Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

một số biện pháp phát triển kỹ năng hợp tác cho trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi trong trò chơi đóng vai theo chủ đề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 133 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Bùi Thị Xuân Lụa

MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG HỢP TÁC
CHO TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI TRONG TRÒ CHƠI
ĐÓNG VAI THEO CHỦ ĐỀ

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Bùi Thị Xuân Lụa

MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG HỢP TÁC
CHO TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI TRONG TRÒ CHƠI
ĐÓNG VAI THEO CHỦ ĐỀ

Chuyên ngành : GIÁO DỤC HỌC (GDMN)
Mã số
: 60 14 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. HUỲNH VĂN SƠN

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các công trình khác.

Người Cam đoan

1


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn này, tôi đã nhận được sự
hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của quý thầy cô trường Đại học Sư phạm
thành phố Hồ Chí Minh.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Trường Đại Học Sư Phạm Thành phố
Hồ Chí Minh đặc biệt là những thầy cô khoa Giáo dục Mầm non và những thầy cô đã
tận tình giảng dạy cho tôi trong suốt thời gian học tập tại trường.
Bằng tấm lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn đến
PGS.TS. Huỳnh Văn Sơn, người thầy đã hết lòng quan tâm, giúp đỡ tận tình, hướng
dẫn nghiên cứu tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin cảm ơn quý thầy cô phòng Sau đại học đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong
quá trình học và thực hiện luận văn.
Đồng thời tôi cũng xin cảm ơn Ban giám hiệu, giáo viên trường Mầm non 6,
Mầm non 12 quận 3 đã tạo điều kiện cho tôi khảo sát để hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng đánh giá luận văn đã cho tôi
những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn.

Tác giả


Bùi Thị Xuân Lụa

2


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 5
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................................5
2. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................................7
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu ..............................................................................7
4. Giả thuyết khoa học ........................................................................................................7
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .....................................................................................................7
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu ...................................................................................8
7. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................................8
8. Những đóng góp mới của đề tài .....................................................................................9
9. Cấu trúc của luận văn ....................................................................................................9

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG HỢP TÁC CỦA
TRẺ MG 5-6 TUỔI TRONG TRÒ CHƠI ĐÓNG VAI THEO CHỦ ĐỀ............ 11
1.1. Vài nét lịch sử nghiên cứu vấn đề về kỹ năng hợp tác của trẻ MG 5-6 tuổi trong
TCĐVTCĐ .........................................................................................................................11
1.1.1. Những nghiên cứu về kỹ năng hợp tác ở nước ngoài ...........................................11
1.1.2. Những nghiên cứu về kỹ năng hợp tác ở Việt Nam ..............................................15
1.2. Lí luận về những biện pháp pháp triển kỹ năng hợp tác của trẻ MG 5-6 tuổi
trong TCĐVTCĐ ..............................................................................................................16
1.2.1. Trò chơi đóng vai theo chủ đề của trẻ MG 5-6 tuổi ..............................................16

1.2.2. Kỹ năng hợp tác của trẻ Mẫu giáo 5- 6 tuổi trong TCĐVTCĐ ............................33
1.2.3. Tiêu chí và thang đánh giá kỹ năng hợp tác của trẻ MG 5-6 tuổi trong
TCĐVTCĐ. .....................................................................................................................38
1.3. Biện pháp phát triển kỹ năng hợp tác của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong
TCĐVTCĐ .........................................................................................................................40
1.3.1. Định nghĩa biện pháp ............................................................................................40
1.3.2. Biện pháp phát triển kỹ năng hợp tác của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong TCĐVTCĐ
.........................................................................................................................................41

3


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN KỸ
NĂNG HỢP TÁC CỦA TRẺ MG 5-6 TUỔI TRONG TRÒ CHƠI ĐÓNG VAI
THEO CHỦ ĐỀ ......................................................................................................... 44
2.1. Khái quát chung về tổ chức nghiên cứu thực trạng ...............................................44
2.1.1. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................44
2.1.2. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................44
2.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng kỹ năng hợp tác và các biện pháp phát triển kỹ
năng hợp tác của trẻ MG 5-6 tuổi trong TCĐVTCĐ. ...................................................47
2.2.1. Thực trạng mức độ kỹ năng hợp tác của trẻ MG 5-6 tuổi trong TCĐVTCĐ thông
qua sự đánh giá của giáo viên. ........................................................................................47
2.2.2. Biểu hiện kỹ năng hợp tác của trẻ Mẫu giáo 5-6 tuổi trong TCĐVTCĐ thông qua
sự đánh giá của giáo viên. ...............................................................................................48
2.2.3. Thực trạng sử dụng các biện pháp phát triển kỹ năng hợp tác của trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi trong TCĐVTCĐ .....................................................................................................54
2.2.4. Một số nguyên nhân của thực trạng sử dụng biện pháp phát triển kỹ năng hợp tác
của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong TCĐVTCĐ. ..................................................................57

CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT VÀ THỰC NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT

TRIỂN KỸ NĂNG HỢP TÁC CỦA TRẺ MG 5-6 TUỔI TRONG TRÒ CHƠI
ĐÓNG VAI THEO CHỦ ĐỀ.................................................................................... 69
3.1. Cơ sở để đề xuất các biện pháp phát triển kỹ năng hợp tác của trẻ MG 5-6 tuổi
trong TCĐVTCĐ ..............................................................................................................69
3.2. Đề xuất một số biện pháp phát triển kỹ năng hợp tác của trẻ MG 5-6 tuổi trong
trò chơi đóng vai theo chủ đề ...........................................................................................69
3.2.1. Biện pháp 1: Xây dựng môi trường thân thiện trong lớp giữa GV với trẻ và giữa
các trẻ với nhau. ..............................................................................................................69
3.2.2. Biện pháp 2: Giúp trẻ biết thỏa thuận, thương lượng trong khi chơi trò chơi
ĐVTCĐ. ..........................................................................................................................71
3.2.3. Biện pháp 3: Tạo tình huống chơi mang tính hợp tác và ứng xử theo hướng hợp
tác. ...................................................................................................................................73
3.3. Thực nghiệm một số biện pháp phát triển kỹ năng hợp tác của trẻ MG 5-6 tuổi
trong trò chơi đóng vai theo chủ đề. ...............................................................................75
3.3.1. Khái quát về tổ chức thực nghiệm.........................................................................75
3.3.2. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm ..........................................................................77

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................................... 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 99
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 105
4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xã hội loài người, hợp tác với người khác được xem là một nhu cầu tất
yếu của cuộc sống. Từ thuở sơ khai, sự tồn tại và phát triển của loài đã thúc đẩy con
người liên kết, hợp tác với nhau: từ săn bắt, hái lượm cho đến chống lại thú dữ…
Cuộc sống ngày càng hiện đại, con người càng cần đến sự hợp tác và chỉ có sự hợp
tác mới mang lại một kết quả tốt đẹp, từ những điều thuộc về công việc của mỗi cá

nhân cũng như của nhiều người như môi trường, hòa bình,… Có thể nói, hợp tác là
con đường ngắn nhất cho sự phát triển của các quốc gia cũng như của mỗi cá nhân.
Đúng như C. Mác đã nói “Bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
[7; 338].
Lý luận về sự phát triển trẻ em cũng cho thấy sự lớn lên của trẻ gắn liền sự hợp
tác với người khác: từ những phản xạ mang tính định hướng ở những tháng ngày đầu
đời cho đến sự gia nhập thực sự vào “xã hội trẻ em”, xã hội người lớn… Tầm quan
trọng của sự hợp tác đã biến nó từ một nhu cầu đến chỗ đòi hỏi phải học tập, đặc biệt
là trong thời đại ngày nay. Mẫu giáo (MG) là độ tuổi thực sự cần đến kỹ năng hợp tác
khi đây cũng là giai đoạn trẻ bắt đầu tham gia tích cực vào các nhóm lớp do chính
cuộc sống của trẻ tạo ra.
Hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo ở trẻ MG, trong đó trò chơi đóng vai
theo chủ đề là trung tâm. Qua trò chơi, trẻ bắt đầu hiểu được những mối quan hệ qua
lại với nhau trong xã hội (mẹ - con, bác sĩ - bệnh nhân…), những tri thức, kinh
nghiệm của xã hội loài người. Qua trò chơi, trẻ học cách chia sẻ, hợp tác cùng nhau.
Có thể nói trò chơi là phương tiện ưu việt nhất trong quá trình thành người của trẻ
MG.
Mục tiêu giáo dục mầm non trong chương trình đổi mới hiện nay là giúp cho trẻ
phát triển toàn diện về mọi mặt: trí tuệ, thẩm mỹ, ngôn ngữ… và hình thành những
5


yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp một và hướng đến hình thành
ở trẻ những giá trị, kỹ năng sống cần thiết. Đó là những kỹ năng cơ bản cần thiết cho
bản thân, gia đình và cộng đồng như: kỹ năng lắng nghe, kỹ năng chia sẻ, kỹ năng
biết chấp nhận người khác, kỹ năng hợp tác…[28]. Vì vậy, việc hình thành kỹ năng
hợp tác cho trẻ là một trong những nhiệm vụ mà giáo dục mầm non đã và đang hướng
đến.
Nhu cầu hợp tác của trẻ MG với mọi người xung quanh phát triển rất mạnh mẽ,
ở lứa tuổi này trẻ phải biết hợp tác làm việc và chơi với nhau, trẻ cần phải sống hòa

thuận, thông cảm và giúp đỡ những trẻ khác trong nhóm… Chính nhờ sự hợp tác của
trẻ thông qua các hoạt động ở trường mầm non mà đặc biệt là thông qua chơi đã giúp
trẻ có cơ hội được gần gũi bạn bè, chia sẻ kinh nghiệm, cùng nhau thỏa thuận, đàm
phán, thiết lập mối quan hệ với bạn cùng chơi một cách chân thực và rõ nét nhất. Như
vậy có thể khẳng định rằng: phát triển kỹ năng hợp tác cho con người là cần thiết và
phải bắt đầu ngay từ lứa tuổi MG, đây chính là thời điểm giáo dục thuận lợi và có
hiệu quả.
Việc giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ MG 5-6 tuổi có thể được thực hiện thông
qua nhiều con đường khác nhau. Một trong những con đường thuận lợi để hình thành
và phát triển là thông qua trò chơi đóng vai theo chủ đề (ĐVTCĐ). Bởi trò chơi
ĐVTCĐ mang tất cả những nét cơ bản của trò chơi theo nghĩa rộng, nó chứa đầy tính
xúc cảm và lòng say mê của trẻ, tính tự lực và tự tổ chức, tính tích cực và sáng tạo, tính
hợp tác… Trò chơi đó đúng theo nghĩa mà X.L. Rubinstein nhận xét “Trò chơi là biểu
hiện biên độ của đứa trẻ và bên cạnh đó chính trò chơi được xây dựng trên mối quan hệ
qua lại của đứa trẻ và người lớn” [49].
Xuất phát từ những lí do trên đây, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Biện pháp phát
triển kỹ năng hợp tác của trẻ MG 5-6 tuổi trong trò chơi đóng vai theo chủ đề” làm
đề tài nghiên cứu.

6


2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm tìm ra một số biện pháp phát triển kỹ năng hợp tác của trẻ MG
5 - 6 tuổi trong trò chơi đóng vai theo chủ đề.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Quá trình tổ chức TCĐVTCĐ của trẻ MG 5-6 ở trường mầm non.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp phát triển kỹ năng hợp tác của trẻ MG 5-6 tuổi trong trò chơi đóng

vai theo chủ đề.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu áp dụng các biện pháp như: xây dựng môi trường chơi thân thiện trong lớp
giữa GV với trẻ và các trẻ với nhau; giúp trẻ biết thỏa thuận, thương lượng khi chơi
TCĐVTCĐ; động viên khuyến khích trẻ chia sẻ kinh nghiệm, ý tưởng chơi cùng
nhau… thì có thể nâng cao kỹ năng hợp tác cho trẻ MG 5-6 tuổi trong TCĐVTCĐ.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài như: đặc điểm
tâm lí của trẻ 5-6 tuổi; trò chơi đóng vai theo chủ đề; kỹ năng; kỹ năng hợp tác; kỹ
năng hợp tác của trẻ MG 5-6 tuổi trong TCĐVTCĐ.
5.2. Khảo sát thực trạng kỹ năng hợp tác và việc phát triển kỹ năng hợp tác trong
trò chơi đóng vai theo chủ đề của trẻ MG 5-6 tuổi ở một số trường mầm non tại
TPHCM.
5.3. Đề xuất và thực nghiệm một số biện pháp nhằm phát triển kỹ năng hợp tác
trong trò chơi đóng vai theo chủ đề của trẻ MG 5-6 tuổi.

7


6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
6.1. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chỉ nghiên cứu một số biện pháp phát triển kỹ năng hợp tác của trẻ MG 5-6
tuổi trong trò chơi đóng vai theo chủ đề, đặc biệt là các biện pháp từ phía GV mầm non
liên quan đến hoạt động tổ chức chơi. Kỹ năng hợp tác chỉ nghiên cứu trên bình diện
như một kỹ năng sống nhằm chơi ĐVTCĐ hiệu quả.
6.2. Giới hạn nghiên cứu:
Chỉ nghiên cứu trên trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi tại một số trường Mầm non thuộc
quận 3 ở TP. HCM trong năm học 2012-2013.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu:

Tham khảo các công trình nghiên cứu, sách báo, tạp chí chuyên ngành về các
vấn đề có liên quan, từ đó hệ thống và khái quát hóa các khái niệm công cụ làm cơ sở
lý luận cho đề tài.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát:
Tiến hành dự giờ, quan sát và ghi chép quá trình tổ chức các TCĐVTCĐ nhằm
phát triển kỹ năng hợp tác của trẻ MG 5- 6 tuổi của giáo viên mầm non.
7.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi:
Sử dụng phiếu điều tra đội ngũ giáo viên trực tiếp dạy trẻ MG 5-6 tuổi ở một số
trường mầm non thuộc quận 12, quận 3 trên địa bàn TPHCM về thực trạng kỹ năng
hợp tác của trẻ MG 5-6 tuổi trong TCĐVTCĐ và các biện pháp phát triển kỹ năng
hợp tác của trẻ MG 5-6 tuổi trong TCĐVTCĐ.
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn:
8


Phỏng vấn một số trẻ MG 5-6 tuổi, giáo viên mầm non và BGH để thu thập
thông tin về một số biểu hiện của kỹ năng hợp tác của trẻ MG 5-6 tuổi trong
TCĐVTCĐ.
7.2.4. Phương pháp thực nghiệm:
Thực nghiệm một số biện pháp phát triển kỹ năng hợp tác của trẻ MG 5-6 tuổi
trong TCĐVTCĐ theo mô hình thực nghiệm được xác lập.
7.3. Phương pháp thống kê toán học:
Xử lí số liệu thu được bằng phần mềm SPSS.
8. Những đóng góp mới của đề tài
- Hệ thống hoá cơ sở lí luận của việc phát triển kỹ năng hợp tác của trẻ MG 5-6
tuổi trong TCĐVTCĐ.
- Làm rõ thực trạng kỹ năng hợp tác của trẻ MG 5-6 tuổi trong TCĐVTCĐ.
- Đề xuất một số biện pháp phát triển kỹ năng hợp tác của trẻ MG 5-6 tuổi trong
TCĐVTCĐ nhằm áp dụng trong thực tiễn.

9. Cấu trúc của luận văn
Chương 1. Cơ sở lí luận về phát triển kỹ năng hợp tác của trẻ MG 5-6 tuổi trong
trò chơi đóng vai theo chủ đề.
Chương 2: Thực trạng sử dụng biện pháp phát triển kỹ năng hợp tác của trẻ MG
5-6 tuổi trong trò chơi đóng vai theo chủ đề.
Chương 3: Đề xuất và thực nghiệm một số biện pháp phát triển kỹ năng hợp tác
của trẻ MG 5-6 tuổi trong trò chơi đóng vai theo chủ đề.
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
9


10


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG HỢP
TÁC CỦA TRẺ MG 5-6 TUỔI TRONG TRÒ CHƠI ĐÓNG VAI
THEO CHỦ ĐỀ
1.1. Vài nét lịch sử nghiên cứu vấn đề về kỹ năng hợp tác của trẻ MG 5-6 tuổi
trong TCĐVTCĐ
Kỹ năng hợp tác là một trong những kỹ năng sống quan trọng. Kỹ năng hợp tác
giúp cho con người có thể giải quyết một cách hiệu quả những vấn đề xảy ra trong
cuộc sống. Kỹ năng này cần được rèn luyện ngay từ tuổi mầm non. Chính vì thế, việc
hình thành kỹ năng hợp tác của con người đã được rất nhiều nhà Tâm lý - Giáo dục
nghiên cứu và quan tâm. Trải qua quá trình phát triển của lịch sử giáo dục trên thế
giới cũng như ở trong nước đã xuất hiện nhiều tư tưởng nghiên cứu về vấn đề này.
1.1.1. Những nghiên cứu về kỹ năng hợp tác ở nước ngoài
1.1.1.1. Nghiên cứu về kỹ năng hợp tác và một số vấn đề có liên quan


Dạy học hợp tác được áp dụng ở các nước Phương Tây từ cuối thế kỷ XVIII đầu
thế kỷ XIX. Năm 1789, Linh mục A. Bel và các thầy giáo đã đưa ra hình thức dạy
học tương trợ. Với hình thức dạy học này, người học được chia ra thành từng nhóm
hoạt động, giáo viên tạo điều kiện cho người học được cùng nhau trò chuyện, đàm
thoại, hợp tác chia sẻ, giúp đỡ nhau tìm hiểu, khám phá đối tượng nhận thức nhằm
hình thành và phát triển kỹ năng hợp tác cho người học đồng thời nâng cao hiệu quả
dạy học.
Tiếp đó, học hợp tác được phát triển mạnh mẽ bởi đại tá Francis Parker trong ba
thập niên cuối của thế kỷ XIX, khi ông này giữ chức quản lý hệ thống trường công ở
Quycy, bang Masa Chusetts. Thời kỳ đó, với tư tưởng và các thủ tục học hợp tác mà
ông khuyến khích sử dụng trong hệ thống các trường đã nhận được nhiều sự ủng hộ và
đánh giá rất cao, được ví như “Mặt đất trơ trụi sau mùa đông bắt gặp những cơn mưa
mùa xuân và nắng ấm” [50, 2].
11


Kế tục Parker, vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, John Dewey - một nhà giáo
dục Mỹ cùng các cộng sự đã đề ra và thực thi tư tưởng dân chủ, đề cao khía cạnh xã
hội của việc học và vai trò của nhà giáo dục trong việc giáo dục học sinh một cuộc
sống dân chủ. Ông cho rằng: nếu con người muốn học cách để sống, hợp tác họ phải
trải nghiệm quá trình sống hợp tác trong nhà trường. Cuộc sống trong lớp học cần thể
hiện quá trình dân chủ hóa trong một thế giới vi mô và trung tâm của cuộc sống dân
chủ ở đây chính là sự hợp tác giữa các thành viên trong nhóm. Cuộc sống trong lớp
không phải là một bước chuẩn bị cho cuộc sống trong xã hội mà nó chính là bản thân
cuộc sống của học sinh, do vậy ngay tại đây, các em cần được dạy và trải nghiệm sự
biết cảm thông với người khác, tôn trọng quyền của người khác và biết làm việc cùng
nhau để giải quyết vấn đề theo lẽ phải. Xuất phát từ ý tưởng đó ông đã xây dựng “nhà
trường tích cực ”, trong đó ông đã phát triển học hợp tác của học sinh tạo nên một
môi trường làm việc chung để học sinh có cơ hội trao đổi kinh nghiệm thực hành,
phát triển lý luận và phát triển khả năng trừu tượng hóa [8].

Arthur Dobrin - nhà Tâm lý học và là chuyên gia nổi tiếng về lĩnh vực giáo dục
đạo đức của Mỹ cho rằng: “Chúng ta đều mong muốn trở thành một thành viên trong
tập thể bởi vì chỉ thông qua hợp tác và nỗ lực chung giữa con người với nhau mới có
thể khiến cho người ta chiến thắng hoàn cảnh bên ngoài” [9, 2].
Bước sang thế kỷ XX, lĩnh vực hợp tác thu hút được khá nhiều sự quan tâm của
các nhà nghiên cứu. R.Cousinet - nhà giáo dục người Pháp đã chú ý đến việc hình
thành kỹ năng hợp tác cho người học bằng các phương pháp, biện pháp dạy học tích
hợp. Ông cho rằng: giáo viên cần tạo điều kiện cho học sinh được tự do chọn bạn để
học nhóm hay giải tán nhóm. Học tập theo nhóm tránh được sự lười biếng vì học sinh
sẽ cảm thấy xấu hổ với bạn khi bỏ dở công việc hay khi không biết làm việc. Chính
nhờ sự thay đổi này mà người học có những quan điểm, những nhận định xã hội khi
nhận xét về bạn mình và được nghe bạn mình nhận xét về những hành động của
mình, từ đó người học sẽ tích lũy thêm các kinh nghiệm xã hội [45].
12


Năm 1940, Morton Deutsch dựa trên thuyết của Kurt Lewin đã đề ra Lý thuyết
về các tình huống hợp tác và tranh đua. Lý thuyết này về sau được coi là nền tảng
quan trọng đưa đến hàng loạt những nghiên cứu và các cuộc tranh luận sau này [24].
Năm 1961, Muzafer Sherif đã tiến hành những nghiên cứu nổi tiếng của ông tại
ba trại hè, trong đó ông đã thiết kế sự tranh đua liên nhóm hết sức sôi nổi và nghiên
cứu sự nỗ lực của các thành viên mỗi nhóm. Qua hình thức trại hè các em học sinh có
nhiều cơ hội để cùng hợp tác, giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm cho nhau trong học tập
cũng như trong sinh hoạt [18].
Khởi đầu các công trình nghiên cứu của mình về học hợp tác, từ năm 1975-1991
hai tác giả D. Johnson và R. Johnson đã cho xuất bản cuốn “Học cùng nhau và học
độc lập”. Các tác giả đã chỉ ra và phân tích những yếu tố cơ bản của học hợp tác bao
gồm: sự phụ thuộc tích cực, sự tương tác đối mặt, sự có trách nhiệm cá nhân, sự lĩnh
hội và sử dụng các kỹ năng nhóm nhỏ và liên cá nhân, sự nhận xét nhóm. Các tác giả
cũng phân tích được vai trò và mối quan hệ trong ba mô hình học tập: hợp tác, tranh

đua và cá nhân [18]. Họ cho rằng: sự hợp tác của trẻ chỉ được hình thành bằng cách
tổ chức nhóm. Sự hợp tác phụ thuộc vào sự tích cực tham gia của các thành viên
trong nhóm. Mỗi người chỉ có thể thành công khi mọi người trong nhóm cùng thành
công.
1.1.1.2. Nghiên cứu về hoạt động chơi nhằm phát triển kỹ năng hợp tác của trẻ
mẫu giáo

Khởi đầu cho việc xây dựng học thuyết về trò chơi gắn liền với các tên tuổi nổi
tiếng thế kỉ XIX như: S. Chiller, G. Spencer, G. V. Plekhanop… Khi xây dựng các
quan điểm của mình về Triết học, Hình học và nhất là quan điểm về nghệ thuật, họ
đồng thời đề cập tới trò chơi như một hiện tượng rất phổ biến trong cuộc sống, liên
kết sự xuất hiện của trò chơi với sự xuất hiện của nghệ thuật.

13


Theo V. Vient nhà Triết học người Anh đã chỉ ra “Trò chơi - chính là lao động
của trẻ nhỏ. Không một trò chơi nào mà lại không có trong mình một nguyên mẫu từ
một dạng lao động… khi chơi những mục đích lao động bị loại bỏ” [48].
Theo học thuyết cổ điển về trò chơi của K. Groos (1861-1946) thì trò chơi là
một hình thức hoạt động sống mà trong đó các cơ thể non nớt được hoàn thiện. Trong
quá trình vui chơi, những đứa trẻ lĩnh hội được những kinh nghiệm lịch sử của loài
người. Quan điểm của V. Vient, K. Groos, S. Chiller… mặc dù được phát triển theo
các trường phái khác nhau nhưng đều có ảnh hưởng lớn trong việc xây dựng lý luận
về trò chơi cũng như việc đưa trò chơi vào lĩnh vực giáo dục trẻ [45].
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, trường phái Tâm lý học Xô Viết, đi đầu là
các nhà Tâm lý học như: L.X. Vưgotxky, D.B. Enconhin, A.N. Leonchep… các nhà
Tâm lý học này đã đưa ra một cách nhìn mới về bản chất xã hội về trò chơi trẻ em và
bắt đầu đề cập đến tính hợp tác trong trò chơi ĐVTCĐ.
L.X. Vưgotxky cho rằng: mâu thuẫn và sự giải quyết mâu thuẫn là những đặc điểm

quan trọng của sự phát triển. Xuất phát từ quan điểm này, ông đã nhấn mạnh sự cần thiết
của sự thỏa thuận và hợp tác với bạn bè trong trò chơi. Ông cho rằng chính sự hợp tác
này đã “đẩy” sự hiểu biết và nhận biết của trẻ vượt ra ngoài phạm vi chức năng phát
triển bình thường [43, 281-305].
Trong quyển “Tâm lý học trò chơi” của tập thể các nhà Tâm lý - Giáo dục Xô
viết, tác giả D.B. Enconhin đã tổng hợp các thành tựu cơ bản nghiên cứu về trò chơi.
Trong trò chơi - thực hành việc phối hợp các hoạt động chơi mang tính tập thể… dần
hình thành tính hợp tác với bạn bè trong khi chơi đặc biệt là trong các trò chơi đóng
vai.
Trong quyển “Tâm lý học trẻ em” của tác giả Anna Lyulin Skaja, bà khẳng định
“Trong dạng thức phát triển nhất của nó, chơi là một hoạt động tập thể, những trẻ
tham gia trò chơi gắn bó với nhau trong quan hệ hợp tác” [44, 151].
14


Như vậy, vấn đề nghiên cứu, sử dụng trò chơi với mục đích giáo dục trẻ để phát
triển toàn diện, đặc biệt là kỹ năng hợp tác là vấn đề cần thiết trong mọi giai đoạn lịch
sử phát triển của sự nghiệp giáo dục mầm non.
1.1.2. Những nghiên cứu về kỹ năng hợp tác ở Việt Nam

Ở Việt Nam, trên cơ sở nghiên cứu, phân tích lý luận và thực tiễn Việt nam, một
số nhà Tâm lý - Giáo dục học đã đề cập đến sự hợp tác của trẻ qua TCĐVTCĐ.
Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết trong quyển “Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non”,
“Tâm lý học trẻ em - tập 2” cũng đã đề cập đến việc hình thành kỹ năng hợp tác qua
TCĐVTCĐ. Tác giả nhấn mạnh đối với trò chơi đóng vai, trẻ không thể chơi một
mình mà phải chơi theo nhóm và có nhiều thành viên trong nhóm chơi với nhau, tức
là chơi với bạn. Chính đặc điểm này thúc đẩy, phát triển sự hợp tác của trẻ [33].
Tác giả Liêm Trinh với quyển sách “Rèn luyện nhân cách cho trẻ” cho rằng: cần
rèn luyện tính hợp tác của trẻ qua việc bày tỏ sự quan tâm, chia sẻ với người khác
những gì mình có và tôn trọng ý kiến của người khác, hoàn thành tốt nhiệm vụ được

giao [36].
Trong quyển “Trò chơi phân vai theo chủ đề và việc hình thành nhân cách cho
trẻ mẫu giáo” của Lê Minh Thuận đã đề cập đến tính hợp tác với bạn bè của trẻ mẫu
giáo qua các TCĐVTCĐ, tác giả đã xây dựng cách hướng dẫn trò chơi phân vai theo
chủ đề cho trẻ mẫu giáo theo các giai đoạn, lứa tuổi với mục đích phát triển nhân
cách trẻ [37].
Tác giả Phạm Thị Thu Hương với đề tài “Một số biện pháp hình thành tính hợp
tác qua TCĐVTCĐ cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi” đã đưa ra một số biện pháp nhằm hình
thành tính hợp tác cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi trong TCĐVTCĐ như: tạo tình huống
trong quá trình chơi của trẻ, mở rộng mối quan hệ qua lại giữa các vai chơi [17].
Tác giả Hồ Thị Ngọc Trân cho rằng: sự hợp tác của trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi bắt
đầu được hình thành thông qua hoạt động vui chơi. Tác giả khẳng định: nhờ sự hợp
15


tác trong hoạt động vui chơi mà dần dần trẻ học được cách thiết lập mối quan hệ đúng
đắn trong xã hội [35, 17].
Tác giả Vũ Thị Nhâm chỉ ra một số biện pháp phát triển kỹ năng hợp tác cho trẻ
MG 5-6 tuổi qua TCĐVTCĐ: khuyến khích trẻ chia sẻ kinh nghiệm, ý tưởng chơi
cùng nhau, tạo không gian chơi và bố trí nguyên vật liệu thiên nhiên, nguyên vật liệu
phế thải trong các góc chơi để kích thích trẻ tích cực hợp tác với nhau [25].
Trong “Bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi” thì tích cực hợp tác là một trong những
nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực tình cảm - quan hệ xã hội cần rèn cho trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi để chuẩn bị vào lớp một. “Bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi” cũng đưa ra
các chỉ số thể hiện sự hợp tác với bạn bè và mọi người xung quanh như: lắng nghe ý
kiến của mình với người khác, trao đổi ý kiến với người khác, thể hiện sự thân thiện,
đoàn kết với bạn bè, chấp nhận sự phân công của nhóm bạn và người lớn, sẵn sàng
thực hiện nhiệm vụ đơn giản cùng người khác [2].
Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học và các tác giả nêu trên đã đề cập đến
sự cần thiết của việc giáo dục kỹ năng hợp tác nhằm góp phần phát triển và hoàn

thiện nhân cách trẻ. Các tác giả cũng đã nhấn mạnh vai trò của vui chơi đối với việc
phát triển kỹ năng hợp tác của trẻ nói chung và TCĐVTCĐ nói riêng. Tuy nhiên việc
đưa ra một số biện pháp nhằm phát triển kỹ năng hợp tác cho trẻ MG 5-6 tuổi trong
TCĐVTCĐ vẫn còn là khoảng trống ít ai nghiên cứu.
1.2. Lí luận về những biện pháp pháp triển kỹ năng hợp tác của trẻ MG 5-6 tuổi
trong TCĐVTCĐ
1.2.1. Trò chơi đóng vai theo chủ đề của trẻ MG 5-6 tuổi
1.2.1.1. Khái niệm về trò chơi đóng vai theo chủ đề

a. Định nghĩa TCĐVTCĐ:
Trò chơi đóng vai theo chủ đề hay còn gọi là trò chơi đóng vai có cốt truyện, là
trò chơi đặc trưng của trẻ lứa tuổi mẫu giáo. Tùy theo cách nhìn nhận trò chơi theo
16


nguồn gốc, theo cấu trúc hay theo ý nghĩa của từ khi phiên âm từ tiếng nước ngoài
mà loại trò chơi này có tên gọi khác nhau. Chẳng hạn như: “Trò chơi giả bộ có cốt
chuyện”, “Trò chơi phân vai theo chủ đề” (cách gọi này được nhiều tác giả Việt Nam
sử dụng); “Trò chơi biểu trưng” (cách gọi của G. Piaget); “Trò chơi có cốt truyện”
(cách gọi của S. Smilanxki) ...
Theo cách hiểu của đời thường thì trò chơi ĐVTCĐ là trò chơi trẻ được đóng
vai, có nghĩa là trẻ phải giả làm người lớn, ướm mình vào vị trí của một người nào đó
và bắt chước hành động của họ.
Theo từ điển Tâm lý học viết: trò chơi ĐVTCĐ là hình thức trò chơi gồm những
thành phần và những đặc điểm của trò chơi có chủ đề và trò chơi đóng vai [10].
Theo các tác giả khác như: Tác giả Đào Thanh Âm (chủ biên) cho rằng:
TCĐVTCĐ là loại trò chơi trong đó trẻ đóng một vai cụ thể để tái tạo lại những ấn
tượng, cảm xúc mà trẻ thu nhận được từ môi trường xã hội của người lớn nhờ sự
tham gia tích cực của trí tưởng tượng. [1, 155].
Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết quan niệm: “TCĐVTCĐ là loại trò chơi mà khi chơi

trẻ mô phỏng một mảng nào đó của cuộc sống người lớn trong xã hội bằng việc nhập
vào (hay còn gọi là đóng vai) một nhân vật nào đó để thực hiện chức năng xã hội của
họ bằng những hành động mang tính tượng trưng” [32, 13].
Vậy có thể hiểu: “TCĐVTCĐ là dạng trò chơi sáng tạo, đặc trưng của lứa tuổi
mẫu giáo, phản ánh một mảng hiện thực của cuộc sống xã hội, lao động, mối quan hệ
giữa con người với con người, thông qua việc đóng vai người lớn mà trẻ thực hiện
hành động theo chức năng xã hội mà họ đảm nhận”.
b. Bản chất của TCĐVTCĐ
Trò chơi ĐVTCĐ mang bản chất xã hội. Tính xã hội của trò chơi ĐVCCĐ được
thể hiện ở nguồn gốc xuất hiện, lịch sử phát triển, nội dung trò chơi và đồ chơi của
trẻ. Mặt khác, tính xã hội của loại trò chơi này còn thể hiện trong diễn biến quá trình
hình thành và phát triển hoạt động chơi của đứa trẻ.
17


Về nguồn gốc xuất hiện trò chơi, ngay từ những năm đầu của thế kỷ XX. G.V
Plêkhanov đã cho rằng, sự xuất hiện của trò chơi trẻ em (trong đó có TCĐVTCĐ) gắn
liền với nhu cầu của xã hội loài người. Trong “Tâm lý học trò chơi” Đ.B. Encônhin
cũng đã làm rõ quan điểm này của G.V. Plêkhanov [21, 60].
Khi phân tích nguồn gốc, lịch sử phát triển của trò chơi trẻ em, một lần nữa tác
giả Đ.B. Encônhin khẳng định: “Sự xuất hiện của trò chơi không phải bắt nguồn từ
tác động của các động lực bên trong mang tính chất bản năng, bẩm sinh mà bắt nguồn
từ điều kiện xã hội trong cuộc sống của trẻ” [21, 62].
Bản chất của TCĐVCCĐ thể hiện trong nội dung của trò chơi, nó phản ánh, mô
phỏng lại một cách sinh động đa dạng, sáng tạo các mối quan hệ xã hội với những
chuẩn mực đạo đức, phong tục, tập quán... mà xã hội quy định, phản ánh cách thức
lao động, hoạt động của người lớn. Mặt khác, ở mỗi dân tộc, đất nước, ở mỗi thời đại
khác nhau, nội dung trò chơi cũng khác nhau. Biểu hiện bản chất xã hội của trò chơi
còn tìm thấy trong nguồn gốc xuất hiện thể loại, nội dung, chức năng, cấu trúc, chất
liệu và hình thái bên ngoài của đồ chơi. Đồ chơi trẻ em, bạn đồng hành của trẻ, cũng

thay đổi cùng với sự thay đổi của thời đại và phần nào có sự khác nhau ở các dân tộc.
Đồ chơi phản ánh đời sống xã hội của thời đại cũng như của dân tộc.
Bản chất xã hội của TCĐVTCĐ còn biểu hiện trong diễn biến quá trình hình
thành, phát triển hoạt động chơi của trẻ. Bước sang tuổi mẫu giáo, mâu thuẫn một bên
là nhu cầu muốn tự khẳng định mình, nhu cầu muốn được làm như người lớn, một
bên là khả năng còn rất hạn chế trở nên gay gắt, sâu sắc. Hoạt động với đồ vật, đến
bây giờ, không đáp ứng được nhu cầu này của trẻ. Để giải quyết được mâu thuẫn, trẻ
phải tìm đến TCĐVTCĐ. Ở đó trẻ có thể thỏa mãn được mong muốn, khao khát được
làm người lớn của mình. Nếu như trẻ lứa tuổi nhà trẻ, hoạt động với đồ vật là hoạt
động chủ đạo thì giờ đây hoạt động chủ đạo được thay thế bằng hoạt động vui chơi
mà trung tâm là TCĐVTCĐ. Chính hoạt động này làm nảy sinh cấu tạo tâm lý mới,
tạo ra một chuyển biến cơ bản trong đời sống tâm lý của đứa trẻ.
18


Khi tham gia vào TCĐVTCĐ, trẻ phải biết chơi cùng nhau, phải biết hợp tác với
nhau trong quan hệ thực (trẻ - trẻ) và quan hệ chơi (vai - vai) trong một “xã hội trẻ
em” [31, 205]. Ở đây, lần đầu tiên trẻ được tham gia vào các mối quan hệ xã hội.
Thông qua đó các kỹ năng xã hội được hình thành và phát triển như: biết thống nhất
trong hoạt động chung, biết chia sẻ, biểu lộ tình cảm với người khác, biết nhường
nhịn, biết vì mọi người, cũng như biết bảo vệ ý kiến của mình... Nếu như ở hoạt động
với đồ vật, trẻ chủ yếu là hành động, thực hiện các thao tác với đồ vật thì ở
TCĐVTCĐ, hành động của trẻ chủ yếu thể hiện mối quan hệ xã hội giữa các vai
chơi: “bác sĩ” quan tâm chăm sóc, hỏi han “bệnh nhân”, “mẹ” lo lắng khi “con” bị
ốm; các “con”, “các cháu” chu đáo, lễ phép với “ông bà”... Theo các nhà Tâm lý học
thì đó chính là động cơ có tính chất xã hội rất đặc trưng của loại trò chơi này. Nói
cách khác, thông qua vai chơi, thực hiện các hành động của vai, trẻ tham gia vào các
mối quan hệ của người lớn rất tự nhiên, thoải mái, tự nguyện và có tổ chức. Từ đó,
các chuẩn mực đạo đức dần dần được “truyền” vào trẻ một cách rất nhẹ nhàng, tạo
thành đời sống nội tâm và bắt đầu ý thức được bản thân mình - cái cốt lõi trong nhân

cách mỗi người.
Từ những phân tích trên cho thấy, bản chất của TCĐVTCĐ là sự “mô hình hóa”
những mối quan hệ xã hội trong cuộc sống của người lớn và chịu sự chi phối của
chúng. Mối quan hệ xã hội của người lớn được trẻ quan tâm trở thành đối tượng hành
động trong trò chơi, nhằm thỏa mãn nhu cầu được giống như người lớn của trẻ. Việc
khẳng định bản chất xã hội của TCĐVTCĐ có ý nghĩa quan trọng trong khi xác định
vai trò của người lớn, đặc biệt là giáo viên mầm non trong việc tổ chức cho trẻ chơi
nói chung cũng như tổ chức cho trẻ chơi TCĐVTCĐ. Từ đó làm cơ sở để xác định hệ
thống kỹ năng tổ chức cho trẻ chơi loại trò chơi này.
Để hiểu rõ thêm bản chất của TCĐVTCĐ, cần nắm rõ những đặc điểm chủ yếu và
vai trò của nó đối với sự phát triển của trẻ mẫu giáo.

19


1.2.1.2. Đặc điểm của TCĐVTCĐ ở tuổi Mẫu giáo

a. TCĐVTCĐ là một dạng hoạt động không mang tính bắt buộc mà mang tính tự
do, tự nguyện rất cao:
Vui chơi không phải là hoạt động tạo ra sản phẩm và hành động chơi không
buộc phải tuân theo một phương thức chặt chẽ nhất định.
Nguyên cớ thúc đẩy trẻ tham gia vào trò chơi chính là sức hấp dẫn từ bản thân
trò chơi chứ không hề bị ràng buộc bởi những cái khác, kể cả kết quả của sự vui chơi
đó. Chẳng hạn, trong trò chơi “khám bệnh”, yếu tố hấp dẫn trẻ chính là việc người
“bác sĩ” đeo ống nghe vào tai và hành động đặt ống nghe lên người bệnh, kê đơn
thuốc, dặn dò cách điều trị… chứ không phải là việc có khám đúng bệnh và chữa
khỏi bệnh hay không. Có nghĩa là động cơ của hoạt động vui chơi nằm ngay trong
quá trình hoạt động chứ không phải nằm ở kết quả của hoạt động [10]. Chính vì vậy,
trẻ chơi mang tính tự nguyện rất cao, trẻ thích chơi trò chơi nào thì chơi một cách say
mê trò chơi đó. Có vui thì mới chơi mà đã chơi thì phải vui. Mọi sự bắt buộc hay

cưỡng ép đều dẫn tới sự “phá hoại” trò chơi.
b. Trò chơi còn là một dạng hoạt động mang tính tự lập của trẻ:
Hơn bất cứ hoạt động nào, trong trò chơi, trẻ thể hiện rất rõ ý thức làm chủ, trẻ
hoạt động hết mình, tích cực, độc lập, chủ động. Tính độc lập - chủ động được thể
hiện rõ từ việc trẻ tự nghĩ ra chủ đề chơi, nội dung chơi, phân vai chơi, điều khiển và
đánh giá quá trình chơi dựa trên vốn kinh nghiệm, hiểu biết vốn có của mình. Ở đây
người lớn không thể áp đặt trẻ hay chơi hộ trẻ, người lớn chỉ có thể gợi ý, tổ chức,
hướng dẫn mà thôi. Trẻ chỉ thực hiện gợi ý của người lớn khi trẻ thấy phù hợp với
nhu cầu và hứng thú của mình.
Do vậy, trò chơi càng mang tính chất tự nguyện bao nhiêu thì càng phát huy ở
trẻ tính độc lập, tự chủ, chủ động bấy nhiêu.
c. TCĐVTCĐ là loại trò chơi mang tính chất tập thể:
20


TCĐVTCĐ là một dạng hoạt động đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa các thành
viên trong nhóm khi chơi với nhau.
Ở lứa tuổi nhà trẻ, trẻ thường chơi một mình với đồ vật, sau đó trẻ bắt đầu chơi
cạnh nhau. Đến lứa tuổi mẫu giáo, trẻ thực sự có nhu cầu chơi với nhau vì trò chơi
của trẻ mẫu giáo là sự phản ánh một mặt nào đó của xã hội người lớn xung quanh, mà
hoạt động trong xã hội lại không mang tính chất đơn lẻ. Hoạt động của con người bao
giờ cũng có các mối liên quan đến hoạt động của những người khác. Nghĩa là hoạt
động của con người mang tính xã hội. Sự hợp tác giữa nhiều người trong một cộng
đồng hay nhóm này với nhóm khác là đặc trưng của xã hội loài người. Vì thế để tiến
hành một trò chơi mô phỏng đời sống xã hội buộc phải có nhiều trẻ cùng tham gia,
cùng hoạt động với nhau, nghĩa là phải có bạn cùng chơi. Tính hợp tác là một nét
phát triển mới, tiêu biểu trong TCĐVTCĐ của trẻ mẫu giáo.
Như vậy, TCĐVTCĐ là cơ sở để thiết lập một “xã hội trẻ em” - từ đó hình thành
ở trẻ những nét phẩm chất tâm lý mới [25].
d. TCĐVTCĐ mang tính chất ký hiệu, tượng trưng:

Mặc dù, TCĐVTCĐ phản ánh những hiện tượng có thực trong cuộc sống xung
quanh trẻ, nhưng hành động của trẻ chỉ có tính chất mô phỏng lại một cách khái quát,
tượng trưng (hành động giả vờ). Mặt khác, trong khi chơi, trẻ sử dụng những đồ vật,
đồ chơi thay thế. Những vật thay thế này mang tính ký hiệu tượng trưng và được trẻ
sử dụng không theo đúng chức năng của chúng. Ví dụ: ghế làm ôtô; que làm xi-lanh;
khăn làm giường... Hoặc trẻ dùng hành động của mình để thực hiện chức năng của
một vật. Ví dụ: lấy que tre hoặc cây bút để vào cánh tay của bạn - hành động tiêm cho
bệnh nhân; đưa tay lên tai - hành động nghe điện thoại... Chính đặc điểm này của
TCĐVTCĐ làm nảy sinh hoàn cảnh tưởng tượng và thúc đẩy sự tưởng tưởng ở trẻ.
Đây là những đặc điểm đặc trưng của TCĐVTCĐ. Khi chơi, trẻ đắm mình trong
hoàn cảnh chơi, kết thúc trò chơi cũng là lúc trẻ ra khỏi hoàn cảnh chơi. Đặc điểm
này của TCĐVTCĐ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự phát triển nhận thức của
21


trẻ. Nhờ đó mà trẻ bước sang một loại hình nhận thức mới, đặc trưng của con người.
Đó là sự nhận thức thế giới xung quanh thông qua một hệ thống ký hiệu [30, 18].
1.2.1.3. Cấu trúc của TCĐVTCĐ

Khi nghiên cứu TCĐVTCĐ, các nhà Tâm lý học, Giáo dục học đều thống nhất
cấu trúc của TCĐVTCĐ bao gồm các thành tố sau: chủ đề chơi; nội dung chơi; vai
chơi; hành động chơi; đồ chơi; tình huống tưởng tượng (hoàn cảnh chơi hay hoàn
cảnh tưởng tượng); mối quan hệ của trẻ trong khi chơi.
Các thành tố này có liên hệ mật thiết với nhau và bổ sung cho nhau trong đó vai
chơi và hoàn cảnh tưởng tượng là hai thành tố đặc biệt quan trọng.
a. Chủ đề và nội dung của trò chơi
* Chủ đề chơi:
“Chủ đề chơi là mảng hiện thực được phản ánh vào các trò chơi trẻ em” [37].
Theo V.X. Mukhina thì phạm vi hiện thực mà trẻ được tiếp xúc càng rộng bao nhiêu
thì các chủ đề của trò chơi càng nhiều hình nhiều vẻ bấy nhiêu. Trong khi chơi, mọi

hành động của trẻ đều xoay quanh chủ đề.
Chủ đề của trò chơi rất phong phú và đa dạng, có thể kể đến: chủ đề sinh hoạt
gia đình, chủ đề dạy học, chủ đề bệnh viện, chủ đề bán hàng… Phạm vi hiện thực mà
trẻ tiếp xúc càng rộng bao nhiêu thì các chủ đề của trò chơi càng phong phú bấy
nhiêu ở trẻ MG bé chủ đề chơi của trẻ còn ít, thường là những trò chơi liên quan trực
tiếp đến cuộc sống sinh hoạt gia đình, ở trường mẫu giáo... số lượng chủ đề được tăng
dần cùng với sự phát triển của chúng.
Chủ đề chơi không chỉ tăng lên về số lượng mà còn được phức tạp hóa dần và
được mở rộng ra. Chẳng hạn cùng là chủ đề “gia đình” nhưng ở trẻ mẫu giáo bé chỉ
thể hiện đơn giản như: mẹ cho con ăn, ru con ngủ… còn trẻ mẫu giáo lớn không chỉ
là mẹ cho con ăn, ru con ngủ mà mẹ còn đi chợ, nấu ăn, cho con đi chơi công viên, đi

22


khám bệnh… nghĩa là ngoài mối quan hệ “mẹ - con” còn có những mối quan hệ khác
xuất hiện trong khi chơi.
Như vậy cùng một chủ đề chơi nhưng mỗi độ tuổi những cách phản ánh khác
nhau, tái tạo những mặt khác nhau của hiện thực cuộc sống. Do đó, ngoài chủ để chơi
còn phải chú ý đến nội dung chơi.
* Nội dung chơi:
Nội dung chơi là những hoạt động của người lớn mà đứa trẻ nhận thức được và
phản ánh vào trò chơi của mình. Đó là hoạt động của người lớn với các đồ vật, mối
quan hệ giữa họ với nhau, những yếu tố đạo đức được thể hiện qua hành vi, cử chỉ,
thái độ của họ.
Nội dung cơ bản của trò chơi ĐVTCĐ ở trẻ mẫu giáo bé (3-4 tuổi) là việc tái tạo
lại những hành động thực của người lớn với các đối tượng trong trò chơi. Ví dụ: hành
động mẹ đút cơm cho con ăn, bác sĩ tiêm cho bệnh nhân…
Nội dung của trò chơi ĐVTCĐ ở trẻ mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi) lại là việc trẻ mô
phỏng lại các mối quan hệ bề ngoài của người lớn trong các hoạt động. Chẳng hạn

như trong “bệnh viện” thì ai là y tá, ai là bác sĩ, ai là bệnh nhân, quan hệ của họ với
nhau ra sao. Tuy nhiên, mối quan hệ này mới chỉ dừng lại ở hình thức bên ngoài
thông qua những hành vi quan hệ như: bác sĩ khám cho bệnh nhân, y tá chích thuốc
cho bệnh nhân…
Ở trẻ mẫu giáo lớn (5- 6 tuổi) trẻ quan tâm đến những mối quan hệ bên trong
như: mặt tình cảm, đạo đức của mối quan hệ đó. Bác sĩ ân cần chăm sóc, động viên,
an ủi bệnh nhân, trò chuyện với bệnh nhân… Hoặc có thể là thái độ không lịch sự
như: quát nạt, la mắng bệnh nhân…
Do đó đối với nội dung chơi, cần phải quan tâm xem xét khía cạnh tích cực hay
tiêu cực của mảng hiện thực mà trẻ em tái tạo để từ đó có những cách thức tổ chức,
biện pháp tác động cho phù hợp với trẻ.
23


×