Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

nghiên cứu tác động của sở hữu chéo đến việc tuân thủ quy định về bảo đảm an toàn hoạt động của Ngân hàng thương mại, khuyến nghị giảm tình trạng SHC, hạn chế tác động tiêu cực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (688.14 KB, 62 trang )

i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn trích dẫn và số liệu
sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ chính xác cao nhất trong phạm vi
hiểu biết của tôi. Luận văn này không nhất thiết phản ánh quan điểm của trường Đại học
Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh hay Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright.
Tác giả luận văn
Nguyễn Đức Mậu
ii
TÓM TẮT
Giai đoạn 2006-2011 chứng kiến sự tăng trưởng mang tính bùng nổ của hệ thống ngân
hàng Việt Nam về cả số lượng và vốn. Cùng với sự tăng trưởng là việc gia tăng sở hữu
chéo trong ngành ngân hàng với việc hàng loạt các ngân hàng thương mại nhà nước lẫn cổ
phần, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp phi nhà nước tham gia sở hữu các ngân
hàng. Trục trặc của hệ thống ngân hàng liên tục phát sinh, bộc lộ với việc các ngân hàng
thương mại dùng sở hữu chéo để lách, không tuân thủ các quy định bảo đảm an toàn hoạt
động.
Sử dụng lý thuyết ủy quyền thừa hành (principal agent), luận văn đã chỉ ra ngân hàng là
doanh nghiệp đặc thù có quan hệ xung đột ủy quyền thừa hành lớn nhất và vì vậy cần phải
được giám sát chặt chẽ bởi cơ quan quản lý nhà nước. Do đó NHNN - cơ quan giám sát
ngân hàng ở Việt Nam đã ban hành các quy định về bảo đảm an toàn hoạt động với năm
nội dung giám sát chính. Đó là các nội dung giám sát về vốn điều lệ tối thiểu và tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu, giới hạn tín dụng, giới hạn góp vốn cổ phần và đầu tư, đảm bảo khả
năng chi trả, phân loại nợ và trích dự phòng rủi ro. Việc tuân thủ các quy định bảo đảm an
toàn hoạt động vì lợi ích của toàn xã hội nhưng sẽ tạo ra phí tổn cho các ngân hàng. Vì vậy
các ngân hàng có động cơ để hình thành cấu trúc sở hữu chéo nhằm lách các quy định bảo
đảm an toàn hoạt động.
Số liệu thống kê tổng hợp và các nghiên cứu tình huống cho thấy chỉ trong một thời gian
ngắn (2006-2011) sở hữu chéo đã hình thành rất phức tạp trong hệ thống ngân hàng Việt
Nam. Thứ nhất, các tổng công ty, tập đoàn nhà nước, tư nhân có sở hữu ngân hàng. Thứ
hai, các ngân hàng thương mại nhà nước và cổ phần cũng sở hữu các ngân hàng. Tác động


tiêu cực của sở hữu chéo đã được chỉ ra từ việc phân tích các số liệu thống kê và các
nghiên cứu tình huống. Đó là việc sở hữu chéo giúp: (i) NHTM tăng vốn ảo, vô hiệu hóa
các quy định về vốn pháp định của các NHTM; (ii) NHTM cấp vốn cho người có liên
quan, từ đó vô hiệu hóa quy định về giới hạn tín dụng; (iii) NHTM vẫn có thể tham gia đầu
tư chứng khoán vì vậy vô hiệu hóa quy định giới hạn đầu tư, góp vốn cổ phần nhằm tách
bạch hoạt động NH đầu tư ra khỏi hoạt động của NH thương mại; (iv) NHTM có thể
chuyển các khoản nợ xấu thành tài sản có khác thông qua việc chuyển nợ xấu sang các
công ty con, công ty liên kết. Từ đó vô hiệu hóa quy định về báo cáo chất lượng tín dụng
và trích dự phòng rủi ro.
iii
Trên cơ sở của các phân tích này, luận văn đã đề ra ba nhóm khuyến nghị. Thứ nhất, cần
tách bạch sở hữu và giám sát đối với các NHTMNN. Theo đó, NHNN cần được độc lập
trong việc giám sát các NHTMNN, qua đó mà xoá bỏ được các ngoại lệ trong việc giám
sát các NHTMNN. Đồng thời, cần giảm tỷ lệ sở hữu của nhà nước tại các NHTMNN. Thứ
hai, giảm sở hữu chéo trong khu vực ngân hàng. Đối với các NHTMMNN và các DNNN,
việc thoái vốn sẽ thực hiện thông qua tổ chức trung gian. Đối với các NHTMCP, việc thoái
vốn sẽ thực hiện thông qua hoạt động mua bán sáp nhập (M&A). Thứ ba, thông qua kỷ
luật thị trường về công bố thông tin, tăng cường giám sát cổ đông lớn và tăng cường chế
tài đi kèm để hạn chế tác động tiêu cực của sở hữu chéo. Theo đó, cần định nghĩa lại về
người có liên quan. Thêm vào đó, cần hạ thấp tỷ lệ sở hữu ngân hàng phải công bố thông
tin (từ mức hiện hành 5% xuống 1%). Việc mở rộng diện công bố thông tin về đối tượng
và tỷ lệ nắm giữ sẽ giúp cơ quan giám sát ngân hàng có thông tin đầy đủ hơn về cấu trúc sở
hữu của mỗi ngân hàng. Đồng thời, chế tài xử lý với các trường hợp vi phạm tỷ lệ sở hữu
ngân hàng của cổ đông hay nhóm cổ đông hoặc công bố thông tin cần được nâng cao. Sau
cùng, nhằm giảm tác động tiêu cực của sở hữu chéo, NHNN cần thực hiện việc giám sát
các cổ đông tổ chức: (i) đang nắm giữ từ 5% cổ phần của một ngân hàng hoặc (ii) là người
có liên quan, hoặc là công ty liên kết của một nhóm cổ đông nắm giữ từ 5% cổ phần của
một NHTM như các tổ chức tín dụng.
iv
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
i TÓM TẮT ii
MỤC LỤC iv
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT vi
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ viii
DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC ix
CHƯƠNG 1 1
TỔNG QUAN VÀ VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH 1
1.1 Hệ thống ngân hàng Việt Nam 1
1.1.1 Tăng trưởng về số lượng 1
1.1.2 Tăng vốn của hệ thống NHVN 1
1.1.3 Sự hình thành và gia tăng sở hữu chéo 2
1.2 Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi chính sách 3
1.2.1. Mục tiêu nghiên cứu 3
1.2.2. Câu hỏi nghiên cứu 3
1.3 Phạm vi nghiên cứu 3
1.4 Cấu trúc luận văn 3
CHƯƠNG 2 5
KHUNG PHÂN TÍCH 5
2.1. Mối quan hệ sở hữu – điều hành 5
2.1.1. Chi phí ủy quyền của vốn cổ phần 6
2.1.2. Chi phí ủy quyền của nợ 7
2.2. Các quy định bảo đảm an toàn hoạt động đối với các NHTM ở VN 8
2.2.1 Vốn của NHTM 8
2.2.2 Giới hạn tín dụng 9
2.2.3 Giới hạn đầu tư, góp vốn cổ phần 10
2.2.4 Đảm bảo khả năng chi trả 10
2.2.5 Phân loại nợ, trích dự phòng rủi ro 10
v
2.3. Vấn đề SHC giữa các NH và giữa DN với NH 11

2.3.1 SHC trên thế giới 11
2.3.2 SHC ở Việt Nam 13
CHƯƠNG 3 18
SỞ HỮU CHÉO CỦA NHTM VIỆT NAM VÀ TÁC ĐỘNG 18
3.1 Thực trạng cấu trúc sở hữu của các NHTM 18
3.1.1 Sở hữu chéo của các NHTMNN 18
3.1.2 SHC giữa DNNN và NHTM 20
3.1.3 SHC giữa NH với NH và giữa DN với NH trong các NHTMCP. 24
3.1.4 SHC của ACB, Eximbank và STB 24
3.2 Tác động của SHC tới việc không tuân thủ giám sát của các NHTM 25
3.2.1 Vấn đề không tuân thủ khung giám sát của các NHTMNN 25
3.2.2 Vấn đề không tuân thủ khung giám sát của các NHTMCP 27
CHƯƠNG 4 37
KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH VÀ KẾT LUẬN 37
4.1 Các khuyến nghị nhằm tách bạch sở hữu và giám sát đối với NHTMNN 37
4.1.1 Tách bạch sở hữu và giám sát 37
4.1.2 Xóa bỏ ngoại lệ trong việc tuân thủ khung giám sát 37
4.1.3 Giảm tỷ lệ sở hữu Nhà nước tại các NHTMNN 38
4.2 Các khuyến nghị nhằm giảm SHC 38
4.2.1 Đối với các DNNN và các NHTMNN đang sở hữu các NHTMCP 38
4.2.2 Đối với các NHTMCP 39
4.3 Các khuyến nghị nhằm hạn chế tác động tiêu cực của sở hữu chéo 39
4.3.1. Định nghĩa lại khái niệm người có liên quan từ ba mối quan hệ 42
4.3.2 Quy định về công bố thông tin 42
4.3.3 Chế tài 42
4.3.4 Giám sát cổ đông tổ chức sở hữu ngân hàng 43
KẾT LUẬN 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO 46
PHỤ LỤC 50
vi

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT
AMC : Công ty Quản lý Tài sản
BKS : Ban Kiểm soát
BCTC : Báo cáo tài chính
CAR : (Capital Adequacy Ratio)
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
CEO : (Chief Executive Officer)
Tổng Giám đốc
DN : Doanh nghiệp
DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước
HĐQT : Hội đồng quản trị
KTT : Kế toán trưởng
NCTH : Nghiên cứu tình huống
NH : Ngân hàng
NHVN : Ngân hàng Việt Nam NHTM
: Ngân hàng Thương mại NHTMNN :
Ngân hàng Thương mại Nhà nước NHTMCP :
Ngân hàng Thương mại Cổ phần NHNN :
Ngân hàng Nhà nước
P.TGĐ : Phó Tổng Giám đốc
SHC : Sở hữu chéo
TGĐ : Tổng Giám đốc
TV.BKS : Thành viên Ban Kiểm soát
TV. HĐQT : Thành viên Hội đồng Quản trị
VN : Việt Nam
DANH SÁCH CÁC NGÂN HÀNG
Ngân
hàng
Mã NH
1

NHTMCP An Bình ABB An Binh Bank
2
NHTMCP Á Châu ACB Asia Commercial Bank
3
NH Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam AGRB Agribank
vii
4
NH Đầu Tư và Phát triển Việt Nam BIDV BIDV
5
NHTMCP Bảo Việt BVB Bao Viet Bank
6
NHTMCP Công Thương Việt Nam CTG VietinBank
7
NHTMCP Đại Á DAB DaiA Bank
8
NHTMCP Đại Dương DCB OceanBank
9
NHTMCP Đông Á EAB DongA Bank
10 NHTMCP Xuất Nhập Khẩu EIB Eximbank
11 Ngân hàng TMCP Bản Việt GDB Gia Dinh Bank
12 NHTMCP Dầu Khí Toàn Cầu GB GP Bank
13 NHTMCP Nhà Hà Nội HBB Habubank
14 NHTMCP Phát triển TP.HCM HDB HDBank
15 NHTMCP Kiên Long KLB Kien Long Bank
16 NHTMCP Bưu điện Liên Việt LVB LienVietBank
17 NHTMCP Quân đội MBB MBBank
18 NHTMCP Phát triển Mê Kông MDB Mekong Development Bank
19 NH Phát triển Nhà ĐBSCL MHBB MHB Bank
20 NHTMCP Hàng Hải MSB MaritimeBank
21 NHTMCP Nam Á NAB Nam A Bank

22 NHTMCP Bắc Á NASB North Asia Bank
23 NHTMCP Nam Việt NVB Nam Viet Bank
24 NHTMCP Phương Đông OCB ORICOMBANK
25 NHTMCP Xăng dầu Petrolimex PGB PG Bank
26 NHTMCP Phương Nam PNB Southern Bank
27 SCB sáp nhập SCB Saigon Commercial Bank
28 NHTMCP Đông Nam Á SEAB SeaBank
29 NHTMCP Sài Gòn Công thương SGB SAIGONBANK
30 NHTMCP Sài Gòn – Hà nội SHB SH Bank
31 NHTMCP Sài Gòn Thương Tín STB Sacombank
32 NHTMCP Đại Tín TB Trust Bank
33 NHTMCP Kỹ thương TCB Techcombank
34 NHTMCP Tiên Phong TPB Tien Phong Bank
35 NHTMCP Việt Á VAB Viet A Bank
36 NHTMCP Ngoại Thương Việt Nam VCB Vietcombank
37 NHTMCP Quốc Tế VIB VIBBank
38 NHTMCP Việt Nam Thịnh vượng VPB VPbank
39 NHTMCP Việt Nam Thương tín VTTB VietBank
40 NHTMCP Phương Tây WEB Western Bank
x
NHTMCP Đệ Nhất
FCB
Ficombank
y
NHTMCP Sài Gòn SCB
z
NHTMCP Việt Nam Tín Nghĩa TNB Vietnam Tin Nghia Bank
viii
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình 2.1 Tam giác quan hệ ủy quyền – thừa hành 6

Hình 2.2 SHC giữa NHTMNN và DNNN
13
Hình 2.3 SHC giữa hai NHTM 15
Hình 2.4 SHC giữa NH – doanh nghiệp 16
Hình 3.1 Cơ cấu sở hữu của các NHTMNN 19
Hình 3.2 SHC giữa DNNN và NHTM 21
Hình 3.3 Thành ủy và UBND TP.HCM sở hữu NHTM 22
Hình 3.4 Cơ cấu SHC giữa ACB, Eximbank, Sacombank và một số NHTMCP nhỏ 23
Hình 3.5 SHC giữa NHTMNN và DNNN 26
Hình 3.6 ACB đầu tư cho ACBS thông qua NH Đại Á 28
Hình 3.7 SHC giữa ACB và 3 NHTMCP: Đại Á, Kiên Long và Việt Nam Thương Tín 29
Hình 3.8 SHC giữa Geleximco, EVN và ABB
31
Hình 3.9 Hợp nhất ba NH 33
ix
DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC
Phụ lục 1 Số lượng ngân hàng giai đoạn 1991 – 2005 50
Phụ lục 2 Quy định về vốn pháp định của các NHTM 50
Phụ lục 3 Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro hiện hành 51
Phụ lục 4 Sở hữu chéo giữa ACB, Đại Á, Kiên Long và Việt Nam Thương Tín 51
Phụ lục 5 Hệ thống Ngân hàng Việt Nam 52
x
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VÀ VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH
Hệ thống ngân hàng (NH) là trung gian tài chính quan trọng trong nền kinh tế. Trong một
nền kinh tế mà thị trường chứng khoán chưa phát triển như Việt Nam (VN), hệ thống NH
đóng vai trò then chốt trong việc tài trợ vốn cho nền kinh tế. NH nhận tiền gửi từ các
nguồn nhàn rỗi, thẩm định rủi ro và tài trợ vốn cho các dự án của các cá nhân, doanh
nghiệp (DN) trong nền kinh tế. Một hệ thống NH hoạt động hiệu quả góp phần to lớn vào
việc thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững. Giai đoạn 2006-2011 đã chứng kiến sự

tăng trưởng mang tính chất bùng nổ của hệ thống ngân hàng Việt Nam (NHVN).
1.1 Hệ thống ngân hàng Việt Nam
1.1.1 Tăng trưởng về số lượng
Năm 1990, Pháp lệnh NH, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính được ban hành. Theo
tinh thần của Pháp lệnh này, hệ thống NHVN chính thức hình thành. Tại thời điểm 1990
toàn hệ thống chỉ có 4 NH Thương mại Nhà nước (NHTMNN) là NH Công thương VN,
NH Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn VN, NH Ngoại thương VN và NH Đầu tư và
Phát triển VN.
Bắt đầu từ 1991, hệ thống NHVN tăng trưởng mạnh mẽ về số lượng. Các NH thương mại
cổ phần (NHTMCP) nông thôn và đô thị liên tục được thành lập. Số lượng NH trong hệ
thống, bao gồm NHTMNN và NHTMCP, đã tăng từ 4 vào năm 1990 lên 8 vào năm 1991,
rồi 45 vào năm 1993, và 56 vào năm 1997 (chi tiết xem trong Phụ lục 1). Giai đoạn từ
1997 đến 2005, số lượng NH thương mại (NHTM) trong hệ thống tương đối ổn định. Từ
năm 2006, ngành NH chứng kiến hàng loạt NHTMCP được chuyển đổi từ các NHTMCP
nông thôn cùng với 3 NHTMCP được mới thành lập là Tiên Phong, Liên Việt và Bảo Việt
(chi tiết xem trong Phụ lục 5).
1.1.2 Tăng vốn của hệ thống NHVN
Cùng với sự gia tăng số lượng là vốn của các NHTM tăng lên mạnh mẽ. Với việc hội nhập
sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu của nền kinh tế Việt Nam, ngành NHVN cần sẵn sàng
cạnh tranh với các NH nước ngoài. Vì vậy, nhằm tăng cường khả năng tài chính của hệ
2
thống NH, Chính phủ đã ban hành quy định về lộ trình tăng vốn pháp định của các NHTM
(chi tiết trong Phụ lục 2)
1
.
1.1.3 Sự hình thành và gia tăng sở hữu chéo
Giai đoạn 2005 -2007, chứng kiến sự bùng nổ của thị trường chứng khoán VN, trong đó cổ
phiếu NH trong thời kỳ này trở thành loại cổ phiếu được ưa chuộng hàng đầu. Cổ đông của
các NH đồng lòng tăng vốn với kỳ vọng bán lại được cổ phiếu mới để hưởng thặng dư.
Các đợt phát hành cổ phần nhằm tăng vốn chủ sở hữu của các NHTMCP diễn ra hàng năm.

Sự hứng khởi của thị trường chứng khoán và các quy định về vốn pháp định của NHTM đã
làm vốn của mỗi NH và toàn hệ thống tăng lên nhanh chóng (chi tiết xem Phụ lục 5).
Quá trình tăng vốn nhanh chóng của các NHTMCP trong thời gian ngắn đi cùng với gia
tăng sở hữu chéo (SHC) trong ngành NH với hai loại hình chính là NH sở hữu NH và
doanh nghiệp (DN) sở hữu NH. Cùng thời gian này (2005), nhiều tổng công ty nhà nước
được tổ chức thành tập đoàn và thực hiện chức năng kinh doanh đa ngành, trong đó có
ngân hàng. Chủ trương này từ chính phủ là cơ sở để hàng loạt tổng công ty, tập đoàn kinh
tế nhà nước tham gia sở hữu ngân hàng. Tại kỳ họp tháng 5 và tháng 6 năm 2012, trong Đề
án Tái cơ cấu do Chính phủ trình Quốc hội thì chức năng kinh doanh đa ngành của các tập
đoàn kinh tế nhà nước vẫn được giữ. Sở hữu chéo hiện đang phổ biến trong khu vực ngân
hàng Việt Nam và kéo theo một số tác động tiêu cực. Một số báo cáo của các cơ quan quản
lý nhà nước đã có cảnh bảo về tình trạng này
2
nhưng bức tranh cụ thể về SHC vẫn chưa
được đúc kết.
Các trục trặc của hệ thống NHTM dần bộc lộ rõ từ năm 2008 qua các vi phạm quy định về
bảo đảm an toàn hoạt động, cụ thể là về vốn, giới hạn tín dụng, thanh khoản và nợ xấu.
Điều này xảy ra trong khi hệ thống các quy định bảo đảm an toàn hoạt động của NHTM đã
được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) liên tục xây dựng, nâng cao và đã dần tiệm cận với
chuẩn mực quốc tế theo khuyến nghị Basel. Các vi phạm quy định an toàn hoạt động của
các NHTM đã được NHNN nắm bắt, ví dụ như “[n]hóm lợi ích và sở hữu chéo giữa các
TCTD rất lớn làm rủi ro hệ thống rất cao nếu một NH gặp khó khăn hoặc đổ vỡ”, “bằng
nhiều kỹ thuật khác nhau không ít đối tượng không tuân thủ các quy định an toàn hoạt
động tín dụng” và “[v]iệc kiểm tra, thanh tra để phát hiện và xử lý vấn đề sở hữu chéo rất
1
Nghị định 141.
2
“Định hướng và giải pháp cơ cấu lại hệ thống NH VN giai đoạn 2011- 2015”.
3
khó khăn do thiếu bằng chứng pháp lý”

3
. Tuy nhiên những bằng chứng cụ thể vẫn không
được đưa ra một cách rõ ràng và hơn thế nữa là cũng chưa xác định được liệu những hành
vi này có phạm luật hay không. Vấn đề chính sách cần nghiên cứu ở đây là việc SHC giúp
cho các NHTM lách các quy định về bảo đảm an toàn hoạt động thời gian qua.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi chính sách
1.2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn đặt mục tiêu nghiên cứu tác động của sở hữu chéo đến việc tuân thủ quy định về
bảo đảm an toàn hoạt động của NHTM, từ đó đề xuất các khuyến nghị chính sách nhằm
giảm tình trạng SHC trong hệ thống NHTM và hạn chế tác động tiêu cực của SHC.
1.2.2. Câu hỏi nghiên cứu
 Các NHTM VN hiện có cấu trúc sở hữu chéo lẫn nhau và với các DN phi NH như
thế nào?
 Cơ cấu sở hữu chéo có ảnh hưởng như thế nào đến việc không tuân thủ các quy
định về bảo đảm an toàn hoạt động?
1.3 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn sẽ tập trung vào phân tích cấu trúc sở hữu của 37 NHTMCP và 5 NHTMNN để
phân tích, đánh giá việc tuân thủ khung giám sát của các NHTM trong giai đoạn 2006 -
2011.
1.4 Cấu trúc luận văn
Chương 1 trình bày tổng quan về hệ thống NH Việt Nam, những trục trặc mà các NHTM
đang gặp phải, mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi chính sách của luận văn. Chương 2 trình
bày khung phân tích trong đó bao gồm mối quan hệ sở hữu – điều hành (principal agent),
chi phí ủy quyền của vốn cổ phần (agency cost of equity) và chi phí ủy quyền của nợ
(agency cost of debt). Tiếp theo luận văn trình bày những trục trặc nảy sinh từ mối quan hệ
ủy quyền trong lĩnh vực NH và việc giám sát NHTM nhằm hạn chế tác động tiêu cực của
mối quan hệ ủy quyền. Đồng thời khung phân tích về SHC được trình bày trong chương
này sẽ giải thích cho việc các NHTM không tuân thủ các quy định về bảo đảm an toàn hoạt
động. Chương 3 sử dụng số liệu thống kê tổng hợp và các nghiên cứu tình huống (NCTH)
3

“Định hướng và giải pháp cơ cấu lại hệ thống NH VN giai đoạn 2011- 2015” , đã dẫn
4
để trình bày hiện trạng SHC trong hệ thống NHVN cũng như phân tích tác động tiêu cực
của SHC trong việc các NHTM không tuân thủ các quy định về bảo đảm an toàn hoạt
động. Và sau cùng, Chương 4 đưa ra các khuyến nghị chính sách nhằm tách bạch sở hữu
và giám sát đối với NHTMNN, giảm SHC và hạn chế tác động tiêu cực của sở hữu chéo.
5
CHƯƠNG 2
KHUNG PHÂN TÍCH
2.1. Mối quan hệ sở hữu – điều hành
Như đã trình bày trong Chương 1, đối tượng nghiên cứu của luận văn là các NHTMNN và
NHTMCP. NH là một tổ chức tài chính trung gian, huy động vốn để cho vay. Do vậy, trục
trặc từ mối quan hệ người sở hữu – người điều hành (sau đây gọi là mối quan hệ ủy
quyền), theo đó người gửi tiền ủy thác cho NH để đầu tư tiền của mình, luôn hiện hữu. Vấn
đề này có thể gây ra các tổn hại cho người gửi tiền. Vì NH là một DN nên một xung đột lợi
ích nữa nảy sinh giữa bên ủy quyền là chủ sở hữu và bên được ủy quyền là người quản trị
và điều hành.
NHTMNN do nhân dân sở hữu, từ đó nảy sinh hai xung đột. Thứ nhất, chính phủ đại diện
cho người dân sở hữu NH nhưng có khi Chính phủ không hành động vì lợi ích của người
dân. Thứ hai, hội đồng quản trị và ban điều hành, những người được Chính phủ ủy quyền,
không phải luôn hành động vì lợi ích của chính phủ.
Đối với các NHTMCP, mối quan hệ ủy quyền nảy sinh hai vấn đề khác. Thứ nhất, cổ đông
lớn gây ảnh hưởng tới việc điều hành NH do đó mà làm tổn hại lợi ích của cổ đông thiểu
số. Thứ hai, do mâu thuẫn lợi ích giữa cổ đông và ban điều hành, ban điều hành của NH có
thể hành động không vì lợi ích của cổ đông. Tuy nhiên trong NHTMCP ở Việt Nam, các
cổ đông lớn dù trực tiếp hay gián tiếp luôn tham gia điều hành NH. Vì vậy, trục trặc nảy
sinh do xung đột giữa cổ đông lớn và ban điều hành không nhiều.
Jensen và Meckling (1976) đã định nghĩa “Quan hệ người sở hữu – người điều hành
(agency relationship) là một hợp đồng theo đó một hay nhiều người (người sở hữu) thuê
một người khác (người điều hành) thay mặt họ thực hiện một số dịch vụ và được phép đưa

ra quyết định có liên quan”. Hình 2.1 mô tả mối quan hệ ba chiều giữa cổ đông, người
quản lý và chủ nợ-người gửi tiền trong hoạt động của NHTM.
6
Hình 2.1: Tam giác quan hệ ủy quyền – thừa hành
Người quản

Cổ đông
Chủ nợ/Người gửi tiền
Nguồn: Tác giả tự vẽ theo Lý thuyết uỷ quyền - thừa hành
Để người điều hành thực hiện việc ủy quyền, người sở hữu phải trả công cho họ. Giả định
rằng mỗi cá nhân luôn hành động nhằm tối đa hóa lợi ích của mình, vì vậy không phải lúc
nào người điều hành cũng hành động vì lợi ích cao nhất của người sở hữu. Người sở hữu vì
vậy sẽ phải thiết kế các động cơ khuyến khích thích hợp (appropriate incentives) và phải
mất chi phí giám sát (monitoring expenditure) nhằm hạn chế hoạt động gây tổn hại lợi ích
cho mình từ người điều hành. Thêm vào đó, trong nhiều trường hợp, người điều hành sẽ
chấp nhận tiêu tốn các nguồn lực khác hoặc chịu chi phí ràng buộc (bonding cost) để đảm
bảo với người sở hữu rằng mình sẽ không có những hành động gây tổn hại cho họ hoặc
chấp nhận đền bù thiệt hại nếu mình thực hiện các hành động gây thiệt hại cho người sở
hữu. Do trong hầu hết các mối quan hệ giữa người sở hữu người điều hành luôn phát sinh
chi phí giám sát và chi phí ràng buộc, đồng thời luôn có sự khác biệt về lợi ích của các bên
nên phúc lợi của người sở hữu không được tối đa hóa. Do đó, những mâu thuẫn về lợi ích
này còn gây ra mất mát sau cùng (residual loss) cho lợi ích của người sở hữu. Tổng của chi
phí giám sát, chi phí ràng buộc và mất mát sau cùng gọi là chi phí ủy quyền (agency cost)
do chúng xuất phát từ mối quan hệ ủy quyền giữa người sở hữu và người điều hành. Xét về
cơ cấu vốn của doanh nghiệp, chi phí ủy quyền bao gồm chi phí ủy quyền của cổ phần
(agency cost of equity) và chi phí ủy quyền của nợ (agency cost of debt).
2.1.1. Chi phí ủy quyền của vốn cổ phần
Chi phí ủy quyền của vốn cổ phần phát sinh khi người điều hành - người quản lý thực hiện
các quyết định kinh doanh trên cơ sở cân nhắc lợi ích của mình thay vì lợi ích cao nhất của
người chủ sở hữu. Các hoạt động kinh doanh này thậm chí còn không thuộc ngành nghề

kinh doanh cốt lõi (core business) của DN hoặc sẽ làm cho DN phát triển cao hơn mức tối
ưu. Bằng việc thực hiện các hành động này, người quản lý sẽ tự gia tăng quyền hạn cho
mình thông qua việc được sử dụng và định đoạt nhiều nguồn lực hơn, làm tăng thu nhập do
tiền lương và thưởng của người quản lý thường gắn với doanh số, hay giảm rủi ro mất việc.
Trong hoạt động của NHTM, do việc người sở hữu-cổ đông không giám sát được các hoạt
động của người điều hành (nhà quản lý NH), dẫn đến việc người quản lý NH có thể lựa
chọn các dự án rủi ro để cho vay nhằm hưởng lợi ích cá nhân thay vì lựa chọn các dự án an
toàn. Cổ đông lớn thậm chí có thể yêu cầu tổng giám đốc NH cho vay, đầu tư theo chỉ định
hay dựa trên quan hệ của họ mà đúng ra các quyết định này phải dựa trên tính khả thi của
dự án và năng lực tài chính quản trị của người vay vốn. Cổ đông và nhiều người khác sẽ
gánh chịu thiệt hại nếu các hành động rủi ro này gây ra tổn thất.
2.1.2. Chi phí ủy quyền của nợ
Chi phí ủy quyền của nợ phát sinh từ mâu thuẫn về lợi ích giữa chủ nợ và cổ đông. Trong
một công ty có vay nợ bên ngoài, cổ đông có quyền quyết định việc thực hiện nghĩa vụ trả
nợ dựa vào hiệu quả các dự án đầu tư được tài trợ một phần hay toàn bộ bằng vốn vay. Lựa
chọn các dự án an toàn để đầu tư, cổ đông đảm bảo tốt hơn nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên sự
lựa chọn này chủ yếu mang lại giá trị cho chủ nợ khi hiệu quả thu được từ dự án, thường
không quá cao do dự án an toàn ít rủi ro, mà theo luật định lại luôn được ưu tiên hoàn trả
cho chủ nợ suất sinh lợi đòi hỏi. Cổ đông chỉ nhận phần giá trị còn lại sau khi đã thực hiện
nghĩa vụ nợ. Nếu dự án đầu tư có suất sinh lợi cao, cổ đông có nhiều giá trị còn lại sau khi
trả nợ hơn, từ đó nảy sinh vấn đề cổ đông luôn muốn lựa chọn các dự án rủi ro cao để có
suất sinh lợi cao. Trong kịch bản tốt, cổ đông vẫn chỉ phải trả cho chủ nợ gốc và lãi vay
theo hợp đồng, nhưng phần giá trị còn lại của họ lại lớn hơn nhiều so với trường hợp họ
lựa chọn dự án an toàn để tiến hành đầu tư. Ngược lại, trong trường hợp dự án thất bại, cổ
đông vẫn có thể lựa chọn việc không thực hiện nghĩa vụ trả nợ và chuyển giao quyền kiểm
soát công ty cho chủ nợ, theo nguyên tắc trách nhiệm hữu hạn.
Như vậy, trong công ty có vay nợ tồn tại một xung đột về lợi ích giữa cổ đông và chủ nợ
do cổ đông chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp nhưng được quyền sử dụng
vốn vay bên ngoài. Tỷ lệ vốn vay so với vốn chủ sở hữu càng cao, thiệt hại của vấn đề này
càng lớn.

8
NHTM với hoạt động chủ yếu là đi vay để cho vay. Nguồn vốn vay chủ yếu của NH chính
là tiền gửi trong nền kinh tế. Lượng tiền huy động từ dân cư và tổ chức của NHTM luôn
lớn gấp nhiều lần vốn điều lệ của NH. Do đó giám sát hoạt động của NHTM là chức năng,
nhiệm vụ quan trọng của cơ quan quản lý giám sát NH tại mỗi quốc gia.
2.2. Các quy định bảo đảm an toàn hoạt động đối với các NHTM ở VN
Như đã đề cập ở Chương 1, luận văn sẽ nghiên cứu việc tuân thủ các quy định đảm bảo an
toàn trong hoạt động của các NHTM. Những quy định này là cần thiết để kiểm soát xung
đột lợi ích trong các mối quan hệ ủy quyền - thừa hành.
Quy định hiện hành của VN về bảo đảm an toàn hoạt động của NHTM gồm các nội dung
giám sát về vốn, giới hạn tín dụng và giới hạn đầu tư góp vốn cổ phần, tỷ lệ khả năng chi
trả và việc phân loại nợ, trích dự phòng rủi ro. Các nội dung giám sát sẽ được lần lượt trình
bày dưới đây.
2.2.1 Vốn của NHTM
Vốn điều lệ của NHTM do cổ đông đóng góp. Đây chính là phần trách nhiệm hữu hạn của
cổ đông nhằm chia sẻ rủi ro trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của NH. Do trục trặc lớn
nảy sinh từ vấn đề chi phí ủy quyền của nợ trong hoạt động của các NH, nên ở nhiều nước
có quy định về mức vốn tối thiểu (vốn pháp định) đối với NHTM, theo đó vốn điều lệ của
NHTM phải lớn hơn vốn pháp định. Vốn của NH là nguồn tài chính dự phòng bù đắp rủi
ro phát sinh trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Từ năm 2011, theo quy định của
Chính phủ VN
4
, vốn pháp định của NHTMCP hoặc NHTMNN không được thấp hơn 3000
tỷ đồng.
Hướng tới chuẩn mực giám sát quốc tế theo Hiệp ước Basel, bên cạnh quy định về vốn
điều lệ tối thiểu, NHNN đã đưa ra quy định mới về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (capital
adequacy ratio - CAR) gồm CAR riêng lẻ và CAR hợp nhất. Theo quy định hiện hành
5
, tài
sản có được chia thành nhiều loại với mức độ rủi ro khác nhau từ 0% đến 250%. Các tài

sản đầu tư an toàn có hệ số rủi ro 0% trong khi các khoản đầu tư rủi ro nhất có hệ số 250%
gồm các khoản cho vay để đầu tư chứng khoán hoặc kinh doanh bất động sản. Đồng thời
vốn tự có cũng được chia thành vốn cấp 1và vốn cấp 2 với các thành phần được định nghĩa
4
Nghị định 141, đã dẫn.
5
Thông tư số 13.
9
cụ thể. Theo quy định này, từ tháng 10 năm 2010, CAR của các NHTM phải đạt 9%. Quy
định trước đây là chỉ là 8%,
6
với các phân chia sơ bộ về tài sản và vốn tự có. Nhằm ngăn
ngừa ảnh hưởng xấu từ hoạt động của công ty con, NHNN đã quy định về tỷ lệ an toàn vốn
hợp nhất đối với các NHTM.
7
2.2.2 Giới hạn tín dụng
Tín dụng là hoạt động kinh doanh truyền thống mang lại lợi nhuận chính cho các NHTM.
Do NH dùng tiền gửi huy động từ nền kinh tế để cho vay lại các khách hàng, nguyên tắc
đầu tiên quan trọng của hoạt động này là vốn vay phải được hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Từ
nguồn tiền trả nợ của người vay, NH hoàn trả tiền gửi và lãi cho người gửi tiền. Nếu người
vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, NH gặp khó khăn. Do đó, giám sát hoạt động tín
dụng là một trong các nội dung chính của cơ quan giám sát NH mà ở VN là NHNN.
Một trong những nguyên nhân quan trọng gây nên chất lượng nợ xấu là cho vay theo quan
hệ. Quyết định cấp tín dụng không dựa trên tính khả thi của phương án vay vốn mà dựa
trên mối quan hệ giữa bên cho vay và đi vay. Khi rủi ro xảy ra, người chịu tổn thất sau
cùng là người gửi tiền và cổ đông.
Thêm vào đó, trong nhiều trường hợp dù đã rất nỗ lực nhưng do hoạt động sản xuất kinh
doanh chịu thiệt hại từ các nguyên nhân khách quan, người vay vốn vẫn không trả nợ được
cho NH. Điều này gây rủi ro lớn cho NH vì tổ chức này luôn phải thực hiện nghĩa vụ hoàn
trả tiền gốc và lãi đúng hạn cho người gửi tiền.

Theo quy định hiện hành
8
NHTM phải xác định rõ một khách hàng và nhóm khách hàng
có liên quan, các đối tượng không được cấp tín dụng, những trường hợp không được cấp
tín dụng không có bảo đảm, cho vay ưu đãi, các đối tượng hạn chế cấp tín dụng. Cụ thể,
tổng dư nợ cho vay một khách hàng là không quá 15% vốn tự có của NHTM và tổng dư nợ
cho vay tối đa với một nhóm khách hàng có liên quan là 25% vốn tự có của NH. Khoản
đầu tư trái phiếu do DN phát hành cũng được tính gộp vào dư nợ tín dụng. Các NHTM
không được cấp tín dụng cho DN hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán mà
NHTM nắm quyền kiểm soát.
6
Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN.
7
Thông tư 13, đã dẫn.
8
Luật các tổ chức tín dụng 2010. Điều 4 khoản 28, Điều 126, 127, 128 và 129.
10
2.2.3 Giới hạn đầu tư, góp vốn cổ phần
Hoạt động đầu tư, góp vốn cổ phần thuộc lĩnh vực hoạt động NH đầu tư, không phải là
ngành nghề kinh doanh cốt lõi của NHTM. Để hạn chế trục trặc từ vấn đề chi phí ủy quyền
của vốn cổ phần, khung giám sát hiện hành quy định NHTM phải thành lập hoặc mua lại
công ty con để thực hiện các hoạt động kinh doanh NH đầu tư, cho thuê tài chính và bảo
hiểm.
9
Đồng thời Luật các tổ chức tín dụng
10
cũng quy định tỷ lệ góp vốn tối đa vào mỗi
công ty và tổng mức góp vốn, mua cổ phần của NHTM
11
. Các NHTM không được góp

vốn, mua cổ phần của NHTM là cổ đông, thành viên góp vốn của chính NHTM đó. Các
khoản đầu tư, góp vốn cổ phần này của NHTM phải loại ra khỏi vốn tự có khi tính các tỷ lệ
an toàn vốn tối thiểu.
2.2.4 Đảm bảo khả năng chi trả
NHTM huy động tiền gửi để cho vay. Do sự sai biệt kỳ hạn của tiền gửi và các khoản cho
vay, kỳ hạn của tiền gửi thường ngắn hơn kỳ hạn của khoản cho vay, nên NHTM luôn chịu
rủi ro thanh khoản. NHTM duy trì thanh khoản nhằm mục đích đảm bảo tiền gửi cho người
gửi tiền. Vì vậy, NHNN quy định các NHTM phải luôn đảm bảo khả năng chi trả
12
. Tỷ lệ
giữa tổng tài sản có thanh toán ngay và tổng nợ phải trả cho ngày hôm sau tối thiểu bằng
15%. Tỷ lệ giữa tổng tài sản có đến hạn trong 7 ngày tiếp theo và tổng nợ đến hạn thanh
toán trong vòng 7 ngày tối thiểu bằng 1.
13
Ngoài ra NHNN cũng quy định tỷ lệ sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn
tối đa là 30%
14
. Cũng từ năm 2010, NHNN quy định tỷ lệ cho vay trên tổng huy động của
các NHTM tối đa là 80%.
15
2.2.5 Phân loại nợ, trích dự phòng rủi ro
Khi hoạt động kinh doanh gặp rủi ro, quỹ dự phòng rủi ro cùng với vốn tự có là hai lá chắn
tài chính của NHTM. NHNN quy định, ít nhất mỗi quý một lần, các NHTM thực hiện phân
loại nợ gốc và trích lập dự phòng rủi ro đến thời điểm cuối ngày làm việc cuối cùng của
9
Luật các tổ chức tín dụng 2010 - Điều 103
10
Luật các tổ chức tín dụng 2010
11
Thông tư 13 - Điều 16 và Luật các tổ chức tín dụng 2010 - Điều 130, đã dẫn.

12
Luật các tổ chức tín dụng 2010 - Điều 130
13
Thông tư số 13, đã dẫn
14
Thông tư số 15/2009/TT – NHNN
15
Thông tư số 13, đã dẫn
11
quý (tháng) trước. Theo quy định hiện hành các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4 và 5 là nợ xấu
của NHTM (chi tiết xem Phụ lục 2.2.5).
NHNN quy định và giám sát việc phân loại nợ và trích lập dự phòng nhằm bảo đảm
NHTM không bị mất vốn. Đồng thời việc trích lập dự phòng cho các khoản nợ xấu làm
tăng chi phí, từ đó làm giảm lợi nhuận của NHTM. Người gửi tiền được bảo vệ quyền lợi
tốt hơn vì nếu một NHTM có lượng nợ xấu cao, NH đó không thể chia cổ tức. Ngoài năm
nội dung giám sát chính nêu trên, quy định về bảo đảm an toàn hoạt động của NHTM còn
một số nội dung khác, trong đó có hạn chế về kinh doanh bất động sản.
Khung giám sát của NHNN đã được ban hành và liên tục cập nhật, nâng cao nhằm giám
sát tốt hơn nữa hoạt động của các NHTM. Rất nhiều chỉ tiêu giám sát đã gần tiệm cận với
tiêu chuẩn giám sát theo khuyến nghị của Hiệp ước Basel. Về mặt lý thuyết, với mức độ
phát triển hiện tại, nếu các NHTM tuân thủ tốt các quy định hiện hành của khung giám sát
thì an toàn của cả hệ thống NH sẽ được đảm bảo. Tuy nhiên, NHTM phải chịu phí tổn để
tuân thủ khung giám sát và họ có thể có động cơ hình thành các cơ chế để không phải tuân
thủ. SHC là một trong những cơ chế này.
2.3. Vấn đề SHC giữa các NH và giữa DN với NH
2.3.1 SHC trên thế giới
Sở hữu chéo được định nghĩa là doanh nghiệp A sở hữu doanh nghiệp B và ngược lại
doanh nghiệp B sở hữu doanh nghiệp A. Alberto Onetti và Alessia Pisoni (2009) định
nghĩa sở hữu chéo ở Đức là việc các công ty, thuộc lĩnh vực công nghiệp và tài chính, nắm
giữ lâu dài cổ phần của nhau. Theo Scher (2001), sở hữu chéo ở Nhật Bản thường được

hiểu là việc hai hoặc nhiều công ty nắm giữ cổ phần của nhau.
Quan hệ SHC giữa NH và DN có ở nhiều nước trên thế giới và được đúc kết nhiều nhất tại
Đức và Nhật Bản. Trái lại, NH ở các quốc gia như Anh và Mỹ phần nhiều theo định hướng
thị trường nên quan hệ SHC không phổ biến.
Lập luận ủng hộ cho rằng SHC giữa NH và DN làm giảm bất cân xứng thông tin, qua đó
NH có thể hỗ trợ tốt hơn cho doanh nghiệp. Alberto Onetti và Alessia Pisoni (2009) cho
rằng SHC giữa NH, công ty bảo hiểm và các DN lớn và mối quan hệ gần gũi, liên kết giữa
thành viên hội đồng quản trị của các công ty khác nhau là đặc điểm chính của mối quan hệ
NH - DN ở Đức. Mô hình truyền thống này đã hỗ trợ dẫn dắt sự thành công của quá trình
12
công nghiệp hóa ở Đức, góp phần tạo nên một nền tảng công nghiệp ổn định. Quan hệ
SHC với các NH đảm bảo cho các DN sự ổn định về sở hữu cùng tính liên tục trong quản
trị doanh nghiệp. Đồng thời SHC cho phép NH nắm giữ quyền lực quan trọng trong các
DN từ đó tạo nên cho NH mạng lưới các mối quan hệ cá nhân, không phải luôn minh bạch,
với một số nhất định các nhà điều hành của các công ty khác nhau.
Tuy nhiên Alberto Onetti và Alessia Pisoni (2009) cũng chỉ ra rằng, do ảnh hưởng của tiến
trình toàn cầu hóa, đang hình thành một xu hướng hoạt động theo định hướng thị trường
của các NH Đức. Xu hướng truyền thống kiểm soát DN thông qua sở hữu chéo, mặc dù
đang giữ vai trò lớn, theo xu thế đang dần giảm đi tầm quan trọng.
Nghiên cứu về SHC ở Nhật Bản có một số đặc thù. Các công ty ở Nhật Bản thường thiết
lập quan hệ chặt chẽ với một NH (gọi là “main bank”). Các NH này cho vay và mua cổ
phần của các doanh nghiệp. Scher (2001) cho thấy hai lý do của việc tồn tại SHC giữa NH
và DN là duy trì mối quan hệ kinh doanh ổn định và duy trì yêu cầu đủ vốn. Mô hình
“main bank” đã đóng một vai trò nhất định trong sự thịnh vượng của kinh tế Nhật Bản kể
từ sau Chiến tranh thế giới 2. Tuy nhiên nghiên cứu của Scher cũng cho thấy mô hình
“main bank” không còn phù hợp từ những năm 1990 do đã góp phần tạo nên hậu quả xấu
cho nền kinh tế Nhật Bản. Cụ thể, do các NH không những thực hiện không tốt vai trò
giám sát các DN liên quan mà còn cấp một lượng tín dụng lớn, kém chất lượng cho các DN
này. Hậu quả là các NH chịu những khoản nợ xấu lớn và bị suy giảm vốn chủ sở hữu.
Thêm vào đó, việc giảm giá cổ phiếu của các DN liên quan mà NH nắm giữ sẽ ảnh hưởng

đến tỷ lệ CAR của các NH theo Hiệp ước Basel. Sau những nỗ lực tái cấu trúc tài chính
sau khủng hoảng, mức độ SHC trong các NH Nhật Bản đã giảm.
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998 cũng đã cho thấy tác động tiêu cực của
SHC tại các quốc gia Đông Á và là một trong những nguyên nhân dẫn đến nợ xấu NH và
sụp đổ tài chính. Claessens, Djankov và Lang (1999) đã xác định rõ mối quan hệ sở hữu tại
các DN lớn ở châu Á với các NCTH về sở hữu chéo. Các DN sở hữu gia đình lớn ở châu
Á đều nắm quyền kiểm soát các NHTM để có thể sử dụng các NH tài trợ cho các dự án của
mình và các công ty có liên quan, đi ngược lại tinh thần các quy định nhằm bảo đảm an
toàn hoạt động.
cấp
13
2.3.2 SHC ở Việt Nam
Gắn với phạm vi nghiên cứu của luận văn, sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng Việt
Nam được xác định là sở hữu hai chiều giữa NH-NH, giữa DN-NH, giữa nhóm cổ đông và
ngân hàng. Định nghĩa này có thể được coi là sở hữu chéo một cách trực tiếp, nhưng sở
hữu chéo có thể tồn tại một cách gián tiếp. Nếu một nhà đầu tư hoặc một nhóm các nhà đầu
tư hay một doanh nghiệp sở hữu cả ngân hàng A và ngân hàng B thì thực chất ngân hàng A
và ngân hàng B là sở hữu chéo của nhau.
Các hình thức SHC giữa NH-NH và giữa DN-NH ở VN được luận văn khái quát và minh
hoạ bằng ba sơ đồ sở hữu để sử dụng làm khung phân tích. Đó là SHC giữa NHTMNN và
DNNN, giữa các NHTMCP và giữa DN và NH.
2.3.2.1 SHC giữa NHTMNN và DNNN
Hình 2.2 SHC giữa NHTMNN và DNNN
CHÍNH PHỦ
NHNN
Sở hữu
Sở hữu
Quản lý
Tái
vốn

DNNN
NHTMNN
Cho vay quan hệ
Giám sát
Nguồn: Tác giả tự vẽ
Hình 2.2 minh họa việc DNNN và các NHTMNN có cùng chủ sở hữu. Điều này sẽ tạo
xung đột trong các quyết định của Chính phủ trong việc giám sát hoạt động của
NHTMNN. Một mặt NHTMNN phải tuân thủ khung giám sát để đảm bảo an toàn hoạt
14
động. Mặt khác, NHTMNN phải chịu sự chỉ đạo của Chính phủ trong việc cho vay các dự
án của các DNNN.
Là chủ sở hữu của NH, Chính phủ phải góp đủ vốn cho NHTMNN nhằm đáp ứng quy định
về an toàn vốn. Tuy nhiên NHNN, một cơ quan của Chính phủ, lại là người giám sát việc
thực hiện tuân thủ quy định này.
Tình huống thường gặp về việc NHTMNN không tuân thủ khung giám sát liên quan đến
quy định về dư nợ tín dụng tối đa cấp cho một khách hàng. Thực tế cho thấy những khoản
cho vay, đầu tư của NHTMNN vào DNNN vượt tỷ lệ vừa nêu sẽ được trình lên Chính phủ
và thường được phê duyệt. Khung giám sát trong trường hợp này không có nhiều hiệu lực.
Vì thực hiện theo chỉ đạo nên các khoản cấp tín dụng chỉ định cho DNNN sẽ tạo động cơ
cho NHTMN không báo cáo đầy đủ về nợ xấu liên quan đến các khoản vay của DNNN.
Sở hữu chéo giữa NHTMNN và DNNN cũng làm vô hiệu hoá quy định của khung giám
sát về thanh khoản. Bởi vì NHTMNN luôn có một tâm lý ỷ lại lớn (moral hazard) khi biết
rằng nếu mất thanh khoản NHTMNN sẽ luôn được Chính phủ chỉ đạo NHNN cho vay tái
cấp vốn để giải cứu.
Việc không tuân thủ khung giám sát của NHTMNN để lại hậu quả sau cùng là Chính phủ
phải dùng tiền đóng thuế của dân, những người uỷ quyền cho Chính phủ, giải cứu các
NHTMNN.
2.3.2.2 SHC giữa các NHTMCP
Về mặt lý thuyết, SHC giữa các NHTMCP được minh hoạ bằng Hình 2.3.
15

Hình 2.3 SHC giữa hai NHTM
Cổ đông
lớn
Cho vay
Cổ đông thiểu
số
Sở
hữu
Cổ đông thiểu
số
Ngân hàng
A
Sở hữu
Ngân hàng B
Người gửi tiền
Giám
sát
Tái
cấp
vốn
Người gửi tiền
NHNN
Nguồn: Tác giả tự vẽ
Phân tích về SHC giữa NH A và NH B cho thấy tác động tiêu cực gây nên tổn thất cho các
cổ đông thiểu số, người gửi tiền và cho toàn xã hội.
Một hoặc một nhóm cổ đông sở hữu cổ phần chi phối NH A yêu cầu NH A góp vốn hoặc
mua cổ phần lớn của NH B. Do nắm cổ phần lớn ở NH B, NH A có thể cử người vào hội
đồng quản trị (HĐQT) hay hỗ trợ nhân sự cao cấp tham gia điều hành. Do mối quan hệ
chặt chẽ giữa cổ đông của NH A và NH B, xuất hiện các hành động rủi ro. NH B cho vay
hoặc mua cổ phần của các công ty do cổ đông lớn của NH A sở hữu hoặc có liên quan.

Bằng sở hữu chéo, các NHTM đã không vi phạm các quy định về các hạn chế nhằm bảo
đảm an toàn hoạt động của NHTM. Đó là các quy định về những trường hợp không được
cấp tín dụng, hạn chế cấp tín dụng, giới hạn cấp tín dụng và quy định về giới hạn góp vốn,
mua cổ phần.
Đồng thời, theo lộ trình tăng vốn điều lệ của các NH theo quy định Nghị định 141 của
Chính phủ, cổ đông của NH A có thể vay vốn từ NH B để góp vốn vào NH mình đang sở
hữu. Việc đi vay để góp vốn vào các NHTM làm cho khung giám sát về vốn tự có tối thiểu
mất hiệu lực. Vì việc làm này nếu xảy ra phổ biến sẽ tạo nên việc tăng vốn ảo trong toàn hệ
thống NH. Các NHTM đã tăng vốn điều lệ nhưng năng lực tài chính không được nâng cao
tương ứng như mục tiêu đặt ra của chính sách.
16
Tổn thất, thiệt hại của các hoạt động lách luật trên sẽ lần lượt được phân tích sau đây. NH
A đầu tư mua cổ phần của NH khác không vì lợi ích của cổ đông mà vì lợi ích của các cổ
đông lớn của NH A làm thiệt hại đến các cổ đông thiểu số của NH. NH B thực hiện hành
động rủi ro là cho vay, đầu tư do quan hệ hoặc chỉ định. Khi rủi ro xảy ra, khoản cho vay
hay đầu tư bị lỗ, gây mất vốn. NH B khó khăn về thanh khoản. Mức độ thiệt hại của các
khoản cho vay hay đầu tư ngày càng lớn, NH B sẽ mất thanh khoản. Do Chính phủ không
muốn để các NH phá sản, NHNN sẽ phải tái cấp vốn cho NH B.
2.3.2.3 SHC giữa các NH và doanh nghiệp
Sở hữu chéo giữa NHTMCP và DN được minh hoạ tại Hình 2.4
Việc sở hữu một DN đang nắm cổ phần lớn tại NH C giúp cho cổ đông lớn của DN D hoặc
DN có liên quan của cổ đông này có thể nhận được khoản vay, đầu tư từ NH C không trái
với quy định của pháp luật. Trường hợp cổ đông này trực tiếp nắm cổ phần của NH, các
quyết định cho vay hay đầu tư của NH C sẽ không thực hiện được hoặc bị hạn chế, giám
sát chặt chẽ.
Thêm vào đó với khoản tín dụng được cấp bởi NH mà mình sở hữu, cổ đông có thể dùng
vốn vay để góp vốn lại vào chính NH hoặc vào NH khác. Việc này tạo nên việc tăng vốn
ảo trong hệ thống NH.
Hình 2.4 SHC giữa NH – doanh nghiệp
Cổ đông

lớn
Cho vay
Sở
hữu
Sở
hữu
Doanh nghiệp D
Ngân hàng
C
Giám
sát
Tái
cấp
vốn
NHNN
Nguồn: Tác giả tự vẽ

×