MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Đại hội VI của Đảng (1986) đã quyết định tiến hành công cuộc đổi
mới, chuyển nền kinh tế nước ta từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp
sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa (XHCN).
Quá trình đổi mới về kinh tế đã đặt ra cho đất nước chúng ta những
vấn đề lớn về cả lý luận và thực tiễn: phải chằng đó là sự “chuyển hướng”?
có hay không khái niệm “cơ chế thị trường định hướng XHCN”? Liệu
những phạm trù về kinh tế hoạ của chủ nghĩa tư bản (CNTB) có vận dụng
được vào thực tiễn kinh tế nước ta hay không? và vận dụng như thế nào
cho hợp lý, cho đúng đường lối?
Sự thành công bước đầu quan trọng của công cuộc đổi mới trên tât
cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội đã trả lời rằng công cuộc
đổi mới là hoàn toàn đúng đắn, chúng ta hoàn toàn có thể sử dụng những
giá trị có lợi của các phạm trù kinh tế học của chủ nghĩa tư bản để xây
dựng nền kinh tế theo đúng định hướng của chúng ta. Trong các phạm trù
đó, đặc biệt nổi lên vai trì của lợi nhuận. Vật nguồn gốc và bản chất của lợi
nhuận là gì? Tại sao nó có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế –
xã hội của thế giới cũng như của đất nước ta? Sử dụng phạm trù này như
thế nào để phát huy được mặt tích cực, hạn chế được mặt tiêu cực cửa nó
nhằm ổn định và phát triển kinh tế xã hội, vừa đảm bảo sự phát triển đó phù
hợp với định hướng, đường lối của chúng ta.
Với sự quan tâm đó, em chọn đề tài đề án kinh tế chính trị: “Những
vấn đề cơ bản về lợi nhuận và vai trò của nó trong nền kinh tế thị
trường”. Đề án được cơ cấu làm 3 chương:
1
Chương I: Những vấn đề cơ bản của lợi nhuận
Chương II: Lợi nhuận là động lực của nền kinh tế thị trường và
vấn đề lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường.
Chương III: Giá trị của học thuyết về lợi nhuận của Mác và ý nghĩa
của việc nghiên cứu và thực hiện vấn đề lợi nhuận.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình
của thầy giáo. Trong quá trình làm đề án, với sự hạn chế của tài liệu và
kiến thức bản thân, chắc chắn đề án này còn nhiều thiếu sót. Em mong
được thầy giáo cũng như những ai quan tâm chỉ bảo thêm để giúp em
hoàn thiện kiến thức của mình, phục vụ tốt hơn cho quá trình học tập.
2
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA LỢI NHUẬN
1. Các quan điểm trước Mác về lợi nhuận
1.1. Quan điểm về lợi nhuận của chủ nghĩa trọng thương:
Chủ nghĩa trọng thương (CNTT) là hệ thống tư tưởng kinh tế đầu
tiene của giai cấp tư sản, ra đời trong thời kỳ tan rã của phương thức sản
xuất phong kiến, phát sinh phương thức sản xuất TBCN, chuyển từ kinh tế
hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường.
Học thuyết kinh tế trọng thương đánh giá cao vai trò của lưu thông
và tiền tệ, coi tiền tệ là tiêu chuẩn cơ bản của của cải. Học thuyết này cho
rằng lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông, mua bán trao đổi sinh ra. Nó là kết
quả của việc mua ít bán nhiều, mua rẻ bán đắt mà có. Lợi nhuận chỉ có thể
gia tăng bằng con đường ngoại thương, trong hoạt động ngoại thương phải
thực hiện chính sách xuất siêu. Họ cho rằng không quốc gia nào được lợi
mà không làm thiệt hại cho quốc gia khác, không người nào được lợi mà
không làm thiệt hại đến người khác.
Quan điểm này rõ ràng là rất ấu trĩ và sai lầm, có rất ít giá trị lý
luận và mang nặng tính kinh nghiệm. Nhưng nó rất thịnh hành và phát triển
trong liền hai thế kỷ XV – XVI cho đây là thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ tư
bản, sản xuất hàng hoá chưa phát triển nên vai trò tích luỹ tiền tệ và hoạt
động chiếm đoạt, buôn bán bất bình đẳng được đặc biệt coi trọng.
1.2 Quan điểm về lợi nhuận của chủ nghĩa trọng nông.
Chủ nghĩa trọng nông (CNTN) cũng xuất hiệnn trong thời kỳ quá
độ từ chế độ phong kiến sang chế độ TBCN, nhưng ở giai đoạn phát triển
kinh tế trưởng thành hơn.
3
Học thuyết kinh tế của phái trọng nông đã ra đời với việc lý tưởng
háo nông nghiệp, coi nông nghiệp là nguồn gốc của cải duy nhất làm giàu
cho xã hội và làm cho xã hội loài người phát triển.
Với nội dung đó, chủ nghĩa tư bản đã phê phán gay gắt chủ nghĩa
trọng thương (CNTT), cho rằng lợi nhuận là thương nghiệp có được chẳng
qua là nhờ tiết kiệm các khoản chi phí thương mại.
Học thuyết kinh tế trọng nông đã sai lầm cho rằng lợi nhuận chỉ có
thể được tạo ra duy nhất từ lĩnh vực nông nghiệp. Trong lý thuyết tiền
lương về lợi nhuận, A.H.J Turgot đã ủng hộ quan điểm quy luật sắt về tiền
lương, cho rằng tiền lương trả cho công nhân nông nghiệp là tiền lương tối
thiểu chỉ đủ để trang trải chi phí sinh hoạt cho họ. Sản phẩm lao động của
nông dân nông nghiệp bằng tổng tiền lương và sản phẩm thuần tuý. Trong
đó tiền lương cho công nhân là thu nhập theo lao động (tối thiểu) còn sản
phẩm thuần tuý là thu nhập của nhà tư bản gọi là lợi nhuận. Vậy lợi nhuận
là thu nhập không lao động do công nhân tạo ra.
Ngoài ra Turgot cũng đã đề cập đến nguyên lý về sự bình quân hoá
tỷ suất lợi nhuận trong các ngành khác nhau. Ông nói những tư bản bằng
nhau thì đem lại thu nhập bằng nhau, không kê chúng đầu tư vào ngành
nào.
Như vậy CNTN đã diễn ra được một khía cạnh là lợi nhuận và do
công nhân tạo ra, nhưng họ đã sai lầm trong việc giải thích bản chất của lợi
nhuận và hoàn toàn đứng trên quan điểm của giới tư sản khi trả công thấp
cho công nhân nhằm chiếm đoạt lượng sản phẩm thuần tuý dư ra.
1.3 Quan điểm về lợi nhuận của kinh tế chính trị học tư sản cổ điển
Anh.
Trường phái kinh tế chính trị cổ điển Anh ra đời vào thời kỳ tích
luỹ tư bản đã kết thúc và thời kỳ sản xuất TBCN bắt đầu. Giai cấp tư sản
4
đã nhận thức được rằng “muốn làm giàu phải bóc lột lao động, lao động
làm thuê của những người nghèo là nguồn gốc làm giàu vô tận cho những
người giàu”.
Theo C.Mác, kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh bắt đầu từ
Wiliam Petty và kết thúc ở David Ricardo.
William Petty (1623 - 1687).
Lý, thuyết địa tô - lợi tức của W. Petty được xây dựng trên cơ sở lý
thuyết giá trị – lao động. Ông đã tìm thấy nguồn gốc của địa tô ở trong lĩnh
vực sản xuất. Ông định nghĩa địa tô và số chênh lệch giữa giá trị của sản
phẩm và chi phí sản xuất (bao gồm chi phí tiền lương, chi phí giống má).
Về thực chất địa tô là giá trị dôi ra ngoài tiền lương, tức là sản phẩm của
lao động thặng dư. Ông nghiên cứu chi tiết địa tô chênh lệch và chỉ ra là,
các mảnh ruộng xa gần khác nhau mang lại thu nhập khác nhau. Về lợi tức,
ông coi lợi tức là tô của tiền và cho rằng nó lệ thuộc vào mức địa tô
Adam Smith (1723 - 1790).
Lý thuyết tiền lương, lợi nhuận, địa tô của A. Smith được xây dựng
trên cơ sở lý thuyết giá trị lao động. A. Smith cho rằng trong giá trị hàng
hoá cho người công nhân tạo ra, anh ta chỉ nhận được một phần tiền lương,
phần còn lại là địa tô và lợi nhuận của tư bản.
Theo ông, địa tô là khoản khấu trừ, đầu tiên vào sản phẩm lao động,
về mặt lượng nó là số dôi ra ngoài tiền lương và lợi nhuận tư bản. Về mặt
chất nó phản ánh quan hệ bóc lột. Còn lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ
hai vào sản phẩm của lao động. Ông cho rằng lợi nhuận, địa tô và lợi tức
chỉ là những hình thái khác nhau của giá trị thặng dư. Khác với CNTN,
A.Smith cho rằng không chỉ có lao động nông nghiệp mà cả lao động công
nghiệp cũng tạo ra lợi nhuận.
5
Theo A. Smith, lợi nhuận tăng hay giảm tuỳ thuộc vào sự giàu có
tăng hay giảm của xã hội. Ông thừa nhận sự đối lập giữa tiền công và lợi
nhuận. Ông đã tìm thấy tỷ suất lợi nhuận trên cơ sở cạnh tranh giữa các
ngành và khuynh hướng tỷ suất lợi nhuận giảm dần.
Hạn chế của A. Smith đó là: không thấy được sự khác nhau giữa giá
trị thặng dư và lợi nhuận, do đó không phân biệt được lĩnh vực sản xuất và
lưu thông, nên ông cho rằng tư bản trong lĩnh vực sản xuất cũng như trong
lĩnh vực lưu thông đều đẻ ra lợi nhuận như nhau.
David Ricardo (1772 - 1823).
David Ricardo cho rằng lợi nhuận cùng với tiền lương là hai phần
của giá trị và sự đối kháng giữa lợi nhuận và tiền lương là khi năng suất
lao động tăng lên, tiền lương giảm và lợi nhuận thì tăng.
Ông xem lợi nhuận là phần giá trị thừa ra ngoài tiền công, ông chưa
biết đến phạm trù giá trị thặng dư. Nhưng trước sau ông nhất quán cho rằng
giá trị lao động là do công nhân tạo ra lớn hơn sô tiền công mà họ nhận
được, và lợi nhuận là lao động không được trả công của công nhân. Về
điểm này C. Mác nhận xét: “So với A, Smith thì D. Ricardo đã đi xa hơn
nhiều”
D. Ricardo đã có những nhận xét tiến gần đến lợi nhuận bình quân
ông cho rằng những tư bản cổ đại thường bằng nhau thì đem lại lợi nhuận
như nhau, nhưng ông không chứng minh được.
Rõ ràng, kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh đã có bước tiến mới
trong nghiên cứu của W.Petty, A. Smith và D.Ricardo khi đã phân tích lợi
nhuận, địa tô, tiền lương trên cơ sở lý thuyết về lao động và giá trị. Tuy vậy
cả 3 ông đều có nhiều hạn chế, đó chính là việc chưa chỉ rõ nguồn gốc và
bản chất của lợi nhuận, chưa phản ánh được quan hệ của nhà tư bản với
công nhân trong việc tạo ra lợi nhuận, một mức bao che sự chiếm đoạt giá
6
trị thặng dư cho nhà tư bản. Tuy vậy kinh tê chính trị học tư sản cổ điển
Anh đã để lại những cơ sở lý luận có giá trị to lớn để C. Mác xây dựng nên
học thuyết của mình.
2. Học thuyết của Mác về lợi nhuận.
Chủ nghĩa Mác phát sinh là sự tiếp tục trực tiếp triết học cổ điển
Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Lênin coi đó là 3 nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác. Lênin đánh giá
chủ nghĩa gồm ba bộ phận là triết học , kinh tế chính trị học và chủ nghĩa
xã hội khoa học. Lênin đã đánh giá rằng “lý luận giá trị thặng dư là hòn đá
tảng của học thuyết kinh tế của Mác” và học thuyết kinh tế của Mác là “nội
dung căn bản” của chủ nghĩa Mác.
2.1 Giá trị thặng dư - nguồn gốc và bản chất.
C. Mác là người đầu tiên tìm ra và khẳng định một cách khoa học
về nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư.
2.1.1 Quá trình sản xuất giá trị thặng dư.
Mác viết: “ tôi là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của
lao động biểu thị trong hàng hoá”.
Sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị vì lao
động sản xuất có hai thuộc tính là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
Theo Mác, lao động cụ thể là lao động hao phí dưới một hình thức
cụ thể của một nghề nghiệp chuyên môn nhất định, có mục đích riêng, đối
tượng riêng, thao tác riêng, đối tượng riêng và cho một kết quả riêng. Kết
quả lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng cho hàng hoá. Vì vậy, lao động
cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn.
Lao động nếu coi là sự hao phí sức lao động con người nói chung
không kể hình thức cụ thể của nó thế nào thì gọi là lao động trừu tượng.
7
Trong sản xuất hàng hoá, cần thiết phải quy các lao động cụ thể khác nhau
vốn không thể so sánh được đó là lao động trừu tượng. Vì vậy, lao động
trừu tượng là một phạm trù lịch sử. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của
hàng hoá.
Mác đã nghiên cứu quá trình sản xuất và lưu thông và thấy rằng nếu
tư bản đưa ra một lượng tiền T vào lưu thông thì số thu về lớn hơn số tiền
ứng ra. Ta gọi là T’ (T’ >T) hay: T’ = T + ∆ T.
Mác gọi ∆ T là giá tri thặng dư. Ông cũng thấy rằng mục đích của
lưu thông tiền tệ với tư cách là tư bản không phải là giá trị sử dụng
dụng mà là giá trị. Mác thấy rằng tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông
và cũng không thể xuất hiện bên ngoài lưu thông. Để giải thích mâu thuẫn
đó, Mác tìm ra quá trình sản xuất giá trị thặng dư.
Quá trình sản xuất TBCN là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra
giá trị và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư
Giả định để sản xuất 10 kg sợi cần 10 kg bông, giá 10 kg bông là 10
đôla. Để biến số bông đó thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6
giờ và hao mòn máy móc là 2 đôla, giá trị sức lao động trong ngày của một
công nhân là 3 đôla, trong một giờ lao động người công nhân tạo ra một giá
trị là 0,5 đôla, cuối cùng giả định rằng trong quá trình sản xuất sợi thời gian
lao động đã hao phí theo thời gian xã hội cần thiết
Với giá định như vậy, nếu như quá trình lao động chỉ kéo dài đến cái
điểm mà ở đó bù đắp được giá trị sức lao động (6giờ) tức là bằng thơì gian
lao động xã hội cần thiết thì chưa có sản xuất ra giá trị thặng dư, nhà tư bản
không được lợi gì.
Trong thực tế, nhà tư bản bắt công nhân lao động thêm giờ, giả sử 12
giờ một ngày thì:
Tư bản ứng trước Giá trị của sản phẩm mới (20kg sợi)
8
-Tiền mua bông là 20 đôla
- Hao mòn máy móc là 4
đôla
- Tiền mua sức lao động
trong một ngày là 3 đôla
- Giá trị của bông chuyển vào sợi là 20 đôla
- Giá trị của máy móc chuyển vào sợi là 4 đôla
- Giá trị do lao động của công nhân tạo ra trong
12 giờ lao động là 6 đôla
27 đôla 30 đôla
Như vậy toàn bộ chi phí của nhà tư bản để mua tư liệu sản xuất và
sức lao động là 27 đôla. Trong 12 giờ lao động công nhân tạo ra một sản
phẩm mới (20kg sợi) có giá trị bằng 30đôla. Phần giá trị mới dôi ra ngoài
30 với giá trị sức lao động gọi là giá trị thặng dư (3 đôla)
Phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất ra (20 kgsợi) chúng ta thấy
có 2 phần:
* Phần giá trị những tư liệu sản xuất được lao động cụ thể của người
công nhân bảo tồn và chuyển vào sản phẩm mới để hình thành nên giá trị
của sản phẩm mới để hình thành nên giá trị của sản phẩm mới (sợi) gọi là
giá trị cũ (trong ví dụ trên là 6 đô la) phần giá trị mới này lớn hơn giá trị
sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động cộng thêm giá trị thặng dư. Vậy,
giá trị thặng dư là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do
người công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. sản xuất ra giá trị
thặng dư chỉ là quá trình tạo ra giá trị được kéo dài quá cái điểm mà ở đó
giá trị sức lao động do nhà tư bản trả được hoàn lại bằng vật ngang giá mới.
2.1.2 Tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư
Ở trên chúng ta đã nghiên cứu nguồn gốc của giá trị thặng dư, và do
đó vạch trần bản chất bóc lột tư bản chủ nghĩa. Phần này nghiên cứu sự bóc
lột tư bản chủ nghĩa về mặt lượng
Tỷ suất giá trị thặng dư:
9
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ số giữa giá trị thặng dư và tư bản khả
biến, tức là tỷ số theo đó tư bản khả biến tăng thêm gía trị. Mác đã dùng ký
hiệu m’ để chỉ tỷ suất giá trị thặng dư:
m' = m/v.100%
Trong đó: m là giá trị thặng dư
v là giá trị mới do lao động công nhân tạo ra
Tỷ suất giá trị thặng dư vạch ra một cách chính xác trình độ bóc lột
công nhân. Về thực chất, tỷ lệ này là tỷ lệ phân chia ngày lao động thành
thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư. Tuy nhiên tỷ
suất giá trị thặng dư không biểu hiện lượng tuyệt đối của sự bóc lột
Khối lượng giá trị thặng dư:
Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa giá trị thặng dư và tổng tư
sản khả biến (v) được sử dụng.
Nếu gọi M là giá trị thặng dư thì M = m’. v
2.1.3 Giá trị thặng dư tuyệt đối, tương dối và siêu ngạch
Mục đích của nhà tư bản là bòn rút giá trị thặng dư. Vì vậy toàn bộ
hoạt động của nhà tư bản hướng đến tăng cường việc tạo ra giá trị thặng dư.
Những phương pháp cơ bản để đạt được mục đích đó là tạo ra giá trị
thặng dư tuyệt dối và tạo ra giá trị thặng dư tương đối
Giá trị thặng dư tuyệt đối
Trong những giai đoạn phát triển đầu của CNTB, khi kỹ thuật còn
thấp hoặc tiến bộ chậm chạp thì việc tăgn giá trị thặng dư bằng phương
pháp kéo dài ngày lao động là quan trọng nhất
Giả sử ngày lao động là 10 giờ, trong đó 5 giờ là thời gian lao động
cần thiết và 5 giờ là thời gian lao động thặng dư. Nừunhà tư bản kéo dài
10
ngày lao động thêm 2 giờ nữa trong khi đại lượng của thời gian lao động
cần thiết không đổi (5giờ). Như vậy thời gian lao động thặng dư tăng lên
một cách tuyệt đối và cùng với nó là sự tăng lên của tỷ suất giá trị thặng dư.
Trước đây tỷ suất giá trị thặng dư là . 100 = 100% thì bây giờ là
. 100 = 140 %.
Giá trị thặng dư tương đối
Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về tự nhiên và sinh học, ngoài
ra sự phản kháng mạnh mẽ của giai cấp công nhân cùng với sự tiến bộ của
khoa học kỹ thuật ddã làm cho các nhà tư bản chuyển hướng sang việc tạo
ra giá trị thặng dư tương đối trên cơ sở tăng năng suất lao động
Nhà tư bản tìm cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết do đó làm
tăng một cách tương ứng thời gian lao động thặng dư trong điều kiện độ dài
ngày lao động không thay đổi
Chúng ta giả sử rằng độ dài ngày lao động là 8 giờ trong đó 4 giờ lao
động cần thiết và 4 giò lao động thặng dư. Giả định tiếp bằng cách tăng
năng suất lao động, công nhân chỉ cần 3 giờ lao động đã tạo ra được một
giá trị bằng với giá trị sức lao động củamình, và dó đó thưòi gian lao động
thặng dư đã tăng lên 5 giờ. Như vậy, nếu trước đây m’ = . 100 = 100% thì
bây giờ là . 100 = 166%.
Giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách rút ngắn thời gian lao động
cần thiết trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi, nhờ đó kéo dài
tương ứng thời gian lao động thặng dư do tăng năng suất lao động, được
gọi là giá trị thặng dư tương đối
11
Giá trị thặng dư siêu ngạch
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư phụ thêm xuất
hiện khi giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội, mang tính chất
tạm thời
Giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tươngđối có một cơ sở
chung đó là dựa trên cơ sở tăng suất lao động để rút ngắn thời gian lao
động cần thiết. Tuy vậy giữa chúng có sự khác nhau: Giá trị thặng dư tương
đối dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội, còn giá trị thặng dư siêu
ngạch dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động cá biệt. Giá trị thặng dư siêu
ngạch sẽ được thay thế bằng giá trị thặng dư tương đối khi trình độ kỹ thuật
mới từ trường hợp cá biệt được áp dụng trở thành phổ biến. Vì vậy, C. Mác
gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư
tương đối.
2.2 Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư
2.2.1 Lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận bình quân
2.2.1.1 Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận
Lợi nhuận
Để sản xuất hàng hoá, xã hội phải chi phí một số lao động nhất định
-Lao động quá khứ (tức lao động vật hoá) tức là giá trị của tư liệu sản
xuất
-Lao động sống (lao động hiện tại) tức là lao động tạo ra giá trị mới(v
+ m)
Do đó giá trị xã hội của hàng hoá là c + v + m
Nhưng nhà tư bản là chủ lao động, họ không phải hao phí lao động,
họ chỉ quan tam đến việc đã bỏ chi phí bao nhiêu để sản xuất hàng hoá
12