Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

tiểu luận môn triết học tri thức và vai trò của tri thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.62 KB, 16 trang )

~ 1 ~
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA NGÂN HÀNG – TÀI CHÌNH
Môn học : Triết học
Đề tài: “Tri thức và vai trò của tri thức "

HVTH: Nhóm 7 – Cao học 21D
1. Lý Minh Quang
2. Chu Hà Thanh
3. Lê Thị Thanh
4. Nguyễn Phương Thanh
5. Chu Diệp Thu
6. Đỗ Thị Thu Thủy
7.Đặng Thùy Trang

Hà Nội, 02/2013
~ 2 ~

LỜI NÓI ĐẦU
Loài người đã trải qua hai nền văn minh và ngày nay, chúng ta đang đứng trước ngưỡng
cửa của nền văn minh thứ ba -văn minh trí tuệ. Trong nền văn minh này, bộ phận quan trọng
nhất là nền kinh tế tri thức - có thể nói là hết sức cơ bản của thời đại thông tin.Đặc biệt là
trong thập niên 90 các thành tựu về công nghệ thông tin như: công nghệ Web, Internet, thực tế
ảo, thương mại tin học Cùng với những thành tựu về công nghệ sinh học: công nghệ gen,
nhân bản vô tính đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc làm đảo lộn toàn bộ nền kinh tế thế giới
và toàn bộ xã hội loài người đưa con người đi vào thời đại kinh tế tri thức.Rất nhiều nước trên
thế giới đều có tăng trưởng kinh tế từ tri thức.Việt Nam vẫn đang là một trong những nước
nghèo và kém phát triển so với khu vực và trên thế giới.Do đó phát triển kinh tế là chiến lược
cấp bách hàng đầu.Hơn nữa chúng ta đang trên con đường tiến hành công nghiệp hoá,hiện đại
hoá đất nước nên không thể không đặt mình vào tri thức, phát triển tri thức để đưa nền kinh tế
nước nhà bắt kịp và phát triển cùng thế giới.


Góp phần vào chiến lược phát triển kinh tế,tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoa,hiện
đại hoá chúng ta cần phải nghiên cứu tri thức,tìm hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế tri
thức,phù hợp với điều kiện,hoàn cảnh đất nước,phù hợp với khu vực,với thế giới và thời đại
trong tổng thể các mối liên hệ,trong sự phát triển vận động không ngừng của nền kinh tế tri
thức. Vì vậy nhóm quyết định chọn đề tài “Tri thức và vai trò của tri thức” làm đề tài thảo
luận.
Nhóm 7 – Cao học 21D
~ 3 ~
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG
1.1 Khái niệm về tri thức.
Tri thức đã có từ lâu trong lịch sử, có thể nói từ khi con người bắt đầu có tư duy thì lúc đó
có tri thức.Trải qua một thời gian dài phát triển của lịch sử, cho đến những thập kỷ gần đây tri
thức và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế-xã hội mới được đề cặp nhiều.Vậy tri thức
là gì?
Có rất nhiều cách định nghĩa về tri thức nhưng có thể hiểu “Tri thức là sự hiểu biết, sáng
tạo và những khả năng, kỹ năng để ứng dụng nó(hiểu biết sáng tạo) vào việc tạo ra cái mới
nhằm mục đích phát triển kinh tế -xã hội.
Tri thức bao gồm tất cả những thông tin,số liệu,bản vẽ,tưởng tượng(sáng tạo),khả năng,kỹ
năng quan niệm về giá trị và những sản phẩm mang tính tượng trưng xã hội khác.Tri thức có
vai trò rất lớn đối với đời sống –xã hội.
Kinh tế thế giới đang bước vào một thời đại mới,một trình độ mới.Đó là trình độ mà”nhân
tố quan trọng nhất là việc chiếm hữu, phân phối nguồn trí lực và việc sáng tạo,phân phối và sử
dụng tri thức trong các ngành kĩ thuật cao”.Tiêu chí chủ yếu của nó là lấy tri thức,trí óc làm
yếu tố then chốt để phát triển kinh tế và tồn tại trực tiếp giống như các yếu tố sức lao động và
tài nguyên. Đó là thời đại mà “Tri thức đã trở thành động lực chủ yếu của sự phát triển xã
hội”, ”Tri thức là tài nguyên là tư bản”, “Tri thức là tâm điểm của cạnh tranh và là nguồn lực
dẫn dắt cho sự tăng trưởng dài hạn dẫn tới những thay đổi lớn trong cách tổ chức sản xuất,
cấu trúc thị trường, lựa chọn nghề nghiệp…
1.2 Phân loại tri thức

Tri thức là lĩnh vực rất rộng, có thể xem xét ở nhiều cấp độ, khía cạnh khác nhau. Tri thức
có thể là tri thức đời thường (còn gọi là tri thức tiền khoa học, tri thức kinh nghiệm đời thường
hoặc có sách viết là tri thức thường nghiệm), tri thức nghệ thuật và tri thức khoa học (kình
nghiệm và lý luận). Tri thức khoa học bao gồm tri thức: kinh nghiệm và tri thức lý luận. Trong
đó tri thức kinh nghiệm là trình độ thấp, còn tri thức lý luận là trình độ cao của tri thức khoa
học.
Nhóm 7 – Cao học 21D
~ 4 ~
Tri thức kinh nghiệm chủ yếu thu nhận được thông qua quan sát và thí nghiệm. Nó nảy
sinh một cách trực tiếp từ thực tiễn, phản ánh cái hiện tượng, cái đơn nhất, cái cụ thể, cái trực
tiếp, bề ngoài của sự vật
Để nắm bắt được bản chất sự vật thì nhận thức của con người tất yếu phải chuyển lên
trình độ tri thức lý luận. Tri thức lý luận được khái quát từ tri thức kinh nghiệm. Nó tồn tại
trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật, giả thuyết, lý thuyết, học thuyết nào đó.
Tri thức lý luận ở vào trình độ cao nhất của tri thức khoa học, là kết quả của quá trình
nghiên cứu, học tập nghiêm túc, bền bỉ, có hệ thống của con người là sự phản ánh sâu sắc
hơn, đầy đủ hơn, chính xác hơn. Tri thức lý luận mang lại những hiểu biết có tính bản chất,
bên trong, vạch ra những mối liên hệ tất nhiên, và tính quy luật của đối tượng cho phép con
người tiến gần sát đến chân lý về sự vật.
1.3 Vai trò của tri thức trong đời sông-xã hội
Tri thức đã và đang ngày càng trở lên quan trọng đối với đời sống xã hội. Nó tác động trực
tiếp đến các lĩnh vực của xã hội :kinh tế,chính trị,văn hoá giáo dục
1.3.1 Vai trò của tri thức đối với Kinh tế-Kinh tế tri thức
Nền kỉnh tế tri thức là nền kinh tế trong đó quá trình thu nhận truyền bá, sử dụng, khai
thác,sáng tạo tri thức trở thành thành phần chủ đạo trong quá trình tạo ra của cải.
Kinh tế tri thức có nhiều đặc điểm cơ bản khác biệt so với các nền kinh tế trước đó:
-Tri thức khoa học-công nghệ cùng với lao động kỹ năng cao là cơ sỏ chủ yếu và phát triển
rất mạnh
-Nguồn vốn quan trọng nhất,quý nhất là tri thức,nguồn vốn trí tuệ.
-Sáng tạo và đổi mới thướng xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đảy sụ phát triển.

-Nền kinh tế mang tính học tập.
-Nền kinh tế lấy thị trường toàn cầu là môi trường hoạt động chính.
-Nền kinh tế phát triển bền vững do được nuôi dưỡng bằng nguồn năng lượng vô tận và năng
động là tri thức.
Thực tiễn hai thập niên qua đã khẳng định,dưới tác động của cách mạng khoa học –công
nghệ và toàn cầu hoá,kinh tế tri thức đang hình thành ở nhiều nước phát triển và sẽ trở thành
một xu thế quốc tế lớn trong một,hai thập niên tới.
Nhóm 7 – Cao học 21D
~ 5 ~
Sự xuất hiện của các hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên tri thức.
Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế lấy sản xuất và kinh doanh tri thức làm nội dung chủ
yếu.Tương lai của bất cứ doanh nghiệp nào cũng không chỉ phụ thuộc vào việc sử dụng tiền
bạc, nguyên vật liệu,nguồn nhân lực và máy móc thiết bị…mà còn phụ thuộc vào việc xử lý và
sử dụng những thông tin nội bộ và thông tin từ môi trường kinh doanh.Cách tốt nhất để tăng
năng suất là tìm hiểu kiến thức chuyên môn mà hãng có được,sử dụng vì mục đích thương mại
và những kiến thức này cần được phát triển không ngừng.
Giá trị của những công ty công nghệ cao như các công ty sản xuất phần mềm và các công ty
công nghệ sinh học không chỉ nằm trong những tài sản vật chất hữu hình, mà còn nằm trong
những tài sản vô hình,như tri thức và các bằng sáng chế.Để trở thành một công ty được dẫn
dắt bởi tri thức, các công ty phải biết nhận ra những thay đổi của tỉ trọng vốn trí tuệ trong tổng
giá trị kinh doanh.Vốn trí tuệ của công ty, tri thức, bí quyết và phương pháp đội ngũ nhân viên
và công nhân cũng như khả năng của công ty để liên tục hoàn thiện phương pháp sản xuất là
một nguồn lợi thế cạnh tranh.Hiện có các bằng chứng đáng lưu ý chỉ ra phần giá trị vô hình
của các công ty công nghệ cao và dịch vụ đã vượt xa phần giá trị hữu hình của các tài sản vật
thể của các công ty đó,như các toà nhà hay thiết bị.Ví dụ như các tài sản vật thể của công ty
Microsoft chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng giá trị được vốn hoá trên thị truờng của công
ty này.Phần lớn là vốn trí tuệ.Sau hai mươi năm thành lập, số nhân viên công ty tăng 6 nghìn
lần, thu nhập tăng 370 nghìn lần,1/10 số nhân viên trở thành triệu phú.Nguồn vốn con người là
một thành tố giá trị cơ bản trong một công ty dựa vào tri thức.
Nền kinh tế tri thức sẽ ngày càng làm xuất hiện nhiều sản phẩm thông minh.Đó là những sản

phẩm có khả năng gạn lọc và giải thích các thông tin để người sử dụng có thể hành động một
cách hiệu quả hơn.Ngay cả một chiếc bánh kẹp thịt cũng có thể trở thành một sản phẩm mới
dựa trên tri thức bằng cách làm cho khách hàng biết cách sử dụng những thông tin về dinh
dưỡng.Số lượng ka-lo và chất béo được in lên hoá đơn hoặc thậm chí trình bày thông tin đó
trước khi khách đặt hàng.Thậm chí có những sản phẩm thông minh vừa có thể truyền đạt
thông tin về sản phẩm vừa khuyên khách hàng nên làm gì từ tình hình vừa được thông tin.
Nhóm 7 – Cao học 21D
~ 6 ~
Vốn tri thức –vai trò của nó trong kinh tế tri thức
Vốn tri thức là tri thức được dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh với mục đích sinh
lợi(tăng thêm giá trị).
Vốn tri thức là một yếu tố nổi bật nhất trong hàm sản xuất.Trong văn minh nông nghiệp thì
sức lao động, đất đai và vốn là những yếu tố của sản xuất công nghiệp,vốn,đất đai và nhất là
sức lao động trở thành hàng hoá với tư cách là những yếu tố quan trọng trong sự phát triển
kinh tế-xã hội,góp phần chuyển xã hội phong kiến thành xã hội tư bản trong lịch sử.Còn trong
kinh tế tri thức,yếu tố của sự phát triển nền kinh tế-xã hội không chỉ bao gồm vốn tiền tệ,đất
đai và dựa trên lao động giản đơn mà chủ yếu dựa trên lao động trí tuệ gắn với tri thức.Như
vốn tri thức trở thành yếu tố thứ nhất trong hàm sản xuất thay vì yếu tố sức lao động vốn tiền
tệ và đất đai.
Vốn tri thức thực sự trở thành nguồn gốc động lực cho sự phát triển kinh tế-xã hội.Nước Mỹ
nói riêng và các nước thuộc tổ chức OECD nói chung nhiều năm qua tăng trưởng ổn định với
tốc độ cao là nhờ có sự phát triển của các ngành kinh tế dựa trên tri thức như các ngành công
nghệ thông tin,viễn thông, vũ trụ,đầu tư,ngân hàng,tài chính,chứng khoán,bảo hiểm…Đồng
thời chuyển đầu tư vốn tri thức từ các ngành truyền thống sang các ngành có hàm lượng tri
thức cao.ở các nước có nền kinh tế đang phát triển,đầu tư càng nhiều vốn tri thức thì mang lại
giá trị gia tăng cang lớn,tỷ xuất lợi nhuận càng cao.
Vốn tri thức trong kinh tế tri thức đóng vai trò quyết định sự thành công hay thất bại của
doanh nghiệp.Vốn tri thức ở đây bao gồm các công nhân tri thức,các nhà quản lý có trình độ
cao,các công nghệ mới.
Vốn tri thức đóng vai trò to lớn trong việc rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các nước

đang phát triển và các nước phát triển.Sự xuất hiện kinh tế tri thức vừa là cơ hội vừa là thách
thức đối với các nước kém và đang phát triển,trong đó có Việt Nam.Các quốc gia kém và đang
phát triển phải nhanh chóng tiếp cận với kinh tế tri thức,thông qua tri thức hoá các ngành công
nghiệp,nông nghiệp,dịch vụ,đặc biệt sớm hình thành các công nghệ cao để nhanh chóng đưa
nền kinh tế đất nước đuổi kịp các nước phát triển.
1.3.2 Vai trò tri thức đối với chính trị
Nhóm 7 – Cao học 21D
~ 7 ~
Tri thức đem lại cho con người những sự hiểu biết, kiến thức.Người có tri thức là có khả năng
tư duy lý luận,khả năng phân tích tiếp cận vấn đề một cách sát thực,đúng đắn.Điều này rất
quan trọng,một đất nước rất cần những con người như vây để điều hành công việc chính trị.Nó
quyết định đến vận mệnh của một quốc gia.Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu một sự chuyển
hướng mạnh mẽ trong nhận thức về nguồn lực con ngươì.Đại hội nhấn mạnh:”Phát huy yếu tố
con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt đông”chiến lược
phát triển con người đang là chiến lược cấp bách.Chúng ta cần có những giải pháp trong việc
đào tạo cán bộ và hệ thống tổ chức :
Tuyển chọn những người học rộng tài cao,đức độ trung thành với mục tiêu xã hội chủ
nghĩa,thuộc các lĩnh vực,tập trung đào tạo,bồi dưỡng cho họ những tri thức còn thiếu và yếu
để bố trí vào các cơ quan tham mưu hoạch định đường lối chính sách của Đảng và pháp luật
của nhà nước với những qui định cụ thể về chế độ trách nhiệm quyền hạn và lợi ích.
Sắp xếp các cơ quan nghiên cứu khoa học –công nghệ và giáo dục-đào tạo thành một hệ
thống có mối liên hệ gắn kết với nhau theo liên ngành,tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho hợp
tác nghiên cứu và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tĩên. Hợp nhất các viện nghiên cứu
chuyên ngành vào trường đại học và gắn kết trường đại học và các công ty,xí nghiệp.Các cơ
quan nghiên cứu và đào tao được nhận đề tài, chỉ tiêu đào tạo theo chương trình,kế hoạch và
kinh phí dựa trên luận chứng khả thi được trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan.
Hàng năm theo định kỳ có những cuộc gặp chung giữa những người có trọng trách và các
nhà khoa học đầu nganh của các cơ quan giáo dục-đào tạo và trung tâm khoa học lớn của
quốc gia,liên hiệp các hội khoa học Việt Nam…với sự chủ tri của đồng trí chủ tịch,sự tham gia
của các thành viên Hội đồng giáo dục -đào tạo và khoa học-công nghệ quốc gia về những ý

kiến tư vấn,khuyến nghị của tập thể các nhà khoa học với Đảng và nhà nước về định hướng
phát triển giáo dục-đào tạo.Phát triển khoa học –công nghệ,cách tuyển chon và giao chương
trình đề tài,giới thiệu những nhà khoa học tài năng để viết giáo khoa,giáo trình,làm chủ nhiệm
chương trình,đề tài và tham gia các hội đồng xét duyệt,thẩm định nghiệm thu các chương
trình,đề tài khoa học cấp Nhà nước.
Liên hiệp các hội khoa học Việt Nam cần thường xuyên và phát huy trí tuệ của các nhà khoa
học,dân chủ thảo luận để đưa ra được những ý kiến tư vấn,những khuyến nghị xác thực có giá
Nhóm 7 – Cao học 21D
~ 8 ~
trị với Đảng,Nhà nước và động viên tập hợp lực lượng các hội viên tiến quân mạnh mẽ vào
các lĩnh vực khoa học và công nghệ mà đất nước đang mong chờ để sớm thoát khỏi tình trạng
nghèo và kém phát triển.
1.3.3 Vai trò tri thức đối với văn hoá-giáo dục
Tri thức cũng có vai trò rất lớn đến văn hoá -giáo dục của một quốc gia. Nó giúp con người
có được khả năng tiếp cận,lĩnh hội những kiến thức ,ý thức của con người được nâng cao.Và
do đó nền văn hoá ngày càng lành mạnh.Có những hiểu biết về tầm quan
trọng của giáo dục.Từ đó xây dựng đất nước ngày càng lớn mạnh,phồn vinh.
Nhóm 7 – Cao học 21D
~ 9 ~
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VIỆT NAM
2.1 Những cơ hội và thách thức
2.1.1 Cơ hội đối với Việt nam
Việt nam đang đứng trước cơ hội tiếp cận nền kinh tế tri thức, nếu bỏ lỡ không biết tận
dụng cơ hội, đổi mới cách nghĩ cách làm, bắt kịp tri thức mới của thời đại, đi tắt vào những
ngành kinh tế dựa vào công nghệ cao, dựa vào tri thức thì sẽ tụt hậu. Đại hội VIII đã khẳng
định phải: "đi tắt đón đầu" nếu không làm được thế thì sự tụt hậu là rất dễ xảy ra.
Có ý kiến cho rằng nền kinh tế nước ta phải phát triển theo mô hình hai tốc độ:
- Vừa phải lo phát triển nông nghiệp, nâng cao năng lực sản xuất những ngành công
nghiệp cơ bản, lo giải quyết những nhu cầu cơ bản và bức xúc của người dân.

- Vừa phải lo phát triển nhanh những ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao,
nhất là công nghệ thông tin để hiện đại hoá và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế,
tạo ngành nghề mới, việc làm mới, đạt tốc độ cao, hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế
giới.
- Chúng ta không thể và không nên bắt chước, dập khuôn theo mô hình công nghiệp hoá
của các nước khác. Và cũng không nên hiểu công nghiệp hoá là xây dựng công nghiệp mà
phải hiểu đó là sự chuyển nền kinh tế từ tình trạng lạc hậu, năng suất chất lượng thấp kém,
phương pháp sản xuất nông nghiệp, lao động thủ công là chính sang nền kinh tế có năng suất
chất lượng hiệu quả cao, phương pháp sản xuất công nghiệp dựa vào tiến bộ khoa học và công
nghệ mới nhất. Vì vậy công nghiệp hoá phải đi đôi với cơ giới hoá.
Trong những thập niên tới con người đi nhanh vào nền kinh tế tri thức, nước ta không thể
bỏ lỡ cơ hội lớn đó mà phải đi thẳng vào nền kinh tế tri thức, rút ngắn khoảng cách với các
nước, như vậy nền công nghiệp nước ta phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ: Chuyển nền
kinh tế từ kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp và từ công nghiệp sang tri thức. Cũng có
nghĩa là chúng ta phải nắm bắt kịp thời các tri thức và công nghệ mới nhất để hiện đại hoá
Nhóm 7 – Cao học 21D
~ 10 ~
nông nghiệp, đồng thời phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức và công
nghệ mới nhất.
Về công nghệ thông tin thì Việt nam, công nghệ thông tin cũng là một trong các động lực
chủ yếu, quan trọng nhất thúc đẩy nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin. Công nghệ thông tin
phát triển không những góp phần giải phóng năng lực vật chất, trí tuệ của cả dân tộc mà còn
có trình độ trực tiếp đến việc nâng cao tính cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp.
Đầu tư nước ngoài là một trong những con đường dẫn tới toàn cầu hoá, toàn cầu hoá lại
tạo ra các cơ hội giúp các nước tận dụng được vốn đầu tư nước ngoài để giải quyết tình trạng
thiếu vốn từ nội bộ nền kinh tế: Ở Việt nam trong 13 năm qua kể từ khi có luật đầu tư nước
ngoài đã có gần 3000 dự án được đăng ký với số vốn đã được giải ngân vào khoảng 20 tỷ
USD.
Mặc dù còn ít về số lượng, nhỏ bé về quy mô, nhưng chúng ta cũng có được khoảng vài
chục dự án và khoảng nửa tỷ USD được đầu tư nước ngoài. Điều này thúc đẩy quá trình hội

nhập của chúng ta vào khu vực toàn cầu.
2. 1.2 Những thách thức
Chúng ta đang sống trong một thời đại bùng nổ thông tin và tri thức. Nói về tri thức khoa
học kỹ thuật trong thế kỷ 19, cứ 50 năm thì tăng gấp đôi, giữa thế kỷ 20: 10 năm, hiện nay là
3-5 năm. Một số nước phát triển sớm bước vào xây dựng kinh tế tri thức đã đặt ra các nước
đang phát triển trên nhiều bất lợi: tài nguyên và sức lao động bị giảm rõ rệt dẫn đến làm giảm
thu nhập quốc dân.
Một vấn đề đáng lo ngại nữa là nạn chất xám đã làm cho các nước đã nghèo lại càng
nghèo hơn vì nghèo tri thức là nguồn gốc của mọi cái nghèo. Trên thế giới khoảng 20% dân số
giàu ở các nước phát triển chiếm tới 86% GDP, trong khi 20% dân số nghèo nhất chỉ chiếm
1% GDP, tương tự ở công nghiệp là 44, 5% và 8%. Qua đó có thể thấy sự giãn rộng khoảng
cách giàu nghèo đang là một thách thức đối với các nhà hoạch định và quản lý kinh tế xã hội.
Trong lĩnh vực thông tin thì ở Việt nam công nghệ thông tin được coi là một trong những
động lực quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế tri thức, tuy nhiên công nghệ thông tin của
nước ta vẫn còn đang ở tình trạng lạc hậu kém hơn nhiều các nước trong khu vực.
Nhóm 7 – Cao học 21D
~ 11 ~
Để hội nhập thành công Việt nam cần tiếp tục chính sách đối ngoại đa phương, giảm và
tiến tới hàng rào bảo hộ và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời cần đổi
mới tư duy về công tác cán bộ có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường và hội nhập ngày
nay.
2.2 Doanh nghiệp Việt Nam
Thực tế hiện nay ở các doanh nghiệp nước ta,tỷ lệ lao động qua đào tạo rất thấp.Trong các
doanh nghiệp Việt Nam,số lao động có trình độ cao đẳng trở lên chiếm 32%,trong khi đó con
số này ở Hàn Quốc là 48%,Nhật Bản 64,4%,Thái Lan58,2%.
Trình độ công nghệ ở các doanh nghiệp nhìn chung cong lạc hậu,ứng dụng công nghệ
thông tin còn yếu.Theo kết quả khảo sat 42 cơ sở của một ngành do Viện khoa học bảo hộ lao
động thuộc Tổng liên đoàn lao động Việt Nam tiến hành gần đây,có đến 76% thiết bị,máy móc
nhập khẩu thuộc thế hệ những năm 50-60.Xét về trình độ công nghệ thông tin,Việt Nam chỉ
đứng thứ 7/10 trong ASEAN(Báo đầu tư,số 23,22/2/2001).Theo diễn đàn kinh tế thế

giới(1/2001),năm 1999,Việt Nam đứng thứ 48/59 nước về khả năng cạnh tranh của nền kinh
tế nhưng đứng thứ 59/59 về sử dụng thư điện tử.Thương mại điện tử còn là khái niêm tương
đối xa lạ với nhiều doanh nghiệp.

Nhóm 7 – Cao học 21D
~ 12 ~
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP CHO VIỆC ỨNG DỤNG TRI THỨC VÀO ĐỜI SỐNG XÃ HỘI.
3.1 Phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững.
Con người được đặt vào vị trí trung tâm của mọi chiến lược,được khẳng định vừa là mục
tiêu,vừa là động lực chính của sự phát triển kinh tế –xã hội.Quan niệm coi con người là
nguồn lực của mọi nguồn lực,coi chiến lược phát triển kinh tế xã hội thực chất là chiến lược
con người,đó là những quan niệm tích cực hình thanh từ thực tiễn đổi mới của nước ta trong
những năm qua.Vởy làm thế nào để phát huy nguồn lực con ngườiNhững năm tới,chiến lược
con người của Đảng cần hướng vào:
Thứ nhất,Coi trọng công tác giáo dục và đào tạo,khẩn trương đổi mới giáo dục và đào tạo.
Nếu nguồn lực con người là động lực trực tiếp của sự phát triển thì giáo duc-đào tạo là nền
tảng của chiến lược con người.Coi trọng công tác giáo dục và đào tạo cũng chính là coi trọng
nhân tố con người.Giáo dục-đào tạo phải được coi là cái gốc của sự phát triển.Bản thân giáo
dục là một quá trình văn hoá,là một tác nhân văn hoá để phát triển con người. Vì vậy,giáo dục
và đào tạo phải là một bộ phận của kế hoạch kinh tế-xã hội,gắn liền với sự phát triển kinh tế-
xã hội.
Chất lượng của một quốc gia sẽ được đánh giá theo các tiêu chí:dân cư được giáo dục
tốt,nguồn nhân lực dựa vào trí tuệ,sự dồi dào của quỹ trí thức,sự linh hoạt,hiệu quả của cơ
cấu tài chính,đội ngũ các nhà doanh nghiệp tài giỏi mà giáo dục -đào tạo lại có ảnh hưởng
then chốt đến các vấn đề trên,tức là có vai trò làm đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế.
Đầu tư thích đáng cho sự nghiệp giáo dục-đào tạo.
Nhóm 7 – Cao học 21D
~ 13 ~

Gắn chất lượng đào tạo với yêu cầu thực tế:Trước hết phải nâng cao chất lượng giảng dạy
của đội ngũ giáo viên,giáo viên thường xuyên được bồi dưỡng.được đào tạo
lại,được áp dụng những phương pháp giảng dạy hiện đại,và phaỉ luôn trau dồi
ngoại ngữ,biết sử dụng những thiết bị hiện đại.Nội dung giảng dạy cần đạt sự
cân đối giữa lý thuyết và thực hành,cần cập kịp thời nội dung tri thức hiện đại
của thế giới và những vấn đề bức xúc của đất nước,cần chú ý tới yếu tố kỹ
năng,kỹ thuật,công nghệ và thực nghiệm…để cung cấp cho xã hội một đội
ngũ lao động lành nghề,các chuyên gia công nghệ,những nhà quản lý có khả
năng sáng tạo và làm chủ tri thức hiện đại,hoà nhịp được với yêu cầu khắt khe
của kinh tế thị trường.Khắc phục phương pháp giảng dạy”chay”,dạy áp
đặt,thày đọc,trò chép,sinh viên chỉ biết vâng lời người dạy,thay bằng phương
pháp “lấy học sinh làm trung tâm”đòi hỏi khả năng làm việc tích cực ở cả
thày và trò.Nội dung và phương pháp giáo dục-đào tạo ở tất cả các cấp phải
định hướng thoát ra khỏi những gì là khuôn cứng.Tĩnh lại,mang tính thừa
nhận sáng tạo điều khiển cho phát triển tư duy một cách cởi mở,tìm tòi,sáng
tạo:phải giúp cho người học có tính cơ động cao,để thích ứng với những
chuyển biến nhanh chóng của kinh tế thị trường,của thị trường việc làm,thị
trường sức lao động.
Thay thế quan niệm”đào tạo theo nhu cầu của người học” bằng”đào tạo theo nhu cầu xã
hội”.
Điều chỉnh cơ cấu tạo cho phù hợp với quá trình phát triển kinh tê-xã hội,nhanh chóng khắc
phục tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa các ngành nghề và giữa các cấp đào tạo hiện
nay.Trong một thế giới diễn ra sự đua tranh,cạnh tranh mạnh mẽ hiện nay giáo dục-đào tạo cần
định hướng tới tính tái sản xuất của lực lượng lao động,tính hướng tới tính sản xuất của lực
lượng lao động
3.2 Hướng đi cho doanh nghiệp Việt Nam.
Để doanh nghiệp Việt Nam thích ứng với nền kinh tế tri thức cần có những biện pháp đồng bộ
về chính sách của Nhà nước (như hỗ trợ nghiên cứu phát triển,xây dựng hệ thông thông
tin,phát triển giáo dục…)và các động thái tích cực,chủ động của từng doanh nghiệp.
Nhóm 7 – Cao học 21D

~ 14 ~
Đầu tư cho nhân lực.Những cá nhân xuất sắc sẽ là vốn quí cho từng doanh nghiệp.Với tri
thức,họ sẽ tạo ra thành công cho doanh nghiệp,làm tăng hàm lượng chất xám trong sản phẩm.
Các doanh nghiệp nước ta nên áp dụng mô hình đào tạo và phát triển nhân sự theo nguyên tắc
trách nhiệm từ dưới lên.Trước hết từng nhân viên phải chịu trách nhiệm cho sự phát triển con
người của chính mình,sau đó trách nhiệm thuộc về cấp trên trực tiếp với vai trò huấn luyện
viên,tiếp theo là cấp trên gián tiếp với vai trò người cố vấn,và sau cùng vai trò người ủng hộ
của lãnh đạo hàng đầu doanh nghiệp.Khi đó trưởng bộ phận nhân sự hoạt động như là người
xây dựng phát triển mô hình, người điều phối và tư vấn bên canh việc xây dựng và áp dụng
mô hình này, doanh nghiệp nên chú trọng vào hình thức đào tạo tại nơi làm việc”(hơn là đào
tạo ngoài nơi làm việc).Như vậy doanh nghiệp sẽ nâng cao chất lượng đội ngũ lao động thông
qua việc khuyến khích và động viên toàn thể nhân viên hướng tới học tập suốt đời với mức chi
phí hợp lý.
Đổi mới và cải tiến công nghệ,áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt độn g sản xuất kinh
doanh nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh,thích ứng của doanh nghiệp với thị trường.
Các doanh nghiệp Việt Nam nên tận dụng năng lực công nghệ hiện có,thực hiện chuyển giao
công nghệ bằng nhiều hình thức khác nhau như mua,hợp tác liên doanh,truy cập thông tin…
Đồng thời chủ động áp dụng công nghệ thông tin trong sản xuất kinh doanh như áp dụng phần
mềm,xây dựng trang web quảng cáo,giới thiệu sản phẩm và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ trực
tuyến nhằm gắn kết chặt chẽ hơn với khách hàng,tạo cơ hội tiếp cận với thị trường thế giới…
Đó sẽ là bước đi đầu tiên của doanh nghiệp hướng tới thương mại điện tử.Tuy nhiên,điều quan
trọng là lựa chon và đổi mới công nghệ không chỉ dựa trên ý muốn chủ quan của doanh nghiệp
mà còn phải xuất phát từ nhu cầu,thị hiếu của khách hàng.
Chú trọng đến quản trị tri thức trong phạm vi doanh nghiệp.Đây là một khái niệm tương
đối mới,bao hàm nội dung tiếp cận tri thức và thông tin,sử dụng chia sẻ tri thức và thông tin
giữa các thành viên trong doanh nghiệp.Nhiệm vụ của quản trị gia là tạo môi trường,xác lập
cơ cấu tổ chức quản trị phù hợp để khuyến khích sự sáng tạo trong doanh nghiệp,chia sẻ
thông tin,tri thức giữacác cá nhân và bộ phận.Điều này liên quan đến việc hình thành văn hoá
doanh nghiệp hệ thống thông tin trong doanh nghiệp rõ ràng…
Doanh nghiệp là một tổ chức giáo dục

Nhóm 7 – Cao học 21D
~ 15 ~
Kinh tế tri thức đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao lực lượng trong việc hấp thụ tri
thức,vận dụng tri thức và tự mình đổi mới tri thức.Điều đó dẫn đến các hãng cũng phải trở
thành các tổ chức học hỏi.Thông tin và lao động di chuyển ngày càng nhanh buộc các công ty
phải nhậy bén hơn,đòi hỏi mọi người phải luôn tiếp tục học tập.Học tập bao gồm cả trao đổi
các thông tin,tri thức và kỹ thuật có sẵn và phát hiện ra các nguyên tắc và tri thức mới.Một số
phương pháp sau:
Học tập qua công việc,học tập tại nơi làm việc:công nhân đào tạo lẫn nhau,luân chuyển
công việc,trả lương căn cứ vào kỹ năng,những nhóm chính thức hoặc không chính thức và
chế độ góp ý cải tiến
Doanh nghiệp đặt ở các trường học:Đây là tổ chức “lai tạo” kết hợp học tập và sản xuất,gọi
là”doanh nghiệp nhà trường”.Các doanh nghiệp nhà trường được sử dụng như là một bộ phận
của hệ thống học nghề để cung cấp kinh nghiệm sản xuất cho học sinh đang chờ ký hợp đồng
đào tạo với các doanh nghiệp.Nó cũng có thể được sử dụng để cung cấp sự học tập dựa trên
công việc cho những học sinh chưa được chuyên môn hoá về một nghề hay ngành cụ
thể.Trong các doanh nghiệp này,học sinh sản xuất hàng hoá và dịch vụ cho người khác với tư
cách là một bộ phận của việc học tập của các em tại trưòng.Thậm chí có những doanh nghiệp
tự gọi mình là “một nhà máy dạy học” về một số mặt, những doanh nghiệp này đươcj tổ chức
như công ty chứ không phải là một nhà trường với một chế dộ làm việc,trả lương như một
doanh nghiệp thực thụ.Một số doanh nghiệp đi xa hơn bằng cách lập ra trường hợp riêng của
doanh nghiệp.
Cộng tác với các trường đại học và các trung tâm nghiên cứu: Sự nương tựa này một nhiều
vào những tiến bộ trong kiến thức và khoa học, công nghệ sẽ tận dụng những cơ hội trợ cho
các doanh nghiệp thành công.Muốn vậy,các công ty phải cộng tác với các trưòng đại học và
các trung tâm nghiên cứu.Sự hợp tác giữa các trường đại học và giới kinh doanh được nhiều
tầng lớp ủng hộ.Cho nên chi phí cho đào tạo, GD rất cao.
Nhóm 7 – Cao học 21D
~ 16 ~
KẾT LUẬN

Xu hướng xây dựng và phát triển tri thức là xu hướng tất yếu của lịch sử, không riêng gì
CNTB. Vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh" Việt nam
không thể đi ngược xu hướng đó. Nước ta đã nắm bắt được rất nhiều cơ hội và từ đó có thể
phát triển nền tri thức, theo kịp nền kinh tế của các nước phát triển. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn
còn những khó khăn mà chúng ta phải vượt qua. Nước ta phải vận dụng những điều kiện thuận
lợi để đẩy lùi nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tiến vào thời kỳ công nhiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Tăng cường mở rộng các mối quan hệ ngoại giao, tìm hiểu kinh nghiệm của các
nước tiên tiến. Và một điều quan trọng nữa là phải chăm lo đến cải cách giáo dục về con người
và vật chất nước nhà.
Nhóm 7 – Cao học 21D

×