Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

TIỂU LUẬN ĐẦU TƯ QUỐC TẾ Tự do hóa đầu tư ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.93 KB, 54 trang )

z
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
TIỂU LUẬN
ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
*****************************
Đề tài:
“Tự do hóa đầu tư ở Việt Nam”
Giảng viên hướng dẫn: T.s Nguyễn Thị Việt Hoa.
Nhóm sinh viên thực hiện: Dương Thị Thu Trang
Nguyễn Lê Minh Hà
Nguyễn Thị Băng Phương
Phạm Thị Như Quý
Nguyễn Thị Cẩm Trang
Phạm Thị Hồng
Hà Nội, tháng 11/ 2014
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, trong mọi nền kinh tế trên thế giới, đầu tư nước ngoài luôn là
lĩnh vực quan trọng, đóng góp ngày càng lớn vào tăng trưởng kinh tế, thúc
đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, mở rộng thị trường xuất khẩu và tăng nguồn thu đáng kể cho ngân
sách Nhà nước, tạo vị thế vững chắc để quốc gia đó chủ động hội nhập với
kinh tế khu vực và thế giới.
Xét về những chính sách và biện pháp của chính phủ các nước đối với
hoạt động đầu tư nước ngoài, chúng ta thấy nổi lên là xu hướng tự do hóa
đầu tư. Việc hiểu thêm về tự do hóa đầu tư sẽ cho chúng ta có cái nhìn tổng
quan về đầu tư trên quan điểm từng quốc gia cũng như trên phương diện
toàn cầu. Đó cũng là lí do nhóm chúng em thực hiện bài tiểu luận với đề tài
mang tên: ”Tự do hóa đầu tư ở Việt Nam.”
Kết cấu bài viết gồm ba phần lớn:
Phần I: Tự do hóa đầu tư đơn phương
Phần II: Tự do hóa đầu tư song phương


Phần III: Tham gia các tổ chức khu vực và quốc tế
Trong quá trình thực hiện bài viết, chúng em đã cố gắng tổng hợp và
tìm hiểu nhiều nguồn tài liệu để có được bài viết với chất lượng tốt nhất.
Tuy nhiên, do thời gian để hoàn thành bài không nhiều và với lượng kiến
thức còn hạn chế, nên chắc chắn, chúng em sẽ không tránh khỏi có những
thiếu sót trong bài làm của mình. Chúng em rất mong sẽ nhận được những
đóng góp từ phía cô và các bạn để bài viết được hoàn chỉnh hơn nữa.
Chúng em xin chân thành cảm ơn./.
Phần I : Tự do hóa đơn phương ở Việt Nam
Trước khi đi vào cụ thể các chính sách tự do hóa đơn phương ở Việt
Nam, cần làm rõ khái niệm " tự do hóa đầu tư".
" Tự do hóa đầu tư là quá trình trong đó các rào cản đối với hoạt
động đầu tư, các phân biệt đối xử trong đầu tư được từng bước dỡ bỏ,
các tiêu chuẩn đối xử tiến bộ dần được thiết lập và các yếu tố để đảm
bảo sự hoạt động đúng đắn của thị trường được hình thành".
1. Loại bỏ các rào cản trong hoạt động đầu tư nước ngoài:
a, Xóa bỏ hạn chế liên quan đến tiếp nhận và thành lập:
Về cơ bản các nhà đầu tư nước ngoài được tự quyết định trong việc
tiếp cận thị trường Việt Nam. Điều 3 Luật ĐTNN 1987 quy định: " các nhà
đầu tư nước ngoài được đầu tư vào Việt Nam trong các lĩnh vực của nền
kinh tế quốc dân", tinh thần này tiếp tục được giữ nguyên trong Luật
ĐTNN 1996, Luật sửa đổi, bổ sung 2000 và gần đây nhất là Luật đầu tư
2005.
Bên cạnh đó các lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư cũng được mở
rộng. Về lĩnh vực ưu tiên, Luật đầu tư 2005 có thêm : Sản xuất vật liệu
mới, năng lượng mới; sản xuất sản phẩm công nghệ cao, công nghệ sinh
học, công nghệ thông tin; cơ khí chế tạo; làm muối; sản xuất giống nhân
tạo, giống cây trồng và giống vật nuôi mới; phát triển sự nghiệp giáo dục,
đào tạo, y tế, thể dục, thể thao và văn hóa dân tộc; phát triển ngành, nghề
truyền thống. Về địa bàn đầu tư ưu tiên, ngoài địa bàn có điều kiện kinh tế

- xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn
thì Luật còn bổ sung thêm mục khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công
nghệ cao, khu kinh tế.
Để đảm bảo an ninh và lợi ích quốc gia, Nhà nước Việt Nam đưa ra
lĩnh vực đầu tư có điều kiện và lĩnh vực cấm đầu tư. Danh mục cấm đầu tư
quy định tại Luật đầu tư 2005 hoàn toàn hợp lý, phù hợp với thông lệ quốc
tế. Danh mục đầu tư có điều kiện cũng được điều chỉnh theo hướng giảm
bớt các điều kiện.
Một điểm tiến bộ nữa trong chính sách là Việt Nam đang tiến đến
đơn giản hoá các thủ tục của hoạt động đầu tư. Việc cấp giấy phép đầu tư
không còn chỉ tập trung vào một đầu mối là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, mà đã
có sự phân cấp quyền hành cho các cơ quan quản lý cấp tỉnh. Luật đầu tư
2005, điều 46 nêu rõ: đối với dự án có vốn đầu tư nước ngoài có quy mô
vốn đầu tư dưới ba trăm tỷ đồng Việt Nam và không thuộc Danh mục lĩnh
vực đầu tư có điều kiện thì nhà đầu tư làm thủ tục đăng ký đầu tư tại cơ
quan nhà nước quản lý đầu tư cấp tỉnh để được cấp Giấy chứng nhận đầu
tư. Nếu như trước đây chỉ có một chế độ cấp đầu tư ( thẩm định cấp phép )
thì nay có thêm chế độ đăng ký cấp phép. Thời gian xem xét giấy cấp phép
đầu tư được rút ngắn. Trước đây quy định cơ quan cấp Giấy phép đầu tư
xem xét đơn và thông báo quyết định cho nhà đầu tư trong thời hạn 45
ngày đối với các dự án thuộc diện thẩm định cấp Giấy phép đầu tư, 30 ngày
đối với các dự án thuộc diện đăng ký cấp Giấy phép đầu tư, kể từ ngày
nhận được hồ sơ hợp lệ ( điều 60- Luật sửa đổi bổ sung Luật đầu tư nước
ngoài 2000), nay thời gian rút xuống còn 15 ngày đối với cấp giấy chứng
nhận đầu tư và 30 ngày để thẩm tra đầu tư ( điều 46,47 Luật đầu tư 2005).
Trước đây Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1987 và 1996 chỉ
cho phép ba hình thức đầu tư gồm : hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp
đồng hợp tác kinh doanh; xí nghiệp hoặc Công ty liên doanh, gọi chung là
xí nghiệp liên doanh; xí nghiệp 100% vốn nước ngoài. Từ năm 2000, danh
mục các hình thức đầu tư đã được mở rộng. FDI được phép tiến hành dưới

hình thức chia tách, sáp nhập. Ngoài ra, Luật đầu tư 2005 còn bổ sung thêm
các hình thức đầu tư gián tiếp như: Mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và
các giấy tờ có giá khác; thông qua quỹ đầu tư chứng khoán; thông qua các
định chế tài chính trung gian khác,
b, Xóa bỏ hạn chế về vốn và quyền kiểm soát của nước ngoài
Quy định Trước đây Hiện tại
Phần vốn góp của
Bên nước ngoài
hoặc các Bên nước
ngoài vào vốn pháp
định của doanh
nghiệp liện doanh
Không dưới 30% vốn pháp định (
Luật ĐTNN 1987, 1996 và Luật
sửa đổi bổ sung luật ĐTNN tại
Việt Nam 2000)
Có thể thấp
hơn, thậm chí
là 20% nếu đc
sự đồng ý của
cơ quan quản lí
nhà nước.
Số lượng thành viên
mỗi bên tham gia
HĐQT
- Trong TH liên doanh 2 bên, thì
mỗi bên có ít nhất 2 thành viên
trong Hội đồng quản trị.
- Trong TH liên doanh nhiều bên,
thì mỗi bên có ít nhất 1 thành

viên trong Hội đồng quản trị.
- Tổng Giám đốc hoặc Phó Tổng
Giám đốc thứ nhất là công dân
Việt Nam.
( Theo quy định của Luật ĐTNN
1987, 1996 và Luật sửa đổi bổ
sung luật ĐTNN tại Việt Nam
2000)
Luật ĐT 2005
Không quy
định
Nguyên tắc nhất trí
trong việc thông qua
các quyết định của
HĐQT
- Quyết định theo nguyên tắc nhất
trí giữa các thành viên HĐQT có
mặt tại cuộc họp.
- Quyết định theo nguyên tắc biểu
quyết quá bán số thành viên
HĐQT có mặt tại cuộc họp.
(Theo quy định của Luật ĐTNN
1987, 1996 và Luật sửa đổi bổ
sung luật ĐTNN tại Việt Nam
2000)
Luật 2005
Không quy
định
Ngoài ra, bên nước ngoài không còn phải ưu tiên chuyển nhượng vốn
cho doanh nghiệp Việt Nam. Hợp đồng chuyển nhượng vốn không cần sự

xem xét phê duyệt của cơ quan cấp giấy phép đầu tư như trước đây.
c, Xóa bỏ những hạn chế về hoạt động:
Quy định
Luật sửa đổi bổ sung
Luật đầu tư tại Việt
Nam 2000
Luật đầu tư 2005
Hạn chế liên
quan đến
tuyển dụng và
sử dụng lao
động
- Điều 25: phải ưu tiên
tuyển dụng công dân Việt
Nam; chỉ được tuyển
dụng người nước ngoài
làm những công việc đòi
hỏi trình độ kỹ thuật và
quản lý mà Việt Nam
chưa đáp ứng được,
- khoản 3- điều 14: Thuê lao
động trong nước; thuê lao
động nước ngoài làm công
việc quản lý, lao động kỹ
thuật, chuyên gia theo nhu
cầu sản xuất, kinh doanh, trừ
trường hợp điều ước quốc tế
mà Cộng hòa xã hội chủ
nhưng phải đào tạo lao
động Việt Nam thay thế.

nghĩa Việt Nam là thành viên
có quy định khác thì áp dụng
quy định của điều ước quốc
tế đó
Hạn chế về
thương mại:
về nhập khẩu
máy móc thiết
bị
- Điều 31:Phải ưu tiên
mua sắm thiết bị, máy
móc, vật tư, phương tiện
vận tải tại Việt Nam
trong điều kiện kỹ thuật,
thương mại như nhau.
Khoản 2 điều 8 : Không bắt
buộc nhà đầu tư phải:
Ưu tiên mua, sử dụng hàng
hóa, dịch vụ trong nước hoặc
phải mua hàng hóa, dịch vụ
từ nhà sản xuất hoặc cung
ứng dịch vụ nhất định trong
nước.
Về quản lý ngoại hối: Điều 16- Luật đầu tư 2005 quy định:
1. Nhà đầu tư được mua ngoại tệ tại tổ chức tín dụng được quyền kinh
doanh ngoại tệ để đáp ứng cho giao dịch vãng lai, giao dịch vốn và các
giao dịch khác theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối.
2. Chính phủ bảo đảm cân đối hoặc hỗ trợ cân đối ngoại tệ đối với một
số dự án quan trọng trong lĩnh vực năng lượng, kết cấu hạ tầng giao thông,
xử lý chất thải

Như vậy Việt Nam không yêu cầu nhà đầu tư nước ngoài phải tự cân
đối ngoại hối như trước đây.
Về chính sách giá cả: Quyết định 53/1999/QĐ-TT đánh dấu việc
xoá bỏ cơ chế hai giá đối với dịch vụ và cơ sở hạ tầng tại Việt Nam. Từ
ngày 1 tháng 7 năm 1999, giá các loại dịch vụ từng bước được điều chỉnh
theo hướng giảm dần chênh lệch và tiến tới áp dụng chung một giá cho khu
vực có vốn FDI và các doanh nghiệp trong nước.
=>Đánh giá: Việt nam lần đầu tiên ban hành điều lệ về đầu tư nước
ngoài năm 1977 mang thiện chí thu hút ĐTNN vào Việt Nam, tuy nhiên
với điều kiện bấy giờ Việt Nam vừa thống nhất hai miền Nam - Bắc chưa
xây dựng, củng cố được nền kinh tế nên còn rất dè dặt, chưa dám mở cửa
cho ĐTNN. Đến năm 1987, Việt Nam ban hành Luật ĐTNN và tiếp đó là
những lần sửa đổi bổ sung vào năm 1990, 1992, 1996, 2000, và Luật hiện
hành là Luật đầu tư 2005.
Việc ban hành Luật Đầu tư 2005 đã tạo bước tiến dài trong việc
điều chỉnh, cải tiến môi trường đầu tư của Việt Nam để tạo thêm hấp dẫn
đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, việc đẩy mạnh tháo gỡ những
khó khăn vướng mắc cho các nhà đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh việc thực
hiện cơ chế một cửa, nâng cấp cơ sở hạ tầng, mở rộng lĩnh vực đầu tư, cho
phép các doanh nghiệp nước ngoài được đầu tư vào một số lĩnh vực trước
đây chưa cho phép như viễn thông, bảo hiểm, kinh doanh siêu thị, ngân
hàng… cũng góp phần tạo nên một môi trường đầu tư hấp dẫn hơn ở Việt
Nam.
Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế:
Về thủ tục hành chính, Việt Nam đã thành lập " Bộ phận tiếp nhận
và trả lại kết quả'' tại các cơ quan hành chính nhà nước, nhằm cắt giảm
những thủ tục phiền hà sách nhiễu đối với việc đăng kí của các nhà ĐT
nước ngoài. Tuy nhiên, việc thực hiện cơ chế một của ở nước ta thực hiện
chưa đến nơi, còn nhiều bất cập. Thứ nhất là do một số quy định, chính
sách còn xung đột. Thứ hai, thủ tục hành chính do Chính phủ và các bộ,

ngành ban hành còn phức tạp và chồng chéo. Thứ ba, sự phối hợp giữa các
đơn vị chức năng chưa tốt khiến nhiều hồ sơ chưa được trả đúng hẹn. Cơ
chế một cửa mới chỉ được áp dụng với những dự án vào khu công nghiệp,
những dự án này chỉ cần thông qua Ban quản lý KCN, khu chế xuất, khu
công nghệ cao.
Từ năm 2000, FDI được tiến hành dưới hình thức chia tách, sáp
nhập, tuy nhiên hình thức M&A vẫn chưa thực sự phổ biến. các thương vụ
M&A tăng lên qua các năm nhưng so với thế giới thì còn rất chênh lệch,
các vụ M&A hiệu quả chưa cao do thiếu hiểu biết về hình thức này còn hạn
chế ở Việt Nam. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng gặp thách thức về hiệu
quả sử dụng lao động và hiệu quả quản lí doanh nghiệp M&A, thêm vào đó
là những bất đồng về văn hoá. Theo các chuyên gia, hệ thống pháp luật
điều chỉnh hoạt động M&A tại VN vẫn còn chồng chéo và chưa thực sự rõ
ràng.
2. Các ưu đãi cho nhà đầu tư nước ngoài mang tính phân biệt đối xử
từng bước được điều chỉnh
Luật thuế TNDN 1999 phân chia làm hai mục là ưu đãi thuế với
nhà đầu tư nước ngoài,và trong nước riêng biệt. Đến năm 2008,luật thuế
TNDN không còn sự phân biệt này.
Thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp FDI trước
đây mức tối đa là 25%, trong khi đối với doanh nghiệp trong nước là 32%,
sau đó Việt nam đã xoá bỏ ưu đãi này đối với DN FDI để dùng chung một
mức thuế phổ thông cho tất cả các doanh nghiệp ở VN
Việc hoàn thuế thu nhập đối với nhà đầu tư dùng lợi nhuận chia
được tái đầu tư ở việt nam được quy định ở Luật thuế TNDN 1999, cũng bị
xóa bỏ ở luật thuế TNDN 2008.
Tuy nhiên hiện nay Việt Nam vẫn còn duy trì một số ưu đãi về thuế
như miễn thuế thu nhập DN cho các DN mới thành lập, giảm thuế TNDN,
chuyển lỗ, thành lập KV đặc biệt trong đó áp dụng các chế độ thuế thấp
hoặc miễn thuế, khấu hao nhanh, giảm thuế nhập khẩu.

Ngoài những ưu đãi về thuế, còn có những ưu đãi về tài chính như:
miễn giảm thuế đất hay hỗ trợ về đào tạo lao động…
Có thể lấy một ví dụ về những chính sách ưu đãi đầu tư vào các khu
công nghiệp Thừa Thiên Huế
Tỉnh Thừa Thiên Huế khuyến khích tất cả tổ chức, cá nhân thuộc các
thành phần kinh tế trong nước, có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào các
Khu công nghiệp.
1. Ưu đãi về đất đai:
- Các dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng Khu công
nghiệp được thuê đất với đơn giá thuê đất được áp dụng mức giá thấp nhất
theo qui định tại Nghị định số 121/NĐ-CP của Chính phủ, được cụ thể hoá
tại quyết định công bố giá đất hàng năm của UBND tỉnh và được miễn tiền
thuê đất 11 năm kể từ ngày xây dựng hoàn thành, đưa dự án vào hoạt động.
- Đối với các Khu công nghiệp có đầu tư hạ tầng kỹ thuật: Đơn giá
cho thuê lại đất đã có hạ tầng KCN bình quân từ 0,5 - 0,75USD/m2/năm
2. Ưu đãi về thuế :
- Thuế thu nhập doanh nghiệp: Đối với các dự án đầu tư vào Khu công
nghiệp Tứ Hạ, huyện Hương Trà; Khu công nghiệp Phong Điền huyện
Phong Điền; Khu công nghiệp La Sơn huyện Phú Lộc; Khu công nghiệp
Phú Đa huyện Phú Vang, KCN Quảng Vinh huyện Quảng Điền: mức thuế
suất là 20% trong thời gian 10 năm và được miễn thuế 2 năm, giảm 50% số
thuế phải nộp trong 4 năm tiếp theo đối với doanh nghiệp thành lập mới từ
dự án.
- Thuế nhập khẩu: Dự án được miễn thuế nhập khẩu hàng hoá để tạo
tài sản cố định đối với hàng hoá nhập khẩu theo quy định tại Nghị định số
87/2010/NĐ-CP ngày 13/8/2010 của Chính phủ. Trường hợp nhập khẩu
thiết bị đã qua sử dụng phải tuân thủ các quy định có liên quan của pháp
luật Việt Nam.
- Các loại thuế khác: thực hiện theo quy định hiện hành tại thời điểm
nộp thuế hàng năm.

3. Chính sách một giá: Áp dụng chính sách một giá đối với các loại
phí: giá nước sạch, nước thô, phí thu gom rác, phí xây dựng và các loại phí
khác thuộc thẩm quyền quyết định của UBND tỉnh.
4. Hỗ trợ các dự án đầu tư xây dựng, kinh doanh kết cấu hạ tầng
khu công nghiệp:
- Về giao thông: UBND tỉnh hỗ trợ 60% giá trị dự toán xây dựng
đường giao thông đến chân tường rào các khu công nghiệp: Tứ Hạ huyện
Hương Trà, Phú Đa huyện Phú Vang, Quảng Vinh huyện Quảng Điền,
Phong Điền huyện Phong Điền, La Sơn huyện Phú Lộc.
=>Đánh giá: Ưu đãi sẽ giúp các chủ đầu tư giảm được chi phí
hoặc tăng lợi nhuận hoặc hạn chế rủi ro. Khi xây dựng các chính sách ưu
đãi, nhà nước muốn tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư qua đó tăng cường
thu hút dòng vốn này vào một số ngành, lĩnh vực, địa bàn. Trên thực tế
những ưu đãi này có giúp tăng cường thú hút đầu tư hay không còn là vấn
đề gây tranh cãi và chưa được kiểm chứng.
Hơn thế, các biện pháp ưu đãi thường dẫn đến những ảnh hưởng
hạn chế gián tiếp. Chúng chỉ thường dành cho một số doanh nghiệp nhất
định để bù lại việc doanh nghiệp đáp ứng được những yêu cầu về hoạt
động hay như một biện pháp gián tiếp nhằm quản lí hay điều tiết sự phân
bổ vốn đầu tư. Xu hướng tự do hóa đầu tư đòi hỏi phải xóa bỏ những ưu
đãi này vì thực chất chúng cũng gây ra những sai lệch và bóp méo thị
trường.
Việt nam đã xóa bỏ được một sô ưu đãi mang tính phân biệt đối xử,
và đang dần thiết lập nên môi trường đầu tư công bằng, có tính trạnh canh
hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh đó Việt Nam vẫn đang đơn phương đề ra rất
nhiều ưu đãi dành cho các nhà đầu tư nước ngoài, trong các bộ luật như
luật đầu tư 2005, luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008. Điều này vi phạm
một nguyên tắc trong xu hướng tự do hóa đầu tư, gây cản trở tự do hóa đầu
tư theo đúng nghĩa.

2. Thiết lập các tiêu chuẩn tiến bộ đối với hoạt động đầu tư nước
ngoài
Để có một cái nhìn rõ hơn về tình hình tự do hóa đầu tư đơn phương của
Việt Nam, chúng ta hãy đi vào so sánh tình hình Việt Nam so với các thông
lệ quốc tế.
a. Tiêu chuẩn không phân biệt đối xử.
Theo nguyên tắc chung Ở Việt Nam
-Theo tiêu chuẩn này, việc đưa ra
những điều kiện nhằm đặt một
quốc gia khác hay một pháp nhân
của quốc gia đó vào vị trí kém
thuận lợi hơn một quốc gia hoặc
pháp nhân thứ ba được xem là
hành động phi pháp.
- Tiêu chuẩn này bao gồm MFN-
nguyên tắc tối huệ quốc, nghĩa là
các bên hợp tác dành cho nhau
những thuận lợi và ưu đãi không
kém thuận lợi và ưu đãi mà một
bên đang dành cho nước thứ ba,
và nguyên tắc đối xử quốc gia
NT nghĩa là cam kết dành cho
hàng hóa, công dân, công ty
nước kia những ưu đãi trên thị
trường nội địa không kém như
cho hàng hóa, công dân và công
ty nước mình
- Nhận thức được điều đó, trong
mục 2 điều 19, Luật Đầu tư 2005
đã quy định, các nhà đầu tư có

quyền “Tiếp cận, sử dụng các
dịch vụ công theo nguyên tắc
không phân biệt đối xử” mà cụ
thể hơn trong mục 1 điều 14 có
nhắc đến: Nhà đầu tư có quyền
“bình đẳng trong việc tiếp cận, sử
dụng các nguồn vốn tín dụng, quỹ
hỗ trợ; sử dụng đất đai và tài
nguyên theo quy định của pháp
luật”.
- Cụ thể, Việt Nam đã áp dụng NT
cho FDI trong một số vấn đề hàng
hóa dịch vụ. Đồng thời, trong
Công văn 0622/BTM–PC (ngày
26.1.2007), Việt Nam đã có thỏa
thuân tối huệ quốc với 164 quốc
gia và vùng lãnh thổ, trong đó 122
nước và vùng lãnh thổ là thành
viên của WTO; 27 nước thuộc liên
minh châu Âu; 15 nước và vùng
lãnh thổ chưa là thành viên WTO.
=>> Đánh giá: : Hiện nay Việt Nam vẫn đang là một nước nghèo, hệ thống
DN trong nước đa số còn nhỏ về quy mô , yếu và thiếu về các nguồn lực,
chưa đủ sức cạnh tranh thì việc đối xử bình đẳng giữa doanh nghiệp trong
nước và nước ngoài còn chưa đựng nhiều nguy hiểm. Có thể phải một thời
gian dài nữa thì Việt Nam mới có thể mở rộng cánh cửa hoàn toàn cho các
nhà đầu tư nước ngoài.
b. Sử dụng các công cụ quốc tế để giải quyết tranh chấp.
Nguyên tắc chung Ở Việt Nam
Các nước nhận đầu tư không được

giới hạn các tranh chấp nảy sinh
giữa các nhà đầu tư với Nhà nước
nhận đầu tư; giữa Nhà nước chủ
đầu tư và Nhà nước nhận đầu tư ,
hai bên chỉ được giải quyết bằng
tòa án và trọng tài nước mình.
Nội dung này được Luật Đầu tư
2005 đề cập ở điều 12, trong đó
quy định khi xảy ra tranh chấp
giữa một bên là nhà đầu tư nước
ngoài hoặc có vốn đầu tư nước
ngoài, hoặc tranh chấp giữa các
nhà đầu tư nước ngoài với nhau
được thỏa thuận và chọn ra một cơ
quan đứng ra giải quyết tranh chấp
như là tòa án Việt Nam, trọng tài
Việt nam, trọng tài nước ngoài,
trọng tài quốc tế, trọng tài do các
bên tranh chấp thành lập. Cụ thể
hơn, Đối với Việt Nam, các tranh
chấp giữa Nhà nước va chủ đầu tư
theo hợp đồng BTO, BOT, BT là
loại tranh chấp có đặc thù riêng.
Các tranh chấp này phải giải quyết
qua thương lượng, hòa giải; nếu
không được sẽ đưa ra giải quyết tại
hội đồng trọng tài do hai bên thỏa
thuận thành lập; thủ tục trọng tài
và pháp luật áp dụng phải tuân
theo như trong hợp đồng kí kết.

Như vậy, các nước chủ đầu tư mới
có cơ hội tiếp cận cơ chế giải
quyết tranh chấp một cách công
bằng.
c. Các quy định về chuyển tiền.
Nguyên tắc chung Ở Việt Nam
Để đảm bảo các chủ đầu tư được
hưởng lợi nhuân từ dự án đầu tư
nước ngoài, các nước cho phép
việc thanh toán chuyển đổi hoặc
chuyển về nước các khoản tiền liên
quan đến hoạt động đầu tư nước
ngoài.
Việt Nam không hạn chế việc các
nhà đầu tư chuyển những khoản
thu nhập hợp pháp ra nước ngoài.
Trong bộ Luật đầu tư 2005, Điều 9
ở chương II có đề cập đến việc
chuyển vốn và tài sản ra nước
ngoài. TRong đó quy định rõ các
khoản tiền hợp pháp ra nước
ngoài, bao gồm: lợi nhuận thu
được từ hoạt động kinh doanh;
những khoản tiền trả cho việc cung
cấp kĩ thuật, dịch vụ, sở hữu trí
tuệ; tiền gốc, lãi các khoản vay
nước ngoài; vốn đầu tư, các khoản
thanh lí đầu tư và các khoản tiền
và tài sản khác thuộc quyền sở hữu
hợp pháp của nhà đầu tư.

d. Quy định về tính minh bạch, công khai, rõ ràng:. Việc công
bố các thông tin minh bạch rõ ràng vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ
các bên.
Nguyên tắc chung Ở Việt Nam
Trong quá trình đầu tư, các bên
tham gia đầu tư nhận được những
thông tin đầy đủ về các bên còn lại
để phục vụ cho quá trình ra quyết
định và thực hiện nghĩa vụ, cam
kết. Chính phủ các nước phải cam
kết rõ ràng sẽ công bố và cập nhật
thường xuyên thông tin về môi
trường pháp lí, cơ chế chính sách,
thủ tục… có liên quan đến đầu tư.
Bản thân chủ các dự án đầu tư phải
công khai một số thông tin liên
quan về dự án và hoạt động của dự
án.
- Việt Nam đã bảo đảm quyền
tự do lựa chọn kinh doanh theo
hướng công bố rõ ràng các lĩnh
vực và ngành mà pháp luật
không hạn chế hoặc khuyến khích
đầu tư, đông thời bộ luật đầu tư
2005 còn đưa ra các lĩnh vực
không được cấp phép đầu tư như
trong Điều 30 đã đề cập: các dự
án gây phương hại đến an ninh
quốc phòng, quốc gia và lợi ích
công cộng; các dự án gây hại tới

các di tích lịch sử, văn hóa đạo
đức, thuần phong mĩ tục của Việt
Nam; các dự án gây ảnh hưởng
sức khỏe nhân dân, hủy hoại tài
nguyên, phá hủy môi trường và
Các dự án xử lý phế thải độc hại
đưa từ bên ngoài vào Việt Nam;
sản xuất các loại hóa chất độc hại
hoặc sử dụng tác nhân độc hại bị
cấm theo điều ước quốc tế.
- Ngoài ra, trong Mục I
chương VI Luật đầu tư 2005,
Điều 46 có quy định các điều
kiện trong thủ tục đối với các dự
án có vốn đầu tư nước ngoài và
thời hạn quy định cho các dự án
đó. Các thủ tục được công khai
minh bạch sẽ giúp cho các chủ
đầu tư dễ dàng hơn trong quá
trình tìm hiểu.
- Đồng thời, Việt Nam đã rà
soát các văn bản pháp luật bao
gồm cả đầu tư nước ngoài để
công bố công khai những văn
bản đã hết hiệu lực pháp luật,
tránh chồng chéo gây mâu thuẫn
trong quá trình đầu tư nước
ngoài. Xét đến các lĩnh vực nhà
nước khuyến khích đầu tư, Luật
đầu tư nước ngoài 1996 chỉ quy

định 5 mục là các lĩnh vực được
ưu đãi khi đầu tư, và đến bộ Luật
thay thế 2005 đã mở rộng ra một
số danh mục khác như các ngành
liên quan đến giáo dục, y tế, thể
dục thể thao và các ngành phát
triển nghề truyền thống.
- Đồng thời Việt Nam đã xem
xét mức độ tương thích với các
cam kết quốc tế để xây dựng kế
hoạch soạn thảo và công bố văn
bản mới phù hợp hơn. Ví dụ,
trước đây Luật Doanh Nghiệp
2005 quy định tỷ lệ số phiếu đủ
điều kiện để thông qua một quyết
đinh của Hội đồng thành viên
hoặc Đại hội đồng cổ đông từ
mức 51 % lên 65-75% tổng số
vốn nhằm mục đích bảo vệ quyền
lợi các cổ đông tối thiểu( Nâng
mức tỉ lệ tối đa cần thiết lên 65-
75 % để những cổ đông có cổ
phần ít cũng có quyền tham gia
quyết đinh) Nhưng các thành viên
WTO lại cho rằng quy định này
có thể vô hiệu quyền quản lí của
các nhà đầu tư nước ngoài tại các
doanh nghiệp hoạt động trong
những ngành dịch vụ mà Việt
Nam chỉ cam kết cho phép vốn sở

hữu nước ngoài tối đa là 51% và
thậm chí thấp hơn( những ngành
này là những ngành nhạy cảm
như truyền thông, chuyển phát
nhanh, in ấn, phân phối dược
phẩm, xăng dầu ) Vì vậy, Phụ
lục ban hành kèm theo Nghị
quyết số 76/2006/QH11 ngày
29/11/2006 của Quốc hội cam kết
cho phép doanh nghiệp tự thỏa
thuận trong điều lệ các điều kiện
và phương thức thông qua mọi
quyết định của mình và áp dụng
trực tiếp cam kết này để thay thế
các quy định tương ứng về vấn đề
này tại Luật Doanh nghiệp năm
2005. Điều này chứng tỏ, Việt
nam đã có những thay đổi trong
các văn bản pháp luật để tương
thích với các cam kết quốc tế.
e. Bảo hộ khỏi việc tước đoạt quyền sở hữu: Đây là mối quan
tâm hàng đầu của các nhà đầu tư khi đầu tư vào một nước.
Nguyên tắc chung Ở Việt Nam
Luật pháp các nước phải cam kết
không quốc hữu hóa, trưng thu,
trưng dụng tài sản của các nhà
đầu tư nước ngoài khi họ đầu tư
vào nước mình.
Tuân theo thông lệ chung ấy,
Luật Đầu tư 2005, Điều 6 quy

định bảo đảm về vốn và tài sản,
nêu rõ Vốn đầu tư và tài sản hợp
pháp của nhà đầu tư không bị
quốc hữu hóa, không bị tịch thu
bằng biện pháp hành chính.
Trường hợp thật cần thiết vì lý
do quốc phòng, an ninh và lợi
ích quốc gia, Nhà nước trưng
mua, trưng dụng tài sản của nhà
đầu tư thì nhà đầu tư được thanh
toán hoặc bồi thường theo giá thị
trường tại thời điểm công bố
việc trưng mua, trưng dụng.
3. Tăng cường các biện pháp giám sát thị trường để đảm bảo sự vận
hành đúng đắn của thị trường.
Trong khi hai biện pháp trên là trọng tâm trong quá trình tự do hóa
đầu tư, thì toàn bộ tác động của chúng lại phụ thuộc vào yếu tố này.
Nguyên tắc chung Ở Việt Nam
Theo tiêu chuẩn quốc tế, nội
dung này được thực hiện thông
qua việc thiết lập các quy định
về cạnh tranh, chống độc quyền;
công khai hóa thông tin; giám
sât thị trường; trong đó, chính
sách cạnh tranh vẫn là vấn đề
trung tâm.
Điều 13 trong Luật cạnh tranh
có quy định về các hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường
bị cấm, như là Cấm bán hàng

hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá
thành toàn bộ nhằm loại bỏ các
đối thủ ra khỏi thị trường, hay
áp đặt giá cho khách hàng hoặc
áp đặt điều kiện cho doanh
nghiệp khi kí kết hợp đồng Tuy
chưa có văn bản về pháp luật cụ
thể được thi hành về việc chống
độc quyền, nhưng Việt Nam đã
cho thấy những nỗ lực trong
việc tạo ra môi trường cạnh
tranh, hạn chế độc quyền.
HHI là chỉ số đo lường quy mô doanh nghiệp trong mối tương quan với
ngành và là chỉ báo về mức độ tập trung kinh tế. Theo bảng số liệu, chỉ số
HHI giảm dần qua các năm cho thấy một sự dịch chuyển từ thị trường còn
độc quyền sang thị trường cạnh tranh trong một số ngành.
Sự gia nhập của các doanh nghiệp mới, chủ yếu là các doanh nghiệp tư
nhân có vốn đầu tư nước ngoài đã phân tán cấu trúc thị trường trước đây
nằm dưới quyền kiểm soát của các doanh nghiệp nhà nước lớn
- Để có được môi trường cạnh tranh lành mạnh trong đầu tư, chúng ta
cần giám sát thị trường chặt chẽ: Giám sát thị trường là điều quan
trọng để tránh có những hiện tượng như đồng loạt làm giá như năm
2008, Hiệp hội Thép Việt Nam ra nghị quyết ấn định giá bán (yêu
cầu các thành viên 13,7- 14 triệu đồng/tấn thép), vụ Hiệp hội Bảo
hiểm Việt Nam thống nhất nâng mức phí bảo hiểm lên 3,95%/năm
cho tất cả các đối tượng khách hàng.
=> Đánh giá: Về việc tạo ra môi trường cạnh tranh chống độc quyền
hoàn toàn, Việt Nam vẫn chưa làm được. Điều 12 trong Luật cạnh tranh
có định nghĩa: “Doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không
có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp

đó kinh doanh trên thị trường liên quan.” Thế nhưng, so với các nước
trên thế giới thì ở Việt Nam có sự khác biệt lớn về hoạt động của các
doanh nghiệp độc quyền; tức không phải do sự hoạt động cạnh tranh
dẫn đến độc quyền mà là do tác động của chính sách Nhà nước. Vì Việt
Nam đang phát triển một nền kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa
xã hội nên các chính sách kinh tế phần nào còn ảnh hưởng bởi chính trị,
có liên quan tới một số ngành nhạy cảm( viễn thông, xăng dầu, …) mà
bị chi phối trực tiếp bởi nhà nước.
 TÓM LẠI: Tuy còn những điều chưa phù hợp và quá trình thực hiện
chưa triệt để, Việt Nam đã, đang và sẽ đưa ra những biện pháp và chính
sách tương thích với yêu cầu của quá trình tự do hóa đầu tư nước ngoài.
Phần II. Tự do hóa đầu tư song phương.
1. Tổng quan về các cam kết quốc tế song phương về đầu tư nước
ngoài của Việt Nam
 Tính đến nay, chính phủ Việt Nam đã ký kết Hiệp định song
phương về khuyến khích và bảo vệ đầu tư với 46 nước và
vùng lãnh thổ:
(Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài (FIA) – Bộ kế hoạch và đầu tư)
 Bên cạnh đó, với Hoa Kỳ, tuy chưa có hiệp ước chính thức về
khuyến khích và bảo hộ đầu tư, nhưng Chương phát triển quan hệ
đầu tư trong hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ cũng có nội
dung tương tự như một hiệp định song phương hoàn chỉnh về
khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa hai nước.
Nguồn: ICSID: Trung tâm quốc tế về giải quyết các tranh chấp đầu tư
Nhận xét:
o Nếu chỉ xét riêng về số lượng hiệp định song phương về đầu
tư đã ký kết, so với các nước trong khu vực như Lào,
Campuchia, Singapore, Việt Nam hơn hẳn các nước này, với
46 hiệp định được ký kết từ năm 1990 đến nay. Tuy nhiên,
nhìn ra thế giới, so với Trung Quốc, Anh và Bắc Ailen, số

lượng hiệp định mà Việt Nam đã ký kết chỉ bằng một nửa các
nước này. Điều đó phần nào cho thấy mức độ tự do hóa đầu tư
song phương của Việt Nam ở mức trung bình so với các quốc
gia khác
o Về mặt chất lượng: Trong các hiệp định song phương về đầu
tư đã ký kết, Việt Nam đã cam kết thực hiện các biện pháp
khuyến khích và bảo hộ đầu tư phù hợp với những tiêu chuẩn
và tập quán quốc tế thông dụng, cụ thể sẽ được trình bày và
đánh giá ở các mục ngay sau đây.
2. Đánh giá việc loại bỏ dần những rào cản và những ưu đãi mang
tính phân biệt đối xử trong hoạt động đầu tư thể hiện trong các
hiệp định song phương.
a. Mức độ tự do hóa đầu tư song phương trong việc loại bỏ
những rào cản và ưu đãi đầu tư còn thấp.
Trong hầu hết các hiệp định đầu tư song phương được ký kết giữa Việt
Nam và đối tác nước ngoài, nhất là trong giai đoạn trước năm 2000, vấn đề
loại bỏ những rào cản và ưu đãi mang tính phân biệt đối xử trong hoạt động
đầu tư chỉ được quy định dẫn chiếu áp dụng pháp luật quốc gia của mỗi
bên ký kết đối với việc tiếp nhận đầu tư mà không được quy định cụ thể
trong hiệp định.
Ví dụ trong Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và Chính phủ Malaixia về Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư
(21/01/1992) chỉ quy định “Mỗi Bên ký kết Hiệp định sẽ khuyến khích và
tạo những điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư của Bên ký kết kia đầu tư trên
lãnh thổ của mình và sẽ chấp thuận việc đầu tư đó phù hợp với pháp luật,
quy định và các quyết định hành chính của mình.”
Trong tất cả các khía cạnh như quyền tiếp nhận và thành lập; yêu cầu về
vốn và quyền kiểm soát (tỷ lệ góp vốn tối thiểu, tỷ lệ góp vốn tối đa, yêu
cầu về chuyển nhượng vốn, quyền kiểm soát…); hạn chế trong hoạt động
khi doanh nghiệp đã được thành lập (vấn đề tuyển dụng và sử dụng lao

động, rào cản thương mại, yêu cầu chuyển giao công nghệ…); các ưu đãi
trong hoạt động đầu tư đều chỉ được hai bên ký kết cam kết thực hiện trên
nguyên tắc công bằng, thỏa đáng, không gây phương hại bằng biện pháp
bất hợp lý và phân biệt đối xử.
Sự mơ hồ, không cụ thể của các cam kết trong hiệp định chứng tỏ mức
độ tự do hóa đầu tư song phương chưa cao.
b. Một số những tiến bộ thể hiện trong các hiệp định
 Những cam kết cụ thể hơn trong một số hiệp định

×