Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

skkn công dân với việc hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.41 KB, 21 trang )

SƠ YẾU LÝ LỊCH KHOA HỌC
I.THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN:
1 . Họ và tên: Nguyễn Thị Thu Vân
2. Sinh ngày 18 tháng 01 năm 1982
3. Giới tính: Nữ
4. Địa chỉ: 7/57- KP3 - Biên Hoà – Đồng Nai
5. Điện thoại: 0977250460
6. Chức vụ: Giáo viên
7. Đơn vị công tác : Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO :
- Trình độ chuyên môn: Cử nhân
- Năm nhận bằng: 2005
- Chuyên nghành đào tạo: GDCD
III: KINH NGHIỆM KHOA HỌC :
- Tám năm kinh nghiệm
1
MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU 3
B. NỘI DUNG 6
Chương I. NHỮNG ƯU NHƯỢC ĐIỂM CỦA ĐỀ TÀI 6
1. Ưu điểm 6
2. Nhược điểm 6
Chương II: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG……………………………………7
1. Thực trạng của việc học tập và giảng dạy phần “Công dân với việc hình thành
thế giới quan và phương pháp luận khoa học” 7
2. Vai trò của việc vận dụng văn học dân gian trong dạy phần: “Công dân với việc
hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học” 8
Chương III. VẬN DỤNG MỘT SỐ THỂ LOẠI VĂN HỌC DÂN GIAN
TRONG DẠY PHẦN “CÔNG DÂN VỚI VIỆC HÌNH THÀNH THẾ GIỚI
QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN KHOA HỌC” MÔN GDCD 10 NHẰM


TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH 11
1. Nguyên tắc vận dụng một số thể loại văn học dân gian phục vụ cho giảng dạy
môn GDCD 10 11
2. Các cách vận dụng văn học dân gian vào dạy một số nội dung cụ thể 11
C. KẾT LUẬN…………………………………………………………… 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO ………….21
2
PHẦN A: MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Luật Giáo dục năm 2005 đã xác định: "Mục tiêu của giáo dục phổ thông là
giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các
kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân " (Điều 23 - Luật Giáo dục năm 2005).
Đáp ứng mục tiêu trên, môn GDCD ở trường THPT có ý nghĩa và tầm quan
trọng trong việc giáo dục, đào tạo những chủ nhân tương lai của đất nước. Một
trong những đặc thù tri thức môn học là trang bị TGQ, PPL khoa học, tư duy biện
chứng duy vật cho học sinh. Đây là việc làm quan trọng và cần thiết nhằm nâng
cao chất lượng học tập, góp phần đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho xã hội,
đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn và xu thế hội nhập quốc tế của nước ta hiện
nay.
Tuy nhiên thực tế cho thấy, để giảng dạy hiệu quả tri thức triết học cho học
sinh, mà đặc biệt là học sinh lớp 10 phổ thông hiện nay không phải là một việc làm
đơn giản. Đối với các em, kiến thức về triết học là mới mẻ, việc tiếp thu, lĩnh hội
tri thức là rất trừu tượng, khó hiểu. Ngay cả sinh viên các trường đại học, cao đẳng
vẫn sợ triết học. Vì vậy dẫn đến tình trạng học sinh không có hứng thú học tập. Đa
số chỉ học vẹt, học qua loa mà không hiểu cái hay của triết học, cái giá trị cải tạo
thực tiễn, cải tạo bản thân của triết học nên không thích học bộ môn này.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, bản thân tôi trực tiếp giảng dạy môn
GDCD luôn trăn trở làm sao để học sinh tiếp nhận tri thức bộ môn một cách nhẹ
nhàng, dễ hiểu. Qua thực tế dạy học, tôi nhận thấy một trong các biện pháp giảng

dạy hiệu quả tri thức triết học trong chương trình GDCD 10 là vận dụng các tri
thức liên môn trong đó có văn học. Vì vậy, tôi mạnh dạn vận dụng một số thể loại
văn học vào bài dạy sao cho phù hợp nhằm gây sự hứng thú cho học sinh; góp
phần nâng cao hiệu quả của hoạt động dạy - học môn Giáo dục công dân lớp 10
phần “Công dân với việc hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa
học”
II.LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
Vận dụng các thể loại văn học dân gian trong dạy học là vấn đề được nhiều tác
giả của các bộ môn khác nghiên cứu. Đối với môn GDCD, cho đến nay chưa có
một đề tài nào nghiên cứu về vấn đề vận dụng các thể loại văn học dân gian trong
dạy phần Công dân với việc hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa
học. Tuy nhiên liên quan đến đề tài này có một số công trình nghiên cứu mặc dù ở
phạm vi hẹp như:
3
-“Sẽ hiệu quả hơn nếu sử dụng ca dao, tục ngữ Việt Nam trong dạy và học bài
“Công dân với tình yêu, hôn nhân, gia đình””của tác giả Nguyễn Thị Vân, đăng
trên Bản tin Giáo dục công dân số 2– Trường ĐH Sư phạm Hà Nội.
- Bài báo: “Vận dụng ca dao tục ngữ Việt Nam nhằm khơi dậy niềm say mê
học tập của học sinh trong dạy học môn GDCD – Phần Công dân với đạo đức, của
tác giả Đào Thị Ngọc Minh, đăng trên tạp chí khoa học
- Vận dụng thi ca trong giảng dạy GDCD lớp 10 của tác giả Hồ Thanh Ngân
Nhìn chung tất cả các bài viết trên chưa vận dụng phong phú nhiều thể loại văn
học vào dạy môn GDCD mà chỉ chú trọng tới thể loại tục ngữ, ca dao. Vì vậy, tác
giả mạnh dạn nghiên cứu đề tài trên vận dụng vào dạy phần triết học của môn
GDCD lóp 10
III. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng của việc học tập môn GDCD ở trường THPT. Thông qua
đó nâng cao hiệu quả giảng dạy bằng cách vận dụng các thể loại văn học như
truyện ngụ ngôn, tục ngữ, ca dao…vào một số phần, nội dung bài học

2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Sưu tầm, chọn lọc những thể loại văn học, đồng thời nghiên cứu nội dung
chương trình Giáo dục công dân lớp 10 và việc học tập của học sinh đối với môn
học. Từ đó, sử dụng những câu chuyện dân gian, tuc ngữ, ca dao…phù hợp trong
từng tiết học để nâng cao hiệu quả dạy học và hứng thú cho học sinh.
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh các lớp 10 mà tôi trực tiếp được phân công giảng dạy năm học 2013 –
2014: 10A1, 10 Văn, 10Anh1, 10A2, 10Toán – Trường THPT Chuyên Lương Thế
Vinh
2. Phạm vi nghiên cứu
Chương trình sách giáo khoa GDCD 10
V. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
Từ tháng 8 năm 2013 đến tháng 1 năm 2014
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh
- Phương pháp thực nghiệm, điều tra, khảo sát
VII. KẾT CẤU CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Phần A: Mở đầu.
Phần B: Nội dung
Chương I: Những ưu nhược điểm của đề tài
4
Chương II: Một số vấn đề chung
Chương III: Vận dụng một số thể loại văn học trong dạy phần Công dân với
việc hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học môn GDCD lớp 10
nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh
Phần C: Kết luận
5
PHẦN B: NỘI DUNG

Chương I
NHỮNG ƯU NHƯỢC ĐIỂM CỦA ĐỀ TÀI
1. ƯU ĐIỂM
- Giáo viên có thể dễ dàng sử dụng kho tàng văn học dân gian minh họa cho
nội dung bài giảng của mình vì nguồn tài liệu này vô cùng phong phú và đa dạng
- Hình thức thể hiện của các thể loại văn học dân gian như: tục ngữ, ca dao,
truyện cổ…khiến cho nội dung triết học được truyền tải nhẹ nhàng đến với học
sinh để có thể tiếp thu một cách dễ dàng
- Vận dụng các thể loại văn học dân gian trong dạy môn GDCD cụ thể là triết
học sẽ bổ sung nguồn tư liệu, học sinh thấy được cái hay và ý nghĩa của môn học
từ đó bồi đắp niềm hứng thú, tình yêu và sự say mê môn học. Đồng thời giúp các
em củng cố, mở rộng và khắc sâu kiến thức trọng tâm bài học một cách có hiệu
quả.
2. NHƯỢC ĐIỂM
- Mặc dù thể loại văn học dân gian phong phú, đa dạng nhưng đòi hỏi GV
phải bỏ nhiều thời gian trong việc sưu tầm và chọn lọc những thể loại văn học phù
hợp, có hiệu quả với từng nội dung kiến thức.
- Thời gian tiết học chỉ có 45 phút, nếu giáo viên ôm đồm quá nhiều ví dụ
minh họa hay những câu chuyện dài thì sẽ không đảm bảo thực hiện đầy đủ tiến
trình lên lớp. Mặt khác sự quá tải trong việc vận dụng có thể làm loãng kiến thức
- Nếu GV chỉ đơn thuần vận dụng các thể loại văn học bằng phương pháp
thuyết trình thì bài dạy sẽ không đạt hiệu quả cao. Dễ gây sự nhàm chán cho học
sinh.
- Khi đưa ví dụ vào bài giảng, nếu GV không biết gắn với lợi ích của người
học, không định hướng học sinh rút ra bài học, ý nghĩa thực tiễn thì HS sẽ không
hiểu cái hay của triết học. Vì vậy sẽ không có hứng thú học tập.
6
Chương II
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC HỌC TẬP VÀ GIẢNG DẠY PHẦN

“CÔNG DÂN VỚI VIỆC HÌNH THÀNH THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƯƠNG
PHÁP LUẬN KHOA HỌC”
Môn GDCD như chúng ta biết nó có vai trò giáo dục và giáo dưỡng, nó bao
gồm một hệ thống các tri thức khoa học phù hợp với từng đối tượng nhận thức của
học sinh. Nó góp phần hình thành thế giới quan khoa học và phương pháp tư duy
biện chứng cho học sinh. Nếu như kiến thức của các môn khoa học cơ bản khác
cung cấp cho học sinh những nguyên liệu để xây dựng lên lâu đài của tương lai thì
kiến thức môn GDCD sẽ là một kiến trúc sư thiết kế toàn bộ lâu đài đó, nó chỉ cho
chúng ta thấy cần phải làm gì và phải hành động như thế nào để đạt được mục
đích. Nhưng trên thực tế học sinh có tâm lý coi môn GDCD là môn phụ thậm chí
không thích học môn GDCD. Đối với học sinh trường chuyên có lẽ do học quá
nhiều môn học, cộng với tâm lý thi cử nên các em dành nhiều thời gian cho việc
học các môn chuyên, các môn mà nhà trường tổ chức thi tập trung nên thiếu sự
quan tâm và đầu tư cho môn học này; bên cạnh đó, kiến thức môn học liên quan
đến triết học cho nên rất “khô khan”, trừu tượng, khó hiểu, do đó, học sinh không
có hứng thú học. Kết quả điều tra cho thấy:
64% số học sinh không thích học môn GDCD
20% số học sinh thích học môn GDCD
16% không tỏ rõ ý kiến
Trong thời gian tôi giảng dạy, tôi thấy tình trạng học sinh không học bài cũ,
không xem bài mới còn phổ biến, khi đưa ra yêu cầu phải về nhà soạn bài bằng sơ
đồ tư duy thì học sinh cũng có làm nhưng miễn cưỡng, bắt buộc, hiệu quả mang lại
không cao.
Học sinh ham học, thích tìm hiểu khám phá những cái chưa biết, nhưng lại
không thấy rằng môn GDCD, đặc biệt phần triết học rất sát với đời sống, cung cấp
phương tiện khám phá thế giới vô cùng vô tận và từ đó có thể cải tạo thế giới một
cách có hiệu quả. Nhìn chung học sinh chưa thấy được ý nghĩa môn học và chưa
biết vận dụng tri thức đã học vào cuộc sống. Đây là một điều đáng suy nghĩ.
Thực trạng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Trước hết, xuất phát từ nội
dung chương trình môn GDCD lớp 10; đây là loại kiến thức mới mẻ mà trước đó ở

phổ thông cơ sở học sinh chưa từng được làm quen nên rất bỡ ngỡ khi chưa có
phương pháp học tập, nghiên cứu bộ môn vì vậy ảnh hưởng đến việc tiếp thu có
hiệu quả tri thức mới này. Mặt khác, nhiều bài, nhiều mục, nội dung kiến thức còn
quá cao, quá rộng đối với nhận thức của học sinh lớp 10. Điều này tạo ra cái quá
khó đối với việc tự đọc SGK, cũng như nghe giảng của học sinh. Một khi không đủ
trình độ tiếp nhận kiến thức ở mức độ cao nên sinh ra tâm trạng chán nản, không
thích học môn GDCD.
7
Có thể nói học sinh yêu thích môn học về cơ bản là phụ thuộc vào người dạy.
Để dạy tốt GDCD 10 đòi hỏi giáo viên phải vững vàng về trình độ chuyên môn,
biết đổi mới phương pháp dạy học để biến cái khó, phức tạp thành cái đơn giản,
khơi dậy niềm hứng thú ham học và nắm bắt kiến thức của học sinh. Thế nhưng, đa
số giáo viên chưa đầu tư xứng đáng cho môn học, không ít giáo viên trình độ còn
hạn chế, khi dạy chỉ nhắc lại kiến thức quá cao trong SGK, vẫn còn chú trọng
truyền thụ kiến thức theo kiểu thuyết trình, giảng giải, ít phát huy tích cưc và phát
triển tư duy cho học sinh. Nguyên nhân này một phần xuất phát từ việc bồi dưỡng
chuyên môn cho đội ngũ giáo viên. Trước đây, sở GD- ĐT thường tổ chức bồi
dưỡng nhằm đổi mới phương pháp giảng dạy nhưng hiệu quả của việc bồi dưỡng
vẫn chưa cao, cái mà giáo viên cần là phải đưa ra thảo luận một số vấn đề khó
trong chương trình và vận dụng phương pháp thích hợp để dạy học có hiệu quả cao
nhất nhưng các chuyên viên lại chưa làm được điều đó nên chưa góp phần nâng
cao trình độ cho đội ngũ giáo viên dạy môn học này.
Một nguyên nhân mang tính khách quan ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học
là sự tồn tại của niềm tin tôn giáo. Tri thức triết học mà các em được học trong nhà
trường luôn trái ngược với những điều mà kinh sách đã dạy các em; cho nên các
em đã giảm lòng tin vào tri thức khoa học. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để tri thức
khoa học thắng được niềm tin tôn giáo, điều đó đòi hỏi sự nỗ lực trong công tác
giảng dạy của giáo viên.
Nói về nguyên nhân dẫn đến thực trạng dạy và học môn GDCD trong nhà
trường thì có rất nhiều. Nhưng trên đây tôi chỉ nêu một số nguyên nhân cơ bản. Từ

những lý do trên, đòi hỏi giáo viên khi giảng dạy cần đầu tư thời gian, công sức
cho môn học; lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với trình độ nhận thức của
học sinh; mặt khác, chú trọng đến lợi ích của học sinh khi học các kiến thức
GDCD bằng minh họa những ví dụ dễ hiểu để các em thấy rằng học các kiến thức
đó là cần thiết đối với mình thì mới tạo cho học sinh nhu cầu và hứng thú học tập.
Vì vậy, với kinh nghiệm còn ít ỏi của mình nhưng tôi vẫn mạnh dạn vận dụng
tri thức khoa học khác - cụ thể là các thể loại văn học dân gian làm ví dụ minh họa
nhằm góp phần tạo hứng thú học tập cho học sinh trong dạy học môn GDCD 10
phần “Công dân với việc hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa
học”.
2. VAI TRÒ CỦA VIỆC VẬN DỤNG VĂN HỌC DÂN GIAN VÀO DẠY
PHẦN “CÔNG DÂN VỚI VIỆC HÌNH THÀNH THẾ GIỚI QUAN VÀ
PHƯƠNG PHÁP LUẬN KHOA HỌC”
2.1. Văn học dân gian
Văn học dân gian là các tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng, sản phẩm
của quá trình sáng tác tập thể nhằm mục đích phục vụ trực tiếp các sinh hoạt khác
nhau trong đời sống cộng đồng. Văn học dân gian ra đời trong lao động và là bức
tranh toàn diện về cuộc sống lao động và đời sống tinh thần của con người.
Hệ thống thể loại văn học dân gian bao gồm: thần thoại, truyền thuyết, sử thi,
ngụ ngôn, truyện cổ tích, truyện cười, tục ngữ, ca dao…
8
2.2. Vai trò của việc vận dụng một số thể loại văn học dân gian trong dạy
học phần “Công dân với việc hình thành thế giới quan và phương pháp luận
khoa học”
Sở dĩ có thể vận dụng các thể loại văn học dân gian trong dạy học môn GDCD
10 phần triết học bởi những lý do sau:
Thứ nhất, triết học và các thể loại văn học dân gian mặc dù là hai lĩnh vực khác
nhau nhưng lại có liên quan đến nhau. Triết học là những nhận thức khái quát về
thế giới khách quan, về con người với những quan hệ có tính bản chất, tính quy
luật; triết học thể hiện trong văn hóa, văn hóa đời sống, văn hóa dân gian mà hạt

nhân là văn học dân gian, văn học truyền miệng với nhiều thể loại như: thần thoại,
truyền thuyết, cổ tích, ca dao, tục ngữ Ngược lại nội dung của các thể loại văn
học có chứa đựng các yếu tố của tư tưởng triết học. Ví dụ, kho tàng tục ngữ Việt
Nam ta rất rộng lớn và phong phú đều mang ý nghĩa triết học. Vì vậy, GV có thể
sử dụng các thể loại văn học để minh họa cho một số nội dung giảng dạy.
Thứ hai, người ta thường nói học văn là học làm người, đặc biệt trong văn học
dân gian có giá trị giáo dục sâu sắc về đạo lý làm người. Trước hết văn học dân
gian giáo dục con người tinh thần nhân đạo và lạc quan, đó là tình yêu thương
đồng loại, tinh thần đấu tranh giải phóng con người và niềm tin vào chiến thắng
của chính nghĩa và cái thiện. Văn học dân gian còn góp phần hình thành những
phẩm chất tốt đẹp của con người: lòng yêu nước, tinh thần bất khuất, đức kiên
trung và vị tha
Ý nghĩa giáo dục con người trong văn học nói chung, văn học dân gian nói
riêng không khác biệt với mục tiêu môn giáo dục công dân. Mặc dù đặc trưng môn
học mang tính lý luận cao nhưng ẩn sâu trong mỗi nội dung bài học là giá trị giáo
dục đạo đức sâu sắc; bằng nghệ thuật dạy học của GV, học sinh không chỉ hiểu
kiến thức mà còn biết vận dụng vào cuộc sống, nhìn nhận và hoàn thiện bản thân
mình. Thông qua việc tiếp cận với các thể loại văn học dân gian một mặt học sinh
hiểu được ý nghĩa của các tri thức triết học, mặt khác việc rút ra bài học từ các thể
loại này sẽ giúp mục tiêu giáo dục đạo đức và kỹ năng sống cho học sinh được
thực hiện có hiệu quả.
Thứ ba, không thể phủ nhận kiến thức môn học rất trừu tượng và “khô khan”,
việc vận dụng truyện cổ tích, ngụ ngôn hay ca dao, tục ngữ vào từng nội dung kiến
thức phù hợp sẽ làm “mềm hóa” kiến thức, học sinh tiếp nhận dễ dàng vì ở lứa tuổi
lớp 10, các em vẫn còn yêu thích các thể loại này đặc biệt là truyện cổ tích, truyện
ngụ ngôn…vì nó không xa lạ mà rất gần gũi với các em từ thuở còn nhỏ. Chắc
chắn trong các em không ai chưa từng nghe chuyện ngày xửa ngày xưa hay những
lời hát ru nhẹ nhàng, sâu lắng; những câu tục ngữ, ca dao dễ đi vào lòng người, dễ
nhớ và dễ thuộc. Đây là những điều mà kiến thức môn GDCD cần để giờ học có
thể cuốn hút sự chú ý, quan tâm của học sinh.

Thứ tư, vận dụng tư liệu này trong giảng dạy cũng là một cách để học sinh bổ
sung thêm vốn hiểu biết của mình trong lĩnh vực văn học. Mặt khác, thông qua các
9
câu tục ngữ, ca dao, truyền thuyết học sinh nhớ về nguồn cội, thêm yêu quý và
trân trọng những giá trị truyền thống của dân tộc
10
Chương III:
VẬN DỤNG MỘT SỐ THỂ LOẠI VĂN HỌC DÂN GIAN TRONG DẠY
PHẦN “CÔNG DÂN VỚI VIỆC HÌNH THÀNH THẾ GIỚI QUAN VÀ
PHƯƠNG PHÁP LUẬN KHOA HỌC” MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN 10
NHẰM TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH
1. NGUYÊN TẮC VẬN DỤNG MỘT SỐ THỂ LOẠI VĂN HỌC DÂN
GIAN PHỤC VỤ CHO GIẢNG DẠY MÔN GDCD 10
Để đạt hiệu quả tối ưu trong quá trình sử dụng thể loại văn học dân gian trong
giảng dạy, GV cần chú ý một số nguyên tắc sau:
- Các câu chuyện, tục ngữ, ca dao… phải phù hợp với nội dung từng phần,
từng bài, phù hợp với trình độ nhận thức và tâm lý lứa tuổi học sinh.
- Tư liệu văn học đó phải đảm bảo có giá trị giáo dục, giá trị giáo dưỡng, và
đặc biệt phải có giá trị đối với bài học môn GDCD
- Không nên ôm đồm, quá tải trong việc vận dụng kiến thức văn học dân gian
để làm loãng kiến thức môn học. Tránh tình trạng biến giờ học môn GDCD thành
giờ giới thiệu văn học, ảnh hưởng đến sự tập trung nhận thức của học sinh vào các
vấn đề đang học
- Cần chọn lọc những truyện cổ tích, truyền thuyết, ngụ ngôn có nội dung
ngắn gọn, dễ hiểu, xúc tích để minh họa
- Sử dụng phương pháp dạy học tích cực trong quá trình vận dụng các thể loại
văn học để học sinh tiếp nhận kiến thức một cách chủ động, tích cực.
- Các thể loại văn học cần được khai thác theo các hướng khác nhau, có thể
vận dụng để giới thiệu bài, trong việc giảng giải kiến thức mới, trong ôn tập và
củng cố kiến thức…

2. CÁC CÁCH VẬN DỤNG VĂN HỌC DÂN GIAN VÀO GIẢNG DẠY
MỘT SỐ NỘI DUNG CỤ THỂ
Trong dạy học môn GDCD, cũng như các bộ môn khoa học khác ở trường phổ
thông, việc tiến hành bài học trong giờ học nội khóa là một hình thức cơ bản nhất,
chiếm vị trí chủ đạo trong hoạt động dạy và học. Có nhiều biện pháp sử dụng thể
loại văn học dân gian trong giảng dạy. Tùy thuộc vào mục đích, nội dung từng bài,
từng hoạt động, hình thức tổ chức giờ học mà giáo viên có thể vận dụng thể loại
văn học dân gian khác nhau. Sau đây, xin được đi sâu vào từng biện pháp cụ thể:
2.1. Vận dụng văn học dân gian để giới thiệu bài học
Ví dụ : để dẫn học sinh vào bài 7 “Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với
nhận thức”. GV có thể dẫn câu tục ngữ sau:
Đi một ngày đàng học một sàng khôn
GV có thể đặt ra hàng loạt câu hỏi trước khi nêu câu tục ngữ:
Hỏi: - Theo em trình độ nhận thức, sự hiểu biết của con người có phải do bẩm
sinh mà có?
11
- Nhận thức của con người có nguồn gốc từ đâu?
- Câu tục ngữ nào cho ta biết điều đó, ý nghĩa của câu tục ngữ ?
Sau khi học sinh trả lời, giáo viên dẫn dắt vào bài: Câu tục ngữ trên cho thấy
nhận thức của con người không phải tự nhiên mà có, để có tri thức về sự vật hiện
tượng, con người phải tiếp cận với cuộc sống, với thực tiễn. Vậy cụ thể thực tiễn
có vai trò như thế nào đối với nhận thức của conn người, chúng ta đi vào nội dung
bài học hôm nay.
2.2. Sử dụng văn học dân gian để làm rõ kiến thức
Ví dụ 1: Khi giảng về nội dung thế giới quan, Ở bài 1- “Thế giới quan duy vật
và phương pháp luận biện chứng” (SGK lớp 10, trang 4), GV sử dụng câu chuyện
Sơn Tinh Thủy Tinh, Thần trụ trời và đặt ra những câu hỏi gợi mở:
- Quan niệm của con người từ thời xa xưa về thế giới, về vũ trụ, về các hiện
tượng tự nhiên như thế nào?Quan điểm đó đã cho thấy con người nhìn nhận thế
giới một cách sâu sắc, đầy đủ và đúng đắn hay chưa?

- Quan điểm đó ảnh hưởng đến hoạt động thực tiễn của con người như thế
nào?
Sau khi HS trả lời, GV đi đến sự nhìn nhận:
Con người thời kỳ xa xưa thường quan niệm vũ trụ này được tạo ra từ các vị
thần, các hiện tượng tự nhiên như mưa, gió bão, lũ lụt… cũng do các vị thần tạo
nên bởi vì khoa học chưa phát triển, con người chưa hiểu và chưa thể giải thích
được nguyên nhân các hiện tượng đó. Do đó con người cảm thấy mình nhỏ bé và
bất lực trước tự nhiên. Niềm tin vào thế lực siêu nhiên khiến con người lệ thuộc
vào tự nhiên và hành động cầu nguyện, thờ cúng…Những quan điểm của con
người thời kỳ đó vẫn chưa phản ánh đúng hiện thực khách quan.
Triết học ra đời diễn tả thế giới quan của con người dưới dạng một hệ thống
các phạm trù, quy luật chung nhất, cắt nghĩa về mặt lý luận những hiện tượng xung
quanh, tạo niềm tin và định hướng con người trong hoạt động
GV nêu thêm câu hỏi:
- Nếu như trong truyện thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh, người ta cho rằng
hiện tượng bão lũ là do thần Thủy Tinh tạo ra. Vậy khi khoa học phát triển, con
người lý giải như thế nào về hiện tượng đó?
- Con người có thể làm chủ tự nhiên và cải tạo tự nhiên hay không? Bằng
cách nào?
HS trả lời , GV nhận xét và đi đến kết luận: Thế giới quan là toàn bộ những
quan điểm và niềm tin định hướng hoạt động của con người trong cuộc sống
Ở nội dung này GV cần gắn thế giới quan triết học với cái nhìn của học sinh
trong thực tiễn: Thế giới quan ví như chiếc la bàn định hướng con người trong
cuộc sống, nếu thế giới quan khoa học và tiến bộ thì hoạt động của con người sẽ
sáng suốt, đúng đắn. Ngược lại, nếu thế giới quan lạc hậu, phản khoa học thì hoạt
động của con người sẽ mù quáng, u mê…. Vì vậy học thế giới quan để nhìn sự vật
12
đúng như bản chất vốn có của nó, chẳng hạn như biết nhìn bạn bè, những người
xung quanh đúng hơn, phân biệt đúng sai trong nhận thức từ việc lớn đến việc nhỏ.
Đồng thời phải học tập để nâng cao tri thức sự hiểu biết của mình để nhìn nhận

mọi cái đúng đắn và khoa học.
Ví dụ 2: Khi giảng về thế giới quan duy vật và duy tâm, GV sử dụng lại câu
chuyện : Thần trụ trời.
GV gọi một em đứng lên đọc và sau đó đặt câu hỏi:
Hỏi: Em hãy chỉ ra đâu là yếu tố duy vật và duy tâm trong truyện thần thoại “
Thần trụ trời”?
HS cả lớp suy nghĩ trả lời. Cả lớp bổ sung, nhận xét.
Thông qua câu truyện trên, GV chỉ cho HS biết nhận xét, hiểu được thế giới
quan duy vật và thế giới quan duy tâm, từ đó cảm nhận được thế giới quan duy vật
là cần thiết và khoa học.
Ví dụ 3: Để phân biệt được phương pháp luận biện chứng và phương pháp
luận siêu hình, GV có thể cho HS đóng vai câu chuyện ngụ ngôn “thầy bói xem
voi” (SGK trang 10)
Sau khi đóng vai, GV đặt câu hỏi:
- Em có nhận xét gì về cách nhìn nhận con voi của các ông thầy bói?
- Khi xem xét một sự vật, hiện tượng nào đó mà chỉ căn cứ một mặt, một biểu
hiện nào đó có thể phản ánh đúng sự vật, hiện tượng đó không?
HS thảo luận trả lời sau đó GV rút ra nhận xét, kết luận: Khi đánh giá một sự
vật, hiện tượng hay đánh giá một con người cần phải sử dụng phương pháp biện
chứng để đánh giá, nhìn nhận một cách toàn diện, nhiều chiều, xem xét nhiều mối
quan hệ để đưa ra kết luận chính xác nhất, nếu không sẽ rơi vào sai lầm.
Hoặc GV có thể kể câu chuyện khác để học sinh hiểu sâu sắc nội dung
Ví dụ: Câu chuyện khỉ nhân đạo, cá vô ơn ( Khỉ cứu một con cá bị dòng nước
lũ hất văng lên mắc vào một khe đá. Khỉ đặt con cá đã rất yếu ớt lên một phiến đá
cao, lấy lá cây che cho cá khỏi bị nắng mưa và bỏ đi hái quả. Một lúc sau, khi quay
trở lại và thấy cá đã chết khô. Khỉ bực mình: đúng là đồ vô ơn
GV giúp học sinh hiểu: con cá chết xuất phát từ phương pháp nhận thức siêu
hình của khỉ, khỉ cứ nghĩ con vật nào cũng như nó, có thể sống trên cạn mà không
thấy được sự sống của cá gắn liền với nước, khỉ cứ nghĩ mình cứu cá nhưng chính
hành động thể hiện sự thiếu hiểu biết đã khiến khỉ là kẻ hại cá

Ví dụ 4: Ở bài 5- Cách thức vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng.
GV khẳng định: Trong mỗi sự vật hiện tượng đều có chất đặc trưng và đều có
mặt lượng phù hợp với chất của nó, chất và lượng luôn thống nhất với nhau.
Ngoài việc GV cho ví dụ cụ thể làm rõ thì GV có thể kể câu chuyện “Thi nói
khoác”. Câu chuyện này đã cố ý phóng đại “lượng” của một sự vật đến mức cực kì
phi lý so với “chất”
13
Trong chuyện có nêu: con trâu lớn đến mức một cái liếm của nó đã hết cả sào
mạ; một dây thừng to gấp 10 cái cột đình; một cây cầu dài đến nỗi người con nghe
tin cha mất vội vã sang đưa đám tang nhưng khi qua cầu sang đến nơi thì đã đoạn
tang được 3 năm; cây gạo cao đến mức quả trứng chim từ ngọn rơi xuống đến nửa
chừng thì đã nở ra con chim và bay đi. Đây là một câu chuyện cười. Nhưng,
chuyện đã nói lên, một cách gián tiếp, sự phù hợp của lượng với chất của nó.
Ví dụ 5: Khi giảng về nội dung mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng dẫn
đến sự thay đổi về chất và ngược lại. GV sử dụng câu chuyện sau:
Xưa kia có một vị quan được cử đi kinh lí các vùng. Khi đến một phủ- huyện
nọ, phát hiện người giữ kho bạc mỗi ngày ăn cắp 01 xu nên ra lệnh xử chém.
Người giữ ko bạc tâu với vị quan rằng: “Bẩm quan, mỗi ngày con chỉ lấy có 01 xu,
sao quan lại xử chém. Xin quan xem xét lại”. Nhưng vị quan vẫn kiên quyết xử
chém và nói rằng:
Một ngày, một đồng
Ngàn ngày, ngàn đồng
Nước chảy, đá mòn
Dây cưa, đứt gỗ
Hỏi:
- Giải thích vì sao vị quan vẫn kiên quyết xử chém?
- Ý nghĩa triết học của 4 câu trên?
HS suy nghĩ trả lời, sau đó GV nhận xét:
Sự biến đổi về chất bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi về lượng. Lượng biến
đổi một cách từ từ, dần dần và đến một giới hạn nhất định dẫn đến sự biến đổi về

chất. Vận dụng nội dung này khi xem xét câu chuyện trên ta thấy: mặc dù hàng
ngày, tên thủ kho chỉ ăn cắp 01 xu, tưởng không đáng kể nhưng chớ coi thường
điều này vì tích tiểu thành đại, nhiều ngày như vậy thì đến một lúc nào đó số tiền
lấy cắp là rất lớn, gây hậu quả nghiêm trọng. Vị quan xử chém vì nhận thấy bản
chất ăn cắp của tên này là không đổi
Ví dụ 6: Khi dạy phần “thực tiễn là cơ sở của nhân thức”, GV liên hệ một số
câu ca dao:
- Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng bay vừa thì râm
- Chớp đông nhay nháy gà gáy thì mưa
- Trăng quầng thời hạn trăng tán thời mưa
- Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng, ngày tháng mười chưa cười đã tối
- Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống
- Nuôi lợn ăn cơm nằm nuôi tằm ăn cơm đứng
- ….
14
Hỏi: Do đâu mà người xưa đã rút ra được điều này? ( đây là kinh nghiệm được
đúc kết từ thực tiễn, cụ thể là từ việc quan sát thời tiết, tính toán đo đạt ruộng đất,
thực tiễn trồng trọt chăn nuôi….) và gợi ý cho học sinh đi tới kết luận: Mọi hiểu
biết của con người đều nảy sinh từ thực tiễn. Nhờ tiếp xúc tác động vào sự vật,
hiện tượng mà con người phát hiện ra thuộc tính, hiểu được bản chất, quy luật của
chúng.
2.3. Vận dụng văn học dân gian để liên hệ thực tiễn, rút ra bài học và giáo
dục kỹ năng sống cho HS
Ví dụ 1: Để thấy được vai trò tích cực của thế giới quan duy vật, GV cho họ
sinh làm bài tập sau:
Em hãy giải thích câu tục ngữ: “ Sống chết có mệnh, giàu sang do trời”
- Sau khi HS đưa ra những ý kiến khác nhau, GV chốt lại đặt câu hỏi cho HS
làm rõ vấn đề. Con người sinh ra ai không muốn giàu sang, sung túc mà không cần
lao động? GV cần cho HS thấy được rằng con người chính là chủ nhân số phận của

mình, muốn giàu có phải lao động sản xuất, làm ra của cải vật chất phục vụ cho
bản thân, gia đình và xã hội. Biết đấu tranh chống lại tư tưởng duy tâm làm cho
con người lười biếng chỉ biết hưởng thụ mà không lao động, tránh tư tưởng “ Ngồi
gốc cây chờ sung rụng”
Ví dụ 2: GV kể cho HS câu chuyện “Hai hạt giống” (Ngày xưa có hai thanh
niên nghèo khổ đi tìm hạnh phúc. Sứ giả hạnh phúc đều thấy họ có trái tim lương
thiện nên ban cho mỗi người một hạt giống hạnh phúc. Sau đó một thanh niên trở
về đem hạt giống đó gieo trên mảnh đất của mình, ngày ngày chăm bón cho cây.
Anh lại cố gắng ươm cây, nên cả mảnh vườn đầy cây xanh tốt, sai trĩu quả, anh bán
những quả ngon lành ấy và dân dần trở nên giàu có. Anh lấy vợ, có hai con sống
cuộc đời sung sướng, hạnh phúc. Người thanh niên kia sau khi trở về lập miếu tế
thần, đem hạt giống hạnh phúc hiến dâng tế thần, hàng ngày chân thành cúng bái,
cầu nguyện, đến nỗi tóc bạc đi nhưng vẫn nghèo khổ xác xơ mà không hiểu vì sao
nên lại lặn lội tìm sứ giả hạnh phúc kêu ca oán trách rằng, sứ giả lừa anh. Sứ giả
mỉm cười, bảo anh đến tìm người thanh niên kia xem. Khi anh đến thấy vườn cây
ăn quả xanh tốt, người kia giàu có sung sướng thì bừng tỉnh, vội về nhà tìm hạt
giống vùi xuống đất, nhưng hạt giống do mọt ăn rỗng không sao nẩy mầm được.)
Hỏi: Câu chuyện trên giúp em suy nghĩ điều gì?
Ví dụ 3: Ở bài 3- Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất, GV sử
dụng câu chuyện “ Tái ông mất ngựa” để khẳng định quan điểm triết học: Mọi sự
vật đều luôn vận động, biến đổi, không có cái gì là tồn tại bất biến, cuộc sống của
con người cũng thế.
GV có thể sử dụng vô vàn những câu tục ngữ ca dao chứa đựng những yếu tố
tư tưởng biện chứng- nhìn nhận sự vật , hiện tượng không phải ở trạng thái đứng
yên, bất biến mà trong sự vận động, biến đổi và phát triển. Chẳng hạn:
- Trời còn khi nắng khi mưa
Ngày còn khi sớm khi trưa hỡi người
15
- Người có lúc vinh, lúc nhục, nước có lúc đục, lúc trong
- Ai giàu ba họ, ai khó ba đời

- Hết cơn bĩ cực đến hồi thái lai
GV vận dụng các câu tục ngữ trên để nói lên quan niệm về sự phát triển từ đó
giáo dục kỹ năng sống cho HS: Quá trình phát triển không diễn ra một cách đơn
giản thẳng tắp, mà diễn ra một cách quanh co, phức tạp, đôi khi có bước thụt lùi
tạm thời. Song, khuynh hướng tất yếu của quá trình ấy là, cái mới ra đời thay thế
cái cũ, cái tiến bộ thay thế cái lạc hậu.
Vận dụng điều này vào cuộc sống, chúng ta cần:
- Có tinh thần lạc quan, tin tưởng vào sự tất thắng của cái mới.
- Không nản chí trước khó khăn và thất bại
- Cố gắng phấn đấu, rèn luyện trong học tập và lao động để thành công
- Ủng hộ cái tiến bộ, tránh thái độ thành kiến, bảo thủ khi đánh giá con người
Ví dụ 4: Trên cơ sở nội dung mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng dẫn đến
sự thay đổi về chất, GV yêu cầu HS nêu một số câu tục ngữ minh họa sau đó định
hướng để học sinh phân tích và rút ra ý nghĩa, bài học thực tiễn cho mình
- Có công mài sắt có ngày nên kim
- Kiến tha lâu cũng đầy tổ
- Chín quá hóa nẫu
- Già néo đứt dây…
Bài học rút ra:
- Vì lượng đổi đến một giới hạn nhất định dẫn đến chất đổi, nên trong học tập
và rèn luyện để đạt được thành công cũng như mục tiêu đặt ra đòi hỏi chúng ta
phải kiên trì nhẫn nại, không coi thường việc nhỏ; mọi hành động nôn nóng, nửa
vời đều không đem lại kết quả như mong muốn.
- Chất và lượng thống nhất trong một “độ” nhất định, nếu vượt quá giới hạn
của “độ” thì chất sẽ thay đổi, sự vật cũ không còn tồn tại. Vì vậy trong giao tiếp,
ứng xử; trong mối quan hệ tình bạn, tình yêu cần giữ ở một giới hạn nhất định,
không nên thái quá
2.4. Vận dụng thể loại văn học dân gian để củng cố bài học
Để củng cố bài 1, GV nên sử dụng các câu ca dao tục ngữ, thành ngữ để học
sinh xác định thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm, yếu tố biện chứng và

siêu hình
Ví dụ 1: Câu tục ngữ nào sau đây thể hiện thế giới quan duy vật, thế giới quan
duy tâm:
- Có thực mới vực được đạo
- Số nghèo tay trắng cũng nghèo
Số giàu chín đụn mười trâu cũng giàu
- Trăng đến rằm thì trăng tròn, sao đến tối thì sao mọc
- Phú quý sinh lễ nghĩa
16
- Sống chết có mệnh giàu sang do trời
Ví dụ 2: Xác định yếu tố biện chứng, yếu tố siêu hình trong các câu sau:
- Trứng rồng lại nở ra rồng.
Liu điu lại nở ra dòng liu điu
- Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa thì quét lá đa
- Tre già măng mọc
- Nước chảy đá mòn
- Năng nhặt chặt bị
Ví dụ 3: Bài 5- Cách thức vận động phát triển của sự vật, hiện tượng. GV củng
cố bài học bằng cách tổ chức cho học sinh chơi trò chơi.
Cách thức: chia lớp làm hai đội, lần lượt mỗi đội nêu một câu tục ngữ nói về
“lượng”, “chất” và mối quan hệ lượng – chất. Sau 10 giây đội nào không nêu lên
được câu tiếp theo thì thua cuộc.
VD:
- Gừng càng già càng cay
- Già néo đứt dây.
- Mèo già hóa cáo
- Kiến tha lâu cũng đầy tổ
- Góp gió thành bão, góp cây thành rừng
- Năng nhặt chặt bị

- Chín quá hóa nẫu.
- Có chí thì nên
- Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
….
Tóm lại, việc sử dụng các thể loại văn học dân gian trong giờ học môn GDCD là
một trong những cách thức để giáo viên đưa tài liệu tham khảo vào trong giờ dạy
một cách có hiệu quả và dễ dàng, làm cho bài học trở nên sinh động, hấp dẫn.
Quan trọng hơn, nó sẽ lấy lại hứng thú học tập bộ môn, lòng say mê học tập của
học sinh. Đây được coi là một trong những biện pháp đổi mới trong dạy học môn
GDCD ở trường THPT
17
PHẦN C: KẾT LUẬN
I. THỰC HIỆN KIỂM CHỨNG
1. Khi chưa sử dụng các thể loại văn học dân gian vào dạy học Giáo dục
công dân lớp 10
Lớp Sĩ số
Số học sinh hứng
thú với môn học
Số học sinh có
thái độ bình
thường với
môn học
Số học sinh
không hứng
thú với
môn học
10Anh1 28 10,7% 32,1% 57,2%
10A1 35 5,7% 22,9% 71,4%
10A2 33 9,1% 30,3% 60,6%

10Văn 23 4,3% 26,1% 69,6%
10Toán 30 6,6% 26,7% 66,7%
.
2. Khi sử dụng thể loại văn học dân gian vào dạy học Giáo dục công dân
lớp 10
Lớp Sĩ số
Số học sinh hứng
thú với môn học
Số học sinh có thái
độ bình thường với
môn học
Số học sinh
không hứng thú
với
môn học
10Anh1 28 46,4% 35,7% 17,9%
10A1 35 54,3% 28,6 % 17,1%
10A2 33 54,5% 36,4% 9,1%
10Văn 23 78,3% 21,7% 0%
10Toán 30 50% 33,3% 16,7%
18
II. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Vận dụng thể loại văn học trong giảng dạy môn GDCD 10 là một trong những
phương tiện đạt hiệu quả. Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy:
- Bài giảng của GV đã thu hút sự chú ý của học sinh, các em đã có tinh thần
tham gia học tập tích cực.
- Học sinh lĩnh hội và nắm được kiến thức bài học dễ dàng và nhớ lâu kiến
thức đã học
- Có năng lực phân tích, lý giải một cách đúng đắn những hiện tượng, vấn đề
diễn ra trong đời sống xã hội

- Biết vận dụng kiến thức bài học vào hoạt động nhận thức và thực tiễn của
bản thân trong cuộc sống
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Việc nâng cao hiệu quả cho học sinh là mục tiêu của người dạy học nên giáo
viên cần phải sáng tạo trong sử dụng các phương tiện dạy học để làm mới phong
cách của mình, giúp bài học trở nên hấp dẫn, sinh động tránh sự nhàm chán. Việc
áp dụng các phương tiện dạy học thể hiện tính sáng tạo, tìm tòi, đầu tư của giáo
viên và cũng nhờ vậy sẽ giúp học sinh nắm được bài, có thái độ tích cực, yêu thích
đối với môn học GDCD. Từ kết quả nghiên cứu bước đầu, cùng với việc đối chiếu
những vấn đề thực tiễn trong giảng dạy môn GDCD hiện nay, tôi xin mạnh dạn đề
xuất một số kiến nghị sau:
Đối với giáo viên
- Để tạo hứng thú cho học sinh khi học môn GDCD trước hết người giáo viên
phải yêu thích chính công việc giảng dạy ở trường bởi vì khi giáo viên yêu công
việc sẽ dồn vào đó quyết tâm, sự tâm huyết, say mê nhiệt tình, từ đó nảy sinh nhiều
ý tưởng sáng tạo.
- Để thực hiện tốt việc vận dụng văn học dân gian vào bài giảng, giáo viên
phải có vốn kiến thức về lĩnh vực này một cách phong phú. Muốn vậy, giáo viên
cần bồi dưỡng và nâng cao kiến thức văn học, tự mình sưu tầm và tìm kiếm tài liệu
phục vụ cho công tác giảng dạy từ nhiều nguồn: tạp chí, mạng internet, sách
báo GV cũng khuyến khích học sinh tìm kiếm tư liệu văn học liên quan đến nội
dung bài để các em chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức
- Khi lựa chọn tài liệu văn học dân gian phải mang tính chất điển hình, cụ thể
và khoa học. Mặc khác, giáo viên không nên sử dụng một cách tràn lan, lạm dụng
quá nhiều trong giờ dạy học để vô tình biến giờ dạy GDCD thành giờ dạy văn. Đây
là một vấn đề đáng quan tâm khi sử dụng phương tiện này.
- Để thu hút học sinh tập trung tham gia tìm hiểu bài học, giáo viên cần kết
hợp một cách khéo léo với các phương pháp dạy học khác để tạo nên sự cộng
hưởng và đạt hiệu quả cao.
- Sử dụng thể loại văn học dân gian vào bài giảng không được đi chệch mục

đích, yêu cầu bài giảng. Cần xác định rằng văn học dân gian là công cụ giúp giáo
viên hoàn thành tiết học tốt nhất. Để làm được điều đó, giáo viên phải biết sử dụng
tài liệu này phù hợp với nội dung, không vì sử dụng tài liệu mà cháy giáo án.
19
Đối với các cấp lãnh đạo, quản lý
- Lãnh đạo nhà trường cần quan tâm, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện về vật chất
lẫn tinh thần để giáo viên vận dụng có hiệu quả văn học dân gian vào bài học môn
GDCD. Cụ thể là mở rộng nhiều đầu sách trong thư viện, tạo điều kiện để GV
tham gia các lớp tập huấn đổi mới phương pháp, ủng hộ và hỗ trợ các hoạt động
của tổ chuyên môn.
- Sở Giáo dục và Đào tạo cần chú trọng đến việc tổ chức các lớp tập huấn, vận
dụng các phương tiện trong giảng dạy, trong đó có sử dụng văn học dân gian vào
các bài giảng của từng khối lớp. Các chuyên viên cần tập trung nghiên cứu thành
chuyên đề vận dụng văn học nói chung, văn học dân gian nói riêng để sử dụng
rộng rãi cho giáo viên các trường tham khảo.
Trên đây là một số kiến nghị, đề xuất với mong muốn việc vận dụng văn học
dân gian vào bài giảng thật sự có hiệu quả, đem lại hứng thú cho học sinh. Trong
khuôn khổ đề tài, có thể nhiều vấn đề chưa được giải quyết thấu đáo. Hy vọng
rằng, vấn đề vận dụng các thể loại văn học dân gian vào dạy phần “Công dân với
việc hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học” nói riêng, môn giáo
dục công dân nói chung sẽ được nhiều tác giả tiếp tục nghiên cứu một cách sâu sắc
hơn.
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Diễn đàn của khoa giáo dục chính trị - Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, Bản tin
Giáo dục công dân số 2
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo dục công dân 10, (sách giáo khoa), NXB Giáo
dục, Hà Nội, 2007
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo dục công dân 10, (sách giáo viên), NXB Giáo
dục, Hà Nội, 2007

4. Nhà xuất bản giáo dục, Tục ngữ ca dao Việt Nam về Giáo dục đạo đức, 2006
5. Nguyễn Văn Cư – Nguyễn Duy Nhiên, Dạy và học môn GDCD ở trường trung
học phổ thông những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Đại học sư phạm, 2007.
6. Trọng Phụng, 100 câu chuyện bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho học sinh, sinh
viên, NXB Lao động – Xã hội
7. Vũ Hồng Tiến, Phùng Văn Bộ, Bồi dưỡng nội dung và phương pháp giảng dạy
giáo dục công dân 10, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 1999
8. Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh, Bài tập giáo dục công dân
10, NXB giáo dục.
9. WWW.chungta.com , Cảm nhận triết lý tục ngữ, ca dao.
10. WWW.dongphuonghoc.org , Tìm hiểu yếu tố triết học (hay triết lý dân gian)
trong tục ngữ Việt Nam.
21

×