khẩu vượt quá hạn ngạch có thể sẽ bị tính thuế trên cơ sở
MFN.
• Hàng hóa sẽ tạm thời không được hưởng ưu đãi thuế quan GSP trong một số
trường hợp nhất định. Khi một hàng hóa nhập khẩu theo GSP ảnh hưởng đến công
nghiệp sản xuất mặt hàng đó trong nước, nước cho hưởng ưu đãi sẽ thực hiện những
biện pháp cần thiết theo cơ chế bảo vệ của hệ thống GSP.
• Không cấp chế độ ưu đãi cho những sản phẩm nhập khẩu từ những nước đang
phát triển nếu những nước này đã trở nên có khả năng cạnh tranh, những nước đã
chuyển sang giai đoạn phát triển cao hơn, những nước đạt được một mức thu nhập
bình quân đầu người ở giai đoạn phát triển cao hơn và những nước không tôn trọng
nhân quyền.
Bên cạnh đó, một số nước phát triển cũng đã sử dụng Hệ thống GSP như một
vũ khí chính trị để đối phó lại các nước có chế độ chính trị - xã hội đối lập với mình.
Ví dụ, Hoa Kỳ quy định rằng Hệ thống GSP chỉ dành cho những nước đang và kém
phát triển có nền kinh tế thị trường. Như vậy, quy định này đã loại bỏ các nước đang
và kém phát triển thuộc các nền kinh tế Xã hội chủ nghĩa, kế hoạch hóa ra khỏi đối

tượng được hưởng Hệ thống GSP.
Ngày 31/10/2012, EU đã công bố Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP)
mới sửa đổi nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa của các quốc gia đang phát
triển tiếp cận thị trường EU. Hệ thống GSP sửa đổi sẽ có hiệu lực từ ngày 1/1/2014.
Hệ thống ưu đãi phổ cập mới không có giới hạn ưu đãi. Các hạn ngạch trước kia, khối
lượng xác định được miễn thuế hoặc các mức trần hạn chế khối lượng hàng xuất khẩu
được hưởng ưu đãi đã được loại bỏ. Miễn giảm thuế được điều chỉnh theo mức độ
nhạy cảm của sản phẩm mà đã được chia làm hai loại sau:
- Các sản phẩm nhạy cảm
- Các sản phẩm không nhạy cảm
Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập mới của EU quy định:
- Giảm 3,5% trong tổng thuế quan thông thường cho các sản phẩm nhạy cảm,
giảm thuế quan xuống 0 cho các sản phẩm không nhạy cảm;
- Được xuất khẩu “Mọi thứ trừ vũ khí” đem lại tiếp cận không thuế quan và
không hạn ngạch cho tất cả các sản phẩm cho 50 nước nghèo nhất thế giới;
- Cơ chế mới về “GSP +” (dành cho các nước phê chuẩn và thực hiện các công
ước quốc tế về nhân quyền và lao động, môi trường và quản lý tốt) nhằm dành ưu đãi
thuế quan cho những nước dễ bị tổn thương, những nước đáp ứng các tiêu chuẩn mới
về phát triển bền vững và quản lý tốt (giảm xuống thuế suất 0 cho tổng số 7200 sản
phẩm); Cơ chế này thay thế ba cơ chế khuyến khích cũ (thuốc; xã hội và các thoả
thuận môi trường).
Theo GSP mới, số quốc gia hưởng lợi giảm xuống còn 89, trong đó có 49 quốc
gia kém phát triển được hưởng EBA (bao gồm 33 quốc gia Châu Phi, 10 quốc gia
Châu Á, 5 thuộc Châu Úc và Thái Bình Dương và 1 thuộc Caribê); 40 quốc gia thuộc
nhóm thu nhập thấp và thu nhập thấp hơn trung bình theo đánh giá xếp hạng của Ngân
hàng Thế giới (WB)
Những nước có tiếp cận ưu đãi vào thị trường EU theo thoả thuận song phương
(ví dụ, khu vực thương mại tự do) sẽ bị loại bỏ khỏi danh mục các nước hưởng lợi
GSP vì họ đã có tiếp cận tốt hơn vào thị trường EU rồi.
GSP mới sẽ được áp dụng trong suốt 3 năm mà không có thay đổi nào.

GSP mới sẽ mở rộng thêm gần 300 sản phẩm được hưởng ưu đãi.
GSP sẽ chỉ được rút bỏ khỏi các nhóm sản phẩm của một hoặc một vài nước –
khi mà những sản phẩm này đã đạt mức cạnh tranh trên thị trường Cộng đồng và
không còn cần tới GSP. Việc xem xét sẽ dựa trên một tiêu chí đơn giản: khi một nhóm
sản phẩm (“phần” của mã hải quan) từ một nước cụ thể vượt quá 17.5% (so với 15%
của GSP cũ) tổng nhập khẩu EU cho cùng một loại sản phẩm theo GSP trong 3 năm
liên tục. Đối với hàng dệt may, ngưỡng này sẽ là 14.5% (so với 12.5% trước kia).
- Những đối xử ưu đãi hơn đối với các Thành viên kém phát triển nhất.
Những đối xử ưu đãi hơn đối với các Thành viên kém phát triển nhất cũng là biện
pháp S&D của WTO dành cho các Thành viên kém phát triển. Những đối xử ưu đãi
này là những sự “đối xử đặc biệt” trên mức dành cho các Thành viên đang phát triển.
Quy định này của WTO được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng của WTO vào năm
1997 với tên gọi là “Những sáng kiến hội nhập dành cho sự phát triển thương mại của
những Thành viên kém phát triển nhất”.
Sáng kiến này cho phép tất cả các loại hàng hóa của các Thành viên kém phát triển
nhất được nhập khẩu vào các Thành viên WTO trên cơ sở miễn thuế hoặc không bị
giới hạn bởi những quy định có tính hạn chế khác. Ví dụ, Hệ thống GSP sẽ phải dành
cho các Thành viên kém phát triển nhất những ưu đãi cao hơn mức ưu đãi đã dành cho
các Thành viên đang phát triển; Những hạn chế trong Hệ thống GSP về hạn ngạch, về
tính cạnh tranh hơn của một nước v.v…sẽ không áp dụng đối với các Thành viên kém
phát triển nhất.
Các quy định có tính ưu đãi hơn dành riêng cho các Thành viên kém phát triển nhất
cho thấy tiếng nói của các Thành viên này trong WTO đã có trọng lượng. Các Thành
viên kém phát triển nhất đã lập luận một các có cơ sở rằng chính những quy định
thống nhất trong hệ thống WTO dành cho các Thành viên một cách không phân biệt
đối xử đã gây nên sự bất bình đẳng, bởi vì mỗi Thành viên có điều kiện và hoàn cảnh
kinh tế khác nhau. Để loại bỏ những sự bất bình đẳng như vậy, cần thiết phải có các
qui định ưu đãi hơn dành riêng cho các Thành viên kém phát triển nhất. Đây là thắng
lợi của các Thành viên kém phát triển nhất khi tham gia vào hệ thống thương mại của
WTO.

3.1.2. Các biện pháp ưu tiên trong đàm phán thương mại về cắt giảm và loại bỏ
thuế MFN
WTO cũng đưa ra các quy định kêu gọi các Thành viên phát triển phải dành ưu tiên
cao hơn cho các Thành viên đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi trong đàm
phán thương mại về cắt giảm thuế, thậm chí xóa bỏ thuế MFN đối với sản phẩm có
tiềm năng xuất khẩu của các Thành viên này, cũng như xóa bỏ các biện pháp phi thuế
quan cản trở về buôn bán các sản phẩm đó. Các quy định này được nêu rõ trong Phần
IV Điều XXXVII của Hiệp định GATT.
Phần IV nêu trên của Hiệp định GATT cũng đưa ra các quy định khuyến khích các
Thành viên đang phát triển thực hiện các biện pháp ưu tiên trong đàm phán về cắt
giảm và loại bỏ thuế nói trên đối với các sản phẩm nhập khẩu từ Thành viên đang phát
triển khác.
Điều XXXVII khoản 1 Phần IV Hiệp định GATT:
Các Bên ký kết phát triển trong chừng mực có thể - có nghĩa là trừ khi có lý do bắt
buộc ngăn cản, có thể bao gồm cả những lý do pháp lý - sẽ làm hết sức mình để thực
hiện các quy định sau:
a. Dành ưu tiên cao cho việc giảm và triệt tiêu các trở ngại về thương mại đối với các
sản phẩm hiện nay, hay có thể sau này, được các Thành viên đang phát triển đặc biệt
quan tâm, kể cả các trở ngại về thuế quan hay các hạn chế khác tạo thành sự khác biệt
phi lý giữa sản phẩm sơ cấp và các sản phẩm chế biến;
b. Tự kiềm chế việc đặt ra thêm hay tăng thêm thuế quan hoặc các biện pháp trở ngại
phi thuế quan đối với việc nhập khẩu các sản phẩm mà hiện nay hay có thể sau này,
đặc biệt được các bên ký kết kém phát triển hơn quan tâm xuất khẩu
c. i) Tự kiềm chế đặt ra các biện pháp thuế khác
ii) Trong khi tiến hành cơ chế thuế dành sự ưu tiên cao cho việc giảm hay triệt tiêu
các biện pháp thuế hiện hành
có thể dẫn tới giảm bớt hay kìm hãm đáng kể nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm sơ cấp
hay đã chế biến xuất xứ toàn bộ hay một phần từ lãnh thổ các bên ký kết kém phát
triển hơn, khi các biện pháp đó được áp dụng riêng với các sản phẩm này
4. Ý NGHĨA VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA S&D ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Việt Nam trở thành thành viên chính thức và mới nhất của WTO vào ngày 11/01/2007.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn được đánh giá là một nước đang phát triển, có thu nhập thấp
và nợ quốc gia cao. Đây cũng là lý do chính đáng để Việt Nam tìm kiếm và yêu cầu
được đối xử một cách linh hoạt trong quá trình thực thi các cam kết gia nhập WTO của
mình trong một số lĩnh vực, đặc biệt là nông nghiệp, TRIPs, TRIMs, trợ cấp và lộ trình
giảm thuế… Trên thực tế, đối xử S&D có vai trò rất quan trọng đối với quá trình phát
triển kinh tế của Việt Nam và điều này là dễ hiểu. Việt Nam có tỷ lệ dân số gặp nhiều
khó khăn trong sinh hoạt hàng ngày khá cao, một số lượng lớn dân cư còn có mức thu
nhập bình quân đầu người chỉ vừa trên mức nghèo khổ và tiềm ẩnh nhiều nguy cơ tụt
xuống dưới mức nghèo khổ bởi tác động tiêu cực có thể có từ những cú sốc bất ngờ
của nền kinh tế
Thách thức dễ thấy là lợi ích do tăng trưởng kinh tế mang lại trong tương lai đối
với khu vực dân cư nghèo sẽ thấp hơn nhiều so với lợi ích mà khu vực giàu có được
hưởng. Hơn nữa, việc cải tổ toàn diện nền kinh tế cũng có nhiều ảnh hưởng tiêu cực
tới đời sống người dân ở khu vực nghèo. Đối với Việt Nam, nông nghiệp thực sự là
lĩnh vực nhạy cảm: 69% lực lượng lao động Việt Nam thuộc lĩnh vực nông nghiệp và
90% số người nghèo đang sinh sống tại khu vực nông thôn. Những con số thực tế này
đã cho thấy tầm quan trọng của sản xuất nông nghiệp đối với phần lớn dân số Việt
Nam, đồng thời chỉ rõ tính chất dễ tổn thương về mặt kinh tế xã hội của sản xuất nông
nghiệp.
Với thực tế đó, Việt Nam nên được dành đối xử S&D ở mức cần thiết. Những hình
thức đối xử S&D mà Việt Nam có thể trông đợi và có khả năng được hưởng trong
khuôn khổ Vòng Đô-ha gồm: (i) GSP được áp dụng bởi Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật
Bản. Hiện tại, Việt Nam vẫn đang được hưởng GSP từ các nước này nhưng chúng
thường đi kèm với hàng loạt điều kiện và hạn chế đặt ra bởi những nước cho hưởng
GSP; (ii) GATT và GATS cũng bao gồm cả những điều khoản yêu cầu các nước phát
triển giành ưu tiên cho những sản phẩm có xuất xứ từ các thành viên WTO đang phát
triển trong quá trình đàm phán. Kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng các nước đang phát
triển được hưởng lợi không đáng kể từ các điều khoản ưu tiên này bởi chúng thiếu tính
cụ thể cũng như bởi tính không ràng buộc thực hiện của chúng; (iii) Các linh hoạt

trong quá trình thực hiện một số quy định và cam kết của các thành viên đang phát
triển: Tuy nhiên, hình thức S&D này cũng không cho phép Việt Nam lảng tránh việc
thực hiện những nghĩa vụ nền tảng của WTO, trừ trường hợp được quy định trong một
hiệp định cụ thể nào đó; (iv) Hỗ trợ kỹ thuật cung cấp bởi các thành viên phát triển
theo cơ chế song hoặc đa phương: Hiện Việt Nam đang được hưởng khá nhiều chương
trình hỗ trợ kỹ thuật cho giai đoạn hậu gia nhập WTO do các nước Anh, Úc, Ủy ban
Châu Âu và một số nước phát triển khác cung cấp.
Ý nghĩa và ảnh hưởng của S&D đối với Việt Nam: Trong quá trình đàm
phán DDA, Việt Nam có thể hy vọng vào một số kết quả tích cực trong đàm phán
S&D. Tuy nhiên, Việt Nam cũng không nên quá kỳ vọng vào những kết quả bởi thực
tế cho thấy các điều khoản S&D được quy định trong các hiệp định WTO không phải
là cái cớ để các thành viên đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng lảng tránh
những chương trình cải tổ cần thiết. Vì vậy, điều quan trọng đối với Việt Nam trước
hết là cần nâng cao ý thức của các Bộ/Ngành liên quan, của dân chúng, đặc biệt là của
giới doanh nhân nhằm làm cho họ chủ động và có trách nhiệm hơn trong các nỗ lực
chung để cải tổ kinh tế. Việt Nam hy vọng và mong muốn các điều khoản S&D chắc
chắn được thực hiện hơn bởi các nước phát triển thông qua một cơ chế ràng buộc.
Thêm vào đó, Việt Nam, với tư cách là một thành viên với gia nhập với các cam kết ở
mức cao nên được hưởng những linh hoạt nhất định trong quá trình đàm phán và triển
khai các kết quả của Vòng Đô-ha.
Hiện có nhiều tranh cãi về khả năng liệu các đối xử S&D nên được xác định và
triển khai theo cơ chế đa cấp (phân cấp các nước theo mức độ phát triển) như quan
điểm của các nước phát triển hay nên tập trung vào các hiệp định S&D với các vấn đề
cụ thể được các nước đang phát triển quan tâm. Là một nước đang phát triển ở trình độ
thấp, Việt Nam nên theo cách tiếp cận thứ hai, nghĩa là trên cơ sở từng vấn đề cụ thể
trong các hiệp định bởi những cách tiếp cận khác thường đi kèm theo hàng loạt điều
kiện phức tạp đặt ra cho các nước đang phát triển trong quá trình triển khai.

×