Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

ôn tập triết học theo chuyên đề có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.48 KB, 41 trang )

Chuyên đề 1: THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG: VAI TRÒ
CỦA NÓ TRONG NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN.
1. THẾ GIỚI QUAN & THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT
1.1 Thế giới quan và các hình thức của thế giới quan
1.1.1 Thế giới quan: Trong cuộc sống con người thì con người luôn luôn có quan hệ với thế
giới xung quanh. Từ đó, con người có nhu cầu về sự hiểu biết, nhận thức về thế giới xung quanh
đó, trong đó có nhu cầu nhận thức về bản thân mình. W là toàn bộ những quan điểm, quan niệm
của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và về vị trí của con người trong
thế giới ấy.
- Nội dung của W: phản ánh thế giới ở 3 góc độ
+ Phản ánh các đối tượng bên ngoài chủ thể (thế giới hiện thực).
+ Phản ánh bản thân chủ thể (bản thân con người).
+ Phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể với đối tượng bên ngoài chủ thể. (khái niệm chủ thể
bao giờ cũng liên quan đến khách thể. Khách thể bao gồm những gì của W đã được con người tác
động tới).
- Hình thức của W: thể hiện rất đa dạng, biểu hiện dưới dạng các quan điểm, quan niệm một
cách rời rạc, riêng lẻ nhưng cũng có thể thể hiện dưới dạng hệ thống lý luận một cách chặt chẽ.
- Cấu trúc của W: bao giờ cũng có sự thống nhất giữa tri thức và niềm tin. Đây là hai yếu tố
cơ bản nhất của W.
+ Tri thức: là sự hiểu biết của con người về thế giới, là kết quả của quá trình nhận thức của
con người về thế giới. Có nhiều loại tri thức như tri thức kinh nghiệm, tri thức khoa học (nếu nói
về trình độ), tri thức tự nhiên, tri thức về xã hội, tri thức về chính bản thân con người (nếu nói về
phạm vi). Tri thức là cơ sở trực tiếp cho việc hình thành W. Nhưng tự tri thức chưa phải là W, chỉ
khi nào tri thức biến thành niềm tin của con người thì tri thức mới gia nhập W.
+ Niềm tin: có vai trò cực kỳ quan trọng trong đời sống con người. Niềm tin có thể tăng
thêm nghị lực, củng cố ý chí quyết tâm giúp con người vượt qua mọi khó khăn gian khổ, thậm
chí sẵn sàng hy sinh vì một niềm tin nào đó (niềm tin tôn giáo, những người cộng sản tin vào
XHCN). Khi tri thức trở thành niềm tin thì tri thức ấy mới được coi là tri thức sâu sắc, bền vững
và nhờ niềm tin thì tri thức mới trở thành cơ sở thôi thúc con người hành động.
→ W là sự thống nhất giữa tri thức và niềm tin. Ví dụ một con người có tri thức nhưng
không có niềm tin thì hành động không có kết quả. Một con người không có tri thức nhưng có


niềm tin thì hành động cũng không có kết quả. Như vậy, phải có tri thức và niềm tin thì hành
động đúng và hành động ấy có tác dụng cải tạo thế giới.
1
- Chức năng của W: Định hướng cho toàn bộ hoạt động sống của con người, W là lăng kính
mà qua đó con người xem xét, nhận định thế giới của mình. Từ đó con người định hướng cuộc
sống của mình và đương nghiên nó chi phối nhận thức và hoạt động thực tiễn. Vậy bất cứ con
người ở giai cấp nào, chế độ nào, thời đại nào cũng bị chi phối bởi W.
1.1.2 Những hình thức cơ bản của W: có 3 hình thức cơ bản là W huyền thoại, W tôn giáo
và W P.
- W huyền thoại: là W đầu tiên của con người, được hình thành chủ yếu qua các câu chuyện
thần thoại. Đặc điểm là có sự pha trộn giữa hiện thực và tưởng tượng, giữa cái có thật và cái
hoang đường, giữa lý trí với tín ngưỡng, giữa tư duy với xúc cảm …
- W tôn giáo: là W duy tâm, là sự phản ánh hiện thực KQ một cách hư ảo. Nó ra đời trong
điều kiện trình độ nhận thức con người rất thấp kém, khi con người còn bất lực trong việc giải
thích những HT tự nhiên, những HT của đời sống xã hội. Đặc điểm là niềm tin vào sự tồn tại sức
mạnh của đấng siêu nhiên, thần thánh.
- W P: P là lý luận về W, nghĩa là nó diễn tả những vấn đề về W, không phải bằng thần thoại
hoặc niềm tin của tôn giáo mà diễn tả bằng hệ thống các khái niệm, các phạm trù lý luận. Đặc
biệt, không chỉ nêu ra các quan điểm của mình mà còn chứng minh các quan điểm đó bằng lý trí,
lý tính. Chính vì vậy chỉ có W P mới có thể giải quyết những vấn đề chung nhất của thế giới
mà không có ngành khoa học cụ thể nào có thể giải quyết được. P được coi là hạt nhân lý
luận của W vì nó chi phối tất cả những vấn đề còn lại của thế giới như chính trị, văn hóa, mỹ
học
1.2 W duy vật và lịch sử phát triển của W duy vật
1.2.1 W duy tâm
- Vấn đề cơ bản của W là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, tức là giữa VC & YT. Đương
nhiên đó cũng là vấn đề cơ bản của P, môn học về W.
- Vấn đề cơ bản của P phản ánh sự đối lập giữa VC và YT, sự đối lập ấy vừa mang tính tuyệt
đối vừa mang tính tương đối.
+ Tính tuyệt đối: là xác định ngôi thứ nhất của VC và ngôi thứ hai của YT (VC có trước,

YT là cái có sau).
+ Tính tương đối: thể hiện ở chỗ do VC sinh ra, nó bắt nguồn từ thuộc tính của VC là
thuộc tính phản ánh.
- Vấn đề cơ bản của P bao gồm 2 mặt
+ Mặt thứ nhất: trả lời câu hỏi VC hay YT cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết
định cái nào. Giải quyết mặt thứ nhất thì trong lịch sử P đã hình thành 3 cách
2
. Cách 1: Thừa nhận VC có trước, YT có sau, VC quyết định ý thức. Cách này thừa nhận
ngôi vị thứ nhất của VC, ngôi thứ hai của YT.
. Cách 2: Thừa nhận YT có trước, VC có sau, YT quyết định ý thức. Cách này thừa nhận
ngôi vị thứ nhất của YT, ngôi thứ hai của VC.
→ Cách 1, cách 2 đều thừa nhận 1 nguyên thể hoặc VC hoặc YT là cái có trước. Vì vậy
người ta gọi cách 1, cách 2 thuộc về phái nhất nguyên luận (DV hoặc DT).
. Cách 3: dung hòa giữa hai cách trên, cho rằng VC và YT tồn tại độc lập, không nằm
trong quan hệ sau trước cũng không nằm trong quan hệ nhất định. Cách này gọi là nhị nguyên
luận.
→ Vậy 3 cách ấy gồm vào 2 trường phái là CNDV hoặc CNDT.
CNDT: khẳng định YT có trước. YT tinh thần là cơ sở tồn tại của SV, HT trong thế giới gọi
là CNDT. CNDT chia làm trường phái:
. CNDT KQ: tiêu biểu là Platon, Hegel cho rằng có một thực thể tinh thần tồn tại KQ, độc
lập với con người, sinh ra con người và sinh ra vạn vật của thế giới. Thực thể KQ ấy được gọi là
ý niệm hoặc tinh thần tuyệt đối.
. CNDT chủ quan: cho rằng cảm giác, YT của con người là cái có trước và quyết định sự
tồn tại của SV HT. Bản thân các SV HT chỉ là phức hợp của các cảm giác mà thôi.
→ CNDT (nhất là CNDT KQ) và tôn giáo giống nhau ở chỗ là coi một thực thể tinh
thần có trước quyết định sinh ra thế giới và sinh ra con người. Thực thể tinh thần đó ở CNDT
KQ là ý niệm, là tinh thần tuyệt đối. Còn ở tôn giáo thực thể tinh thần đó là Đức chúa trời
(Chúa trời thế giới trong 1 tuần lễ, chúa trời có trước). Nhưng khác ở chỗ đặc trưng của tôn
giáo là niềm tin nhưng không cần luận cứ. CNDT dựa vào lý trí nhưng bơm to, thổi phồng
một vấn đề nào đó của cuộc sống.

+ Mặt thứ hai: con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không. Có hai quan điểm
là thừa nhận hoặc không thừa nhận khả năng nhận thức thế giới của con người.
1.2.2 W duy vật
Khi giải quyết mối quan hệ giữa VC và YT, người ta cho rằng VC có trước, YT có sau, VC
quyết định YT. Trong lịch sử tồn tại và phát triển của CNDV có ba hình thức cơ bản là CNDV
chất phác thời cổ đại, CNDV siêu hình TK 17-18 và CNDV BC
- CNDV chất phác thời cổ đại:
+ Về mặt thời gian, ra đời trong thời kỳ cổ đại (cả phương Đông và phương Tây).
+ Đặc trưng là trong khi thừa nhận tính thứ nhất của VC, tính thứ hai của YT còn có sự
ngây thơ, chất phác ở chỗ đồng nhất VC với một dạng cụ thể nào đó (VC với nước, VC với lửa,
VC với nước nguyên tử…). Coi ý thức là một dạng đặc biệt của VC từ đó đi đến việc đồng nghĩa
3
VC với YT, nói đến VC là nói đến YT. Về trình độ nhận thức thì CNDV chất phác mang nặng
tính trực quan cảm tính thể hiện trình độ nhận thức thấp. Về cơ bản, các kết luận của nhà DV
dừng lại ở chỗ họ xuất phát từ giới tự nhiên, hầu hết những vận động mà họ đề ra đều là những
khái niệm sơ khai.
- CNDV siêu hình TK 17 -18: phương pháp nhận thức siêu hình và biện chứng.
Phương pháp siêu hình: sự nhận thức của con người chỉ nhận thức được những cái riêng lẻ,
cố định mà không thấy được mối liên quan, liên hệ giữa SV HT này với SV HT khác; nhận thức
đối tượng trong trạng thái bất biến. Vì vậy phương pháp siêu hình đưa con người đến bốn sai lầm
là:
+ Chỉ nhận thức các SV HT cụ thể mà không thấy được mối liên quan giữa SV HT này với
nhau. Ví dụ chỉ đánh giá cao một thành phần kinh tế này mà không thấy được mối liên quan giữa
thành phần kinh tế này với thành phần kinh tế kia.
+ Chỉ nhận thức đối tượng hiện như nó đang tồn tại mà không thấy được quá trình hình
thành như thế nào & tất yếu tiêu vong của nó ra sao. Ví dụ một người đi sang các nước phương
Tây và Mỹ chỉ thấy sự giàu có của người ta mà không thấy được sự giàu có đó bắt đầu từ đâu và
không thấy được sự giàu có đó dựa trên sở hữu tư nhân về tlsx tư bản.
+ Chỉ nhìn SV HT trong trạng thái bất động, không vận động, chỉ nhìn thấy hiện tại mà
không thấy tương lai.

+ Thấy cây mà không thấy rừng.
→ Phương pháp siêu hình đưa con người tới một lối tư duy cứng nhắc, bảo thủ theo
kiểu A đồng nhất tuyệt đối với ). Nhìn chung CNDV TK 17-18 chưa có gì tiến bộ hơn so với
CNDV cổ đại, thậm chí là dậm chân tại chỗ.
- CNDV BC
+ Ra đời vào những năm 40 của TK19
+ Tiêu biểu là Các Mác, Ănghen, Lenin.
2. NỘI DUNG VÀ BẢN CHẤT CỦA THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG
2.1 Nội dung của thế giới quan DVBC: 2 nội dung
- Quan điểm DV về thế giới: Mác, Ănghen và sau này là Lênin kế thừa tư tưởng của các nhà
DV trước đó & căn cứ vào các thành tựu KHTN (định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng,
thuyết tiến hóa của Darwin, lý thuyết tế bào) mà CNDV BC khẳng định bản chất của thế giới là
VC, thế giới thống nhất ở tính VC, VC là thực tại KQ tồn tại độc lập với YT, quy định YT. Thể
hiện ở 4 điểm:
+ Chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất đó là thế giới VC. Ngoài thế giới VC không
thể có một thế giới bất kỳ không có VC nằm cạnh thế giới VC đó.
4
+ Tất cả các SVHT của thế giới dù phong phú đa dạng tới đâu đều là VC, đều có mối liên hệ
VC với nhau, đều bị chi phối bởi quy luật chung giống nhau, đều là nguyên nhân kết quả của
nhau.
+ Thế giới không ai sinh ra & tiêu diệt, nó tồn tại vĩnh hằng, vô tận.
+ YT là một đặc tính của bộ não người, là sự phản ánh hiện thực KQ vào bộ não người.
- Quan điểm DV về xã hội: thể hiện ở 4 nội dung
+ P DVBC coi xã hội là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên (xã hội có sự tham gia bằng
hoạt động của con người có YT) của giới tự nhiên (con người là thành phần vô cơ của giới tự
nhiên, Các Mác). Xã hội có sự tham gia hoạt động của con người có YT.
+ Khẳng định sản xuất VC là cơ sở của đời sống xã hội. Phương thức sản xuất quyết định
quá trình sinh hoạt xã hội, quyết định chính trị và tinh thần nói chung, nói rộng ra là quyết định
YT xã hội.
+ Coi sự phát triển của xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Mác coi sự phát triển thay

thế lẫn nhau giữa các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Nghĩa là không
phụ thuộc vào ý chí của bất cứ cá nhân nào mà doi sự tác động bởi các quy luật của đời sống xã
hội như qhsx phù hợp với trình độ phát triển của llsx, tồn tại xã hội quyết định YT xã hội, cơ sở
hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Trong n các quy luật đó thì quy luật giữ vai trò quyết
định là quy luật qhsx phù hợp với trình độ phát triển của llsx, nhờ quy luật này tác động vào đời
sống xã hội làm xã hội phải thay thế bằng xã hội khác.
+ Quần chúng nhân dân là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử.
2.2 BC của thế giới quan DV BC: thể hiện ở 4 nội dung
- Giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của P từ quan điểm thực tiễn.
+ CNDV lịch sử trải qua một quá trình phát triển lâu dài (3 hình thức cơ bản: CND cổ đại;
CNDV siêu hình; CNDV BC). Vậy có thể khẳng định rằng CNDV cũ hay CNDV trước Mác có
những đóng góp lớn vào lịch sử P thế giới. Những đóng góp là đã xác lập quan điểm DV về thế
giới, góp phần đấu tranh chống CNDT và tôn giáo. Tuy nhiên, CNDV cũ cũng có những hạn chế
nhất định:
. Chỉ DV khi xem xét giới tự nhiên, nhưng DT trong việc xem xét đời sống xã hội. Nghĩa
là đối với CNDV cũ thi có thể nói đó CNDV chưa triệt để. Hay theo Lenin “nửa trên thì DV, nửa
dưới thì DT”.
. CNDV cũ mang tính siêu hình, máy móc và trực quan. Do đó nó không thấy được tính
năng động, sáng tạo của YT. Tức là nó hạ thấp hay phủ nhận vai trò của YT, cũng không thấy
được sự tác động trở lại vô cùng quan trọng của YT với VC. Hơn nữa nó coi YT của con người
chỉ là sự phản ánh thụ động, giản đơn, máy móc, không có tính năng động, sáng tạo.
5
+ Khi P Mác xuất hiện thì CNDV này mới trở thành triệt để, khoa học, trở thành công cụ
sắc bén giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới.Tính triệt để thể hiện ở chỗ Mác đưa quan
điểm thực tiễn vào lý luận. Mác không chỉ thực hiện thành công cuộc cách mạng trong lĩnh vực P
mà còn tạo ra cơ sở để khắc phục hạn chế của CNDV cũ thể hiện trong việc giải quyết mặt thứ
nhất vấn đề cơ bản của P. Một mặt khẳng định VC quyết định YT, mặt khác vạch ra sự tác động
trở lại rất quan trọng của YT đối với VC, YT là sự phản ánh hiện thực KQ vào bộ não người một
cách năng động, sáng tạo. Vì vậy YT con người có tác động tích cực là biến đổi hiện thực KQ
theo nhu cầu của con người.

Như vậy, quan hệ giữa VC và YT không diễn ra một chiều như CNDV cũ mà nó diễn ra
hai chiều, có quan hệ tác động qua lại giữa VC và YT. Không thấy được sự tác động qua lại giữa
VC và YT sẽ rơi vào quan điểm của CNDV tầm thường, không BC và vì vậy sẽ mắc phải bệnh
bảo thủ, trì trệ. Trong đó, VC là cái quyết định nhưng phải diễn ra trên cơ sở thực tiễn. VC muốn
cải biến trong bộ não con người phải thông qua hoạt động thực tiễn. Bằng hoạt động thực tiễn
con người mới cải tạo được hiện thực, trên cơ sở đó cải biến được những SV trong quá trình nó
phản ánh. Trái lại, bản thân YT muốn làm biến đổi VC cũng phải thông qua hoạt động thực tiễn.
Nhờ có hoạt động thực tiễn, nó mới biến đổi những kế hoạch, mục tiêu, chương trình của con
người trở thành hiện thực. Vậy thực tiễn là khân trung gian nối liền giữa VC & YT. Phạm trù
thực tiễn co ý nghĩa rất quan trọng nó góp phần làm cho quan niệm Mác xít về VC & YT mang
tính DV triệt để, không chỉ DV trong lĩnh vực tự nhiên mà còn DV trong lĩnh vực xã hội.
- Trong CNDV BC đã có sự thống nhất giữa W DV và phương pháp BC. Trong P trước khi
P Mác xuất hiện thì giữa CNDV & PBC bị tách rời ở chỗ CNDV là CNDV siêu hình, PBC không
phải PBC DV mà là PBC DT. Khi P Mác xuất hiện thì điều ấy đã được khắc phục. Khắc phục
bằng cách là trong CNDV BC đã có sự thống nhất giữa CNDV & PBC; tạo nên một hình thức
mới của CNDV là CNDV BC & một hình thức mới của PBC là PBC DV. (P Mác là kế thừa của
P cổ điển Đức: CNDV Phơbách và PBC của Hegel).
- CNDV Mác xít là DV triệt để. CNDV cũ là CNDV không triệt để ở chỗ chỉ DV trong việc
xem xét giới tự nhiên; nhưng bộc lộ quan điểm DT trong việc xem xét lĩnh vực xã hội. Khi P
Mác ra đời thì CNDV mới trở thành CNDV triệt để nhờ Mác phát hiện, sáng tạo ra CNDV lịch
sử. Nhờ đó Mác mang P của mình tới tầm là CNDV triệt để. Khi Mác sáng tạo ra CNDV lịch sử
thì có nghĩa là mang các quan điểm của CNDV BC vào xem xét những vấn đề của đời sống xã
hội. Ngoài ra Mác phải tiến hành tổng kết lịch sử, kế thừa có phê phán toàn bộ hệ tư tưởng trước
đây của nhân loại, tạo ra hệ thống lý luận cho riêng mình.
- CNDV Mác xít còn có tính thực tiễn cách mạng. P Mác là hệ tư tưởng của giai cấp công
nhân, hệ tư tưởng đã được luận chứng bằng lý luận khoa học, phản ánh những quy luật phát triển
6
KQ của lịch sử. Chính vì vậy nó là hệ tư tưởng khoa học, chứa đựng sự thống nhất giữa tính đảng
và tính khoa học (Tính Đảng trong P tức là P đúng trên lập trường của P nào DT hay DV. Thống
nhất ở chỗ tính đảng càng triệt để thì tính khoa học càng cao và ngược lại). Ngoài ra nó còn có sự

thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
3. NHỮNG NGUYÊN TẮC PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA THẾ GIỚI QUAN DV
BC & VẬN DỤNG VÀO XÂY DỰNG CNXH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1 Các nguyên tắc phương pháp luận của thế giới quan DVBC: 2 nguyên tắc
- Nguyên tắc KQ trong việc xem xét sự vật: dựa vào quan điểm của CNDV BC trong việc giải
quyết mối quan hệ giữa VC & YT. Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta trong nhận thức & hoạt động
thực tiễn không được xuất phát từ ý muốn chủ quan, không được lấy ý muốn chủ quan áp đặt cho
thực tế, không được lấy ảo tưởng thay cho hiện thực mà phải xuất phát từ bản thân sự vật, từ thực
tế KQ, từ chính cuộc sống để giải quyết những vấn đề do cuộc sống đặt ra; phải phán ánh sự vật 1
cách trung thành như nó vốn có của nó. Trong hoạt động thực tiễn, phải tôn trọng và hành động
theo các quy luật KQ. Nguyên tắc này không chỉ đúng trong lĩnh vực kinh tế hay chính trị mà
đúng cho mọi lĩnh vực. Ví dụ chủ trương xây dựng nhà cho người có thu nhập thấp, đây là một
chính sách rất nhân văn nhưng khi xây xong thì người nghèo không có cơ hội để ở. Do người kỹ
thuật xuất phát từ bản thảo kỹ thuật, từ thỏa mãn kỹ thuật chứ không xuất phát từ thực tế cuộc
sống. Theo Lênin thì “không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được
lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược của cách mạng”. Đảng ta cũng xác
định “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, phải tôn trọng quy luật
KQ”.
- Nguyên tắc phát huy tính năng động chủ quan, chống CN duy ý chí: nguyên tắc 1 không
loại trừ, trái lại còn đòi hỏi phải phát huy tính năng động, sáng tạo của YT. Bản thân YT có tính
độc lập tương đối so với VC. Vì vậy, YT có tính năng động, sáng tạo nên YT có thể tác động trở
lại VC, góp phần cải biến thế giới KQ. Nói đến vai trò của YT nhất định phải nói đến vai trò của
con người. Tự bản thân YT không thể thay đổi hiện thực, YT muốn tác động trở lại đời sống hiện
thực phải được con người tổ chức thực hiện trong họat động thực tiễn.
Khi nói đến vai trò tích cực của YT không phải ở chỗ nó trực tiếp tạo ra hoặc thay đổi thế giới
VC, thực chất YT trang bị cho con người những tri thức về bản chất của quy luật KQ của đối
tượng, trên cơ sở đó con người mới xác định mục tiêu, đề ra phương hướng hoạt động cho phù
hợp. Trước tiên, con người xác định các biện pháp để tổ chức hoạt động thực tiễn và cuối cùng
bằng nỗ lực & ý chí của mình, con người có thể thực hiện các mục tiêu do mình đề ra. Do YT có
7

vai trò to lớn do đó trong hoạt động của mình con người phải chống lại thái độ thụ động, ỷ lại,
bảo thủ, trì trệ.
Để thực hiện tốt 2 nguyên tắc trên thì phải coi trọng nhân tố lợi ích. Vì lợi ích & nhu cầu là
một trong những động lực rất quan trọng trực tiếp thúc đẩy con người hành động. Qua đó gây nên
những biến đổi to lớn trong lịch sử. Chính vì vậy chúng ta phải nhận thức & vận dụng đúng đắn
các lợi ích, kết hợp giữa các lợi ích. Phải có động cơ đúng đắn, thái độ KQ, khoa học trong việc
nhận thức và thực hiện các lợi ích.
3.2 Vận dụng vào cách mạng Việt Nam
- Phải tôn trọng các quy luật KQ & những điều kiện cụ thể của đất nước. Quy luật là những
mối liên hệ bản chất tất nhiên, phổ biến, lặp lại giữa các SV HT, giữa các đối tượng, giữa các
thuộc tính của các SV cũng như các thuộc tính của cùng một SV HT. Cần lưu ý là quy luật rất đa
dạng, chúng có thể khác nhau về mức độ phổ biến, phạm vi bao quát, về tính chất, về vai trò của
chúng đối với việc vận động và phát triển của thế giới. Vì vậy cần phải phân loại các quy luật để
nhận thức & vận dụng các quy luật có hiệu quả.
Nếu căn cứ vào tính phổ biến: quy luật riêng, quy luật chung, quy luật phổ biến. Căn cứ vào
lĩnh vực hoạt động thì người ta chia thành 3 nhóm quy luật tự nhiên, quy luật xã hội, quy luật tư
duy (quy luật logic học).
+ Quy luật tự nhiên: là những quy luật nảy sinh và tác động không có sự tham gia của con
người.
+ Quy luật xã hội: là quy luật có sự tác động của chính bản thân con người cùng các quan hệ
xã hội. Điều đó có nghĩa là bản thân quy luật xã hội không nảy sinh và tác động bên ngoài hoạt
động của con người. Dù có sự tham gia của con người nhưng quy luật xã hội mang tính KQ
nhưng con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng quy luật xã hội vào đời sống chứ không thể tự
xoá bỏ quy luật này. Quy luật mất đi khi các điều kiện KQ đẻ ra nó không còn tồn tại. Ví dụ Việt
Nam muốn tồn tại và phát triển, trước hết trong hành động không chỉ tôn trọng các quy luật riêng
của chúng ta trong thời kỳ qua độ, quy luật chung của các nước XHCN, quy luật phổ biến của
loài người mà chúng ta còn phải tôn trọng các quy luật tự nhiên mà còn phải tôn trọng các quy
luật xã hội. Chúng ta phải thực hiện công cuộc giải phóng toàn diện con người và xã hội về các
mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, tinh thần …
- Tình hình cụ thể của đất nước. Do thực trạng của tình hình đất nước, những mâu thuân phát

sinh trong quá trình phát triển, những chuyển biến lớn lao của thời đại chúng ta đang sống mà nó
đặt ra yêu cầu KQ của thời đại là đổi mới đất nước. Thực chất của đổi mới đất nước là nhận thức
lại cho đúng các quy luật KQ của sự phát triển xã hội để hành động theo các quy luật đó.
8
+ Khi chúng ta đi lên CNXH trong điều kiện hiện nay, cách mạng nước ta tất yếu phải chịu sự
tác động của các nhân tố quốc tế & thời đại, mà trực tiếp nhất là quá trình khu vực hoá và toàn
cầu hóa. Tất cả những vấn đề nêu trên là một tất yếu KQ. Tất yếu KQ này là do quy luật phát
triển của lực lượng sản xuất không chỉ dừng lại ở tính xã hội hóa mà mang tính quốc tế. Tính tất
yếu kinh tế trong sự phát triển CNXH ở VN đòi hỏi phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nhằm phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế tiên tiến, hiện đại. Phát triển kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN phải đảm bảo “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
và văn minh”. Đế tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế (Giả thiết các nước trong khu vực đứng yên
tức là tốc độ tăng trưởng GDP = tốc độ tăng trưởng dân số thì cần 5 năm mới bắt kịp Indo & Phi ,
20 năm Thái lan, Sing 40 năm…) thì phải tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của llsx mà con đường
thích hợp nhất là phát triển kinh tế thị trường XHCN. Thực chất là đưa nền kinh tế nước ta trở lại
đúng quy luật. Tuy nhiên, kinh tế thị trường không phải là liều thuốc vạn năng, bên cạnh những
ưu điểm và những mặt tích cực nó còn có nhiều mặt trái, tiêu cực. Do đó, có nhận thức đúng đắn
về kinh tế thị trường để có những giải pháp phù hợp, đưa nền kinh tế thị trường phát triển đúng
định hướng XHCN.
+ Để đảm bảo sự nghiệp đổi mới thành công tất yếu phải dân chủ hóa đời sống xã hội. Đây là
điều kiện đảm bảo con người tự do, khi con người tự do mới phát huy được toàn bộ tính tích cực,
sáng tạo để làm cho các cá nhân đóng góp nhiều hơn cho xã hội. Trước hết dân chủ hóa trong
lĩnh vực kinh tế là chúng ta phải tạo ra một môi trường thông thoáng, một sân chơi lành mạnh
cho các thành phần kinh tế thì nó mới có tác động tích cực trong việc giải phóng sức sản xuất,
phát huy tính sáng tạo của cá nhân, mới phát huy sức mạnh của nhân tố con người, tạo ra sự phát
triển cho xã hội. Tiếp theo là dân chủ về chính trị là phải tạo ra bầu không khí đoàn kết, hoà hợp,
cởi mở trong xã hội, thúc đẩy hơn nữa quá trình đổi mới hệ thống chính trị. Khẳng định việc
đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta xét cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn là những đòi hỏi
mang tính tất yếu KQ thể hiện ở 4 điểm:
. Sự chuyển biến nhanh chóng của tình hình thế giới.

. Việc đổi mới toàn diện các lĩnh vực đời sống xã hội trước hết là đổi mới kinh tế chỉ có thể
thực hiên được & dựa trên cơ sở vững chắc khi có sự đổi mới tương ứng của hệ thống chính trị.
. Đổi mới còn là nhu cầu tự thân của hệ thống chính trị
. Đổi mới hệ thống chính trị còn là yêu cầu KQ nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng,
phát huy hiệu lực quản lý Nhà Nước.
Việc đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay cần tập trung vào 4 nội dung sau: một là
tập trung đổi mới bộ máy, nhất là các cán bộ chủ chốt; hai là đổi mới cơ chế hoạt động; ba là
9
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị; bốn là các chính sách đối nội, các
chính sách liên quan đến đội ngũ công quyền và các chính sách xã hội cho phù hợp.
Cuối cùng là Dân chủ trong lĩnh vực văn hóa – tinh thần là điều kiện đảm bảo tư tưởng &
giải phóng tinh thần cho mỗi cá nhân vì nó là cội nguồn to lớn cho sự phát triển tài năng, trí tuệ,
nhân cách của con người. Nhờ đó thúc đẩy hơn nữa tính cải cách của xã hội. Dân chủ hóa tạo ra
môi trường & động lực cho sự phát triển cá nhân và xã hội.
- Phát huy vai trò của Đảng, quản lý của Nhà Nước, tính chủ động sáng tạo của quần
chúng, khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, chống quan liêu tham nhũng. Sự nghiệp CNH
HĐH đất nước và quá trình hội nhập của đất nước không chỉ tôn trọng quy luật KQ và điều kiện
cụ thể của đất nước (nguyên tắc 1) mà phải không ngừng phát huy nhân tố chủ quan để thực hiện
2 việc: thứ nhất để nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, khái quát thành lý luận để tìm ra quy luật
khách quan, tìm ra những con đường và phương pháp phát triễn đất nước cho đúng xu hướng.
Thứ hai, dưới sự lãnh đạo của lý luận và đường lối chính sách của Đảng, con người phải chủ
động tích cực trong việc củng cố niềm tin, tăng cường ý chí quan tâm tìm ra những phương pháp
tối ưu nhất để hành động. Những yếu tố quan trọng của Nhân tố chủ quan trong quá trình phát
triển đất nước là
+ Vai trò lãnh đạo của Đảng: vì những lý do sau
. Đảng không chỉ là người giữ vai trò quyết định trong việc lựa chọn con đường, khả năng,
xu hướng vận động cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước mà còn là người đề ra đường lối
đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tế của dân tộc, của đất nước. Là người thường xuyên
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, hoàn thành dần mục tiêu lý tưởng và con đường Cách
Mạng mà dân tộc đã trải qua trong từng giai đoạn cụ thể.

. Đảng còn là 1 tổ chức lãnh đạo Nhà nước để thể chế hóa cương lĩnh, đường lối đổi mới
của mình thành chính sách, luật pháp của Nhà nước.
+ Không ngừng phát huy vai trò quản lý của nhà nước trong quá trình xây dựng và
hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN. Có 3 nội dung:
. Tiếp tục xây dựng, củng cố và hoàn thiện nhà nước của dân, do dân và vì dân. Biểu hiện
ở 5 điểm:
o Phải đảm bảo mọi lợi ích và quyền lực của nhà nước đều thuộc về nhân dân.
o Phải giải quyết tốt mối quan hệ công dân và nhà nước là mối quan hệ chính trị cơ bản
để xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.
o Phải xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra và dân được hưởng mọi đường lối chính sách và những thành quả kinh tế xã hội của
Đảng, của Nhà nước.
10
o Phải không ngừng xây dựng, củng cố và tăng cường quyền lực của nhà nước của dân,
do dân, vì dân. Để thực hiện điều đó thì Nhà nước phải mạnh.
o Phải giữ gìn bản sắc dân tộc và tiếp thu những giá trị tiến bộ của nhân loại.
. Phải từng bước thể chế hóa và tổ chức thực hiện quyền công dân, quyền con người. Thể
hiện ở quyền tự do dân chủ, về kinh tế - chính trị, xã hội… cũng như quyền của tập thể, nhóm,
giới… Muốn thực hiện quyền công dân, quyền con người thì cần 4 điều kiện và tiền đề như sau:
o Về chính trị: nhân dân phải được sống trong hòa bình, độc lập, tự do, phải giữ vững ổn
định chính trị, thực hiện công bằng, hợp tác và phát triển.
o Không ngừng phát triển kinh tế xã hội để ngày càng tạo ra đầy đủ những điều kiện VC
và tinh thần để thực hiện quyền công dân và quyền con người.
o Phải phát triển văn hóa, giáo dục và nâng cao trình độ dân trí của nhân dân. Ví dụ đi
bầu đại biểu Quốc Hội ngày 20/5 thì người dân phải có trình độ dân trí mới bỏ phiếu đúng cho
người có năng lực.
o Phải có sự thừa nhận của xã hội thông qua pháp luật, bằng pháp luật để chính thức hóa
giá trị chính trị và xã hội quyền công dân, quyền con người.
. Tăng cường các hoạt động xây dựng luật, tổ chức và thực hiện pháp luật trong thực tiễn.
o Phải khoa học hóa quá trình lập pháp để tránh sự chủ quan duy ý chí trong việc hoạch

định chính sách pháp luật. Luật pháp phải phù hợp với thực tiễn, phù hợp với xu hướng của thời
đại.
o Phải hoàn thiện cơ chế thu hút nhân dân vào quá trình tổ chức thực hiện hiến pháp và
pháp luật. Khi xây dựng pháp luật ngoài dựa vào ý kiến của quốc hội & các chuyên gia còn phải
lấy ý kiến của nhân dân. Đồng thời đưa hiến pháp và pháp luật vào đời sống nhân dân, được nhân
dân chấp nhận.
+ Phát huy tính chủ động, sáng tạo của quần chúng. Khái niệm quần chúng nhân dân là
những con người có lợi ích cơ bản gắn kết với nhau, liên kết với nhau thành một tập thể dưới sự
hướng dẫn của một cá nhân, một lãnh tụ để thực hiện những nhiệm vụ lich sử trong từng thời
điểm lịch sử cụ thể.
(Quần chúng nhân dân gồm: Những người sản xuất ra của cải VC; Những bộ phận dân cư
khác tham gia chống lại, đối kháng lại với nhân dân; Những cá nhân, giai cấp, tầng lớp cùng thúc
đẩy xã hội phát triển. Quần chúng nhân dân là người quyết định lịch sử căn cứ vào 3 luận điểm:
Quần chúng nhân dân là người trực tiếp sản xuất ra của cải của xã hội; Là lực lượng tạo ra giá trị
tinh thần, văn hóa của nhân loại; Là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.)
Đối với Việt Nam để phát huy tính năng động sáng tạo của quần chúng nhân dân:
11
. Phải kết hợp đúng đắn các lợi ích. Đây là việc rất quan trọng vừa là nguồn gốc, vừa là
động lực trực tiếp thôi thúc chủ thể hoạt động. Trong tất cả các lơi ích phải coi lợi ích cá nhân, lợi
ích kinh tế bao giờ cũng là động lực trực tiếp và mạnh mẽ nhất. Nhưng không có ý nghĩa là coi
nhẹ các lợi ích khác như lợi ích tập thể, lợi ích xã hội…
. Phát triển kinh tế phải gắn liền với sự phát triển các mặt khác của đời sống văn hóa xã
hội.
. Tăng trưởng kinh tế phải gắn với việc thực hiện dân chủ, văn minh, công bằng và tiến bộ
xã hội. Việc xử lý đúng đắn các lợi ích phải trở thành khoa học và nghệ thuật để khơi dậy, nuôi
dưỡng và phát huy tính chủ động, sáng tạo, tích cực của con người.
+ Khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, chống quan liêu tham nhũng. Nguồn gốc của
bệnh CN duy ý chí (CN duy ý chí là coi ý chí quyết định tất cả) trong cán bộ Đảng Viên không
chỉ bắt nguồn từ nhận thức mà còn bắt nguồn từ lịch sử, xã hội, giai cấp. Do chúng ta có những
sai lầm tả khuynh trong cách mạng dân tộc, dân chủ; có những sai lầm chủ quan nóng vội trong

quá trình xây dựng CNXH ở miền Bắc (chúng ta muốn và ảo tưởng là “tiến nhanh, tiến mạnh,
tiến thẳng lên CNXH”; thậm chí bị ảnh hưởng của chiến thắng 30/04/1975).
Những biểu hiện của CN duy ý chí:
. Nóng vội trong cải tạo XHCN, chỉ xây dựng thành phần kinh tế quốc doanh, xóa bỏ ngay
các thành phần kinh tế khác.
. Đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng.
. Những chủ chương sai lầm trong chính sách liên quan đến giá, lương, tiền.
→ Thực chất những sai lầm trên là vi phạm các quy luật KQ và nguyên tắc KQ.
Để chống chủ nghĩa duy ý chí cần phải tiến hành đồng bộ các biện pháp khác như sau:
. Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận về CNXH, về con đường đi lên CNXH ở nước ta. Có đổi
mới tư duy lý luận thì mới nhận thức đúng các quy luật KQ, từ đó mới có cơ sở để tôn trọng và
hành động theo đúng các quy luật KQ.
. Phải ra được một định hướng phát triển đúng đắn, 1 cơ chế quản lý kinh tế xã hội thích
hợp, có hiệu quả để điều khiển các hoạt động kinh tế xã hội. Phải khắc phục cơ chế quan liêu bao
cấp, tiếp tục đổi mới cơ chế kinh tế để chuyển hẳn sang cơ chế thị trường theo định hướng
XHCN có sự quản lý của nhà nước.
. Phải đổi mới tổ chức và phương hướng hoạt động của hệ thống chính trị, đặc biệt đổi mới
sự lãnh đạo của Đảng bằng việc nâng cao năng lực, trí tuệ, trình độ lý luận, thực hiện dân chủ
trong Đảng, đấu tranh chống các tư tưởng bảo thủ, trì trệ, quan liêu.
12
Chuyên đề 2: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT – PHƯƠNG PHÁP LUẬN
NHẬN THỨC KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
1. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PBC DV
1.1 Khái niệm PBC và khái quát lịch sử phát triển của PBC
1.1.1 Phương pháp siêu hình là phương pháp nhận thức đối tượng có 2 nội dung:
- Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi chỉnh thể khác và giữa
các mặt đối lập có một ranh giới tuyệt đối.
- Phương pháp nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại, nếu có sự biến đổi thì chỉ là sự biến
đổi về lượng còn nguyên nhân của sự biến đổi nằm bên ngoài đối tượng.
Phương pháp siêu hình làm cho con người nhận thức thế giới đi đến những sai lầm sau:

+ Chỉ nhìn thấy SV, HT mà không thấy mối liên hệ qua lại giữa các SV, HT ấy. Ví dụ
nhận thức về một thành phần kinh tế ấy mà không thấy mối liên hệ giữa thành phần kinh tế ấy
với các thành phần kinh tế khác.
+ Chỉ thấy sự tồn tại của những SV mà không nhìn thấy sự phát sinh và tiêu vong của
chúng.
+ Chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của SV ấy mà quên mất sự vận động của SV ấy, dễ bị động
trước sự biến đổi của SV.
+ Chỉ nhìn thấy cây mà không nhìn thấy rừng. Chỉ thấy một mà không thấy nhiều, chỉ thấy
cá thể mà không thấy toàn bộ.
Phương pháp siêu hình như vậy tất yếu sẽ mang đến cho con người một lối tư duy cứng
nhắc, bảo thủ theo kiểu “A đồng nhất tuyệt đối với A, A là chính nó”. Trên thế giới không
có cái gì là chính nó.
1.1.2 Phương pháp BC: 2 nội dung
- Là phương pháp nhận thức đối tượng trong các mối liên quan với nhau, ảnh hưởng nhau,
ràng buộc nhau.
- Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi nằm trong khuynh hướng chung là
phát triển. Đây là quá trình thay đổi về chất của các SV HT mà nguồn gốc của sự thay đổi này là
do sự đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẩn nội tại của chúng.
Phương pháp BC giúp con người nhận thức SV ở 4 nội dung sau:
+ Không chỉ thấy SV cá biệt mà còn thấy được mối liên hệ qua lại giữa chúng.
+ Không chỉ thấy sự tồn tại mà còn thấy sự hình thành và tiêu vong của SV.
+ Không chỉ thấy trạng thái tĩnh mà còn thấy cả trạng thái vận động biến đổi của SV.
+ Không chỉ thấy cây mà còn thấy rừng.
13
Nếu phương pháp siêu hình mang đến cho con người sự nhận thức sai lầm về SV. Với
bản chất của phương pháp BC như vậy đã mang đến cho con người một thứ tư duy mềm
dẻo linh hoạt, một thứ tư duy thừa nhận trong những trường hợp cần thiết bên cạnh cái
“hoặc là” còn là cái “vừa là”, cái khẳng định và cái phủ định không chỉ loại trừ nhau mà có
liên hệ BC với nhau. SV vừa nó vừa là cái khác nó. Ví dụ Đảng viên có thề làm kinh tế tư
nhân.

1.1.3 Lịch sử của PBC: có 3 hình thức
- PBC chất phác thời cổ đại. Khi nói tới BC cổ đại thì người ta thường đề cập đến BC DT
của Socate Hecralit và Platon nhưng chỉ dừng lại ở nghệ thuật tranh luận để tìm ra chân lý. Tức là
trong quá trình tranh luận chỉ ra cái mâu thuẫn trong lập luận của đối phương và chỉ ra cách giải
quyết những mâu thuẫn đó. BC cổ đại mà điển hình là của Hecalite mới dừng lại ở trực kiến thiên
tài của ông chứ chưa phải là kết quả nghiên cứu của lý thuyết khoa học. Về cơ bản là đúng nhưng
chưa có giá trị cao về mặt khoa học vì vậy sau này nó bị tư duy siêu hình TK15 phủ định.
- PBC DT trong P cổ điển Đức: bắt đầu từ Kant và kết thúc với Feurbach. Tính duy tâm thể
hiện ở chỗ coi BC là sự phát triển của ý niệm tuyệt đối. Trong quá trình phát triển này ý niệm
tuyệt đối tự tha hóa, chuyển hóa thành giới tự nhiên, sau đó trở về với chính bản thân mình. Theo
Hegel sự phát triển BC của thế giới chỉ là sự thể hiện sự tự vận động của ý niệm tuyệt đối mà
thôi.
→ Có thể nhận xét đối với PBC DT trong P cổ điển Đức ngoài giá trị học thuật nó
không có giá trị trong vấn đề nhận thức và mặt thực tiễn. Giá trị về mặt học thuật thể hiện
ở chỗ cống hiến quan trọng nhất của PBC DT trong P cổ điển Đức là phương pháp xem xét
SV đối lập với phương pháp siêu hình thế kỷ 17-18, đấy là thành công của nó. Và lần đầu
tiên PBC thể hiện với tư cách là logic BCđể khắc phục hạn chế của logic hình thức.
- PBC DV ra đời vào những năm 40 của thế kỷ 19 do Mác và Ănghen sáng lập.
Theo Ănghen “PBC là khoa học về sự liên hệ phổ biến hoặc là môn khoa học về những
quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy”
PBC DV là sự thống nhất hữu cơ giữa W duy vật với phương pháp BC, giữa lý luận nhận
thức với logic BC. Sự ra đời của PBC DV là một cuộc cách mạng trong phương pháp tư duy P, là
phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những SV và những phản ánh của chúng trong tư
tưởng, trong mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và
sự tiêu vong của chúng.
1.2 Nội dung cơ bản của PBC DV - Tính khoa học và tính cách mạng của nó
14
Nội dung cơ bản của PBC DV gồm 2 nguyên lý, 3 quy luật, 6 cặp phạm trù. Trong đó nguyên
lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát có nội dung khái quát nhất. Còn 3 quy luật, 6
cặp phạm trù là sự cụ thể hóa nội dung của 2 nguyên lý.

1.2.1 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
- Xem xét các SV HT của thế giới, bản thân chúng không tồn tại độc lập một cách tuyệt đối
bên cạnh nhau. Mà trái lại tồn tại trong sự liên hệ mật thiết với nhau.
- Mối liên hệ là một phạm trù P khái quát về mối liên hệ, quan hệ của các SV HT nghĩa là có
sự ràng buộc, phụ thuộc có sự sự quy định, tác động qua lại sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các SV,
HT.
- Các tính chất của mối liên hệ: có 3 tính chất.
+ Tính KQ: là cái vốn có của SV HT, không phụ thuộc vào ý chí KQ của con người.
+ Tính phổ biến: Bất cứ SV, HT nào cũng có liên hệ với SV, HT khác, không có SV HT nào
nằm ngoài mối liên hệ. Biểu hiện dưới hình thức riêng biệt cụ thể, tùy theo những điều kiện nhất
định. Cho dù dưới hình thức nào chúng chỉ biểu hiện ở mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.
+ Tính đa dạng, nhiều vẻ của mối liên hệ: Chúng đa dạng về tinh chất về trình độ và hình
thức biểu hiện ở chỗ là có mối liên hệ chung, tác động đến mọi lĩnh vực của thế giới. Có mối liên
hệ riêng chỉ liên quan đến từng SV HT cụ thể. Có mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài,
mối liên hệ chủ yếu - thứ yếu, tất nhiên - ngẫu nhiên → các mối liên hệ có vai trò khác đối
với sự vận động phát triển của SV.
* Những phạm trù của PBC DV là sự cụ thể hóa nguyên lý về sự liên hệ phổ biến
Nguyên lý là sự khái quát chung về tính chất sự liên hệ BC của thế giới, đó là sự liên hệ và
sự phát triển được biểu hiện ở 2 nguyên lý. Phạm trù và quy luật là lý luận nghiên cứu các mối
liên hệ về sự phát triển của thế giới. Vì vậy các phạm trù cũng như quy luật của PBC DV
mang đến cho chúng ta phương pháp luận để thực hiện các quan điểm được rút ra từ các
nguyên lý. VD: quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển, quan điểm lịch sử.
Cụ thể đối với các phạm trù cái chung - cái riêng, tất nhiên - ngẫu nhiên, bản chất –
hiện tượng là cơ sở phương pháp luận trực tiếp của các phương pháp như phân tích, tổng hợp,
diễn dịch, quy nạp, khái quát hóa, trừu tượng hóa. Trên cơ sở đó nó giúp chúng ta rút ra được mối
liên hệ bản chất để từ đó hiểu được toàn bộ các mối liên hệ theo một hệ thống nhất định. Các
phạm trù như nguyên nhân - kết quả, khả năng - hiện thực là cơ sở phương pháp luận để chỉ rõ
trình tự kế tiếp nhau của các mối liên hệ và sự phát triển như là một quá trình tự nhiên. Phạm trù
nội dung và hình thức là cơ sở phương pháp luận để xây dựng các hình thức tồn tại trong sự phụ
thuộc vào nội dung và khả năng sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để đạt được mục đích.

1.2.2 Nguyên lý về sự phát triển
15
1.2.2.1 Khái niệm về sự phát triển: Phát triển được coi là một phạm trù P khái quát về sự
vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.
Rõ ràng khái niệm phát triển và vận động không đồng nhất với nhau. Vận động là sự biến đổi nói
chung, có thể đi lên hay đi xuống. Còn phát về sự vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Như vậy, khái niệm phát triển không đồng
nghĩa với vận động.
PBC DV không chỉ thừa nhận sự phát triển của thế giới mà còn chỉ ra những nội dung sau
đây:
- Chỉ ra cách thức của sự phát triển là quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay
đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc.
- Chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển là nằm trong bản thân các SV HT, đó là do quá trình
giải quyết mâu thuẫn.
- Chỉ ra khuynh hướng & kết quả của sự phát triển là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc
với kết quả là dường như SV trở lại với điểm xuất phát ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn.
PBC DV còn chỉ ra rằng sự phát triển của thế giới không phải lúc nào cũng diễn ra theo
đường thẳng mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí nó có thể có những bước thụt lùi tạm thời. Hơn
nữa sự phát triển còn thể hiện sự khác nhau trong thế giới hiện thực. Sự phát triển của xã hội thể
hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên và cải tạo các quan hệ xã hội của con người. Trong khi đó sự
phát triển của tư duy thể hiện ở khả năng nhận thức của con người ngày càng sâu sắc, ngày càng
đầy đủ và chính xác về thế giới hiện thực. Sự phát triển của mỗi con người biểu hiện ở khả năng
tự hoàn thiện về thể chất và tinh thần để phù hợp với sự vận động và phát triển của xã hội. Nếu
không có sự hoàn thiện mình về thể chất và tinh thần thì không thể tồn tại.
1.2.2.2 Tính chất của sự phát triển: 3 tính chất KQ, phổ biến và đa dạng.
- Tính KQ của sự phát triển: nguồn gốc của sự phát triển nằm bên trong mỗi SV. Đó là quá
trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại, vận động của SV.
- Tính phổ biến của sự phát triển: nó diễn ra ở mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội, tư duy cũng
như ở bất cứ SV, HT nào của thế giới KQ.
- Tính đa dạng và phong phú: phát triển là khuynh hướng chung của thế giới. Tuy nhiên ở

mỗi SV HT thì quá trình phát triển diễn ra không giống nhau. Do chúng tồn tại trong những điều
kiện không gian, thời gian khác nhau; trong quá trình phát triển của bản thân các SV HT thì các
SVHT chịu sự tác động của rất nhiều SV HT khác, của rất nhiều các yếu tố, các điều kiện. Chính
vì những tác động như vậy, nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của SV. Đôi khi nó
làm thay đổi chiều hướng phát triển, thậm chí làm cho SV thụt lùi. VD: Trình độ nhận thức của
16
thế hệ cha mẹ không giống với thế hệ con cái vì các thế hệ sinh ra và lớn lên trong những điều
kiện không gian, thời gian khác nhau; bản thân các SVHT bị chi phối bởi các yếu tố khác nhau.
1.2.2.3 Những quy luật cơ bản của PBC DV là sự cụ thể hóa nguyên lý về sự phát triển:
3 quy luật cơ bản của PBC DV đều có ý nghĩa phương pháp luận chỉ đạo mọi hoạt động của con
người, chỉ đạo các quan niệm toàn diện, phát triển, lịch sử cụ thể. Nó vạch ra cách thức, nguồn
gốc, động lực và xu hướng phát triển tiến lên của các SV HT trong thế giới. Cụ thể:
- Quy luật lượng – chất: chỉ ra cách thức, cơ chế của sự phát triển là đi từ những biến đổi
nhỏ nhặt dần dần về lượng đến giới hạn độ thì gây ra những biến đổi căn bản về chất thông qua
những bước nhảy vọt. Mọi sự biến đổi về lượng không tức khắc dẫn đến sự thay đổi về chất tuy
nhiên có ảnh hưởng đến chất của SV HT. Trong bất kỳ SV HT nào cũng đều thống nhất của hai
mặt đối lập chất và lượng. PBC DV chỉ ra rằng nó thống nhất trong một độ. Độ là giới hạn mà ở
giới hạn đó lượng thay đổi chất vẫn chưa thay đổi vì SV vẫn còn là nó chưa trở thành SVHT
khác. Mọi sự thay đổi về lượng không tức khắc dẫn đến sự thay đổi về chất. Tuy nhiên, có ảnh
hưởng đến chất của SV HT. Chỉ khi lượng vượt qua giới hạn độ và cùng với những điều kiện
nhất định thì lúc này chất của SV sẽ thay đổi. Khi chất mới ra đời thì nó quy định, ảnh hưởng tới
lượng mới về quy mô, tốc độ khuynh hướng vận động của lượng. Quy luật lượng - chất là cơ sở
phương pháp luận chung cho mọi cơ chế phát triển với 3 yêu cầu sau:
+ Bước nhảy làm chất mới thay thế chất cũ là tất yếu KQ trong quá trình phát triển. Song
sự thay đổi về chất chỉ diễn ra khi lượng thay đổi đến điểm nút. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn
của con người, muốn tạo ra bước nhảy thì phải quan tâm đến việc tích lũy về lượng. Khi lượng
thay đổi đến điểm nút thì phải thực hiện bước nhảy. Do đó, cần chống tư tưởng nóng vội, chủ
quan duy ý chí cũng như chống tư tưởng không dám thực hiện bước nhảy để tạo ra sự thay đổi về
chất.
+ Sự thay đổi về chất của SV còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết các yếu

tố tạo nên SV. Chính vì vậy trong hoạt động thực tiễn của mình, con người cần phải biết tạo ra sự
tác động vào phương thức liên kết các yếu tố tạo nên SV. Ví dụ một đội bóng cò những cầu thủ
trung bình nhưng HLV biết liên kết họ tạo thành một sức mạnh tập thể.
+ Quy luật của tự nhiên và quy luật xã hội đều KQ như nhau. Trái với quy luật tự nhiên thì
tự nó giải quyết. Quy luật xã hội là quy luật có sự tham gia của con người do đó để bước nhảy
trong xã hội được thực hiện thì con người không chỉ tôn trọng điều kiện KQ mà cần nỗ lực chủ
quan.
- Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập hay quy luật mâu thuẫn: vạch ra
nguồn gốc, động lực của sự phát triển và phản ánh quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên
17
trong SV. Vì vậy, quy luật này là cơ sở phương pháp luận chung nhất cho việc phân tích mâu
thuẫn và quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn với 3 yêu cầu cơ bản sau:
+ Do bất kỳ SV HT nào cũng tồn tại mâu thuẫn nhưng muốn phát hiện mâu thuẫn thì phải
tìm ra trong thể thống nhất những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau. Tức là phải tìm ra
được những mặt đối lập, đồng thời tìm ra mối liên hệ, tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập
được. Khi phân tích mâu thuẫn phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn,
xem xét vị trí, vai trò và mối quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn. Đồng thời phải xem xét quá
trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng,
điều kiện chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng. Có như thế mới hiểu đúng mâu thuẫn của SV và hiểu
đúng xu hướng vận động phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.
+ Để thúc đẩy SV phát triển thì phải tôn trọng nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn đó là đấu
tranh của các mặt đối lập. Khi đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn thì phải phù hợp với trình độ
phát triển của mâu thuẫn đồng thời phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng để giải
quyết mâu thuẫn.
+ Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện chín muồi.
→ Phải chống những thái độ sai lầm sau: Chống thái độ chủ quan, nóng vội trong việc
giải quyết mâu thuẫn, tích cực thúc đẩy những điều kiện KQ làm cho các điều kiện giải quyết
mâu thuẫn đi đến chín muồi. Mâu thuẫn khác nhau phải được giải quyết bằng các phương pháp
khác nhau.
- Quy luật phủ định của phủ định: vạch ra khuynh hướng phát triển tiến lên theo hình thức

xoáy ốc, thể hiện tính chất chu kỳ trong quá trình phát triển. Vì vậy quy luật này là cơ sở phương
pháp luận để:
+ Giúp chúng ta hiểu được xu hướng của sự phát triển đó là quá trình diễn ra không thẳng
tắp mà quanh co, phức tạp, được diễn tả bằng hình xoáy ốc. Song phát triển là khuynh hướng
chung, tất yếu của sự vận động.
+ Giúp chúng ta hiểu đầy đủ hơn về cái mới, cái mới ra đời là hợp quy luật là cái tất thắng.
Song trong một lúc nào đó cái mới vừa nảy sinh thì trong một thời gian nào đó cái cũ còn mạnh
hơn cái mới. Vì vậy, một quan điểm chân chính về sự phát triển là con người phải biết ủng hộ,
bảo vệ, nuôi dưỡng phát triển cái mới để cái mới nhanh chóng khẳng định vị trí của nó trong hiện
thực.
+ Phủ định BC đòi hỏi phải tôn trọng tính kế thừa nhưng kế thừa phải có chọn lọc, có phê
phán, cần chống xu hướng kế thừa nguyên xi, máy móc. Đồng thời cũng chống xu hướng phủ
định sạch trơn, CN hư vô quá khứ. Đây là đặc trưng của phủ định BC khác với đặc trưng của phủ
định siêu hình. Ví dụ Feurbach xóa bỏ toàn bộ P của Hegel mà không thấy được PBC của Hegel
18
và Mác đã nói “khi Feurbach phê phán Hegel giống như người ta bê chậu nước hắt đi tất cả mà
không biết giữ lại đứa trẻ đang tắm trong đó”.
Trong tự nhiên, quá trình kế thừa là quá trình chọn lọc tự nhiên, cái gì mạnh, tốt thì giữ lại,
cái xấu cái yếu thì bỏ đi. Trong xã hội thì khác, liên quan đến con người, địa vị, lợi ích, quyền lợi
bởi vậy người ta mang yếu tố chủ quan vào nên phải bình tĩnh, KQ để chọn cái cần giữ.
1.2.3 Tính khoa học và tính cách mạng của PBC DV
- Bản chất cách mạng của PBC DV thể hiện ở chỗ trong khi nó đưa ra quan niệm về tính
hợp lý của các hiện tồn tại thì đồng thời cũng bao hàm trong đó quan niệm về sự diệt vong tất yếu
của cái đang tồn tại đó. Vì vậy, đối với PBC DV thì không có cái gì được coi là tuyệt đối, và luôn
luôn chỉ ra tính quá độ của mọi SV. Đối với PBC DV thì không có gì tồn tại ngoài quá trình phát
triển, vô cùng vô tận từ thấp đến cao. Với bản chất cách mạng như vậy, PBC DV đã chống lại
mọi quan điểm bảo thủ, trì trệ.
- Ý nghĩa phương pháp luận của PBC với thực tiễn cách mạng của thời đại hiện nay. Chưa
bao giờ tình hình thế giới lại diễn ra phức tạp như hiện nay. Trong tình hình này đòi hỏi chúng ta
phải nắm vững PBC DV để nhận thức đúng những biến đổi sâu sắc của tình hình thế giới và

trong nước; để đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của sự nghiệp đối mới đất nước trong giai đoạn
hiện nay. Từ đó giúp chúng ta xác định đúng những phương pháp nhận thức và hành động đúng
đắn để thực hiện nhiệm vụ xây dựng đất nước.
- Đối với Việt Nam phải xác định chúng ta là xã hội tiền tư bản, đi lên CNXH bỏ qua chế độ
TBCN có nghĩa là con đường chúng ta đi lên CNXH là quá độ lâu dài. Cho dù với bất cứ tính đặc
thù như thế nào thì phải đảm bảo yêu cầu của tính lịch sử tự nhiên trong quá trình vận động của
cách mạng Việt Nam phải
+ Giải quyết đúng đắn mâu thuẫn cơ bản của xã hội chúng ta trong thời kỳ quá độ (Mâu
thuẫn giữa xu hướng tự phát TBCN và xu hướng tự giác XHCN).
+ Quá trình đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn cơ bản ấy phải
. Tuân theo sự phát triển tiến hóa dần dần về lượng, tranh thủ những bước phát triển
nhảy vọt về chất.
. Vừa kế thừa tất cả mặt cần thiết hợp lý của CNTB, vừa đấu tranh tích cực để loại bỏ
những mặt phi nhân bản của CNTB.
. Vừa tích lũy nội dung vừa nhạy bén cải thiện hình thức cho phù hợp
. Kết hợp những giá trị truyền thống của dân tộc với những tiến bộ của nền văn minh
nhân loại.
19
2. PHƯƠNG PHÁP VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN. CÁC NGUYÊN TẮC PHƯƠNG
PHÁP LUẬN CƠ BẢN CỦA PBC DV
2.1 Phương pháp và phương pháp luận
2.1.1 Phương pháp có 2 cách hiểu là cách hiểu thông thường và theo nghĩa khoa học
- Phương pháp là cách thức, là thủ đoạn nhất định được chủ thể hành động sử dụng để thực
hiện mục đích nào đó.
- Phương pháp là hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ tri thức về các quy luật KQ để
điều chỉnh nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện một mục đích nhất định (theo nghĩa
khoa học)
* Nguồn gốc của phương pháp: CNDT coi phương pháp là những nguyên tắc do lý trí của
con người tự đặt ra để tiện cho vấn đề nhận thức và hoạt động của mình. CNDV BC cho rằng
phương pháp được hình thành không phải một cách chủ quan, tùy tiện; cũng không phải là những

phương pháp có sẵn , bất biến mà bản thân phương pháp phụ thuộc vào đối tượng nghiên cứu.
* Các loại phương pháp: do đối tượng nghiên cứu rất đa dạng nên các phương pháp nghiên
cứu cũng rất đa dạng. Tùy theo các tiêu chí khác mà người ta có thể xác định các loại phương
pháp khác nhau.
- Dựa vào mức độ phổ biến, phạm vi ứng dụng thì phương pháp chia làm 3 loại:
+ Phương pháp riêng là phương pháp chỉ áp dụng cho từng bộ môn khoa học cụ thể như
phương pháp hóa học, sinh học…
+ Phương pháp chung là phương pháp được áp dụng cho một số ngành khoa học khác như
phương pháp quan sát, phương pháp thực nghiệm, phương pháp mô hình hóa.
+ Phương pháp phổ biến là phương pháp được ứng dụng cho tất cả các ngành khoa học,
đó chính là phương pháp P Mác Lênin hay phương pháp DV BC.
- Dựa vào mục đích và chức năng của phương pháp:
+ Phương pháp nhận thức: là phương pháp mà người ta sử dụng các giác quan và tư duy
để nắm bắt bản chất quy luật vận động và phát triển của đối tượng như phương pháp phân tích,
tổng hợp, phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể…
+ Phương pháp hoạt động thực tiễn: là phương pháp mà người ta sử dụng các phương tiện
vật chất để tác động trực tiếp vào đối tượng nhằm biến đổi các đối tượng đó theo nhu cầu của con
người như phương pháp xác suất, phương pháp thực nghiệm.
→ Mỗi loại phương pháp có chức năng nhiệm vụ khác nhau vì vậy nó không thể thay thế cho
nhau. Nhưng các phương pháp liên hệ BC & hổ trợ nhau trong vấn đề nhận thức và hoạt động
20
thực tiễn của con người. Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn con người phải sử dụng tổng
hợp các phương pháp.
2.1.2 Phương pháp luận
Khi con người nghiên cứu các đối tượng bao gồm tự nhiên, xã hội, con người phải xác định
những vấn đề sau: 1 Sử dụng phương pháp gì? 2 Do đâu mà mình sử dụng phương pháp đó? 3.
Làm thế nào để sử dụng các phương pháp cho đúng đắn? Từ đó xuất hiện nhu cầu là ra đời
phương pháp luận. Phương pháp luận là lý luận về phương pháp. Cụ thể phương pháp luận
là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát để chỉ đạo chủ thể trong việc xác
định phương pháp cũng như việc xác định phạm vi, khả năng áp dụng chúng 1 cách hợp lý,

1 cách có hiệu quả.
Phương pháp luận giải quyết những vấn đề sau:
- Trả lời câu hỏi phương pháp là gì?
- Bản chất, hình thức của phương pháp như thế nào?
- Vai trò của phương pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người
như thế nào?
* Sự thống nhất và khác biệt giữa phương pháp và phương pháp luận
- Sự khác biệt:
+ Phương pháp luận là lý luận về phương pháp.
+ Phương pháp luận là cách thức, thủ đoạn hoạt động cụ thể của chủ thể.
- Sự thống nhất: phương pháp luận là cơ sở nghiên cứu các phương pháp cụ thể, còn bản
thân các phương pháp cụ thể xuất phát từ quan điểm, từ nguyên tắc của phương pháp luận.
* Các cấp độ của phương pháp luận: 3 cấp độ
- Phương pháp luận bộ môn: là những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát để xác định
các phương pháp cụ thể nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể của các bộ môn khoa học như
phương pháp toán học, phương pháp kinh tế học.
- Phương pháp luận khoa học chung: là những quan điểm, những nguyên tắc chung để chỉ
đạo việc xác định phương pháp luận bộ môn hay phương pháp luận của một nhóm các ngành của
các bộ môn khoa học có những quan điểm chung nào đó như phương pháp luận của các ngành
khoa học tự nhiên, phương pháp luận của các ngành khoa học xã hội…
- Phương pháp luận chung nhất: là phương pháp luận P. Phương pháp này khái quát những
quan điểm, những nguyên tắc chung nhất làm xuất phát điểm cho việc xác định các phương pháp
luận khoa học chung, phương pháp luận bộ môn và các phương pháp hoạt động cụ thể của nhận
thức và thực tiễn.
21
→ Các phương pháp trên vừa độc lập với nhau vừa có thể bổ sung, thâm nhập vào nhau
nhưng không thể thay thế nhau. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải sử dụng
tổng hợp các phương pháp luận trong đó PBC DV là phương pháp luận chung nhất của nhận thức
khoa học và thực tiễn.
2.2 Các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của PBC DV

2.2.1 Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn
Trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn của con người, để đạt được kết quả tốt nhất thì
phải coi trọng nguyên tắc toàn diện. Các SV HT trong thế giới không tồn tại độc lập bên cạnh
nhau mà bản thân SV HT tồn tại trong mối liên hệ mật thiết nhau. Mối liên hệ đó tồn tại phổ biến,
KQ, đa dạng. Do đó, phải tôn trọng nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn.
Những yêu cầu:
- Khi nhận thức về SV thì phải nhận thức mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu
tố, giữa các mặt của chính SV đó trong sự tác động qua lại giữa các SV HT đó với các SV HT
khác. VD: một chính sách kinh tế không thể thành công nếu tách rời với quá trình cạnh tranh toàn
cầu. Muốn có một chính sách kinh tế đúng và hiệu quả phải đặt trong tính cạnh tranh toàn cầu.
- Phải biết phân biệt từng mối liên hệ, lưu ý đến những mối liên hệ bên trong, bản chất, chủ
yếu, tất nhiên để hiểu rõ bản chất của SV và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại
hiệu quả cao nhất trong hoạt động của chủ thể.
- Trong hoạt động thực tiễn khi tác động vào SV HT thì không chỉ chú ý đến những mối liên
hệ nội tại của chúng mà phải chú ý đến mối liên hệ của SV HT này với SV HT khác. Đồng thời
phải sử dụng đồng bộ các phương pháp, biện pháp, các phương tiện khác để tác động vào SV HT
nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. VD: để thực hiện mục tiêu “dân giàu nước mạnh” phải phát huy
nội lực và tận dụng ngoại lực.
2.2.2 Nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn
Mọi SV HT đều nằm trong quá trình vận động và phát triển. Vì vậy trong nhận thức và
trong hoạt động thực tiễn của mình chúng ta cần phải có quan điểm phát triển.
Yêu cầu:
- Khi xem xét bất kỳ SV HT nào thì không chỉ nhìn nhận, nắm bắt cái hiện đang tồn tại mà
còn phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng, phải thấy cả những biến đổi
đi lên và những biến đổi có tính chất thụt lùi. Song cái cơ bản là phải khái quát được quá trình
biến đổi của SV diễn ra như thế nào để vạch ra khuynh hướng biến đổi chính của SV. VD: Khi
bước vào cơ chế thị trường sẽ là sai lầm nếu hài lòng với những thành quả của cơ chế thị trường
phải nhìn ra xu hướng biến đổi của cơ chế thị trường để đưa ra đường lối, chủ trương chính xác.
22

- Phải chia quá trình phát triển của SV thành những giai đoạn trên cơ sở đó để tìm ra những
phương pháp nhận thức và cách thức tác động cho phù hợp để thúc đẩy SV tiến nhanh hơn hoặc
kìm hãm sự phát triển của nó tùy theo sự phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống của con
người. VD tăng trưởng chiều cao của con người chia làm 3 giai đoạn: gđ trong bào thai, gđ hết
tuổi mẫu giáo, gđ 15 – 25 tuổi và yếu tố di truyền không quyết định chiều cao mà phải chia thành
các giai đoạn phát triển và có tác động dinh dưỡng vào từng thời kỳ cho thích hợp.
2.2.3 Nguyên tắc lịch sử cụ thể
Bản thân các SV luôn luôn tồn tại trong những điều kiện không gian, thời gian khác nhau do
đó khi nhận thức chúng thì chúng ta phải chú ý đến những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể,
môi trường cụ thể trong đó SV sinh ra, tồn tại và phát triển. VD: quan điểm thủy chung cách đây
30 năm không đúng với thời điểm hiện nay. Hay một luận điểm nào đó là đúng trong hoàn cảnh
lịch sử này nhưng không đúng trong hoàn cảnh lịch sử khác.
3. LOGIC HỌC, KHOA HỌC VỀ TƯ DUY:
Đối tượng của logic học là tư duy. Nghiên cứu về tư duy là đối tượng của nhiều khoa học như
P, tâm lý học, logic học… Logic học nghiên cứu hình thức & quy luật của tư duy. Có 2 loại logic
là logic hình thức và logic BC. Logic hình thức là khoa học nghiên cứu các hình thức và quy luật
tư duy đúng đắn để đảm bảo tính xác định, tính chặt chẽ, nhất quán cho tư duy trong suốt quá
trình suy luận. Logic hình thức chia làm 2 lọai là Logic học hình thức cổ điển (tiêu biểu là
Aristot) và Logic học hình thức ký hiệu: thay những phán đoán thông thường bằng những ký
hiệu.
Logic hình thức nghiên cứu các quy luật như:
- Quy luật đồng nhất: trong cuộc sống mỗi SV đều là chính nó (A là A). Trong nhận thức,
trong suy luận quy luật này được phát biểu “mỗi một ý nghĩ về một SV nào đó khi được lặp lại
trong một quá trình suy luận đều phải đồng nhất”. Phát biểu đó được triển khai làm 2 yêu cầu:
+ Những ý nghĩ, tư tưởng khác nói về các đối tượng khác nhau hay nói về cùng đối tượng
nhưng theo những khía cạnh khác nhau thậm chí chúng được dùng bằng những từ ngữ giống
nhau cũng không được đồng nhất với nhau. Vi phạm yêu cầu này trong logic học gọi là đánh tráo
khái niệm còn theo dân gian là “ông nói gà bà nói vịt”
+ Những ý nghĩ, tư tưởng giống nhau nhưng được diễn đạt bằng những từ ngữ khác nhau
không được coi là khác nhau. Người ta thường hay vi phạm nguyên tắc này vì hai lý do thiếu

hiểu biết về đối tượng mà ta đang lập luận do không hiểu nội hàm và ngoại diên của khái niệm
(ví dụ đứa trẻ thường hiểm nhầm 1 kg sắt nặng hơn 1 kg bông); thứ hai là do có sự đồng âm khác
nghĩa trong ngôn ngữ. Để tránh sai lầm thì trước khi trình bày về một đối tượng nào đó cần tìm
hiểu kỹ 2 khía cạnh của một khái niệm đó là mặt chất của khái niệm (nội hàm của khái niệm cho
23
ta biết SV ta nói tới là SV gì, ntn ) và mặt lượng của khái niệm (ngoại diên cho ta biết khái niệm
mà ta nói tới nó cùng loại với bao nhiêu SVHT). Đồng thời trong tranh luận nếu 1 khái niệm có
lặp lại nhiều lần thì phải dùng theo 1 nghĩa nhất định cụ thể trong các hợp đồng kinh tế. Tác
dụng của quy luật này là đảm bảo tư duy chính xác, đúng đắn, có nội dụng rõ rệt, xác định.
Vì vậy không cho phép ý tưởng lờ mờ, lưỡng nghĩa. Tính xác định của tư duy do tính xác định
của VC quy định, thể hiện ở 3 điểm:
. Mỗi SV bao giờ cũng liên hệ với các SV HT khác nhưng SV nào vẫn riêng SV đó.
. Các SV HT luôn luôn biến đổi, luôn luôn phát triển nhưng khi nó chưa thay đổi về chất
thì nó vẫn là chính nó. Ví dụ xã hội VN có biến đổi nhưng vẫn trong TKQĐ lên CNXH.
. Mỗi SV đều có mâu thuẫn của hai mặt đối lập nhưng SV ấy cũng chỉ là một chứ không
phải là hai.
- Quy luật phi mâu thuẫn: là hình thức phủ định của luật đồng nhất và cơ sở của phép bác bỏ
gián tiếp. Trong cuộc sống quy luật này biểu hiện là hai tư tưởng trái ngược nhau thì không thể
cùng đúng. Trong nhận thức, trong suy luận thì quy luật được phát triển “Hai ý nghĩ, hai tư tưởng
hay hai mệnh đề tương phản hay trái ngược nhau thì không thể đồng thời cũng đúng. Nếu mệnh
đề này đúng thì mệnh đề kia sẽ sai và ngược lại”. Nội dung trên được triển khai làm 3 yêu cầu
sau:
+ Trong suy nghĩ, trong lập luận không đươc đồng thời vừa khẳng định một điều gì đó lại vừa
phủ định chính điều ấy khi SV vẫn còn là nó, chưa thay đổi. VD: số nguyên vừa chẵn vừa lẻ.
+ Trong suy nghĩ, lập luận không được đồng thời khẳng định điều gì đó, lại phủ định chính hệ
quả tất yếu được rút ra từ điều khẳng định ấy. VD nói Đảng viên được phép tham gia các thành
phần kinh tế kể cả kinh tế tư nhân nhưng không được phép bó lột. Vì kinh tế tư nhân là có quan
hệ chủ tớ thì đã có bóc lột. như vậy là vi phạm yêu cầu thứ hai.
+ Không được đồng thời khẳng định cho đối tượng tư tưởng 2 đặc tính mà trong hiện thực
chúng loại trừ nhau.

Tác dụng của quy luật phi mâu thuẫn:
+ Phải tôn trọng luật mâu thuẫn mới tránh được mâu thuẫn trong tư duy.
+ Không được làm lớn mâu thuẫn trong thực tế và mâu thuẫn logic.
- Quy luật loại trừ cái thứ ba: hai ý nghĩ, hai tư tưởng mâu thuẫn nhau không thể đồng thời cùng
đúng và cùng sai. Nghĩa là có một mệnh đề đúng, mệnh đề còn lại phải sai và ngược lại.
Yêu cầu:
+ Phải ghi nhận là đúng hoặc sai một trong hai tư tưởng trái ngược nhau khi chúng phản ánh
về một đối tượng ở cùng một phẩm chất được xem xét.
+ Phải thể hiện rõ giá trị logic của một tư tưởng khi trình bày tư tưởng đó.
24
Tác dụng:
+ Chỉ ra phương hướng trong việc tìm kiếm chân ý chỉ có một trong hai phán đoán là chân
thực.
+ Luật triệt tam không xem xét bản thân mâu thuẫn mà chỉ cấm không được coi một cặp
phán đoán mâu thuẫn nhau đồng thời cùng đúng hay đồng thời cùng sai.
- Quy luật lý do đầy đủ: quy luật này nói lên tính có căn cứ, tính được chứng minh của tư duy
và phát biểu “mối tư tương, mỗi ý nghĩ chỉ được công nhận là đúng khi nó được chứng minh
hoặc có đầy đủ lý do (căn cứ xác đáng)”. Có 3 căn cứ sau
+ Những sự kiện thực tế
+ Những điều đã được khoa học chứng minh được thực tế xác nhận.
+ Bằng con đường logic
Để tránh sai lầm cần lưu ý những yêu cầu sau:
+ Chỉ được sử dụng các sự kiện có thật và có quan hệ nhân quả với sự kiện đang được
xem xét làm căn cứ cho việc lý giải vấn đề.
+ Chỉ được sử dụng các tri thức mà tính đúng đắn của nó được khoa học chứng minh hay
đã được thực tiễn kiểm nhận là đúng làm căn cứ cho việc lý giải vấn đề. Thường rơi vào 3 dạng
sau:
. Dùng tri thức sai hoặc tính đúng đắn của nó còn đang tranh cãi.
. Dùng tri thức mà tính đúng đắn của nó không còn phù hợp.
. Dùng địa vị xã hội, dùng uy tín cá nhân, dùng bằng cấp làm căn cứ

Tác dụng:
+ Giúp chống lại những tư duy phi logic của các thứ mê tín dị đoan …
+ Nó không chỉ là quy luật của tư duy mà còn là quy luật của thế giới KQ.

Chuyên đề 4: LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG
ĐI LÊN CNXH Ở VIỆT NAM
1. LÝ LUẬN HÌNH THÁI KT-XH VÀ VAI TRÒ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA NÓ
1.1 Những tiền đề xuất phát để xây dựng lý luận hình thái KT-XH
- Các Mác đã xem XH là một thể thống nhất của những nhân tố VC và nhân tố YT tạo thành một hệ
thống tự phát triển. Theo Mác xã hội dưới bất cứ hình thức nào cũng là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau
giữa người với người.
25

×