Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

skkn một vài phương pháp nhỏ giúp học sinh học tốt lập trình cấu trúc rẽ nhánh”. thpt đoàn kết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.29 KB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG SÔNG RAY

Mã số:

SẢN PHẨM
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Người thực hiện: NGUYỄN HUỲNH THANH TRANG
Lĩnh vực nghiên cứu:
Quản lí giáo dục: 
Phương pháp dạy học bộ môn: Tin Học 
Phương pháp giáo dục: 
Lĩnh vực khác: 
Có đính kèm:
 Mô hình.  Đĩa CD(DVD).  Phim ảnh.  Hiện vật
Năm học: 2013 – 2014
SKKN_2014_TIN HỌC_NGUYỄN HUỲNH THANH TRANG_THPT SÔNG RAY
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Theo các nhà chuyên môn thì một trong những tình trạng học sinh yếu kém đó
là do “Phương pháp giảng dạy chưa tốt”. Nghị quyết Đại hội XI Đảng Cộng sản
Việt Nam cũng luôn nhấn mạnh đến cần phải đổi mới chương trình và phương
pháp giảng dạy để ngày càng đạt chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển của
đất nước ta.
Như vậy, phương pháp giảng dạy trong quá trình lên lớp của giáo viên ở nhà
trường có tầm quan trọng đặc biệt, nếu không muốn nói là có ý nghĩa quyết định,
vì người giáo viên dù có chuẩn bị nội dung phong phú và chu đáo đến đâu đi nữa
nếu không sử dụng đúng phương pháp giảng dạy thì chắc chắn sẽ làm cho khả
năng tiếp thu kiến thức của học trò bị hạn chế và kết quả sẽ không đạt được như
mục tiêu đề ra trong tiết học.
Đối với bộ môn tin học thì điều đó lại càng cần thiết, vì có những kiến thức
trừu tượng, khó hiểu, mà các em lại không có nhiều thời gian cho môn học này và


cũng vì các em phải tập trung cho các môn học chính, những môn mà các em sẽ thi
tốt nghiệp hay đại học.
Tin học là một môn học mới và tương đối khó đối với học sinh THPT trong
đó môn lập trình Pascal trong chương trình lớp 11 lại càng khó. Để viết được một
chương trình hoàn chỉnh thì phải thỏa mãn yêu cầu của bài toán đặt ra trên máy
tính và học sinh cần phải có tư duy lôgic về thuật toán, khả năng sử dụng máy tính
thành thạo, sử dụng các câu lệnh và khai báo kiểu dữ liệu một cách hợp lý.
Theo thói quen của nhiều em học sinh, học môn tin là học những thao tác sử
dụng như cách sử dụng Internet, sử dụng hệ điều hành Windows, chương trình
soạn thảo văn bản MS Word, chương trình soạn thảo trình diễn MS PowerPoint …
Đây là những phần học không cần đòi hỏi tư duy, mà chỉ cần học kĩ và nhớ các
thao tác, thực hành nhiều lần thì sẽ thành thạo. Nhưng khi học bộ môn lập trình
Passal thì hầu như các em bị “choáng” vì bộ môn này rất “mới”, và cách học cũng
“mới”. Học những thao tác và thực hành nhiều không còn tác dụng, học thuộc bài
cũng không còn ổn nữa. Lúc này các em cần phải học cách tư duy logic, tìm thuật
toán và viết những dòng lệnh máy tính chính xác đến từng dấu chấm, dấu phẩy.
Trang 2
SKKN_2014_TIN HỌC_NGUYỄN HUỲNH THANH TRANG_THPT SÔNG RAY
Với tâm lí thông thường các em học sinh coi tin học là môn học phụ không
quan trọng nên nhiều em chủ quan không dành đủ thời gian để học nên không hiểu
bài và dần dần bị mất căn bản. Đây cũng là lí do mà nhiều em bị điểm kém, thậm
chí là phải thi lại hay học lại bộ môn tin học lập trình.
Do vậy, để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và gây hứng thú cho học
sinh về bộ môn lập trình Pascal, việc đổi mới phương pháp dạy học cần thực hiện
theo định hướng hoạt động hoá người học, tức là tổ chức cho học sinh học tập
trong hoạt động bằng hoạt động tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo. Đòi hỏi
này xuất phát từ nhu cầu của xã hội đối với sự phát triển nhân cách của thế hệ trẻ,
từ những đặc điểm của nội dung mới và từ bản chất của quá trình học tập. Để đáp
ứng đòi hỏi đó, chúng ta không chỉ dừng ở việc nêu định hướng đổi mới phương
pháp dạy học mà cần phải đi sâu vào những phương pháp dạy học cụ thể như

những biện pháp để thực hiện định hướng nói trên. Trong quá trình giảng dạy cho
học sinh tại trường THPT Sông Ray, hiện nay đã và đang được áp dụng nhiều
phương pháp mới, trong phạm vi đề tài này tôi xin trình bày "Một vài phương
pháp nhỏ giúp học sinh học tốt lập trình Cấu trúc rẽ nhánh”.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Cấu trúc rẽ nhánh là cấu trúc điều khiển hoạt động trong lập trình, đây là một
bộ phận quan trọng trong chương trình tin học 11 ở trường THPT. Đề tài này đi
sâu vào việc phân bậc hoạt động trong giảng dạy bài “Cấu trúc rẽ nhánh” nhằm
giúp cho học sinh hiểu thế nào là cấu trúc rẽ nhánh, các dạng rẽ nhánh (dạng thiếu
và dạng đủ) và việc sử dụng cấu trúc rẽ nhánh trong lập trình.
Hoạt động sử dụng hữu hiệu cấu trúc rẽ nhánh trong lập trình tạo điều kiện
cho các em khả năng phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện tính độc lập, tính quy cũ
và tính kỹ luật. Do đó việc sử dụng hữu hiệu cấu trúc rẽ nhánh chiếm một vị trí đặc
biệt quan trọng. Tuy nhiên, nội dung này vẫn chưa hoàn toàn đạt kết quả như mong
muốn thể hiện ở chỗ:
- Học sinh chưa có kỹ năng, chưa thành thạo trong việc sử dụng cấu trúc rẽ
nhánh để lập trình.
- Học sinh chưa linh hoạt, sáng tạo trong việc vận dụng cấu trúc rẽ nhánh vào
xây dựng chương trình. Chưa thấy rõ mối quan hệ của cấu trúc rẽ nhánh với dữ
liệu cơ sở. Không thấy hết những ứng dụng của cấu trúc rẽ nhánh trong kiến thức
cơ bản. Nói chung, các ứng dụng trong lĩnh vực tin học nói riêng và trong cuộc
sống nói chung. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực trạng này là quan điểm hoạt
động hoá người học chưa được quán triệt trong khi dạy học nội dung cấu trúc rẽ
nhánh.
Mâu thuẫn giữa yêu cầu nhiệm vụ nhận thức với tri thức và kinh nghiệm sẵn
có là động lực thúc đẩy học sinh hoạt động học tập, thúc đẩy quá trình phát triển
của các em.
Về mặt tâm lý học, học sinh tích cực tư duy còn nảy sinh nhu cầu tư duy, do
vậy đứng trước khó khăn về nhận thức: Học sinh tự kiến tạo hoặc tham gia vào
Trang 3

SKKN_2014_TIN HỌC_NGUYỄN HUỲNH THANH TRANG_THPT SÔNG RAY
việc kiến tạo tri thức cho mình hoặc dựa vào tri thức đã có, bổ sung và làm cho
những tri thức cũ được hoàn chỉnh hơn.
Học sinh tự giác, tích cực, vừa kiến tạo được tri thức, vừa học được cách giải quyết
vấn đề, lại vừa rèn luyện được những đức tính quý báu như kiên trì, vượt khó. Đó
chính là những cơ sở lý luận của dạy học giải quyết vấn đề. Những cơ sở lý luận
này có thể được diễn đạt khái quát như sau:
1. Cơ sở triết học
Theo triết học duy vật biện chứng, mâu thuẫn là động lực thúc đẩy quá trình
phát triển. Một vấn đề được gợi cho học sinh học tập chính là mâu thuẫn giữa yêu
cầu nhiệm vụ nhận thức với tri thức và kinh nghiệm sẵn có. Tình huống này phản
ánh một cách logic và biện chứng quan hệ bên trong tri thức cũ và kinh nghiệm cũ
đối với yêu cầu giải thích sự kiện mới hoặc đổi mới hình thể.
2. Cơ sở tâm lý
Theo nhà tâm lý học, con người chỉ bắt đầu tư duy tích cực khi nảy sinh nhu
cầu tư duy, tức là khi đứng trước một khó khăn về nhận thức cần phải khắc phục,
một tình huống gợi vấn đề “Tư duy sáng tạo luôn luôn bắt đầu bằng một tình
huống gợi vấn đề”.
3. Cơ sở giáo dục học
Dạy học phát triển và giải quyết vấn đề phù hợp với nguyên tắc tự giác và tích
cực, vì nó khêu gợi được hoạt động học tập mà chủ thể được hướng đích, gợi động
cơ trong quá trình phát hiện và giải quyết vấn đề.
Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề cũng biểu hiện sự thống nhất giữa kiến
tạo tri thức, phát triển năng lực trí tuệ và bồi dưỡng phẩm chất. Những tri thức mới
được kiến tạo nhờ quá trình phát hiện và giải quyết vấn đề.
Với tư cách là một ngành khoa học giáo dục, phương pháp dạy học tin học sử
dụng những phương pháp chung của khoa học giáo dục vận dụng vào phương pháp
dạy học tin học.
Do khái quát của những sự kiện từ tất cả các khoa học và trên cơ sở đó phát
hiện ra những quy luật phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy, phép biện chứng

duy vật là cơ sở của phương pháp luận cho mọi ngành khoa học, trong đó có
phương pháp dạy học tin học. Nó cung cấp cho chúng ta những quan điểm cơ bản
về con đường nhận thức của thế giới, nhận thức của chân lý. Nó quyết định những
quan điểm xuất phát, chiến lược nghiên cứu, quyết định việc lựa chọn phương
pháp nghiên cứu và giải thích kết quả. Những tư tưởng cơ bản của phương pháp
duy vật biện chứng.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP
Dạy học là một nghệ thuật, áp dụng nhiều phương pháp dạy học cho có hiệu
quả là một công việc khoa học. Nhiệm vụ của người giáo viên hiện nay là dạy cho
học sinh không những biết tri thức, thành thạo kĩ năng, kĩ xảo mà còn dạy cho học
sinh biết kỹ năng sống, biết tư duy, biết sáng tạo để phát triển trí tuệ trong thời đại
khoa học phát triển như vũ bão hiện nay.
Trang 4
SKKN_2014_TIN HỌC_NGUYỄN HUỲNH THANH TRANG_THPT SÔNG RAY
Vì vậy lối học nhồi nhét khiến học sinh tiếp thu thụ động không phù hợp nữa.
Quá trình dạy học phải đảm bảo cho học sinh tính độc lập, chủ động, sáng tạo.
Việc áp dụng phương pháp phân bậc hoạt động trong dạy học nhằm đem lại
hiệu quả học tập cao. Học sinh từng bước hiểu vấn đề từ dễ đến khó giúp cho các
em dễ dàng tiếp thu tri thức theo một trình tự logic.
Chúng ta biết rằng trong hoạt động kết quả đạt được ở mức độ nào đó có thể
là tiền đề cho luyện tập để đạt được kết quả cao hơn. Do đó cần phải sử dụng
phương pháp phân bậc hoạt động theo những mức độ khác nhau. Trong dạy học thì
chúng ta có thể dựa vào tính phân bậc để giải quyết các bài tập khác nhau, các bài
tập của môn học đó. Trong tin học cũng vậy, chúng ta sử dụng tính phân bậc để
giảng dạy và làm bài tập lập trình.
Mục đích nghiên cứu là góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học
“Cấu trúc rẽ nhánh” tin học 11 ở trường THPT, giúp học sinh hướng những quyết
định và hoạt động vào mục đích đặt ra. Đồng thời giúp học sinh có ý thức về ý
nghĩa của những hoạt động và của những đối tượng hoạt động từ đó học sinh có
thể liên hệ chặt chẽ giữa kiến thức thực tế xung quanh, giữa nhà trường, gia đình

và xã hội.
- Xây dựng những căn cứ để phân bậc hoạt động với dữ liệu “Cấu trúc rẽ
nhánh” và vận dụng sự phân bậc đó vào quá trình dạy học lập trình trên cơ sở bài
học cấu trúc rẽ nhánh.
- Xây dựng hệ thống bài tập lập trình với dữ liệu cấu trúc rẽ nhánh ở tin học
lớp 11.
- Thực hiện sư phạm để xác định tính hiệu quả và tính khả thi của bài dạy.
Nếu quán triệt quan điểm sử dụng phương pháp phân bậc hoạt động vào dạy
học lập trình với dữ liệu cấu trúc rẽ nhánh sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy
học nội dung này. Bởi vì những kiến thức và kỹ năng được hình thành và hoàn
thiện thông qua hoạt động của học sinh theo những yêu cầu ngày càng được nâng
cao.
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng các giải pháp nghiên cứu sau:
+ Nghiên cứu lý luận dạy học chung
+ Nghiên cứu lý luận về phân bậc hoạt động
+ Nghiên cứu nội dung chương trình về cấu trúc rẽ nhánh trong tin học 11
trường THPT.
+ Thu thập kiến thức từ các giáo viên trực tiếp giảng dạy môn tin. Các chuyên
gia trong lĩnh vực tin học và nội dung các bài tập về cấu trúc rẽ nhánh.
Điều căn bản của phương pháp dạy học là khai thác những hoạt động tiềm
tàng trong mỗi nội dung làm cơ sở cho việc tổ chức quá trình dạy học đạt được
mục tiêu đề ra.
Từ những định hướng học tập trong hoạt động và bằng hoạt động, phân tích
các thành phần của hoạt động lý luận và thực tiễn, ta rút ra được những thành tố cơ
sở của phương pháp dạy học.
Quá trình dạy học là một quá trình điều khiển hoạt động và giao lưu của học
sinh nhằm đạt được những mục tiêu dạy học. Đây là quá trình điều khiển con
Trang 5
SKKN_2014_TIN HỌC_NGUYỄN HUỲNH THANH TRANG_THPT SÔNG RAY
người chứ không phải điều khiển máy móc, vì vậy cần phải quan tâm đến những

yếu tố tâm lý, chẳng hạn những học sinh có sẵn sàng, có hứng thú thực hiện hoạt
động này, hoạt động khác hay không.
Mỗi nội dung dạy học đều liên hệ với những hoạt động nhất định mà ta có thể
khai thác để tổ chức trong quá trình dạy học có hiệu quả. Những hoạt động như
vậy được coi là tương thích với những nội dung cho trước. Xuất phát từ một nội
dung dạy học, ta cần phát hiện những hoạt động tương thích với nội dung đó rồi
căn cứ vào mục tiêu dạy học mà lựa chọn để luyện tập cho học sinh một số hoạt
động thành phần cũng giúp cho ta tổ chức cho học sinh tiến hành những hoạt động
với độ phức tạp vừa sức.
Trong hoạt động, kết quả đạt được ở mức độ nào có thể lại là tiền đề để tập
luyện và đạt được kết quả cao hơn. Do đó cần phân bậc hoạt động theo những mức
độ khác nhau là cơ sở cho việc chỉ đạo quá trình dạy học.
Như vậy, quan điểm hoạt động luyện tập những hoạt động trong phương pháp
dạy học có thể được thể hiện ở các tư tưởng chủ đạo sau đây:
- Cho học sinh thực hiện và luyện tập những hoạt động và hoạt động thành
phần tương thích với nội dung và mục tiêu dạy học.
- Gợi động cơ cho các hoạt động học tập.
- Dẫn dắt học sinh kiến tạo tri thức, đặc biệt là tri thức phương pháp như
phương tiện và kết quả hoạt động.
- Phân bậc hoạt động là căn cứ điều khiển quá trình dạy học.
Những tư tưởng chủ đạo này giúp giáo viên điều khiển quá trình học tập của
học sinh. Muốn điều khiển phải đo những đại lượng đặt ra so sánh với mẫu yêu cầu
và khi cần thiết phải có sự điều chỉnh. Trong dạy học việc đo và so sánh này căn
cứ vào những hoạt động của học sinh. Việc điều chỉnh được thực hiện nhờ tri thức,
trong đó những tri thức phương pháp và dựa vào sự phân bậc hoạt động.
Những tri thức chủ đạo này phân ranh giới rõ ràng với quan điểm thực dụng
phiến diện chỉ quan tâm tới những hành động thụ động, máy móc. Khác với quan
điểm đó, ở đây ta chú ý đến mục tiêu, động cơ, tri thức phương pháp, đến trải
nghiệm thành công, nhờ đó đảm bảo tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của
hoạt động, một yếu tố phát triển không thể thiếu của sự phát triển nói chung và của

sự hoạt động học tập nói riêng.
Những tư tưởng chủ đạo trên cũng thể hiện tính toàn diện của mục tiêu dạy
học. Việc kiến tạo một tri thức, rèn luyện một kỹ năng, hình thành một thái độ học
tập của học sinh cũng như trong đời sống. Như vậy những mục tiêu thành phần
được thống nhất trong hoạt động, điều này thể hiện mối liên hệ hữu cơ giữa chúng
với nhau. Tri thức kỹ năng, thái độ một mặt là điều kiện và mặt khác là đối tượng
biến đổi của hoạt động. Hướng vào hoạt động theo các tư tưởng chủ đạo trên
không làm phiến diện mục tiêu dạy học, mà trái lại còn đảm bảo tính toàn diện của
mục tiêu đó.
Từ những tư tưởng chủ đạo trên hướng vào việc luyện tập cho học sinh những
hoạt động và hoạt động thành phần, gợi động cơ học tập, kiến tạo tri thức mà đặc
Trang 6
SKKN_2014_TIN HỌC_NGUYỄN HUỲNH THANH TRANG_THPT SÔNG RAY
biệt là tri thức, phương pháp phân bậc hoạt động như những thành phần phương
pháp dạy học là:
- Hoạt động và hoạt động thành phần
- Động cơ hoạt động
- Tri thức trong hoạt động
- Phân bậc hoạt động
Chúng được coi là những thành tố cơ sở của phương pháp dạy học bởi vì bản
thân chúng ta là những thành tố của phương pháp dạy học mà dựa vào đó ta có thể
tổ chức cho học sinh hoạt động một cách tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo,
đảm bảo sự phát triển nói chung và kết quả học tập nói riêng.
Sử dụng phương pháp thuyết trình hay vấn đáp cũng là để nhằm vào một mục
tiêu nào đó, chẳng hạn để học sinh kiến tạo một tri thức, nói riêng là một tri thức
phương pháp. Dùng phương tiện dạy học như mô hình hay phim ảnh là để đạt được
một ý đồ sư phạm nào đó.
Các yếu tố trên là những thành tố cơ sở của phương pháp dạy học, một mặt là
nói lên vai trò quan trọng của chúng nhưng mặt khác cũng nói lên sự hạn chế của
chúng.

GIẢI PHÁP 1: PHÂN BẬC HOẠT ĐỘNG
1. Phân bậc hoạt động là gì?
Phân bậc: Làm căn cứ cho việc điều khiển quá trình dạy học. Theo ý nghĩa
của chiến lược thì phân bậc trong bài “Cấu trúc rẽ nhánh” là mức độ kiến thức
trong cả quá trình dạy học, còn theo ý nghĩa chiến thuật thì được hiểu là mức độ
khó khăn của việc hiểu và sử dụng đúng hai dạng cấu trúc rẽ nhánh trong lập trình
và bài tập đối với học sinh. Trên cơ sở ấy, trong quá trình dạy học người giáo viên
cần vận dụng linh hoạt để có thể giúp học sinh lĩnh hội được kiến thức theo yêu
cầu của bộ môn.
Dạy học: Xác định được những mức độ yêu cầu thể hiện ở những kiến thức
mà học sinh phải đạt được trong bài học.
Hướng dẫn: Quá trình giúp đỡ học sinh thực hiện nhiệm vụ học tập, cụ thể là
trong bài học “Cấu trúc rẽ nhánh”.
2. Những căn cứ của phân bậc hoạt động
Trước khi nghiên cứu đến “Cấu trúc rẽ nhánh” trong chương trình tin lớp 11
trường THPT. Trong các bài học trước, học sinh đã được biết đến một số khái
niệm về lệnh, chương trình và ngôn ngữ lập trình, các thành phần của ngôn ngữ lập
trình, từ khoá và tên biến, cấu trúc của chương trình, một số kiểu dữ liệu chuẩn, sử
dụng biến trong chương trình, phép toán, biểu thức, câu lệnh gán, các thủ tục chuẩn
vào ra, soạn thảo, dịch, hiệu chỉnh và thực hiện chương trình…Sau khi kiểu dữ liệu
và các lệnh trên học sinh đã vận dụng trong lập trình. Đồng thời kết hợp cấu trúc
lệnh và kiểu dữ liệu đã học, học sinh đã nắm được một số bài toán trong lập trình.
Trang 7
SKKN_2014_TIN HỌC_NGUYỄN HUỲNH THANH TRANG_THPT SÔNG RAY
Chính vì vậy, đối với bài “Cấu trúc rẽ nhánh” tôi thực hiện phân bậc hoạt động dựa
vào những căn cứ sau đây:
a. Căn cứ vào độ phức tạp của đối tượng hoạt động
Đối tượng hoạt động càng phức tạp thì hoạt động đó càng khó thực hiện. Vì
vậy ta có thể dựa vào sự phức tạp của đối tượng để phân bậc.
Trong bài dạy “Cấu trúc rẽ nhánh” có thể dựa vào sự phức tạp của số biến để

phân bậc hoạt động.
Ví dụ 1: Viết chương trình cho máy nhận vào giá trị của hai biến a, b sau đó
sắp xếp theo thứ tự tăng dần và in ra màn hình giá trị của a, b sau khi sắp xếp.
Program sapxep1;
uses crt;
var a,b,tg:integer;
Begin
clrscr;
write('nhap vao 2 so a,b: '); readln(a,b);
if a>b then
begin
tg:=a;
a:=b;
b:=tg;
end;
writeln (a:5,b:5);
readln;
end.
Ví dụ 2: Viết chương trình cho máy nhận vào giá trị của ba biến a, b, c sau
đó sắp xếp theo thứ tự tăng dần và in ra màn hình giá trị của a, b, c sau khi sắp xếp.
Program sapxep2;
uses crt;
var a,b,c,tg:integer;
Begin
clrscr;
write('nhap vao 3 so a,b,c: '); readln(a,b,c);
if a>b then
begin
tg:=a;
a:=b;

b:=tg;
end;
if b>c then
begin
Trang 8
SKKN_2014_TIN HỌC_NGUYỄN HUỲNH THANH TRANG_THPT SÔNG RAY
tg:=b;
b:=c;
c:=tg;
end;
if a>b then
begin
tg:=a;
a:=b;
b:=tg;
end;
writeln (a:5,b:5,c:5);
readln;
end.
Ta thấy ví dụ 2 là ở hoạt động bậc cao hơn so với ví dụ 1.
b. Sự trừu tượng, khái quát của đối tượng
Trong giáo dục nói chung, trong quá trình dạy tin học nói riêng nhất là việc
dạy về cấu trúc rẽ nhánh việc giáo viên muốn nâng cao trình độ nhận thức của học
sinh thì từ một vấn đề cụ thể của đối tượng hoạt động của đối tượng hoạt động
chúng ta có thể nâng cao bằng cách trừu tượng hoá, khái quát hoá đối tượng hoạt
động. Việc trừu tượng hoá, khái quát hoá sẽ cho học sinh nâng cao kiến thức, nâng
cao tính sáng tạo, sự hào hứng. Nhưng việc trừu tượng, khái quát cũng phải phụ
thuộc vào từng đối tượng học sinh.
Ví dụ: Nhập 3 số thực a, b, c
a. Xét xem a, b, c có lập thành 3 cạnh của tam giác hay không?

b. Nếu lập thành tam giác, hãy tính diện tích của tam đó?
Để giải bài toán này ta phải:
- Nhập vào 3 số thực a, b, c
- Điều kiện cần và đủ để a, b, c lập thành một tam giác là a+b>c và b+c>a và
c+a>b
- Diện tích được tính theo công thức: s=
)(*)(*)(* cpbpapp −−−
Trong đó: p=(a+b+c)/2
Ta có chương trình:
Program tamgiac;
var a,b,c,p,s:real;
Begin
Write('Nhap vao 3 so thuc:');
Readln(a,b,c);
if (a+b>c) and (b+c>a) and (c+a>b) then
Begin
Writeln('Ba so lap thanh 3 canh cua tam giac ');
Trang 9
SKKN_2014_TIN HỌC_NGUYỄN HUỲNH THANH TRANG_THPT SÔNG RAY
p:=(a+b+c)/2;
s:=sqrt(p*(p-a)*(p-b)*(p-c));
Writeln('Dien tich tam giac la:',s:0:2);
end
else
Writeln('Ba so khong lap thanh 3 canh cua tam giac');
readln;
end.
c. Căn cứ vào nội dung hoạt động
Nội dung của hoạt động chủ yếu là những tri thức liên quan tới hoạt động và
những điều kiện khác của hoạt động. Nội dung hoạt động càng gia tăng thì hoạt

động càng khó thực hiện cho nên nội dung hoạt động cũng là căn cứ để phân bậc.
Ở bài: “Cấu trúc rẽ nhánh” nội dung chủ yếu là dạy cho học sinh biết cách sử
dụng câu lệnh rẽ nhánh trong lập trình.
Ví dụ: Tìm nghiệm thực của phương trình bậc hai: ax
2
+ bx + c = 0, với (a <>0)
Ta có chương trình như sau:
program ptb2;
var a,b,c:real;
D,x1,x2:real;
Begin
write('Nhap vao a, b, c');
Readln(a,b,c);
D:=b*b-4*a*c;
if D<0 then writeln('Phuong trinh vo nghiem')
else
Begin
x1:=(-b-sqrt(D))/(2*a);
x2:=-b/a-x1;
writeln('x1= ',x1:8:3, 'x2= ', x2:8:3);
end;
readln;
end.
d. Căn cứ vào sự phức hợp của đối tượng
Một hoạt động phức hợp bao gồm nhiều hoạt động thành phần. Gia tăng
những thành phần này cũng có nghĩa là nâng cao yêu cầu đối với hoạt động.
Theo sự phức hợp của hoạt động ta có thể phân thành 2 bậc theo mức độ khó
dần như sau:
Ví dụ: Nhập vào m số tự nhiên
a. Kiểm tra xem có bao nhiêu số nguyên tố

Trang 10
SKKN_2014_TIN HỌC_NGUYỄN HUỲNH THANH TRANG_THPT SÔNG RAY
b. Hãy sắp xếp các số nguyên tố theo thứ tự tăng dần
Bài toán này khi nhập vào m số tự nhiên, ở câu a ta kiểm tra xem trong các số
tự nhiên đó có bao nhiêu số nguyên tố, câu b phần đầu làm giống câu a, sau đó so
sánh các số nguyên tố để sắp xếp theo thứ tự tăng dần.
e. Căn cứ vào chất lượng hoạt động
Trong học tập lập trình nói chung và học lập trình với cấu trúc rẽ nhánh thì
tính độc lập và tính thành thạo của hoạt động cũng là một căn cứ quan trọng để tiến
hành phân bậc hoạt động.
Ví dụ: Xây dựng chương trình để giải quyết một bài toán nào đó có thể phân
bậc hoạt động theo 3 mức sau:
+ Hiểu chương trình: Tức là khả năng đọc, hiểu chương trình viết sẵn.
+ Trình bày lại được việc xây dựng chương trình. Sau khi đọc hiểu chương
trình thì học sinh phải trình bày được chương trình vừa đọc.
+ Độc lập xây dựng chương trình: Tự mình viết chương trình khi gặp yêu cầu
bài toán, hoặc có thể tự nghĩ ra một bài toán nào đó và tự mình xây dựng chương
trình để giải quyết bài toán đặt ra.
f. Phối hợp nhiều phương diện làm căn cứ phân bậc hoạt động
Sự phân bậc hoạt động trong mỗi ví dụ trên đây chỉ căn cứ vào một phương
diện tách biệt. Đương nhiên cũng có thể xem xét đồng thời nhiều phương diện
khác nhau làm căn cứ phân bậc hoạt động.
Thông thường chúng ta hay dùng phối hợp nội dung của hoạt động với sự
phức hợp của hoạt động để phân bậc.
GIẢI PHÁP 2: ĐIỀU KHIỂN QUÁ TRÌNH HỌC TẬP DỰA VÀO SỰ
PHÂN BẬC CỦA HOẠT ĐỘNG
Giáo viên cần biết vận dụng sự phân bậc để điều khiển quá trình dạy học, chủ
yếu là theo những hướng sau đây:
1. Chính xác hoá mục tiêu
Chúng ta đã biết thế nào là phân bậc hoạt động, tác dụng của nó như thế nào?

Do đó, khi dạy học người giáo viên phải tiến hành phân bậc về khả năng nhận thức
của người học và dựa vào đó để tiến hành đưa ra những yêu cầu, những bài toán.
Không được đưa ra yêu cầu một cách chung chung.
Khi dạy về “Cấu trúc rẽ nhánh” giáo viên cần lưu ý nêu rõ ý nghĩa của cấu
trúc rẽ nhánh và đưa ra các ví dụ minh hoạ để học sinh hình dung ra các dạng cấu
trúc rẽ nhánh như thế nào? Vì đây là cấu trúc quan trọng nó sẽ được sử dụng rất
nhiều trong các chương trình sau này. Ý nghĩa của cấu trúc rẽ nhánh là một điều
khiển chọn thực hiện hay không thực hiện công việc phù hợp một điều kiện đang
Trang 11
SKKN_2014_TIN HỌC_NGUYỄN HUỲNH THANH TRANG_THPT SÔNG RAY
xảy ra. Thực chất là "dạy máy" học cách xử lí tình huống. Nếu đưa vào khái niệm
câu lệnh rỗng là câu lệnh không thực hiện thao tác nào thì dạng thiếu có thể viết
thành dạng đủ nếu coi câu lệnh 2 là câu lệnh rỗng. Và chú ý dạng đủ có thể lồng
nhau. Một lỗi thường gặp của người lập trình khi sử dụng câu lệnh if là không tạo
câu lệnh ghép trong trường hợp cần thiết. Đây là lỗi mà người lập trình khó phát
hiện vì trình dịch không phát hiện giúp được. Khi có nhiều câu lệnh if đi liền nhau
thường tạo ra nhiều tiềm ẩn dẫn tới lỗi (đặc biệt xảy ra khi có nhiều if hơn else,
người ta thường gọi hiện tượng này là hiện tượng else lỏng lẻo). Để tránh hiện
tượng này khi viết dấu bắt đầu của lệnh ghép thì cũng viết luôn dấu kết thúc của
lệnh ghép, sau đó viết chèn dãy lệnh cần thực hiện vào giữa hai dấu này. Ví dụ hai
đoạn chương trình sau đây có nội dung khác nhau.
Đoạn 1:
if <biểu thức> then
begin
<câu lệnh 1>;
if<biểu thức 2> then <câu lệnh 2>
end
else <câu lệnh 3>;
Đoạn 2:
if <biểu thức> then <câu lệnh 1>;

if <biểu thức 2> then <câu lệnh 2>
else <câu lệnh 3>;
Đối với đoạn 1 thì else tương ứng với if trước còn trong đoạn 2 thì else
tương ứng với if sau.
Sau khi học xong bài cấu trúc rẽ nhánh học sinh đạt được các mục tiêu sau:
- Hiểu nhu cầu của cấu trúc rẽ nhánh trong biểu diễn thuật toán
- Hiểu câu lệnh rẽ nhánh dạng thiếu và dạng đủ
- Hiểu thế nào là câu lệnh ghép
- Viết được các lệnh rẽ nhánh dạng khuyết, rẽ nhánh dạng đủ và áp dụng để
thực hiện được thuật toán của một số bài toán đơn giản.
2. Tuần tự nâng cao yêu cầu
Việc phân bậc hoạt động cũng giúp giáo viên có thể dựa vào đó để tuần tự
nâng cao yêu cầu đối với học sinh trong dạy học. Điều này phù hợp với lý thuyết
của Vưgốtxky về những phát triển gần nhất. Theo lý thuyết này, những yêu cầu đặt
ra đối với học sinh phải hướng vào vùng phát triển gần nhất, vùng này đã được
chuẩn bị do quá trình phát triển trước đó, nhưng học sinh còn chưa đạt tới. Nhờ
hoạt động nhiều mặt, vùng phát triển gần nhất sẽ tiến hành vùng phát hiện tại và
vùng phát triển gần nhất. Quá trình cứ lặp như vậy và học sinh cứ leo hết nấc thang
này đến nấc thang khác trong quá trình học tập và phát triển.
Trong bài dạy: “Cấu trúc rẽ nhánh” về phương pháp giảng dạy giáo viên nên
chuẩn bị sẵn minh họa cú pháp và sơ đồ cấu trúc của câu lệnh if- then (cả hai dạng)
trên khổ giấy lớn> Dựa vào minh họa này, giáo viên hướng dẫn học sinh so sánh
dạng thiếu và dạng đủ. Có thể tiến hành giảng dạy theo phương pháp giao tiếp
bằng cách giới thiệu các ví dụ rồi để học sinh nghiên cứu, từ đó giáo viên dẫn tới
các khái niệm cần truyền đạt như cấu trúc rẽ nhánh, câu lệnh if - then , phương
Trang 12
SKKN_2014_TIN HỌC_NGUYỄN HUỲNH THANH TRANG_THPT SÔNG RAY
pháp này dễ tạo sự cuốn hút học sinh vào việc học. Phần củng cố bài học, giáo viên
có thể chọn thêm một hoặc vài ví dụ đơn giản để học sinh tự giải, đồng thời giáo
viên nhấn mạnh ý nghĩa của câu lệnh rẽ nhánh như đã nêu ở trên.

Sau đây tôi thiết kế bài giảng theo phương pháp nói trên để quí đồng nghiệp
tham khảo và góp ý cho đề tài này hoàn thiện hơn.
Hoạt động 1: Tìm hiểu ý nghĩa của tổ chức rẽ nhánh
Hoạt động của GV và HS Nội dung
GV: Lấy ví dụ thực tiễn
- Nếu ngày mai cúp điện thì không
thực hảnh.
- Nếu ngày mai cúp điện thì không
thực hảnh. Nếu không cúp điện thì
thực hảnh.
HS: chú ý lắng nghe
GV: Yêu cầu học sinh lấy ví dụ tương
tự
GV: Đưa ra ví dụ rồi cùng học sinh thảo
luận để giải quyết bài toán.
* Các bước giải phương trình bậc 2
- Nhập hệ số a, b, c
- Tính delta = b
2
– 4ac
- Nếu delta âm thì thông báo phương
trình vô nghiệm, ngược lại tính và đưa
ra nghiệm.
1. Rẽ nhánh
Cấu trúc dùng để mô tả các mệnh đề có
dạng như trên gọi là cấu trúc rẽ nhánh.
Ví dụ. Giải phương trình bậc 2
ax
2
+ bx + c = 0 (a<>0)

Sau khi tính delta tuỳ thuộc vào giá trị
delta một trong hai thao tác sẽ được thực
Trang 13
đS
đĐ
Nếu …thì…
Nếu …thì….nếu
không …thì….
Tính và đưa
ra nghiệm
Nhập a, b, c
delta = b
2
– 4ac
ac444ac4ac
Delta>=
0
Thông báo vô
nghiệm
Kết thúc
SKKN_2014_TIN HỌC_NGUYỄN HUỲNH THANH TRANG_THPT SÔNG RAY
hiện.
Hoạt động 2: Tìm hiểu cấu trúc rẽ nhánh if – then – else
Hoạt động của GV và HS Nội dung
GV: Đưa ra cấu trúc rẽ nhánh trong
Pascal. Nhắc nhở học sinh đây là cấu
trúc quan trọng nó sẽ được sử dụng rất
nhiều trong các chương trình sau này.
GV: Phân tích cú pháp để học sinh hiểu
If <điều kiện> đúng thì <câu lệnh> được

thực hiện, sai <câu lệnh> bị bỏ qua;
GV: Lấy ví dụ
GV: Phân tích cú pháp để học sinh hiểu
If <điều kiện> đúng thì <câu lệnh 1>
được thực hiện, ngược lại thì <câu lệnh
2> được thực hiện.
GV: Lưu ý các em sau then và else chỉ
có một lệnh chương trình. Sau mỗi lệnh
có dấu (;) sau else không có dấu (;)
GV: Lấy ví dụ
GV: Với 2 dạng này dạng nào dùng
thuận tiện hơn.
HS: Trả lời
GV: Trong câu lệnh if – then muốn thực
hiện nhiều lệnh sau then hay nhiều lệnh
sau else làm thế nào?
HS: Phát biểu ý kiến
GV: Khi đó ta cần gộp nhiều lệnh đó lại
coi đó là một câu lệnh trong chương
trình.
GV: Lấy ví dụ
2. Câu lệnh if – then
Pascal dùng câu lệnh if – then để mô tả
việc rẽ nhánh.
a. Dạng thiếu
if <điều kiện> then <câu lệnh>;
Trong đó:
- Điều kiện là biểu thức quan hệ hoặc
biểu thức logic
- Câu lệnh là 1 lệnh của pascal

VD: if a mod 2=0 then writeln(‘a là so
chan’);
b. Dạng đủ
if <điều kiện> then <câu lệnh 1> else
<câu lệnh 2>;
VD: if a mod 2 = 0 then writeln(‘a là so
chan’)
Else writeln (‘ a la so le’);
3. Câu lệnh ghép
Trong pascal dùng gộp nhiều lệnh thành
1 câu lệnh gọi là câu lệnh ghép. Có dạng
Begin
<Các câu lệnh>;
End;
Trang 14
SKKN_2014_TIN HỌC_NGUYỄN HUỲNH THANH TRANG_THPT SÔNG RAY
VD: if

<0 then writeln (‘phương trình
vô nghiệm)
Else
Begin
X1:=(-b-sqrt(D))/(2*a);
X1:=(-b+sqrt(D))/(2*a);
End;
Hoạt động 3: Rèn luyện kĩ năng vận dụng lệnh if
Hoạt động của GV và HS Nội dung
GV: Đưa ra ví dụ và gợi ý cho học sinh
các bước để giải bài toán sau đó viết
thành chương trình.

GV: Đưa ví dụ
HS: Đọc và tìm hiểu cách giải
GV: Gợi ý
HS: Lắng nghe gợi ý
Ví dụ. Giải phương trình bậc 2
ax
2
+ bx + c = 0 (a<>0)
Thuật toán:
program ptb2;
var a,b,c:real;
D,x1,x2:real;
Begin
write('Nhap vao a,b,c');
Readln(a,b,c);
D:=b*b-4*a*c;
if D<0 then writeln('Phuong trinh vo
nghiem')
else
Begin
x1:=(-b-sqrt(D))/(2*a);
x2:=-b/a-x1;
writeln('x1= ',x1:8:3, 'x2= ', x2:8:3);
end;
readln;
end.
Ví dụ: Tìm số ngày của năm N, biết
rằng năm N là năm chia hết cho 400
hoặc chia hết cho 4 nhưng không chia
hết cho 100. Ví dụ các năm 2000, 2004

là năm nhuận và có số ngày là 366, các
năm 1900, 1945 không phải là năm
nhuận và có số ngày là 365.
Chương trình:
Program namnhuan;
ues crt;
var N, SN:integer;
D,x1,x2:real;
Begin
Trang 15
SKKN_2014_TIN HỌC_NGUYỄN HUỲNH THANH TRANG_THPT SÔNG RAY
Clrscr;
write('Nhap vao nam');
Readln(N);
if (N mod 400 =0) or ((N mod 4 =0)
and (N mod 100 <>0))
then SN:=366 else SN:=365;
writeln(‘So ngay cua nam ‘, N,’la' SN);
readln;
end.
3. Tạm thời hạ thấp yêu cầu khi cần thiết
Trường hợp học sinh gặp khó khăn khi tiến hành hoạt động ta có thể tạm thời
hạ thấp yêu cầu. Sau khi học sinh đã đạt được mức thấp này, ta lại tiếp tục tuần tự
nâng cao yêu cầu. Làm như vậy cũng phù hợp với lý thuyết về vùng phát triển gần
nhất. Thật vậy, khi học sinh gặp khó khăn cũng có nghĩa là yêu cầu đề ra ở những
vùng phát triển quá xa. Tạm thời hạ thấp yêu cầu tức là đã điều chỉnh yêu cầu
hướng về vùng phát triển gần nhất.
Trong tin học nói chung và trong quá trình dạy học về cấu trúc rẽ nhánh việc
hạ thấp yêu cầu khi cần thiết sẽ giúp học sinh nắm vững kiến thức hơn.
Ví dụ: Nhập vào 3 số a, b, c kiểm tra xem:

a. Ba số đó có lập thành 3 cạnh của tam giác không?
b. Nếu lập thành tam giác thì xét xem nó có phải là tam giác tù, tam giác
nhọn, tam giác vuông không?
Nhận xét: Bài toán này ở yêu cầu b đòi hỏi ở mức cao hơn nếu học sinh gặp
khó khăn thì ta hạ thấp yêu cầu xuống để giúp học sinh nắm vững kiến thức sau đó
nâng yêu cầu lên.
Bài toán trên có chương trình như sau:
Program tamgiac;
Var a,b,c,tg:real;
Begin
Writeln('Nhap 3 so a,b,c '); Readln(a,b,c);
if (a+b>c) and (b+c>a) and (c+a>b) then
Begin
Writeln('ba so a,b,c lap thanh 3 canh cua tam giac');
if a<b then
Begin
tg:=a; a:=b; b:=tg;
end;
if a<c then
Begin
tg:=a; a:=c; c:=tg;
end;
Trang 16
SKKN_2014_TIN HỌC_NGUYỄN HUỲNH THANH TRANG_THPT SÔNG RAY
if (a*a>b*b+c*c) then
Writeln('la tam giac tu')
else
if (a*a<b*b+c*c) then
Writeln('la tam giac nhon')
else

if (a*a=b*b+c*c) then
Writeln('la tam giac vuong');
end
else
Writeln('ba so a,b,c khong lap thanh 3 canh cua tam giac');
readln;
end.
4. Tiến hành dạy học phân hoá
Sự phân bậc hoạt động cũng tạo khả năng tiến hành dạy học phân hoá. Dạy
học phân hoá xuất phát từ sự biện chứng của thống nhất và phân hoá, từ những yêu
cầu đảm bảo thực hiện mục tiêu chung cho toàn thể học sinh, đồng thời khuyến
khích phát triển tối đa những khả năng của từng cá nhân. Trong dạy học phân hoá,
người giáo viên cần tính tới những đặc điểm của cá nhân học sinh, chú ý tới từng
đối tượng hay từng loại đối tượng về trình độ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo đã đạt, về
khả năng tiếp thu, nhu cầu luyện tập, sở thích hứng thú…để tích cực hoá hoạt động
của học sinh trong học tập.
Một khả năng dạy học phân hoá thường dùng là phân hoá nội tại, tức là dạy
học phân hoá trong nội bộ một lớp học thống nhất.
Sự phân bậc hoạt động có thể được lợi dụng để thực hiện dạy học phân hoá
nội tại theo cách cho những học sinh thuộc những loại trình độ khác nhau đồng
thời thực hiện những hoạt động có cùng nội dung nhưng trải qua hoặc ở những
mức độ yêu cầu khác nhau.
Chẳng hạn nhập vào 3 số ngẫu nhiêu xét xem:
a. 3 số đó có lập thành 3 cạnh của tam giác không?
b. Nếu lập thành 3 cạnh của tam giác thì đó là tam giác gì trong các tam giác
sau: tam giác tù, tam giác nhọn, tam giác vuông.
Với học sinh trung bình thì ta chỉ yêu cầu nhập 3 số và xét xem ba số đó có
lập thành 3 cạnh của tam giác không. Còn với học sinh khá giỏi thì yêu cầu xét
xem 3 cạnh đó lập thành tam giác gì?
IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI

Qua nghiên cứu đề tài "Một vài phương pháp nhỏ giúp học sinh học tốt lập
trình Cấu trúc rẽ nhánh”. Tôi nhận thấy:
Do đặc điểm đối tượng học sinh và đặc trưng của môn học, việc tiến hành
phương pháp phân bậc trong bài giảng là hết sức cần thiết để giúp cho học sinh
tích cực, chủ động nắm vững bài giảng và vận dụng vào thực hành đạt kết quả tốt
Trang 17
SKKN_2014_TIN HỌC_NGUYỄN HUỲNH THANH TRANG_THPT SÔNG RAY
nhất. Trong một tập thể học sinh luôn tồn tại những đối tượng có trình độ nhận
thức khác nhau, bởi vậy việc đảm bảo tính vừa sức, phù hợp với đối tượng là rất
cần thiết trong các phương pháp của người giáo viên, cần phải thực hiện để đạt
được tính hiệu quả trong giáo dục đào tạo.
Việc sử dụng phương pháp phân bậc hoạt động trong bài giảng “Cấu trúc rẽ
nhánh” góp phần nâng cao hiệu quả nhận thức của học sinh, tính khả thi trong từng
bước nâng cao nhận thức cho học sinh được thể hiện rõ rệt. Ngòai ra phương pháp
phân bậc trong bài giảng làm cho quá trình giảng dạy logic đi từ vấn đề khái quát
đến cụ thể, đi từ dễ đến khó…
Để thực hiện tốt nhiệm vụ giảng dạy của mình đòi hỏi người giáo viên phải
dành nhiều thời gian để nghiên cứu, tìm tòi, khai thác, tích luỹ kiến thức trợ giúp
quá trình giảng dạy của mình và phải có phương pháp sư phạm tốt theo hướng đổi
mới phương pháp, tích cực hoá hoạt động của người học làm cho học sinh say mê,
ham muốn học tập.
V. ĐỀ XUẤT - KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Đề tài này nhằm góp phần nghiên cứu phương pháp phân bậc trong dạy học
để nâng cao chất lượng giáo dục. Tôi xin có một số ý kiến đề xuất như sau:
1. Phải xem xét tính tự giác, tính tích cực và sáng tạo là những sản phẩm quan
trọng của con người. Do vậy nhà trường ngoài nhiệm vụ quan trọng là truyền thụ
tri thức cho học sinh còn phải giáo dục, rèn luyện cho các em phẩm chất trên thông
qua giáo dục dạy học.
2. Cần có sự nhìn nhận, đánh giá đúng đắn bản chất của quá trình dạy học
không có nghĩa là “nhồi” cho học sinh những tri thức mà phải dạy cho họ phương

pháp tiếp cận và chiếm lĩnh tri thức đó.
3. Điều chỉnh phương pháp dạy học của mình cho phù hợp với yêu cầu đổi
mới. Tránh cứng nhắc trong quản lý và chỉ đạo chuyên môn.
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo viên tin học 11_ Hồ Sĩ Đàm _NXB Giáo Dục
2. Sách giáo khoa tin học 11 _Hồ Sĩ Đàm _ NXB Giáo Dục
3. Sách bài tập tin học 11 _Hồ Sĩ Đàm _ NXB Giáo Dục.
4. Phương pháp dạy học tin học_Trịnh Thanh Hải_ NXB Giáo Dục
5. Sách Thiết kế bài giảng tin học 11_ Trần Doãn Vinh_ NXB đại học sư phạm
6. Sách học tốt tin học 11_ Trần Doãn Vinh _NXB ĐHQG Hà Nội.
7. Bồi dưỡng giáo viên: Giáo dục tin học _NXB Hà Nội 1993
8. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng môn tin học THPT_ NXB
Giáo Dục.
VII. PHỤ LỤC
Dưới đây là các bài tập, bài giảng trong quá trình thực nghiệm và các sản phẩm
khác thu được từ quá trình thực hiện sáng kiến kinh nghiệm:
 BÀI TẬP:
Trang 18
SKKN_2014_TIN HỌC_NGUYỄN HUỲNH THANH TRANG_THPT SÔNG RAY
1. Viết chương trình cho máy nhận vào giá trị của hai biến a, b sau đó sắp xếp
theo thứ tự tăng dần và in ra màn hình giá trị của a, b sau khi sắp xếp.
2. Viết chương trình cho máy nhận vào giá trị của hai biến a, b, c sau đó sắp
xếp theo thứ tự tăng dần và in ra màn hình giá trị của a, b, c sau khi sắp xếp.
3. Nhập 3 số thực a, b, c
a. Xét xem a, b, c có lập thành 3 cạnh của tam giác hay không?
b. Nếu lập thành tam giác, hãy tính diện tích của tam đó?
4. Tìm nghiệm thực của phương trình bậc hai: ax
2
+ bx + c = 0, với (a <>0)
5. Nhập vào m số tự nhiên

a. Kiểm tra xem có bao nhiêu số nguyên tố
b. Hãy sắp xếp các số nguyên tố theo thứ tự tăng dần.
 BÀI GIẢNG: Bài 9: Cấu trúc rẽ nhánh trong chương trình tin học 11.
Đồng Nai, ngày 20 tháng 05 năm 2014
Người Thực Hiện
Nguyễn Huỳnh Thanh Trang
Trang 19

×