Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

skkn một số biện pháp phát triển kỹ năng nghe nói cho trẻ khiếm thính can thiệp sớm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.5 MB, 16 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRUNG TÂM NUÔI DẠY TRẺ KHUYẾT TẬT

Mã số . . . . . . . . . . . .
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG NGHE NÓI
CHO TRẺ KHIẾM THÍNH CAN THIỆP SỚM
Người thực hiện: Đinh Ngọc Vân
Lĩnh vực/Môn nghiên cứu:
Giáo dục khuyết tật: Can thiệp sớm trẻ khiếm thính

Có đính kèm:
Mô hình Đĩa CD (DVD) Phim ảnh Hiện vật khác
1
Năm học 2013 – 2014
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: Đinh Ngọc Vân
2. Ngày tháng năm sinh: 12 – 6 – 1985
3. Nam, nữ : Nữ
4. Địa chỉ: 106, phố 9, ấp 5, xã Phú Lợi, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai
5. Điện thoại cơ quan: 0613.954171 – Di động: 0987169873
6. Fax: Email:
7. Chức vụ: Giáo viên
8. Nhiệm vụ được giao: Giáo viên chủ nhiệm lớp Dự bị 2.
9. Đơn vị công tác: Trung tâm Nuôi Dạy Trẻ Khuyết tật Đồng Nai
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân Khoa
học giáo dục
- Năm nhận bằng: 2007
- Chuyên ngành đào tạo: Giáo dục đặc biệt


III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Dạy trẻ khiếm thính
- Số năm có kinh nghiệm: 07 năm
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
+ Năm học 2010 – 2011: “Một vài kinh nghiệm khi dạy phát âm trong
giờ học vần cho học sinh khiếm thính lớp 1A”.
+ Năm học 2011 – 2012: “Vận dụng phương pháp phản hồi người mẹ
trong giờ học vần cho học sinh khiếm thính lớp 1A”.
+ Năm học 2012 – 2013: “Một số biện pháp giúp học sinh khiếm thính
lớp Dự bị phát triển kỹ năng nghe”.
2
MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG NGHE NÓI
CHO TRẺ KHIẾM THÍNH CAN THIỆP SỚM
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thính giác là một trong những giác quan quan trọng và quý nhất của con
người. Thông qua cơ quan thính giác này chúng ta có thể nghe những âm thanh
của môi trường xung quanh bên ngoài và việc nghe được những âm thanh này
giúp chúng ta phát triển ngôn ngữ, học kỹ năng xã hội và kỹ năng giao tiếp,
thưởng thức âm nhạc, ngạc nhiên trước các âm thanh khác nhau của thế giới và
cũng cảnh báo các nguy hiểm đang đến. Với con người, chức năng nghe có tầm
quan trọng đặc biệt khi còn nhỏ. Giai đoạn bắt đầu của thời thơ ấu là khoảng
thời gian mà một đứa trẻ tiếp cận với ngôn ngữ, do đó nếu không nghe được
ngay từ khi mới sinh ra trẻ sẽ không hình thành được khả năng nói.
Năm năm đầu tiên trong cuộc đời của đứa trẻ rất quan trọng cho sự phát
triển của trẻ. Đây là thời gian cho nền tảng của cuộc sống được hình thành. Một
nền tảng tốt tạo cho đứa trẻ cơ hội để có một cuộc sống hạnh phúc và có ý
nghĩa, đồng thời để chúng trở thành một thành viên có ích cho xã hội. Đối với
trẻ khiếm thính, việc bắt đầu với can thiệp sớm càng nhanh càng tốt là rất cần
thiết. Ngày nay, cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã mang
lại cuộc sống mới cho người khiếm thính nói chung và trẻ em khiếm thính nói

riêng. Đặc biệt với sự ra đời của nhiều loại máy trợ thính đã góp phần cải thiện
chức năng nghe, nói cũng như nâng cao chất lượng cuộc sống cho trẻ em khiếm
thính. Bên cạnh đó, phát hiện và can thiệp ngôn ngữ sớm cho trẻ khiếm thính
cũng góp phần không nhỏ trong việc ngăn ngừa các ảnh hưởng do giảm thính
lực gây nên. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế hoặc hạn chế về mặt nhận thức của
bố mẹ, một số trẻ sau đeo máy vẫn chưa được can thiệp ngôn ngữ hoặc can thiệp
chưa đúng mức dẫn đến việc trẻ có nghe được nhưng không có khả năng giao
tiếp bằng lời nói. Ngôn ngữ không chỉ phát triển tốt nhất nếu trẻ được can thiệp
ngôn ngữ sớm ngay sau khi được mang dụng cụ hỗ trợ nghe mà còn ở vấn đề
chất lượng can thiệp và một yếu tố không nhỏ đó là gia đình phải nhận được sự
tư vấn, hướng dẫn, hỗ trợ kịp thời từ phía giáo viên can thiệp.
Chính vì vậy, để góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho trẻ em
khiếm thính, và nhằm giúp phụ huynh của trẻ khiếm thính hiểu hơn về tầm quan
trọng của việc can thiệp ngôn ngữ sớm, tôi đã mạnh dạn vận dụng “Một số biện
pháp phát triển kỹ năng nghe nói cho trẻ khiếm thính can thiệp sớm” trong
thực tế dạy học nhằm giúp trẻ khiếm thính hình thành và phát triển kỹ năng nghe
nói, tạo điều kiện cho trẻ khiếm thính được học hòa nhập với trẻ bình thường.
II. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
3
1. Thế nào là trẻ khiếm thính?
Trẻ khiếm thính là trẻ bị tổn hại cơ quan thính giác ở các mức độ khác
nhau. Do cơ quan thính giác bị tổn hại nên trẻ không tri giác được thế giới âm
thanh, không nghe được tiếng nói. Vì thế, không tự hình thành được ngôn ngữ.
Ngày nay, để giảm sự mặc cảm ở trẻ điếc, để cộng đồng xã hội hiểu và gần gũi
hơn đối với đối tượng khuyết tật này, người ta thường dùng thuật ngữ trẻ khuyết
tật thính giác, hay trẻ khiếm thính, trẻ có khó khăn về nghe.
2. Ảnh hưởng của khuyết tật thính giác đến sự phát triển ngôn ngữ
Thính giác đóng vai trò cực kì quan trọng trong quá trình hình thành và
phát triển ngôn ngữ ở trẻ em. Đối với trẻ khiếm thính, hậu quả không thể tránh
khỏi là chậm phát triển về ngôn ngữ và đặc biệt là ngôn ngữ nói.

Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ theo mức độ điếc:
- Trẻ điếc nhẹ (mất từ 20 đến 40 dB): Trẻ không nghe hoặc không nghe rõ nên
tiếng nói thường bị mất hoặc nói sai một số phụ âm cao. Tuy nhiên tiếng nói của
trẻ vẫn có thể tự phát triển.
- Trẻ điếc vừa (mất từ 41 đến 70 dB): Trẻ có thể nói ngọng nhiều và nói những
câu không đúng ngữ pháp.
- Trẻ điếc nặng (mất từ 71 đến 90 dB): Trẻ bị mất tiếng nói hoặc rất chậm phát
triển ngay từ nhỏ, tiếng nói của trẻ khó nghe và không có thanh điệu.
- Trẻ điếc sâu (mất từ trên 90 dB): Tiếp thu tiếng nói chủ yếu bằng cách nhìn
hình miệng, không dùng thính giác; mất khả năng giao tiếp bằng tiếng nói nên
tiếng nói và ngôn ngữ không thể tự phát triển được.
3. Can thiệp sớm trẻ khiếm thính:
Can thiệp sớm là những chỉ dẫn ban đầu, các dịch vụ dành cho trẻ và gia
đình trẻ khuyết tật trước tuổi tiểu học nhằm kích thích, huy động sự phát triển
tối đa của trẻ, tạo điều kiện và chuẩn bị tốt cho trẻ tham gia vào hệ thống giáo
dục bình thường cũng như trong cuộc sống sau này.
Can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính là chương trình hướng dẫn phụ huynh
có con bị khiếm thính, giúp họ biết cách trực tiếp giúp đỡ con mình phát triển
khả năng giao tiếp, khả năng nghe và nói ngay từ khi còn nhỏ.
Ngôn ngữ nói với công tác can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính: Phương
pháp dùng lời phát huy đến mức tối đa việc sử dụng khả năng nghe hơn là khả
năng nhìn. Nghe là phương pháp hữu hiệu, đúng đắn nhất trong việc tiếp nhận
lời nói và trong việc phát triển vai trò của kỹ năng giao tiếp bằng lời. Trẻ khiếm
thính hiếm khi điếc hoàn toàn và với những tiến bộ về mặt kỹ thuật như máy trợ
thính, cấy điện cực ốc tai, phần lớn trẻ khiếm thính đủ năng lực tiềm tàng để có
thể tận dụng sức nghe còn lại.
Những yếu tố cơ bản của can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính:
- Vai trò của phụ huynh: Cha mẹ và trẻ có mối quan hệ mật thiết từ đó hình
thành các mối quan hệ thân thiết giữa các thành viên trong gia đình. Phụ huynh
và trẻ cùng chung sống dưới một mái nhà nên phụ huynh là người hiểu trẻ nhanh

4
nhất, nắm bắt chính xác nhất những nhu cầu mà trẻ muốn nói. Đây là một điều
kiện thuận lợi cho trẻ giao tiếp bằng lời. Là người có nhiều cơ hội trò chuyện
với trẻ. Phụ huynh và trẻ là người gắn bó với nhau suốt đời (giáo viên, những
người hướng dẫn chỉ có thể chơi với trẻ trong thời gian nào đó mà thôi).
- Vai trò của giáo viên can thiệp sớm: Giáo viên là người cung cấp kiến thức và
kỹ năng cho phụ huynh về các kỹ năng giao tiếp bằng lời cho trẻ. Hướng dẫn
cha mẹ giúp đỡ con mình chứ không phải là người trực tiếp dạy trẻ.
4. Thực trạng công tác can thiệp sớm trẻ khiếm thính trước khi áp dụng
các biện pháp phát triển kỹ nghe nói:
Tại Trung tâm Nuôi dạy Trẻ khuyết tật Đồng Nai có nhận dạy trẻ khiếm
thính can thiệp sớm. Các giáo viên đều xác định mục tiêu dạy can thiệp sớm cho
trẻ khiếm thính là phát triển kỹ năng nghe nói. Tuy nhiên vẫn chưa đạt kết quả
cao trong việc giúp trẻ khiếm thính phát triển kỹ năng nghe nói.
Giáo viên hướng dẫn phụ huynh theo hình thức tư vấn và làm mẫu cách
dạy trẻ cho phụ huynh quan sát mà chưa giúp phụ huynh nắm vững các chiến
lược dạy nghe nói cho trẻ.
Phụ huynh tham gia chương trình can thiệp sớm thường thiếu kiến thức về
khuyết tật của con mình, chưa có sự phối hợp nhịp nhàng với giáo viên. Đa số
phụ huynh quan niệm khi tham gia chương trình can thiệp sớm là cơ hội để trẻ
được giáo viên dạy nói. Phụ huynh chưa hiểu rõ rằng chính họ là người học cách
để về nhà dạy cho trẻ.
Để phát triển kỹ năng nghe nói cho trẻ khiếm thính là công việc không hề
đơn giản, không thể thành công trong một thời gian ngắn. Nó là một quá trình
lâu dài yêu cầu giáo viên phải lên kế hoạch hướng dẫn phụ huynh để phụ huynh
sẽ trở thành một giáo viên giỏi ở nhà.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP
Từ cơ sở lí luận và thực tiễn trên, tôi đưa ra một số biện pháp để phát triển
kỹ năng nghe nói cho trẻ khiếm thính can thiệp sớm như sau:
1. Biện pháp 1: Tìm hiểu về khả năng nghe nói của trẻ khiếm thính can

thiệp sớm
Điều đầu tiên cần làm khi nhận can thiệp cho bất kì trẻ khiếm thính nào,
giáo viên phải xác định được khả năng hiện tại trẻ. Mỗi đứa trẻ sẽ đạt được
những kỹ năng khác nhau, đặc biệt là kỹ năng nghe nói của trẻ khiếm thính
không phát triển theo độ tuổi của trẻ. Để xác định được tuổi lắng nghe của trẻ
khiếm thính, chúng ta thực hiện bằng cách:
- Quan sát trực tiếp trẻ: Giáo viên quan sát cách trẻ chơi, cách trẻ giao tiếp với
phụ huynh để ghi lại những khả năng trẻ đã đạt được.
- Thu thập thông tin từ gia đình: Tôi trao đổi trực tiếp với những người thân
trong gia đình để thu thập thông tin về quá trình phát triển của trẻ từ nhỏ, trẻ đã
phản ứng như thế nào với âm thanh, trẻ đã nói được những từ nào, về sở thích
của trẻ.
5
- Sử dụng bảng đánh giá sự phát triển tuổi lắng nghe: Đánh giá sự phát triển
của trẻ khiếm thính về khả năng thính giác (nghe) có nhận biết âm thanh, trò
chuyện, nghe yếu tố then chốt; khả năng lời nói gồm có phát âm và âm vị; khả
năng ngôn ngữ có ngôn ngữ diễn đạt và ngôn ngữ tiếp nhận, khả năng về nhận
thức.
Độ tuổi thực tế của trẻ khiếm thính không phải là tuổi lắng nghe của trẻ, đa
số trẻ khiếm thính bắt đầu tham gia can thiệp sớm tại Trung tâm đều ở mức tuổi
lắng nghe thứ nhất của trẻ bình thường.
Ví dụ: Ngô Thị Tường Vy sinh năm 2011, ngày bắt đầu tham gia can thiệp
sớm tháng 1/2013. Trẻ được 2 tuổi nhưng khi xác định tuổi lắng nghe của trẻ
theo bảng đánh giá các năm phát triển thì trẻ chỉ đạt ở mức bắt đầu của tuổi lắng
nghe năm thứ nhất. Điều này có nghĩa là Tường Vy có khả năng nghe và nói chỉ
bằng một đứa trẻ bình thường bắt đầu bước vào 1 tuổi. Những kỹ năng mà trẻ
đạt được sẽ đánh dấu, những kỹ năng chưa đạt được đánh dấu sẽ là những mục
tiêu mà giáo viên cần lên kế hoạch để can thiệp cho trẻ.
Ngoài ra, trong suốt thời gian can thiệp cho trẻ, giáo viên nên thực hiện đánh
giá trẻ thường xuyên. Việc đánh giá trẻ giúp giáo viên biết được khả năng của

trẻ để lên kế hoạch cho phù hợp, để giáo viên biết bắt đầu dạy trẻ từ đâu, có thể
tìm ra phương thức dạy trẻ hiệu quả nhất, có sự điều chỉnh cho phù hợp với khả
năng của trẻ.
2. Biện pháp 2: Tạo môi trường lắng nghe cho trẻ khiếm thính
- Thiết kế một phòng học yên tĩnh: Giáo viên nên sắp xếp, trang trí lớp nhằm
làm lớp học thêm sinh động và giúp giảm âm nền để trẻ đeo máy trợ thính
không bị chói tai vì tiếng ồn. Giáo viên có thể dùng vải để phủ các vật có mặt
phẳng bóng như mặt bàn; treo tranh lên tường; phòng học cách âm phải được
đóng cửa, hạn chế những tiếng ồn xung quanh; treo rèm ở cửa kính.
- Sắp xếp chỗ ngồi hợp lí: Vị trí ngồi giữa giáo viên, phụ huynh và trẻ rất
quan trọng để đẩm bảo trẻ tập trung lắng nghe và học nói. Cho trẻ ngồi vào bàn,
giáo viên và phụ huynh ngồi hai bên lùi về phía sau của trẻ để trẻ không nhìn
được miệng của chúng ta mà chỉ chú ý lắng nghe.
6
Hình: Sắp xếp chỗ ngồi hợp lí
- Gần và yên lặng: Đến gần nếu như trẻ không nghe chúng ta nói, đừng nói lớn
hơn mà hãy đến gần hơn với trẻ.
3. Biện pháp 3: Sử dụng trò chơi để dạy trẻ khiếm thính nghe nói
Đối với trẻ nhỏ, hoạt động vui chơi mới chính là cuộc sống thực của trẻ.
Cho nên, muốn dạy trẻ cần thực hiện bằng hình thức “học mà chơi, chơi mà
học”. Trẻ khiếm thính cũng như các trẻ em bình thường khác, trẻ cũng cần được
chơi, cần được tận hưởng niềm vui thú trong các trò chơi, được lớn lên cả thể
chất và trí tuệ qua các trò chơi, vui chơi là cơ hội rất tốt để trẻ học ngôn ngữ.
Bởi vậy trong công tác can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính thì chơi với trẻ là một
kỹ năng quan trọng của giáo viên, phụ huynh và những người chăm sóc trẻ.
Thông qua trò chơi sẽ giúp trẻ học nghe nói một cách tích cực, chủ động.
Ví dụ: Dạy trẻ tên một số loại quả, nếu giáo viên lấy hình của từng loại quả
cho trẻ xem và nói “đây là quả táo” hoặc “quả táo” thì trẻ sẽ cảm thấy nhàm
chán, việc học nói với trẻ là sự ép buộc có thể làm trẻ không muốn nói.
Giáo viên nên tổ chức trò chơi “Đi chợ” chuẩn bị những quả nhựa để thành

quầy bán trái cây. Giáo viên là người bán hàng, trẻ đi theo mẹ đi chợ mua hàng.
Trẻ sẽ chọn quả mà trẻ muốn mua, mẹ sẽ nói “quả táo” để trẻ nghe và lặp
lại, giáo viên sẽ nhắc lại “Con muốn mua quả táo à!” hoặc “Đây là quả táo của
con” rồi mới cho trẻ bỏ quả táo vào giỏ.
Cứ như thế trẻ sẽ mua được nhiều loại trái cây và nói được tên của từng quả,
trẻ cảm thấy rất thú vị khi đang học nghe nói một cách tự nhiên, có ý nghĩa hơn.
Ví dụ: Dạy trẻ phát âm bắt chước những nguyên âm xen kẽ (u, a, o).
Để giúp cho hoạt động học phát âm của trẻ thêm sinh động làm trẻ thích thú
khi nói thì giáo viên sẽ cho trẻ chơi với đất sét. Khi lăn tròn đất sét thì phát âm
o, khi ấn đất sét thì phát âm a, lăn dài đất sét phát âm u. Giáo viên, phụ huynh và
trẻ thực hiện luân phiên.
4. Biện pháp 4: Làm mẫu, lặp lại nhiều lần, tạm dừng và chờ đợi
Chúng ta không thể yêu cầu trẻ làm điều gì đó mà trẻ chưa biết cũng như
chưa được người khác làm mẫu. Giáo viên nhờ phụ huynh làm mẫu để cho trẻ
thấy điều gì trẻ cần nói hoặc phụ huynh nhờ giáo viên làm mẫu. Ở trong gia
đình, các thành viên có thể thay phiên nhau làm mẫu cho trẻ dễ dàng thực hiện
một yêu cầu.
Ví dụ: Giáo viên dạy trẻ nói từ “xe”, hoạt động này diễn ra với xe ô tô, xe tải
và những chướng ngại vật. Giáo viên làm mẫu trước “xe chạy nhanh”, phụ
huynh nói “xe chạy nhanh”, sau đó đưa xe cho trẻ để trẻ thực hiện và nói “xe
chạy nhanh” hoặc trẻ chỉ nói 1 từ “xe”. Điều này giúp trẻ biết phải làm gì, nghe
thông tin nhiều lần và thực hiện.
Phần lớn các âm thanh, bao gồm cả âm lời nói không chỉ được nghe rất
nhỏ mà còn bị nhiễu ở một mức độ nhất định nào đó nữa, nên trẻ khiếm thính
phải có cơ hội nghe âm thanh nhiều lần trong những tình huống có ý nghĩa để trẻ
7
có thể học nhận ra và hiểu âm thanh. Lặp lại những từ đó hết lần này đến lần
khác, nhấn mạnh giọng khi lặp lại từ mà chúng ta đang cần dạy trẻ.
Ví dụ: Dạy động từ “chải” có thể lặp lại bằng các câu theo hành động tương
ứng (chải răng của con, chải tóc của con, đến giờ chải răng rồi, chải răng rồi đi

ngủ). Sự lặp lại phải có ý nghĩa bằng cách nói nhiều câu để nhấn mạnh từ cần
lặp đi lặp lại, chứ không phải nói một từ duy nhất mà lặp lại nhiều lần.
Sau khi giáo viên hoặc phụ huynh đã cung cấp thông tin cho trẻ làm theo
hoặc từ mới để nói, hãy chờ cho trẻ thời gian nghĩ về điều mà trẻ cần làm.
Chúng ta không nói liên tục nhiều lần mà nói rồi tạm dừng cho trẻ có cơ hội nói.
Nhìn trẻ với ánh mắt mong đợi, khi giáo viên và phụ huynh đã làm mẫu đưa ra
từ mới hoặc yêu cầu trẻ làm một việc gì đó mà chúng ta biết trẻ có thể làm hoặc
nghĩ trẻ có thể làm thì hãy nhìn trẻ và cười ý nghĩa “cô đang chờ con làm đó”.
Một vẻ mặt dò hỏi, nhìn trẻ như là chúng ta muốn trẻ trả lời hoặc làm theo
hướng dẫn với một nụ cười và chờ đợi trẻ.
Ví dụ: Dạy trẻ từ “ăn” qua trò chơi dọn bàn ăn.
Giáo viên nói “Cô ăn cơm” phụ huynh nói “Mẹ ăn trứng” rồi tạm dừng và
chờ đợi đến lượt trẻ nói. Khi chúng ta nói xong và tạm dừng sẽ tạo điều kiện cho
trẻ có cơ hội nói, trẻ biết mình cần phải nói gì đó trong tình huống này. Có thể
lúc đầu trẻ chưa nói được cả câu nhưng chỉ cần trẻ nói được từ “ăn” là giáo viên
và phụ huynh mở rộng và lặp lại câu “Con ăn cơm”.
5. Biện pháp 5: Chiến lược “Lát bánh thính giác”
Chiến lược “Lát bánh thính giác” là một kỹ thuật được dùng để kiểm tra sự
hiểu, để làm cho thông tin thính giác dễ chú ý hơn, để cung cấp sự lặp lại và để
ưu tiên kích thích thính giác. Chiến lược này thực hiện theo quy luật lắng nghe,
nhìn, lắng nghe. Luôn ưu tiên nói hoặc tạo ra âm thanh cho trẻ nghe trước rồi
mới cho trẻ xem, sau đó lặp lại lần nữa cho trẻ nghe. Chiến lược này chỉ sử dụng
khi trẻ nghe không hiểu yêu cầu để thực hiện hoặc nghe nhưng không lặp lại
được từ nào đó.
Cách thức thực hiện như sau:
- Đầu tiên đưa thông tin thính giác ra trước.
- Tạm dừng để chờ sự đáp ứng hoặc kiểm tra sự hiểu.
- Cung cấp những thông tin thị giác (dấu hiệu, hình ảnh, đồ vật).
- Lại đưa thông tin thính giác giống như thế ra nữa.
Ví dụ: Dạy trẻ thực hiện theo yêu cầu “Lấy cho cô cái ly” trong đó có cái ly,

cái muỗng, cái bát. Đầu tiên giáo viên sẽ nói cho trẻ nghe “Con hãy lấy cho cô
cái ly”. Trẻ không biết sự khác nhau bởi chỉ nghe cô nói thôi, lúc này giáo viên
sẽ chỉ trực tiếp vào cái ly rồi nói “Con hãy lấy cho cô cái ly”.
Sau đó giáo viên nói lại một lần nữa “Con hãy lấy cho cô cái ly” cho trẻ
nghe mà không chỉ vào đồ vật và trẻ đã thực hiện được yêu cầu.
6. Biện pháp 6: Làm nổi bật âm thanh cần nghe, ưu tiên cho việc lắng nghe
trước
8
Trẻ khiếm thính khi được đeo máy trợ thính thì âm thanh được khuếch đại
lên rất nhiều lần tùy theo mức độ mất thính lực của trẻ. Mặc dù được đeo máy
hỗ trợ nhưng trẻ cũng không thể nghe được như trẻ bình thường, trẻ sẽ gặp nhiều
khó khăn khi nghe lời nói. Do đó, khi muốn trẻ nghe tốt thì ta cần nhấn mạnh từ
muốn dạy, nhấn mạnh âm thanh, nhấn mạnh các từ hoặc cụm từ mà đứa trẻ đã
bỏ lỡ trong khi nói. Làm nổi bật âm thanh rất quan trọng trong việc dạy trẻ
khiếm thính học nghe nói, có thể là nhấn giọng nói lớn hơn hoặc nói thì thầm ở
từ cần trẻ nghe, khi trẻ nghe được thì sẽ bắt chước nói được.
Ví dụ: Dạy trẻ nghe nhận biết hai yếu tố quan trọng là danh từ và danh từ về
tên một số con vật nuôi trong gia đình.
Giáo viên nói để trẻ nghe và thực hiện yêu cầu “Lấy cho cô con mèo và con
bò”, giáo viên sẽ làm nổi bật âm thanh bằng cách nói cả câu mà chỉ nhấn giọng
nói lớn hơn ở từ “con mèo” và từ “con bò”. Khi có sự nhấn giọng như vậy, trẻ sẽ
dễ dàng nghe được hai yếu tố quan trọng cần thực hiện.
Trẻ khiếm thính cần rất nhiều luyện tập bắt chước và nói những gì nghe
được, không phải thấy được. Bằng cách giúp trẻ tập nói lặp đi lặp lại với những
phương pháp thú vị, lời nói của trẻ có thể cải thiện cũng như trẻ học cách nghe
những gì trẻ nói và người khác nói để điều chỉnh giọng nói của mình. Chính vì
vậy, khi trẻ khiếm thính được đeo máy trợ thính thì chúng ta phải luôn ưu tiên
dạy trẻ lắng nghe trước. Nói cho trẻ nghe âm thanh đó trước rồi mới cho trẻ
nhìn.
Ví dụ: Dạy trẻ từ “xe ô tô”. Giáo viên để đồ chơi xe ô tô trong hộp, trẻ

không thể nhìn thấy đồ chơi. Trước khi lấy đồ chơi ra cho trẻ chơi thì giáo viên
sẽ nói cho trẻ nghe là “Trong hộp này có chiếc xe ô tô, con có thể lái nó, ba mẹ
có thể lái nó, chở nhiều hàng hóa về nhà”, tạo sự thích thú khi nói về chiếc xe ô
tô. Sau đó gọi tên “xe ô tô” một lần nữa cho trẻ nghe rồi mới lấy nó ra cho trẻ
chơi.
7. Biện pháp 7: Phát triển kỹ năng nghe nói thông qua những thói quen
hằng ngày
Áp dụng thực tế, thói quen và kinh nghiệm tự nhiên để trẻ học lắng nghe
và làm theo hướng dẫn. Nghĩ về những hướng dẫn trẻ cần làm theo ở nhà và với
bạn bè trẻ, điều nào có ích hơn cho trẻ hơn để trẻ hiểu và thực hiện.
Khi lên kế hoạch cho tiết cá nhân, giáo viên hãy nghĩ về điều bạn làm trong
tiết cá nhân và những điều đó được sử dụng như thế nào trong thế giới của trẻ là:
Trẻ thích làm gì? Chuyện gì sẽ xảy ra ở nhà của trẻ? Trẻ thích ăn gì? Trẻ làm gì
với bạn của chúng? Nghĩ về những đồ chơi và vật liệu bạn dùng. Đồ vật thật,
sách, đồ chơi, viết màu, giấy là những thứ hữu ích và thực tế hơn những thẻ
hình, trò chơi điện tử và ti vi.
Thực tế dạy trẻ thông qua các thói quen hằng ngày, tôi thấy trẻ học nói rất
nhanh và sau mỗi hoạt động tôi đều làm một quyển sách kinh nghiệm để lưu lại
một kinh nghiệm hay từ thực tế quan sát được. Sách kinh nghiệm có thể do giáo
9
viên tự vẽ hình minh họa hay sử dụng hình chụp, phần lời cần đơn giản và liên
hệ trực tiếp với phần minh họa.
Ví dụ: Từ hoạt động thực tế ở nhà mẹ vắt cam cho trẻ uống hằng ngày, giáo
viên dạy trẻ nói một số từ (quả cam, cắt, vắt, khuấy, uống) qua hoạt động vắt
nước cam.
Giáo viên chuẩn bị quả cam thật và những dụng cụ cần thiết để vắt cam.
Giáo viên cùng với phụ huynh và trẻ thực hiện theo đúng quy trình vắt cam mà
mẹ làm ở nhà. Sau khi dạy trẻ xong, giáo viên sẽ làm một quyển sách kinh
nghiệm vẽ lại tiến trình về hoạt động vắt cam.
8. Biện pháp 8: Đọc truyện cho trẻ nghe giúp trẻ khiếm thính phát triển

kỹ năng nghe nói
Đọc truyện nhiều cho trẻ nghe rất quan trọng cho việc phát triển vốn từ
ngôn ngữ cũng như cho việc phát triển các kỹ năng đọc cơ bản. Nên đọc cho trẻ
nghe mỗi ngày, mỗi quyển truyện đọc đi đọc lại nhiều lần. Tùy theo độ tuổi của
trẻ mà giáo viên sẽ chọn quyển truyện có nội dung phù hợp. Khi đọc truyện cho
trẻ nghe cần chú ý đến giọng đọc, nếu đọc với giọng đều đều thì trẻ khiếm thính
không thể nghe được để học nói. Giáo viên cần hướng dẫn phụ huynh đọc nhấn
giọng ở những yếu tố cần dạy trẻ nói, giọng đọc có ngữ điệu lên xuống.
Ví dụ: Với trẻ đang ở tuổi lắng nghe năm thứ nhất thì giáo viên chọn những
quyển truyện có câu lặp đi lặp lại thường xuyên như truyện “Nhổ củ cải”. Khi
đọc truyện này cho trẻ nghe, giáo viên chỉ tập trung vào mục tiêu dạy trẻ các
danh từ “ông, bà, cháu, chó, mèo, chuột” và động từ “nhổ”.
Đọc truyện theo hình minh họa chứ không bắt buộc đọc hết tất cả các nội
dung mà sách đã in, cụ thể theo tranh minh họa có câu “Bà chạy ra túm áo ông,
ông nắm cây cải, nhổ mãi nhổ mãi vẫn không được. Bà gọi cháu gái: Cháu gái
ơi! Mau lại đây! Mau giúp bà nhổ củ cải nào”. Giáo viên tóm tắt lại một câu
ngắn gọn “Ông và bà đang nhổ củ cải” hoặc “Bà gọi cháu ra giúp nhổ củ cải”.
Giáo viên hướng dẫn phụ huynh đọc với giọng truyền cảm và nhấn giọng ở
các từ cần dạy trẻ “ông, bà, cháu, nhổ” thì lúc đó trẻ nghe và nói được những từ
được nhấn giọng.
9. Biện pháp 9: Hướng dẫn phụ huynh dạy trẻ
Một tiết học can thiệp sớm kéo dài một giờ bao gồm nhiều hoạt động khác
nhau nhằm hướng dẫn phụ huynh cách dạy trẻ tại nhà. Giáo viên hướng dẫn phụ
huynh bằng cách dạy phụ huynh thực hành trên trẻ. Cụ thể một giờ học cá nhân
gồm các bước như sau: Trò chuyện với phụ huynh để tìm hiểu những thông tin
phụ huynh đã dạy trẻ những gì ở nhà và kết quả như thế nào. Phụ huynh kiểm
tra máy trợ thính cho trẻ. Sau đó giáo viên nói về những mục tiêu trong buổi học
hôm nay và thực hành những hoạt động về những mục tiêu đó. Cuối tiết học là
trò chuyện với phụ huynh và dặn dò bài về nhà.
- Kiểm tra những hoạt động tại gia đình và ghi nhận kết quả:

Mục đích của việc làm này để giáo viên nắm được về nhà phụ huynh đã
dạy trẻ như thế nào và trẻ học được những gì ở nhà.
10
Ví dụ: Giáo viên hỏi phụ huynh “Sau tiết học lần trước ở nhà anh/chị đã dạy
bé những gì?” Nếu phụ huynh nói được những hoạt động mà phụ huynh đã được
hướng dẫn ở tiết học trước thì giáo viên dùng những từ ngữ đánh giá sự hợp tác
tốt của phụ huynh.
Giáo viên đặt câu hỏi và ghi chép lại mọi thông tin theo các mục cụ thể:
Anh/chị đã dạy trẻ những gì ở nhà và dạy như thế nào? Anh/chị đã vận dụng
những chiến lược nào để dạy nghe nói cho trẻ? Trẻ đã học được những gì?
- Kiểm tra máy trợ thính cho trẻ:
Để trẻ nghe được bắt buộc trẻ phải đeo máy trợ thính. Bắt đầu tiết dạy, giáo
viên yêu cầu phụ huynh kiểm tra máy trợ thính để đảm bảo máy đang hoạt động
tốt. Kiểm tra 6 âm Ling (m, u, a, i, s, x) xem trẻ có phát hiện được 6 âm đó là
những âm nằm trong phổ lời nói khi nghe.
Hướng dẫn phụ huynh kiểm tra máy trợ thính bằng 6 âm Ling:
Trẻ 6 tháng tuổi đến 18 tháng tuổi: Cho trẻ ngồi trong một chiếc ghế cao.
Giáo viên cho trẻ chơi đồ chơi, phụ huynh sẽ đứng phía sau trẻ và phát âm 6 âm
Ling một cách riêng lẻ. Giáo viên quan sát bất kỳ sự thay đổi nào trong hành vi
của trẻ chỉ ra rằng trẻ đã nghe thấy những âm thanh trình bày (quay đầu, chuyển
dịch mắt).
Trẻ 18 tháng tuổi trở lên: Bắt đầu ngồi cách xa trẻ khoảng 30 – 40cm và
khuyến khích trẻ để thả một đồ chơi hoặc gắn khối gỗ vào cột khi trẻ nghe được
từng âm Ling
Hình: Phụ huynh kiểm tra máy trợ thính cho trẻ
Giáo viên yêu cầu phụ huynh phải thực hiện việc kiểm tra máy trợ thính cho
trẻ hằng ngày ở nhà cũng như những buổi tham gia tiết học can thiệp sớm.
- Hướng dẫn phụ huynh thực hành các hoạt động:
Mỗi buổi học giáo viên sẽ dạy từ hai hoạt động trở lên tùy theo khả năng
của trẻ. Giáo viên ghi nhớ là luôn phải nói về mục tiêu trước khi thực hiện một

hoạt động nào đó. Cho phụ huynh biết giáo viên đang chuẩn bị làm gì với trẻ và
tại sao điều đó lại quan trọng. Giáo viên dạy phụ huynh cách thực hiện chiến
lược bằng cách làm mẫu một vài lần. Sau đó, giáo viên để đến lượt phụ huynh
thực hiện chiến lược với hoạt động đó. Giáo viên có thể nói “Tôi sẽ làm rồi sau
đó đến lượt anh/chị” hoặc “Tôi sẽ làm mẫu những gì cần phải làm và sau đó
11
anh/chị làm như vậy”. Khi phụ huynh thực hiện các hoạt động với trẻ thì giáo
viên có thể đưa ra các gợi ý, nói thì thầm với phụ huynh những gì giáo viên
muốn phụ huynh nói hoặc làm với trẻ.
Ví dụ: Dạy trẻ từ chỉ 2 bộ phận của cơ thể.
+ Giáo viên nói cho phụ huynh biết về:
Mục tiêu: Giúp trẻ hiểu và sử dụng từ chỉ tên 2 bộ phận cơ thể.
Chiến lược cho việc dạy nghe nói: Làm mẫu, làm nổi bật âm thanh cần nghe,
lặp lại nhiều lần, chờ đợi và tạm dừng.
Hoạt động: Chơi với búp bê.
+ Giáo viên làm mẫu hoạt động: Đầu tiên giáo viên nhờ phụ huynh làm mẫu,
xem như phụ huynh là trẻ trong tiết cá nhân.
Giáo viên nói: “Mẹ ơi, hãy kẹp tóc cho búp bê”.
Mẹ nói: “Ừ, mẹ sẽ kẹp tóc cho búp bê”.
Giáo viên nói: “Mẹ đã kẹp tóc cho búp bê rồi”.
Giáo viên với trẻ: “Con hãy kẹp tóc cho búp bê đi”. Chờ đợi trẻ làm theo như
phụ huynh đã làm kẹp tóc cho búp bê. Khi trẻ làm được thì giáo viên củng cố
thông tin “Con đã kẹp tóc cho búp bê rồi”. Nếu trẻ không thực hiện được thì phụ
huynh cùng làm với trẻ, làm mẫu và sử dụng lại những từ và cụm từ lúc nãy để
trẻ nghe thông tin mới thường xuyên.
+ Phụ huynh thực hiện: Giáo viên yêu cầu phụ huynh thực hiện lại hoạt động
theo những gì giáo viên đã làm mẫu.
Hình: Hướng dẫn phụ huynh dạy trẻ
- Trò chuyện với phụ huynh và dặn dò bài về nhà: Mục đích của việc làm
này để giáo viên chắc rằng phụ huynh đã nắm được bài học trong tiết học cá

nhân và giúp phụ huynh nhớ những việc mình cần làm khi về nhà.
Ví dụ: Giáo viên có thể đặt câu hỏi, yêu cầu phụ huynh trả lời và ghi chép
lại các thông tin như sau:
+ Hôm nay chúng ta đã thực hiện những mục tiêu, chiến lược và hoạt động
nào?
12
+ Anh/chị có thể làm được gì ở nhà và trong những hoạt động khác của gia
đình để giúp trẻ đạt được mục tiêu đã đề ra?
+ Anh/chị sẽ thực hiện những mục tiêu ở nhà tuần này như thế nào?
IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
Qua hơn một năm học mạnh dạn triển khai “Một số biện pháp phát triển
kỹ năng nghe nói cho trẻ khiếm thính can thiệp sớm” trong giờ dạy can thiệp
sớm tôi nhận được một số kết quả khả quan như sau:
- Trẻ phát triển kỹ năng nghe nói, các kỹ năng chơi và nhận thức.
- Trẻ biết chú ý lắng nghe và đạt được hết các kỹ năng ở năm lắng nghe thứ nhất
bước sang năm lắng nghe thứ hai.
- Phụ huynh chấp nhận được khuyết tật của con mình và nắm vững được phương
pháp dạy trẻ theo hướng nghe nói.
- Phụ huynh tích cực tham gia vào giờ học, thực hiện đầy đủ các bài tập về nhà.
- Kết quả khảo sát ban đầu về khả năng nghe nói của trẻ ở năm lắng nghe thứ
nhất mà tôi thực hiện năm học 2013 – 2014:
Khả
năng
Thính giác (Nghe) Lời nói Ngôn ngữ
Nhận biết
âm thanh
Trò
chuyện
Thành tố
then chốt

Âm vị
Phát
âm
Tiếp
nhận
Diễn
đạt
Mức độ
đạt
30% 20% 20% 50% 40% 20% 10%
- Kết quả sau một năm tham gia can thiệp sớm về khả năng nghe nói của trẻ ở
năm lắng nghe thứ nhất năm học 2013 – 2014:
So sánh kết quả trước và sau khi thực hiện các giải pháp tôi nhận thấy trẻ
tiến bộ nhiều về khả năng nghe nhận biết âm thanh, khả năng trò chuyện nghe
trả lời câu hỏi thông thường với sự hỗ trợ của ngữ cảnh (Đó là cái gì? Mẹ đâu
rồi?), nghe nhận biết hai thành tố then chốt (danh từ và danh từ). Trẻ tiến bộ rõ
về lời nói, phát âm được hết các nguyên âm. Về ngôn ngữ, trẻ tiến bộ nhiều về
ngôn ngữ diễn đạt.
Với kết quả đạt được qua áp dụng kinh nghiệm trẻ khiếm thính can thiệp
sớm, tôi muốn góp phần nhỏ vào việc giúp trẻ khiếm thính phát triển kỹ năng
nghe nói.
V. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
13
Khả
năng
Thính giác (Nghe) Lời nói Ngôn ngữ
Nhận biết
âm thanh
Trò
chuyện

Thành tố
then chốt
Âm vị
Phát
âm
Tiếp
nhận
Diễn
đạt
Mức
độ đạt
90% 70% 70% 90% 90% 70% 80%
Phát triển kỹ năng nghe nói cho học sinh khiếm thính rất quan trọng, do hạn
chế về khả năng nghe nói nên các em gặp khó khăn trong quá trình học tập, nhất
là học ngôn ngữ. Trong đề tài nghiên cứu này, tôi đã nêu lên một số biện pháp
phát triển kỹ năng nghe nói cho trẻ khiếm thính can thiệp sớm để khắc phục
những hạn chế về nghe nói để trẻ có cơ hội được học hòa nhập với trẻ bình
thường.
 Đối với giáo viên dạy can thiệp sớm trẻ khiếm thính:
- Giáo viên phải có kiến thức thật vững chắc về trẻ khuyết tật nói chung và trẻ
khuyết tật mà mình đang phụ trách giảng dạy nói riêng.
- Giáo viên cần đầu tư làm nhiều đồ dùng dạy học phong phú, tổ chức giờ học
phù hợp với trẻ lứa tuổi mầm non.
- Giáo viên cần xác định được trẻ khiếm thính đang ở tuổi lắng nghe nào mà có
kế hoạch can thiệp phù hợp.
- Giáo viên cần lên kế hoạch cho mỗi tiết dạy và yêu cầu phụ huynh tham gia
vào tiết dạy đó.
- Giáo viên hướng dẫn phụ huynh từng hoạt động và chiến lược cho việc dạy
nghe nói cụ thể, giúp phụ huynh nắm vững cách dạy trẻ.
 Đối với phụ huynh:

- Phụ huynh thường xuyên đưa trẻ đi kiểm tra thính lực định kì 6 tháng/1 lần.
Phụ huynh cần phải đeo máy trợ thính cho trẻ liên tục vào thời gian ở nhà.
- Phụ huynh cho trẻ tham gia các buổi can thiệp sớm đều đặn 2 buổi/1 tuần.
- Phụ huynh cần phải thực hiện mỗi ngày các bài tập mà giáo viên đã hướng dẫn.
- Phụ huynh ghi chép lại những tiến bộ của trẻ trong suốt quá trình can thiệp trên
lớp cũng như ở nhà.
 Đối với Ban Giám đốc:
- Đầu tư nhiều hơn về cơ sở vật chất cho phòng can thiệp sớm.
- Thường xuyên tổ chức các lớp giao lưu, học tập kinh nghiệm với các trường
chuyên biệt, trường hòa nhập, trường phổ thông.
- Xây dựng tủ sách tham khảo về các dạng tật của học.
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hỏi – Đáp về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật ở Việt Nam – Viện KHGD
Việt Nam, Trung tâm Tật học – NXB Chính trị quốc gia Hà Nội – 1999.
2. Giáo trình tâm lí trẻ Khiếm thính – GS.TS Nguyễn Quang Uẩn – Đại học
Sư phạm – 2004.
3. Bảng đánh giá tuổi lắng nghe của trẻ Khiếm thính – Lillian Henderson –
Quỹ toàn cầu dành cho trẻ Khiếm thính – 2012.
4. Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ giáo dục cho trẻ khiếm thính học nghe nói –
Quỹ toàn cầu dành cho trẻ Khiếm thính – 2013.
Biên HKa, ngày 14 tháng 4 năm 2014
NGƯỜI THỰC HIỆN
14
Đinh Ngọc Vân
15
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TT NUÔI DẠY TRẺ KHUYẾT TẬT
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Biên Hoà, ngày tháng năm 2014

PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2013- 2014
Tên sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp phát triển kỹ năng nghe nói cho trẻ
khiếm thính can thiệp sớm.
Họ và tên tác giả: ĐINH NGỌC VÂN. Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Tổ Chuyên môn (Tiểu học)
Lĩnh vực/Môn nghiên cứu: Giáo dục khuyết tật
- Quản lý giáo dục - Phương pháp dạy học:
- Phương pháp giáo dục - Lĩnh vực khác:……………………………
Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị Trong Ngành
1. Tính mới
- Đề ra giải pháp thay thế hoàn toàn mới, bảo đảm tính khoa học, đúng đắn.
- Đề ra giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, bảo đảm tính khoa học, đúng
đắn.
- Giải pháp mới gần đây đã áp dụng tại đơn vị khác nhưng chưa từng áp dụng ở đơn
vị mình nay tác giả tổ chức thực hiện và có hiệu quả cho đơn vị.
2. Hiệu quả
- Giải pháp thay thế hoàn toàn mới, đã được thực hiện trong toàn ngành có hiệu quả
cao.
- Giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, đã được thực hiện trong toàn ngành
có hiệu quả cao.
- Giải pháp thay thế hoàn toàn mới, đã thực hiện tại đơn vị có hiệu quả cao.
- Giải pháp thay thế một phần giải pháp đã có, đã thực hiện tại đơn vị có hiệu quả
cao.
- Giải pháp mới gần đây đã áp dụng tại đơn vị khác nhưng chưa từng áp dụng ở đơn
vị mình nay tác giả tổ chức thực hiện và có hiệu quả cho đơn vị.
3. Khả năng áp dụng
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách:
Trong tổ/Phòng /Ban Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐT Trong ngành
- Đưa ra giải pháp kiến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện, dễ di vào

cuộc sống:
Trong tổ/Phòng /Ban Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐTTrong ngành
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả
trong phạm vi rộng:
Trong tổ/Phòng /Ban Trong cơ quan, đơn vị, cơ sở GD&ĐT Trong ngành
Xếp loại chung: Xuất sắc Khá Đạt Không xếp loại
NGƯỜI THỰC HIỆN SKKN XÁC NHẬN CỦA TỔ THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
CHUYÊN MÔN
16

×