Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Hoàn thiện công tác quản lý xuất nhập khẩu ở cục hải quan thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.66 KB, 96 trang )

MỞ ĐẦU
Thế kỉ 20 đã khép lại, dân téc ta cùng với nhân loại đang bước vào
thiên niên kỉ mới - thế kỉ 21, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước
nhà đang đặt ra những yêu cầu rất khẩn trương, mới mẻ, trước nhiều thách
thức và cơ hội. Điều đó cũng có nghĩa là nhiệm vụ sắp tới của Hải quan
Việt nam sẽ có nhiều khó khăn và phức tạp.
Quản lý Nhà nước vụ Hải quan là một mặt của công tác quản lý Nhà
nước về kinh tế nó có vị trí quan trọng trong thực thi chính sách kinh tế
của Nhà nước, đặc biệt là đối với hoạt động xuất nhập khẩu.
Hải quan Việt nam là thành viên của tổ chức Hải quan thế giới đang
phấn đấu hướng tới mục tiêu "xây dựng Hải quan thành lực lượng chuyên
nghiệp có chuyên môn sâu và hiện đại, hoạt động minh bạch, liêm chính và
hiệu qủa cao".
Trải qua hơn nửa thế kỉ cùng sự ra đời của chế độ mới và sự phát
triển đất nước, Hải quan Việt nam được thành lập và không ngừng trưởng
thành về mọi mặt, ngày càng khẳng định vai trò và góp phần đắc lực vào
sự nghiệp đấu tranh giải phóng, thống nhất đất nước, đổi mới và phát triển
kinh tế, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự xã hội.
Qua mỗi giai đoạn cách mạng, nhiệm vụ và tên gọi Hải quan Việt
nam có những thay đổi nhất định cho phù hợp, nhưng vai trò "là một binh
chủng đặc biệt trên mặt trận kinh tế, chính trị, an ninh và đối ngoại". Như
đồng chí Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã khẳng định là không thay đổi.
Những thành tựu mà ngành Hải quan Việt nam đạt được trong 55
năm qua gắn bó máu thịt với các giai đoạn cách mạng dưới sự lãnh đạo
của Trung ương Đảng, sự điều hành của Chính phủ, sự phối hợp của các
ngành các địa phương, đùm bọc của nhân dân.
Hà nội là một trong những trung tâm kinh tế lớn của đất nước, nơi
có hoạt động xuất nhập khẩu khá sôi động với tốc độ tăng trưởng nhanh,
do vậy cũng đặt ra những nhiệm vụ nặng nề trong việc quản lý hoạt động
xuất nhập khẩu ở Cục Hải quan thành phố Hà nội.
Qua thời gian thực tập tại Cục Hải quan thành phố Hà nội, em thấy


vấn đề "Hoàn thiện công tác quản lý xuất nhập khẩu ở Cục Hải quan
thành phố Hà nội" là một yêu cầu cấp bách.
Đây là một đề tài rộng mang tính tổng quát, do trình độ và thời gian
còn nhiều hạn chế, bài viết này không tránh khỏi thiếu sót và còn nhiều vấn
đề liên quan khác chưa đề cập đến. Em rất mong nhận được ý kiến đóng
góp bổ Ých của thầy, cô giáo và độc giả để bài luận văn này có ý nghĩa
thực tiễn hơn
Cơ cấu luận văn tốt nghiệp gồm:
Chương I: Lí luận chung về quản lý xuất nhập khẩu.
Chương II: Thực trạng công tác quản lý xuất nhập khẩu ở Cục Hải
quan thành phố Hà nội những năm qua.
Chương III: Các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý hoạt
động xuất nhập khẩu của Cục Hải quan thành phố Hà
nội.
CHƯƠNG I
LÍ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ XUẤT NHẬP KHẨU
I. nội dung và hình thức chủ yếu của hoạt động xuất nhập khẩu
* Khái niệm
- Nhập khẩu là một hoạt động của thương mại quốc tế nhằm bù đắp
những hàng hoá, vật tư, nguyên liệu trong nước không có, hoặc sản xuất
chưa đủ, hoặc sản xuất kém hiệu quả
- Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động ngoại thương, trong đó
hàng hoá và dịch vụ được bán cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ.
1. Nội dung chủ yếu của hoạt động xuất nhập khẩu.
a. Nghiên cứu thị trường:
Đây là bước cơ bản, quan trọng, quyết định tới sự thành bại của một
doanh nghiệp tại một thị trường nhất định. Nghiên cứu thị trường bao gồm:
nghiên cứu về môi trường luật pháp, chính trị, kinh tế, văn hóa và con
người (hành vi tiêu dùng), môi trường cạnh tranh. Từ đó doanh nghiệp phải
tự điều chỉnh các hoạt động của mình sao cho thích nghi với những đòi hỏi

của thị trường.
b. Tạo nguồn hàng xuất khẩu:
Muốn xuất khẩu hàng hóa thì phải tạo nguồn hàng cho xuất khẩu.
Công tác tạo nguồn hàng xuất khẩu có thể chia thành 2 loại hoạt động
chính:
- Loại những hoạt động sản xuất và tiếp tục qúa trình sản xuất hàng
hóa cho xuất khẩu. Đối với doanh nghiệp sản xuất hàng hóa xuất khẩu thì
hoạt động này là cơ bản và quan trọng nhất.
- Loại những hoạt động nghiệp vụ phục vụ cho công tác tạo nguồn
hàng xuất khẩu, thường do các tổ chức ngoại thương làm chức năng trung
gian cho xuất khẩu hàng hóa.
c. Lùa chọn đối tác kinh doanh.
Để thâm nhập thành công thị trường nước ngoài, doanh nghiệp có
thể thông qua một hoặc nhiều công ty đang hoạt động tại thị trường đó. Các
công ty này có thể là công ty của nước sở tại hoặc công ty của nước khác
đang kinh doanh trên thị trường đó, nhưng doanh nghiệp nên lùa chọn các
công ty có kinh nghiệm uy tín trên thị trường để làm đối tác trong kinh
doanh. Doanh nghiệp khi lùa chọn đối tác kinh doanh phải tìm hiểu kĩ đối
tác thông qua các mối quan hệ bạn hàng sẵn có hoặc các công ty tư vấn, các
sở giao dịch hoặc văn phòng thương mại đặt tại nước xuất khẩu.
d. Đàm phán kí kết hợp đồng:
Đàm phán được thực hiện
- Chào hàng: là việc nhà kinh doanh giới thiệu mặt hàng xuất khẩu
cùng với những điều kiện bán hàng kèm theo.
- Hoàn giá (mặc cả): là khi người nhận được lời chào hàng không
chấp nhận mức giá chào hàng mà đưa ra mức giá mới để thương lượng.
- Chấp nhận: là sự đồng ý hoàn toàn tất cả các điều kiện mà bên kia
đưa ra.
- Xác nhận: là việc xác nhận lại những điều kiện mà hai bên đã thỏa
thuận trước đó.

Kết quả của cuộc đàm phán sẽ dẫn tới việc kí kết hợp đồng xuất
nhập khẩu là căn cứ pháp lý cho thương vụ giữa các bên.
e. Thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu:
Qúa trình thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu diễn ra sau khi hợp
đồng được kí kết, nó bao gồm các bước công việc sau:
- Xin giấy phép xuất nhập khẩu.
- Kiểm tra L/C xem có đúng với hợp đồng đã kí không.
- Chuẩn bị hàng để giao.
- Kiểm tra hàng hóa.
- Thuê hoặc ủy thác thuê tàu.
- Mua bảo hiểm (nếu cần).
- Làm thủ tục Hải quan.
- Làm thủ tục thanh toán.
- Khiếu nại trọng tài (nếu có).
2. Các hình thức xuất nhập khẩu.
2.1. Các hình thức xuất khẩu.
a. Xuất khẩu trực tiếp: là việc nhà sản xuất trực tiếp tiến hành các
giao dịch với khách nước ngoài thông qua các tổ chức của mình. Hình thức
này được áp dụng khi nhà sản xuất đủ mạnh để tiến tới thành lập tổ chức
bán hàng riêng của mình và kiểm soát trực tiếp thị trường. Tuy rủi ro kinh
doanh có tăng lên xong nhà sản xuất có cơ hội thu lợi nhuận nhiều hơn nhờ
giảm bớt các chi phí trung gian và nắm bắt kịp thời những thông tin về biến
động thị trường để có biện pháp đối phó.
b. Xuất khẩu gián tiếp: là việc nhà sản xuất thông qua dịch vụ của
các tổ chức độc lập đặt ngay tại nước xuất khẩu để tiến hành xuất khẩu các
sản phẩm của mình ra nước ngoài. Hình thức này được các doanh nghiệp
mới tham gia vào thị trường quốc tế áp dông. Ưu điểm của nó là doanh
nghiệp không phải đầu tư nhiều cũng như không phải triển khai lực lượng
bán hàng, các hoạt động xúc tiến, khuyếch trương ở nước ngoài. Hơn nữa
rủi ro cũng hạn chế vì trách nhiệm bán hàng thuộc về các tổ chức trung

gian. Tuy nhiên, phương thức này làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp do
phải chia sẻ với các tổ chức tiêu thụ, không liên hệ trực tiếp với nước
ngoài, vì thế nên nắm bắt thông tin về thị trường cũng bị hạn chế, dẫn đến
chậm thích ứng với các biến động thị trường.
c. Xuất khẩu theo nghị định thư (xuất khẩu trả nợ): đây là hình
thức mà doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu theo chỉ tiêu Nhà nước giao cho
về một hoặc một số hàng hóa nhất định do Chính phủ nước ngoài trên cơ sở
nghị định thư đã kí kết giữa hai Chính phủ. Hình thức này cho phép doanh
nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phí do nghiên cứu thị trường, tìm kiếm
bạn hàng, tránh sự rủi ro trong thanh toán.
d. Gia công quốc tế: là một hình thức kinh doanh theo đó một bên
nhập nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm (bên nhận gia công) của bên kia
(bên đặt gia công) để chế biến thành phẩm rồi giao lại cho bên đặt gia công
và nhận thù lao (tiền gia công). Đây cũng là hình thức đang phát triển mạnh
mẽ. Bởi vì thông qua gia công, các quốc gia này sẽ có điều kiện đổi mới,
cải tiến máy móc thiết bị và kĩ thuật công nghệ, tạo công ăn việc làm cho
người lao động, nâng cao năng lực sản xuất.
e. Tái xuất khẩu: là việc xuất khẩu những hàng hóa mà trước đây đã
nhập khẩu về nhưng vẫn chưa tiến hành các hoạt động chế biến. Hình thức
này cho phép thu lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất, đầu tư vào
nhà xưởng, máy móc thiết bị… chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu này
nhất thiết phải có sự góp mặt của 03 quốc gia: nước xuất khẩu - nước nhập
khẩu - nước tái xuất khẩu.
2.2. Các hình thức nhập khẩu.
a. Nhập khẩu kinh doanh: là hoạt động nhập khẩu nhằm có được
hàng hóa để kinh doanh. Hoạt động này hoàn toàn dùa trên những chi phí
của doanh nghiệp nhập khẩu đồng thời bản thân doanh nghiệp phải chịu
mọi trách nhiệm có liên quan đến hoạt động nhập khẩu và bảo đảm có lãi
trong kinh doanh hàng hóa nhập khẩu. Để thực hiện hoạt động này thì
doanh nghiệp phải kí một hợp đồng nhập khẩu với nước ngoài (bên xuất

khẩu) để mua hàng hóa, hợp đồng này gọi là hợp đồng ngoại và một hợp
đồng bán hàng hóa với doanh nghiệp trong nước có nhu cầu mua hàng hóa
đó (gọi là hợp đồng nội). Khi nhập khẩu kinh doanh, doanh nghiệp được
tính kim ngạch nhập khẩu doanh số và chịu thuế.
b. Nhập khẩu ủy thác: là hoạt động nhập khẩu mà doanh nghiệp
nhập khẩu (bên nhận ủy thác - bên B) tiến hành nhập khẩu dùa trên cơ sở
đơn đặt hàng của doanh nghiệp trong nước (bên ủy thác - bên A). Trong
hoạt động nhập khẩu ủy thác thì bên B hoạt động trên danh nghĩa của mình
để nhập khẩu, mọi chi phí do bên A chịu để tiến hành nhập khẩu (không
phải xin hạn ngạch nhập khẩu nếu có và phải chịu trách nhiệm với bên xuất
khẩu trong phạm vi hợp đồng ngoại) sao cho có lợi nhất cho bên A. Đồng
thời bên B cũng phải chịu mọi trách nhiệm trong phạm vi hợp đồng ủy thác
với bên A.
c. Nhập khẩu trên cơ sở liên doanh: hoạt động nhập khẩu trên cơ sở
liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các bên liên doanh (phải có Ýt
nhất một bên có chức năng xuất nhập khẩu). Bên có chức năng xuất nhập
khẩu sẽ đứng ra nhập khẩu trên cơ sở phối hợp với các bên liên doanh cùng
nhau giao dịch đề ra các chủ trương, biện pháp sao cho hoạt động nhập
khẩu có lợi nhất cho liên doanh. Các bên liên doanh sẽ phân chia quyền lợi
và trách nhiệm trong phạm vi vốn góp của mình.
d. Nhập khẩu hàng đổi hàng: đây là hình thức của buôn bán đối
lưu. Việc nhập khẩu thay vì thanh toán bằng ngoại tệ là thanh toán bằng
hàng hóa với một giá trị tương đương với giá trị hàng hóa nhập khẩu. Yêu
cầu cân bằng trong buôn bán đối lưu cũng như trong nhập khẩu hàng đổi
hàng là:
- Cân bằng về mặt hàng.
- Cân bằng về giá cả.
- Cân bằng về tổng giá trị hàng hóa trao đổi.
- Cân bằng về điều kiện giao hàng.
e. Nhập khẩu tái sản xuất: hình thức nàygần giống như nhập khẩu kinh

doanh. Điều khác biệt ở đây là nhập khẩu hàng hóa về thay vì để tiêu thụ
trong nước thì lại để xuất khẩu sang một nước thứ ba (hàng hóa không qua
chế biến ở nước tái sản xuất). Doanh nghiệp thực hiện hoạt động nhập khẩu
tái sản xuất phải kí một hợp đồng nhập khẩu và một hợp đồng xuất khẩu,
không phải chịu thuế xuất nhập khẩu mà phải chịu thuế VAT.
II. sự cần thiết của quản lý hoạt động xuất nhập khẩu đối với sự phát triển
của mỗi quốc gia.
1. Sự cần thiết của công tác quản lý xuất nhập khẩu.
Ngày nay, dưới sự tác động mạnh mẽ của các xu hướng vận động
của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là sự tác động ngày càng tăng của xu
hướng khu vực hóa và toàn cầu hóa đối với nền kinh tế từng quốc gia và
thế giới, hoạt động kinh doanh quốc tế và các hình thức kinh doanh quốc tế
ngày càng đa dạng, phong phú và đang trở thành một trong những nội dung
cực kì quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Vai trò quản lý của Nhà nước bắt nguồn từ sự cần thiết phải phối hợp
hoạt động lao động chung và do tính chất xã hội hoá của sản xuất qui định.
Lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, trình độ xã hội hoá của sản xuất
ngày càng cao thì phạm vi thực hiện vai trò này càng cần thiết và mức độ
đòi hỏi của nó ngày càng chặt chẽ và nghiêm ngặt. Như đã biết, nền kinh tế
hàng hoá với cơ chế thị trường là bước phát triển tất yếu của kinh tế tự cấp,
tự túc một trình độ cao của sự xã hội hoá sản xuất. Đặc biệt là khi quan hệ
kinh tế quốc tế hình thành và phát triển thì các hoạt động kinh tế trong và
ngoài nước xâm nhập, tác động lẫn nhau, các nguồn lực bên trong và bên
ngoài có thể di chuyển phù hợp hay không phù hợp với yêu cầu phát triển
kinh tế trong nước, qui mô và cơ cấu nền kinh tế có thể chuyển dịch theo
hướng tiến bộ, hợp lý tối ưu hay lạc hậu bất hợp lý, mất cân đối, và nền
kinh tế dân téc của mỗi quốc gia ở vào vị trí phụ thuộc hay là một mắt khâu
cần thiết của hệ thống phân công lao động và quốc tế.
1.1. Đẩy nhanh sự phát triển kinh tế xã hội.
Trong những điều kiện lịch sử mới, vấn đề "mở cửa" nền kinh tế

đang trở nên cấp bách và đang tạo cho nhiều quốc gia những cơ hội thuận
lợi trong qúa trình đẩy nhanh sự phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên để
hoạt động này có hiệu qủa thì cần phải có sự quản lý của Nhà nước. Để
tăng tiềm năng ngoại thương thì tăng cường đổi mới công tác quản lý Nhà
nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu là rất cần thiết.
1.2. Xử lý kịp thời các vi phạm trong quản lý kinh doanh XNK.
Trong kinh doanh thương mại quốc tế hiện nay tình trạng lộn xộn,
tranh xuất, tranh nhập diễn ra rất phổ biến gây rối loạn thị trường trong
nước, dẫn đến Ðp giá. Bên cạnh đó, thủ tục nhiều cửa với những qui định
rườm rà cũng gây không Ýt khó khăn cho nhà hoạt động kinh doanh xuất
nhập khẩu. Nguyên nhân chính là chưa có những qui định chặt chẽ, rõ ràng
về chức năng nhiệm vụ cũng như phạm vi can thiệp của các cơ quan quản
lý dẫn đến sự chồng chéo trên một số lĩnh vực khác. Việc xử lý các vi
phạm trong quản lý kinh doanh xuất nhập khẩu chưa kịp thời nghiêm
khắc.Thực trạng của kinh doanh xuất nhập khẩu hiện nay đòi hỏi sự can
thiệp của Nhà nước một cách hệ thống đúng đắn hơn, khoa học và kịp thời
hơn.
1.3. Bảo vệ lợi Ých quốc gia.
Xu hướng hoà nhập nền kinh tế dân téc của mỗi nước vào thị trường
thế giới ngày một tăng. Những diễn biến kinh tế trong từng nước và giữa
các nước gây ảnh hưởng rõ rệt đến lợi Ých của nhau. Việc ngăn ngõa hay
khắc phục những ảnh hưởng bất lợi cũng như việc khai thác vào sử dụng
những tác động có lợi đòi hỏi phải có vai trò của Nhà nước. Một tổ chức
doanh nghiệp dù có qui mô to đến đâu cũng không thể thay thế được vai trò
đó. Chỉ có Nhà nước và điều kiện thực hiện vai trò này bởi vì trong quan hệ
quốc tế nói chung và trong hoạt động XNK nói riêng, Nhà nước là chủ thể
của nền kinh tế độc lập, có chủ quyền, có lợi Ých kinh tế tách biệt, Nhà
nước lại nắm trong tay những tiềm lực kinh tế quốc phòng quan trọng của
đất nước. Để bảo vệ lợi Ých quốc gia, trong đó có lợi Ých giai cấp, Nhà
nước của mỗi nước phải trực tiếp tác động đến các quan hệ kinh tế đối

ngoại nhằm khống chế những hoạt động bất lợi và phát huy những hoạt
động có lợi cho nền kinh tế của đất nước, tạo ra các mối quan hệ kinh tế có
lợi trong khu vực và quốc tế.
1.4. Mở rộng quan hệ thị trường .
Vai trò quản lý Nhà nước về kinh tế nói chung và hoạt động XNK
nói riêng không chỉ ở sự điều tiết khống chế định hướng bằng pháp luật,
các đòn bẩy kinh tế và các chính sách, biện pháp kích thích mà còn bằng
thực lực kinh tế của Nhà nước - tức sức mạnh của hệ thống kinh tế quốc
doanh. Kinh nghiệm thực tế của các nước đã chỉ ra là, việc củng cố và tăng
cường sức mạnh của các doanh nghiệp quốc doanh trong các ngành và lĩnh
vực kinh tế then chốt của nền kinh tế quốc dân vừa là công cụ quản lý vừa
là lực lượng kinh tế trực tiếp để tham gia hình thành mở rộng quan hệ thị
trường.
2. Các công cụ quản lý Nhà nước về hoạt động xuất nhập
khẩu ở nước ta và các công cụ quản lý xuất nhập khẩu đang được
áp dụng.
2.1. Thủ tục Hải quan:
a. Khái niệm
Thủ tục Hải quan là các công việc mà người làm thủ tục Hải quan
và nhân viên Hải quan phải thực hiện theo quy định của pháp luật với
các đối tượng làm thủ tục Hải quan khi xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh
hoặc quá cảnh.
Bao gồm:
- Khai báo và nép tờ khai Hải quan, nép hoặc xuất trình giấy phép và
các giấy tờ cần thiết khác theo qui định của pháp luật.
- Đưa các đối tượng kiểm tra Hải quan đến địa điểm qui định để
kiểm tra.
- Làm nghĩa vụ nép thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, các nghĩa vụ
khác theo qui định của pháp luật và nép lệ phí Hải quan.
b. Đối tượng làm thủ tục Hải quan.

Hàng hóa, hành lý, ngoại hối, kim khí quí, tiền Việt nam, văn hóa
phẩm, tài liệu, bưu phẩm, bưu kiện, các đồ vật và tài sản khác xuất
khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh,
hoặc quá cảnh lãnh thổ Việt nam đều phải làm thủ tục Hải quan.
Người làm thủ tục Hải quan là người thực hiện thủ tục Hải quan
với cơ quan Hải quan bao gồm:
+ Người sở hữu đối tượng làm thủ tục Hải quan.
+ Người được uỷ quyền hợp pháp của người sở hữu đối tượng
làm thủ tục Hải quan.
+ Người làm dịch vụ thủ tục Hải quan theo qui định của pháp
luật.
+ Người điều khiển phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh,
quá cảnh.
c. Cục Hải quan thành phố Hà nội tiến hành phân luồng hàng
hóa làm thủ tục Hải quan.
Từ năm 1998 đến nay, trước yêu cầu đổi mới Công nghiệp hóa -
Hiện đại hóa đất nước. Ngành Hải quan nói chung và Cục Hải quan thành
phố Hà nội nói riêng đã tập trung vào việc thực hiện cải cách thủ tục hành
chính một cách sâu rộng, tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát
nhằm chống buôn lậu và gian lận thương mại một cách hiệu quả.
Cục Hải quan thành phố Hà nội tiến hành phân luồng hồ sơ sở tại các
địa điểm làm thủ tục Hải quan theo 02 tiêu chí được hướng dẫn trong văn
bản số 2329/TCHQ-GSQL ngày 9/7/1998 của Tổng cục Hải quan.
Theo đó:
Luồng xanh: Được áp dụng cho những lô hàng có thuế hoặc miễn
thuế xuất nhập khẩu (như: hàng hóa xuất khẩu, hàng hóa liên doanh đầu tư,
hàng nguyên vật liệu, máy móc phục vụ các công trình trọng điểm, nguyên
liệu để sản xuất hàng xuất khẩu, gia công, các loại linh kiện lắp ráp, hàng
thuộc nguồn vốn ODA, hàng kinh doanh nhập khẩu cần có sự bảo quản đặc
biệt, cần giải phóng hàng nhanh). Hàng hóa xuất nhập khẩu đưa vào luồng

hàng này thuộc các doanh nghiệp có Ýt động cơ và khả năng buôn bán gian
lận thương mại, trèn thuế. Các doanh nghiệp này sẽ được hưởng hai ưu tiên
lớn là thủ tục kiểm tra đơn giản, tỉ lệ kiểm tra thấp hơn và hàng hóa được
giải phóng ngay sau khi kiểm tra xong, không phải chờ tính thuế.
Luồng vàng: Được áp dụng cho lô hàng có thuế xuất nhập khẩu và
các doanh nghiệp thường hay vi phạm pháp lệnh Hải quan, đồng thời sẽ
kiểm tra với tỉ lệ cao hơn hoặc kiểm tra toàn bộ, tính và thông báo thuế
xong mới được giải phóng hàng. Mặt hàng được xét qua "luồng vàng" gồm
các mặt hàng xuất khẩu theo danh mục quản lí chuyên ngành, gỗ và các sản
phẩm chế biến từ gỗ, lâm sản xuất khẩu, hàng nhập khẩu có thuế.
Luồng đỏ: Được áp dụng cho những lô hàng xuất nhập khẩu có giấy
tờ phức tạp, các doanh nghiệp đã nhiều lần vi phạm pháp luật nghiêm trọng
phải chịu sự kiểm tra giám sát chặt chẽ, phải hoàn tất mọi thủ tục mới được
giải phóng hàng. Mặt hàng đi qua "luồng đỏ" gồm hàng hóa xuất nhập khẩu
chưa rõ chính sách mặt hàng, hàng khó xác định mã hàng, chất lượng, xuất
xứ.
Việc phân luồng hồ sơ đã giúp cho công tác giám sát, quản lí, phân
loại đối tượng làm thủ tục, nhanh chóng giải quyết những lô hàng.Tránh
được ùn tắc, đồng thời có điều kiện tập trung lực lượng giám sát và làm thủ
tục Hải quan đối với những lô hàng trọng điểm.
2.2. Thuế xuất nhập khẩu
Hàng hóa được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới
Việt nam, kể cả hàng hóa từ thị trường trong nước đưa vào khu chế xuất và
từ khu chế xuất đưa ra thị trường trong nước đều là đối tượng chịu thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
2.3. Hạn ngạch xuất nhập khẩu.
Hạn ngạch hay hạn chế số lượng là một công cụ phổ biến trong hàng
rào phi thuế quan. Hạn ngạch là qui định của Nhà nước về số lượng cao
nhất của mặt hàng hay một nhóm hàng được phép xuất khẩu hoặc nhập
khẩu từ một thị trường trong một thời gian nhất định, thông qua hình thức

cấp giấy phép (quota xuất - nhập khẩu). Quota nhập khẩu là một hình thức
phổ biến còn hơn quota xuất khẩu và nó Ýt được sử dụng tương đương với
biện pháp hạn chế xuất khẩu tự nguyện.
2.4. Giấy phép xuất nhập khẩu:
Giấy phép xuất nhập khẩu là một biện pháp quan trọng để Nhà nước
quản lý xuất nhập khẩu. Vì thế, sau khi ký hợp đồng xuất nhập khẩu, doanh
nghiệp phải xin giấy phép xuất nhập khẩu chuyến để thực hiện hợp đồng
đó. Ngày nay, trong xu thế tự do hóa mậu dịch, nhiều nước giảm bớt số mặt
hàng cần phải xin giấy phép xuất nhập khẩu chuyến.
Ở nước ta, theo nghị định 89 CP ngày 15/12/1995 kể từ ngày
1/2/1996 trở đi, chỉ còn 9 trường hợp sau đây cần xin giấy phép xuất nhập
khẩu chuyến:
- Hàng xuất nhập khẩu mà Nhà nước quản lý bằng hạn ngạch.
- Hàng tiêu dùng nhập khẩu theo kế hoạch được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt.
- Máy móc thiết bị nhập khẩu bằng nguồn vốn ngân sách.
- Hàng của doanh nghiệp được thành lập theo luật đầu tư nước ngoài
tại Việt nam.
- Hàng phục vụ thăm dò, khai thác dầu khí.
- Hàng dự hội chợ triển lãm.
- Hàng gia công.
- Hàng tạm nhập tái xuất.
- Hàng nhập khẩu thuộc diện cần điều hành để đảm bảo cân đối cung
cầu trong nước.
Khi đối tượng hợp đồng thuộc phạm vi phải xin giấy phép xuất nhập
khẩu, doanh nghiệp phải xuất trình hồ sơ xin phép gồm:
- Hợp đồng.
- Phiếu hạn ngạch (nếu hàng thuộc diện quản lý bằng hạn ngạch).
- Hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu (nếu đó là trường hợp xuất nhập
khẩu ủy thác).

- Giấy báo tróng thầu của Bộ tài chính (nếu là hàng xuất khẩu trả nợ
nước ngoài).
Nếu hàng xuất nhập khẩu qua nhiều cửa khẩu, cơ quan Hải quan sẽ
cấp cho doanh nghiệp ngoại thương một phiếu theo dõi. Mỗi khi hàng thực
tế được giao nhận ở cửa khẩu cơ quan Hải quan cửa khẩu đó sẽ trừ lùi vào
phiếu theo dõi đó (theo công văn số 208/TCHQ - GSQL ngày 20/3/1996
của Tổng cục Hải quan).
Việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu được phân công như sau:
- Bé Thương mại (các phòng cấp giấy phép) cấp những giấy phép
xuất nhập khẩu hàng mậu dịch, nếu hàng đó thuộc 1 trong 9 trường hợp
nêu trên.
- Tổng cục Hải quan cấp giấy phép xuất nhập khẩu hàng phi mậu
dịch.
Mỗi giấy phép chỉ cấp cho một chủ hàng kinh doanh để xuất hoặc
nhập khẩu một hoặc một số mặt hàng với một nước nhất định, chuyên chở
bằng một phương thức vận tải và giao nhận tại một cửa khẩu nhất định.
2.5. Quản lý ngoại tệ:
Việc thanh toán các nghĩa vụ tiền tệ phát sinh có liên quan tới các
quan hệ kinh tế. thương mại và các mối quan hệ khác giữa các tổ chức, các
công ty và các chủ thể khác nhau của các nước gọi là thanh toán quốc tế.
Hoàn toàn khác với thanh toán trong nước, thanh toán quốc tế có liên quan
đến việc trao đổi tiền quốc gia của nước này lấy tiền của nước khác.
Tiền tệ mỗi nước được qui định theo pháp luật của nước đó và có đặc
điểm riêng của nó. Tiền tệ trong thanh toán quốc tế thường không phải là
tiền mặt mà tồn tại dưới hình thức là các phương tiện thanh toán như
chuyển tiền, điện chuyển tiền, hối phiếu, kỳ phiếu và séc ghi bằng ngoại tệ.
Phần lớn thanh toán quốc tế của các nước được thực hiện bằng đô la Mỹ và
bảng Anh.
Do đó quản lý ngoại tệ của Nhà nước nói chung và của Ngân hàng
nói riêng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động xuất nhập khẩu của các

doanh nghiệp nhằm bảo đảm ổn định tiền tệ trong nước.
2.6. Công cụ luật pháp.
Đó là một hệ thống văn bản pháp luật và văn bản dưới luật gồm:
Nghị định, Quyết định, Chỉ thị của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các
Quyết định, Thông tư hướng dẫn của các Bộ, Ngành chức năng đã ban
hành nhằm thể chế hoá pháp luật của Nhà nước về quản lý hoạt động XNK
của các doanh nghiệp. Căn cứ vào môi trường hành lang pháp lý đã được
qui định, các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động XNK của mình dưới sự
hướng dẫn và giám sát của các cơ quan quản lý Nhà nước. Công cụ luật
pháp vừa là phương tiện để kiểm nghiệm, điều chỉnh các quan hệ kinh tế xã
hội, là phương tiện hàng đầu để Nhà nước quản lý các quá trình kinh tế xã
hội.
2.7. Công cụ hành chính.
Sử dụng công cụ hành chính Nhà nước tác động trực tiếp bằng bộ
máy quản lý hành chính và kiểm tra kiểm soát. Bộ máy này can thiệp vào
hoạt động XNK của doanh nghiệp chủ yếu bằng qui định, thể lệ cấp giấy
phép XNK, thủ tục hải quan và các loại giấy tờ có liên quan đến hoạt động
này.
Công cụ hành chính thể hiện quyền lực của Nhà nước, bằng công cụ
này Nhà nước sẽ uốn nắn kịp thời, xét xử nghiêm khắc các hành vi vi phạm
pháp luật về XNK, kết hợp với công cụ luật pháp, thuế, hạn ngạch tạo ra
hành lang pháp lý cho hoạt động XNK của các doanh nghiệp.
3. Mục tiêu của công tác quản lý XNK.
Công tác xuất nhập khẩu là việc mua bán hàng hoá với nước ngoài
để phát triển sản xuất, từ đó góp phần nâng cao đời sống nhân dân, nhưng
do có yếu tố nước ngoài nên có nhiều nét khác với nội thương. Nó rất đa
dạng do có giao dịch với các doanh nhân và người có quốc tịch khác nhau,
trong một thị trường rộng lớn, khó kiểm soát, việc mua bán qua trung gian
chiếm tỉ trọng lớn, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ mạnh. Hàng hoá phải
vận chuyển qua biên giới cửa khẩu của nhiều quốc gia khác nhau và tuân

thủ tập quán, những thông lệ quốc tế của các địa phương, các vùng lãnh thổ
khác nhau.
Chính tại nơi đó, ngoài những chủ thể hàng hoá tuân thủ pháp luật
còn có những chủ thể có những hành vi buôn lâụ, trèn thuế với những thủ
đoạn tinh vi. Vì vậy ở nước ta cũng như bất kỳ quốc gia nào, Hải quan có
vị trí quan trọng trong lĩnh vực quản lý xuất nhập khẩu, hàng hoá xuất nhập
cảnh và đặc biệt chống buôn lậu và ngăn chặn việc vận chuyển buôn bán
trái phép hàng hoá, tiền tệ, tài sản, hàng cấm qua biên giới. Mỗi năm phát
hiện và xử lí hàng ngàn vô vi phạm pháp luật nghiêm trọng, trị giá hàng
trăm tỷ đồng Việt nam, tịch thu và nép ngân sách hàng triệu đô la mỹ, hàng
ngàn lạng vàng, hàng chục cân đá quý, thu hồi hàng ngàn cổ vật trả về cho
cơ quan bảo tồn và di tích lịch sử, ngăn chặn việc đưa vào trái phép hàng
ngàn tài liệu phản động và Ên phẩm đồ trụy. Kết quả chống buôn lậu của
ngành Hải quan đã góp phần bảo vệ an ninh chính trị, an toàn quốc gia và tích
cực bảo hộ sản xuất trong nước phát triển. Đó là các công việc không thể tiến
hành trong thời gian ngắn mà phải là một quá trình lâu dài và liên tục.
Hoạt động xuất nhập khẩu bên cạnh những đóng góp tích cực vào tăng
trưởng và phát triển kinh tế thì còn có nhiều tồn tại mà cơ quan chức năng
Nhà nước (trong đó có Hải quan và thuế vụ, ngành tài chính, cơ quan quản lý
thị trường ). Do đó, đòi hỏi cơ quan quản lý, nhất là lực lượng Hải quan phải
hiểu rõ để chủ động ngăn ngõa và hạn chế, tập trung thực hiện hiện đại hóa
trong quản lý ở những khâu, những địa bàn trọng điểm. Để thực hiện tốt chức
năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu.
Thế kỉ 20 đã khép lại, dân téc ta cùng nhân loại đang chuẩn bị bước vào
thiên niên kỉ mới - thế kỉ 21, sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nước
nhà đang đặt ra những yêu cầu khẩn trương, mới mẻ, trước nhiều thách thức
và cơ hội. Điều đó cũng có nghĩa là nhiệm vụ sắp tới của Hải quan Việt nam
sẽ có nhiều khó khăn và phức tạp.
Hải quan Việt nam là thành viên của tổ chức Hải quan thế giới đang
phấn đấu hướng tới mục tiêu "xây dựng Hải quan thành lực lượng chuyên

nghiệp có chuyên môn sâu và hiện đại, hoạt động minh bạch, liêm chính và
hiệu quả cao".
III. Vai trò của Hải quan trong công tác quản lý hoạt động XNK.
Ngày nay, trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế đất nước, hoạt
động kinh tế đối ngoại và sự giao lưu quốc tế nói chung càng phát triển cả về
chiều sâu và chiều rộng, điều đó đặt ra yêu cầu khách quan phải tăng cường
hơn nữa quản lý Nhà nước về hải quan. Đối tượng quản lý càng mở rộng,
phức tạp phong phú, có trình độ cao thì công tác quản lý cũng phải tăng
cường tương xứng mới đáp ứng yêu cầu quản lý.
Nhà nước sử dụng công cụ quản lý bằng hải quan nhằm định ra các
chính sách, luật pháp nhằm điều chỉnh hoạt động XNK, xuất nhập cảnh đảm
bảo cho việc phát triển quan hệ kinh tế, văn hoá trong nước với nước ngoài,
góp phần tăng cường giao lưu và hợp tác quốc tế, bảo vệ chủ quyền an ninh
quốc gia. Quản lý Nhà nước về hải quan còn là tổ chức thực hiện về kiểm tra
hải quan tại biên giới, cửa khẩu và bất cứ nơi nào có hàng hoá XNK phương
tiện vận tải XNC, bao gồm nhiều mặt hoạt động trong đó hai mặt hoạt động
chủ yếu là thu thuế XNK và chống buôn lậu qua biên giới. Việc quản lý Nhà
nước bằng công cụ hải quan là vô cùng tất yếu, chức năng quản lý đó thể hiện
ở hai mặt: Quản lý bằng chính sách luật pháp và bằng hoạt động kiểm tra
giám sát.
IV. NỘI DUNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU.
1. Nội dung quản lý hải quan đối với hoạt động xuất nhập khẩu.
1.1. Đối tượng quản lý nhà nước về hải quan.
Đối tượng quản lý nhà nước về hải quan bao gồm: Hàng hoá, hành lý,
ngoại hối, tiền Việt Nam , bưu kiện, bưu phẩm, các đồ vật và tài sản khác xuất
khẩu , nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh , quá cảnh , mượn
đường Việt Nam khi các đối tượng này qua biên giới Việt Nam.
1.2. Chức năng quản lý nhà nước về hải quan.
Chức năng quản lý nhà nước về hải quan thể hiện ở hai mặt: Quản lý
bằng chính sách luật pháp và bằng hoạt động kiểm tra , giám sát. Nhà nước

tạo điều kiện thuận lợi đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất nhập
cảnh qua biên giới Việt Nam trên cơ sở tuân thủ pháp luật Việt Nam , điều
ước quốc tế có liên quan đến hoạt động hải quan mà Việt Nam ký kết và công
nhận.
1.3. Phạm vi địa bàn hoạt động của hải quan Việt Nam
- Các khu vực cửa khẩu đường bộ bao gồm các cửa khẩu chính , cửa khẩu
phụ dọc theo biên giới quốc gia giữa Việt Nam với các nước láng riềng.
- Các cảng biển, cảng sông quốc tế, cảng hàng không dân dụng quốc tế.
- Các bưu điện quốc tế( bưu cục ngoại dịch) có chuyển nhận thư từ, bưu
kiện với nước ngoài theo công ước của liên minh bưu chính viễn thông
quốc tế và các quy định về bưu chính viễn thông của Việt Nam .
- Tại các địa điểm khác ở nội địa gồm: Kho, bãi chuyên dụng chứa hàng
hoá xuất khẩu, nhập khẩu; địa điểm các tổ chức được phép làm dịch vụ xuất
nhập khẩu hoặc dịch vụ bán hàng thu ngoại tệ ; bưu cục kiểm quan; địa điểm
của cơ quan nhà nước ; tổ chức xã hội được hải quan chấp nhận làm địa điểm
kiểm tra hải quan và những địa điểm ở nội điạ mà hải quan phát hiện có dấu
hiệu hoạt động buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, ngoại hối qua
biên giới.
- Các tuyến đường quá cảnh, mượn đường Việt Nam .
- Khu vực kiểm soát hải quan dọc biên giới , bê biển, hải đảo, vùng tiếp
giáp lãnh hải.
Như vậy địa bàn quản lý là rất rộng, đòi hỏi lực lượng hải quan phải đủ mạnh
để đảm bảo tốt công tác.
1.4. Hoạt động cơ bản của ngành hải quan Việt Nam .
- Tiến hành thủ tục hải quan, thực hiện kiểm tra giám sát, kiểm soát hải
quan.
- Thực hiện các quy định của nhà nước về XNK, về thuế XNK. Đứng về
mặt công tác này, hải quan là người quản lý về thủ tục với hoạt động kinh
tế đối ngoại, các quy định với các đối tượng được quản lý không phải do
hải quan làm mà được ban hành bởi các ngành khác và hải quan đảm bảo

thực hiện; nếu các đối tượng kiểm tra hải quan không làm đúng các quy
định của nhà nước thì hải quan cửa khẩu có quyền không cho XNK , xuất
cảnh , nhập cảnh. Đối với công tác thu thuế XNK theo các quy định từ bé
tài chính , hàng năm hải quan đã thu nép trung bình chiếm 20% tổng
nguồn thu ngân sách nhà nước.
- Tiến hành các biện pháp phát hiện, ngăn ngõa, điều tra và xử lý hành
vi buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, ngoại hối , tiền Việt Nam
qua biên giới, hành vi vi phạm các qui định khác của nhà nước về hải quan
trong phạm vi thẩm quyền do pháp luật qui định.
- Thực hiện thống kê nhà nước về hải quan. Công tác này có ý nghĩa
quan trọng, không chỉ với ngành hải quan mà cần thiết cho chính phủ và các
bộ ngành khác có thông tin để tổ chức điều hành hoạt động quản lý XNK.
Còng qua đó hải quan có thể chủ động kiến nghị việc xây dựng các văn bản,
quy định phù hợp với tình hình thực tiễn chứ không chỉ đơn thuần thực hiện
theo các quy định do các Bộ, Ngành khác ban hành.
Ngoài các công tác chính trên , hải quan cũng thực hiện một số mặt công
tác khác nhằm xây dựng lực lượng vững mạnh và phát triển những mối quan
hệ hợp tác quốc tế về hải quan, từ đó góp phần tăng cường hiệu quả công tác
quản lý nhà nước về hải quan.
2. Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu.
2.1 Xây dựng pháp luật, cơ chế chính sách tạo môi trường pháp lý cho
hoạt động XNK.
Đây là một trong những chức năng chủ yếu của công tác quản lý nhà
nước. Thực tế hoạt động XNK luôn luôn biến đổi pháp luật cơ chế, chính sách
ban hành chỉ phù hợp với những khoảng thời gian nhất định. Thông qua quản
lý nhà nước phát hiện ra những bất hợp lý để có những nghiên cứu xây dựng
pháp luật, cơ chế chính sách quản lý phù hợp với tình hình thực tiễn.
2.2. Duyệt kế hoạch xuất nhập khẩu
Trong trường hợp kế hoạch XNK hàng hoá cần được bổ sung điều chỉnh về
số lượng, chủng loại và trị giá doanh nghiệp gửi văn bản đề nghị đến Bộ

Thương Mại hoặc cơ quan được Bộ Thương Mại uỷ quyền để xem xét , quyết
định.
Duyệt kế hoạch XNK gồm:
- Duyệt kế hoạch nhập khẩu máy móc, thiết bị, tạo tài sản cố định, mở rộng
sản xuất, đầu tư chiều sâu.
- Duyệt kế hoạch nhập khẩu nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất.
- Duyệt kế hoạch nhập khẩu để gia công.
- Duyệt kế hoạch xuất khẩu .
2.3 Kiểm tra giám sát, giải quyết các phát sinh trong XNK của doanh
nghiệp .
Kiểm tra giám sát là hoạt động không thể thiếu trong hoạt động quản lý vì
nếu không kiểm tra giám sát thì khó có thể thực hiện được mục đích của quản
lý.
Việc kiểm tra giám sát được thực hiện thông qua :Quản lý hải quan và
thực hiện chế độ báo cáo của doanh nghiệp.
Căn cứ vào giấy phép đầu tư , văn bản phê duyệt kế hoạch XNK hàng
hoá của Bộ Thương Mại hoặc cơ quan được Bộ Thương Mại uỷ quyền duyệt
kế hoạch XNK. Cơ quan hải quan làm thủ tục XNK hàng hoá theo quy định
của pháp luật về hải quan. Cơ quan hải quan kiểm tra số lượng danh mục, trị
giá hàng xuất nhập có phù hợp với văn bản phê duyệt để làm thủ tục cho
thông quan.
Về chế độ báo cáo vào tháng 12 hàng năm doanh nghiệp báo cáo kết quả
XNK đã được xét duyệt và những kiến nghị ( nếu có ). Qua đó để Bộ Thương
Mại nắm tình hình hoạt động XNK của doanh nghiệp , những khó khăn
vướng mắc trong hoạt động XNK để giải quyết kịp thời , tạo điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp , đồng thời đảm bảo sự quản lý của nhà nước.
3. Nhiệm vụ của hải quan Việt Nam trong những năm tới.
Hướng tới mục tiêu "Xây dựng hải quan thành lực lượng chuyên
nghiệp có chuyên môn sâu và hiện đại, hoạt động minh bạch liêm chính có
hiệu quả cao", hải quan Việt Nam tập trung thực hiện 6 nhiệm vụ trọng tâm:

- Rà soát lại để xác định đúng nhiệm vụ và quyền hạn sắp xếp tổ chức
bộ máy tinh gọn Ýt đầu mối trung gian, hoạt động có thực quyền và có hiệu
quả, tinh giảm biên chế theo hướng cơ cấu lại lực lượng giữa các khâu, các
cấp trong ngành theo tinh thần Nghị quyết Trung ương VII và Quyết định 207
của Thủ tướng Chính phủ.
- Góp sức để xây dựng một hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động
của hải quan rõ ràng, cụ thể, rành mạch vì quyền và trách nhiệm giữa Ngành
với các ngành khác và trong nội bộ Ngành, gắn với đẩy mạnh cải cách thủ tục
hải quan
- Kết hợp tốt với các ngành, các địa phương, biết dùa vào nhân dân để
triển khai và hoàn thành nhiệm vụ, xây dựng cơ quan, đơn vị trong sạch vững
mạnh.
- Trên cơ sở chiến lược và kế hoạch nhiều năm, tập trung thực hiện
hiện đại hoá trong quản lý ở những khâu, những địa bàn trọng điểm.
- Tôn trọng lắng nghe ý kiến xác đáng của doanh nghiệp, xây dựng mối
quan hệ cộng đồng trách nhiệm giữa doanh nghiệp và hải quan ngày càng cải
thiện môi trường đầu tư và lưu thông hàng hoá.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ XUẤT NHẬP
KHẨU Ở CỤC HẢI QUAN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
I. GIỚI THIỆU VỀ CỤC HẢI QUAN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1. Quá trình hình thành và phát triển của Cục Hải quan
thành phố Hà nội.
Cách đây 55 năm, trong khi toàn Đảng, toàn dân ta đang tập trung
đối phó với thù trong giặc ngoài để bảo vệ nền độc lập của Nhà nước cách
mạng vừa mới được thành lập, ngày 10.9.1945 thừa ủy nhiệm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, chính phủ lâm thời Việt nam dân chủ cộng hòa đã ra sắc lệnh
số 27 thành lập "sở thuế quan và thuế gián thu" tiền thân của Hải quan ngày
nay), đồng thời thiết lập chủ quyền quan thuế trên toàn lãnh thổ Việt nam.
Sự kiện này khẳng định Hải quan là một công cụ không thể thiếu được của

một quốc gia độc lập có chủ quyền. Trải qua các thời kì cách mạng, để phù
hợp với tình hình, Hải quan Việt nam đổi tên nhiều lần, đến nay là Tổng
cục Hải quan, cơ quan trực thuộc Chính phủ. Trong suốt quá trình đấu
tranh cách mạng chống các thế lực xâm lược, các thế hệ cán bộ, công chức
Hải quan Việt nam đã luôn một lòng một dạ hy sinh vì sự nghiệp cách
mạng của Đảng, của dân téc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược Hải quan Việt nam đã tham gia vào mặt trận đấu tranh kinh tế với
địch, thu thuế xuất nhập khẩu (XNK) và chống buôn lậu, tận thu cho ngân
sách quốc gia để đảm bảo các nhu cầu thiết yếu của kháng chiến và dân
sinh.
Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Hải quan Việt nam đã thực
hiện phương châm 'bám cửa khẩu, bám tầu thuyền", "đón hàng xuất theo
hàng nhập", kiên cường bám trụ giải phóng hàng nhanh để kịp thời phục vụ
sản xuất và chiến đấu, hòa nhập vào khí thế hào hùng của hậu phương lớn
"tất cả cho tiền tuyến lớn", nhiều cán bộ, chiến sĩ hải quan đã gia nhập lực
lượng vũ trang, vượt Trường Sơn ra tiền tuyến chiến đấu giành độc lập cho
dân téc.
Từ sau ngày thống nhất đất nước năm 1975, đặc biệt là trong những
năm đổi mới, trước yêu cầu đất nước và hội nhập, kinh tế là mặt trận, thị
trường là chiến trường, nhiệm vụ càng nặng nề phức tạp, đòi hỏi rất khẩn
trương, đang và sẽ đặt ra những thách thức mới đối với Hải quan Việt nam.
Thực tế đó đòi hỏi mỗi cán bộ, công chức Hải quan không chỉ tinh thông về
nghiệp vụ, hiểu biết về pháp luật, mà còn phải có dũng khí, tự vượt lên
chính bản thân mình, sống trong sáng, giữ gìn sự nghiêm minh của pháp
luật đồng thời phải tạo thuận lợi cho hoạt động XNK, đầu tư, phát triển du
lịch và giao lưu văn hóa thế giới.
Căn cứ quyết định số 278/TCHQ -TCCB ngày 14/9/1994 của Tổng
cục trưởng Tổng cục Hải quan, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
tổ chức bộ máy và mối quan hệ công tác của Cục Hải quan tỉnh, thành phố.
Căn cứ quyết định 155/QĐ - TCCB ngày 23/5/2000 của Tổng cục

trưởng Tổng cục Hải quan, về tổ chức bộ máy của cục Hải quan thành phố
Hà nội.
2. Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động của Cục Hải quan
thành phố Hà nội.
Quyết định của Cục trưởng cục Hải quan thành phố Hà nội quy định
tạm thời về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy và quan hệ
công tác của Cục Hải quan thành phố Hà nội như sau:

×