Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNGBỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LỚP 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.4 KB, 21 trang )

Lêi c¶m ¬n
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, sự hợp tác,
giúp đỡ nhiệt tình của
các đồng chí giáo viên trong nhà trường đã tạo điều kiện
cho tôi khảo sát thực
tế, thu thập số liệu, góp nhiều ý kiến cho tôi hoàn thành
đề tài sáng kiến này.
Do điều kiện nghiên cứu, thời gian, phạm vi có hạn nên
sáng kiến không thể
tránh khỏi những thiếu sót, kính mong sự góp ý chân
thành của đồng chí,
đồng nghiệp, của hội đồng khoa học cấp trường và cấp
ngành để SKKN của
tôi được hoàn thiện hơn và có giá trị ứng dụng thực tiễn.
Tôi xin chân
thành cảm ơn!
Ngêi viÕt
Lª ThÞ Hoµi Th¬ng
MỤC LỤC
A. Phần mở đầu:…………………………………………. �
…………………….�� Trang 04
1. Lý do chọn đề tài :……………………………….………… �
…… �� Trang 04
2. Mục đích nghiên cứu:………….………….…
……………… Trang 05
3. Phạm vi, đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
………………… Trang 05
4. Thời gian nghiên
cứu: Trang 06
B. Phần nội dung:……………………………….………… … � ��
……………… Trang 06


I/ Cơ sở lí
luận: Trang
06
II/ Cơ sở thực
tiễn: . Trang 06
1. Khảo sát tình hình………………………………………… �
………………… � Trang 06
2. Chỉ tiêu phấn đấu đầu năm:………
… …Trang 07
III/ Nội dung và biện pháp thực hiện:
………………………………………. Trang 07
4. Kết quả đạt được:……………………………………….… .� ��
………………… Trang 12
C. Phần kết luận:……………………………… ………… ….
………………… Trang 13
1. Bài học kinh nghiệm:…………………………………….….…
……………… Trang 13
2. Kiến nghị - đề xuất:…………………………………………. �
………………�� Trang 13
D. Phần phụ lục:…………………………………… … …….� �
……………… Trang 15
KÍ HIỆU VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI
- SKKN: Sáng kiến kinh nghiệm.
- HS: Học sinh.
- HĐKH: Hội đồng khoa học.
- TH: Tiểu học.
- GVCN: Giáo viên chủ nhiệm.
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LỚP 5

A/ PHẦN MỞ ĐẦU:
I/ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Theo “chiến lược con người” mà Đảng và nhà nước đã
vạch ra đường hướng rất đúng đắn là “ nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Nhà trường của
chúng ta hướng đến phát triển tối đa những năng lực còn
tiềm ẩn trong mỗi học sinh. Ở trưởng tiểu học đồng thời với
nhiệm vụ phổ cập giáo dục tiểu học, việc chăm lo phát triển
bồi dưỡng học sinh giỏi góp phần đào tạo nhân tài cho đất
nước được xem là một nhiệm vụ cần thiết và quan trọng.
Nhiều năm qua, bản thân tôi được giao nhiệm vụ bồi dưỡng
học sinh giỏi môn Tiếng Việt lớp 5, tôi luôn luôn trăn trở đi
sâu tìm hiểu nội dung chương trình Tiếng Việt lớp 5 đại trà
và nâng cao, tìm phương pháp tối ưu để giảng dạy có hiệu
quả. Và bản thân tôi nhận thấy mục tiêu của việc bòi dưỡng
học sinh giỏi tiếng Việt không phải để tạo ra các nhà văn,
nhà ngôn ngữ học mặc dầu trên thực tế, trong những học
sinh giỏi này sẽ có những em trở thành những tài năng văn
học, ngôn ngữ học. Mục tiêu chính của việc làm này là bồi
dưỡng lẽ sống, tâm hồn, khả năng tư duy và năng lực ngôn
ngữ, cảm thụ văn chương cho học sinh, góp phần hình
thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại. Để đạt được
những mục tiêu đó, việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn tiếng
Việt, đặt ra cho tôi những nhiệm vụ sau:
1. Phát hiện những học sinh có khả năng trở thành học sinh
giỏi Tiếng Việt.
2. Bồi dưỡng hứng thú Tiếng Việt cho học sinh.
3. Bồi dưỡng vốn sống cho học sinh.
4. Bồi dưỡng kiến thức, kĩ năng Tiếng Việt cho học sinh.
Chính vì thế tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu “Bồi

dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 5”.
Trong quá trình thực hiện đề tài này, tôi gặp phải những
thuận lợi, khó khăn sau:
1. Thuận lợi:
Trước hết, đó là sự quan tâm chỉ đạo sát sao của lãnh đạo
nhà trường:
- Tạo mọi điều kiện có thể để công việc bồi dưỡng học sinh
giỏi có chất lượng như thời gian, tài liệu
- Bản thân hiệu trưởng trực tiếp tham gia kiểm tra, đánh
giá, chỉ đạo chương trình.
- Nhà trường có những biện pháp động viên, khuyến khích
học sinh và giáo viên bồi dưỡng, tạo động lực thúc đẩy
công việc có hiệu quả tốt.
- Học sinh chăm ngoan, hiếu học.
2. Khó khăn:
Nhìn chung nhiều năm nay, chúng ta đã chú ý bồi dưỡng
học sinh giỏi nhưng điều kiện thực tế còn nhiều hạn chế.
Việc giải quyết mồi quan hệ giữa giáo dục toàn diện và bồi
dưỡng học sinh giỏi còn nhiều lúng túng. đặc biệt việc bồi
dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt còn gặp nhiều khó
khăn hơn bởi nhiều lí do:
Về phía phụ huynh học sinh: số phụ huynh có nguyện vọng
cho con bồi dưỡng Tiếng Việt ít hơn bồi dưỡng Toán. Phụ
huynh rất ít quan tâm đến việc học tập của con cái do điều
kiện kinh tế của nhân dân ở địa phương còn hết sức nghèo
nàn, khó khăn. Rất nhiều gia đình phụ huynh phải đi làm ăn
xa, việc học tập ở nhà, mua sắm tài liệu tham khảo là rất
khó khăn do vậy hạn chế không nhỏ đến chất lượng học tập
của các em.
Về phía giáo viên: Kiến thức tiếng Việt, khả năng tư duy

nghệ thuật còn hạn chế. Giáo viên bồi dưỡng Tiếng Việt
kinh nghiệm còn ít. Thêm nữa, do đặc trưng môn học, đặc
biệt phần cảm thụ và viết văn phụ thuộc rất nhiều vào cá
nhân học sinh, vào quá trình tích lũy lâu dài của các em,
II/ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Khảo sát thực trạng công tác bồi dưỡng và chất lượng học
sinh giỏi lớp 5 ở trường TH Nguyễn Văn Trỗi- cam Lộ -
Quảng Trị.
Đề xuất một số biện pháp thực hiện công tác bồi dưỡng để
nâng cao chất lượng HS giỏi lớp 5 ở trường TH nguyễn
Văn trỗi nói riêng và ở trường Tiểu học nói chung.
III/ PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU:
1/ Phạm vi nghiên cứu: Do điều kiện thời gian có hạn nên
đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số biện pháp bồi dưỡng
để nâng cao chất lượng HS giỏi ở trường TH Nguyễn Văn
Trỗi – Cam Lộ- Quảng Trị.
2/ Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu biện pháp bồi dưỡng
để nâng cao chất lượng HS giỏi ở trường TH Nguyễn Văn
Trỗi – Cam Lộ- Quảng Trị.
3/ Phương pháp nghiên cứu:
a/ Phương pháp quan sát: Quan sát thức tế, thực trạng về
công tác chỉ đạo, công tác bồi dưỡng, quá trình học tập,
chất lượng học tập của HS giỏi lớp 5.
b/ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
c/ Phương pháp nghiên cứu tài liệu. Nghiên cứu sách, báo,
giáo trình có liên quan đến công tác bồi dưỡng HS giỏi.
Nghiên cứu chất lượng HS giỏi những năm trước. Nghiên
cứư công tác chỉ đạo của nhà trường đối với công tác bồi
dưỡng HS giỏi.

d/ Phương pháp điều tra, phỏng vấn: Điều tra, phỏng vấn
thu thập thông tin về số liệu, chất lượng học sinh giỏi các
năm trước ở chuyên môn nhà trường, GVCN.
IV/ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU:
Thời gian bắt đầu: Tháng 10 năm 2007
Thời gian hoàn thành: Tháng 4 năm 2008
B/ PHẦN NỘI DUNG:
I/ CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Các kết quả thực tế cho thấy số học sinh được xem là có
năng lực nhận thức, tư duy, vốn sống nổi trội hơn các em
khác chiếm từ 5-10% tổng số học sinh. Các tài năng xuất
hiện từ rất sớm. Vì vậy trên thế giới, người ta luôn quan
tâm đến việc phát hiện và bồi dưỡng nhân tài ngay từ
những năm tháng trẻ còn nhỏ tuổi. Ở nước ta, từ nhiều năm
nay vấn đề này cũng được quan tâm.
Đồng thời với việc thực hiện nhiệm vụ phát hiện và bồi
dưỡng nhân tài cho đất nước, tổ chức thi học sinh giỏi môn
Tiếng Việt còn có tác dụng thúc đẩy phong trào thi đua dạy
tốt, học tốt, việc bồi dưỡng học sinh giỏi có tác dụng tích
cực trở lại đối với giáo viên. Để có thể bồi dưỡng học sinh
giỏi, người giáo viên luôn phải học hỏi, tự bồi dưỡng kiến
thức để nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực sư phạm
cũng như phải bồi dưỡng lòng yêu nghề, tinh thần tận tâm
với công việc.
II/ CƠ SỞ THỰC TIỄN:
1/ Khảo sát tình hình:
Qua nhiều năm giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy giáo viên
dạy bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt nắm khá chắc nội
dung chương trình và kiến thức Tiếng Việt khối 5, biết vận
dụng đổi mới PPDH: Lấy học sinh làm trung tâm, biết trân

trọng sự sáng tạo dù nhỏ của học sinh, biết sử dụng hệ
thống câu hỏi gợi mở để hướng dẫn học sinh phân tích tìm
hiểu bài tập.
Công tác chỉ đạo của nhà trường cũng như mỗi cán bộ giáo
viên đã nhân thức sâu sắc về các cuộc vận động lớn của
ngành như “ Đổi mới công tác quản lí và nâng cao chất
lượng giáo dục”, phong tào thi đua “ Xây dựng trường
học thân thiện, học sinh tích cực”
Tuy nhiên thời gian dành cho chương trình bồi dưỡng đến
khi học sinh dự thi không phải là nhiều so với lượng kiến
thức các em cần nắm thì quá rộng. Bài tập cảm thụ văn học
quá mới mẻ và hết sức khó đối với các em.
Sự chú ý của các em chưa bền vững, khả năng tập trung
chưa cao nên học sinh thường nóng vội, đọc đề qua loa,
chưa hiểu thấu đáo đã bắt tay vào làm.
Trình độ ngôn ngữ của các em còn thấp mà yêu cầu đặt ra
đối với học sinh giỏi môn Tiếng Việt tương đối cao và đa
dạng do vậy nhiều năm liền số HSG đạt giải cấp huyện, cấp
tỉnh rất ít và chưa có giải cao.
Kết quả khảo sát chất lượng môn Tiếng Việt lớp 5: ( Đội
tuyển)
TS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Ghi chú
SL
Tỉ lệ %
SL

Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
12
1
8,3
3
25
8
66,7
0
0
2/ Chỉ tiêu phấn đấu:
TS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Ghi chú
SL
Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
12

10
83
2
16,6
0
0
0
0
Chỉ tiêu :HSG cấp huyện: 3-4 HS
HSG cấp tỉnh: 2-3 HS
IV/ NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP THỤC HIỆN:
A/ Tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt:
1/ Phát hiện học sinh có khả năng trở thành học sinh
giỏi môn Tiếng Việt:
Những học sinh có khả năng về môn Tiếng Việt có những
biểu hiện sau:
Các em có lòng say mê văn học, có hứng thú với nghệ thuật
ngôn từ, yêu thích thơ ca, ham mê đọc sách báo, thích nghe
kể chuyện, có những em ước mơ thành nhà văn hoặc trở
thành cô giáo dạy bồi dưỡng môn văn - Tiếng Việt. Phần
lớn các em không hờ hửng trước vẻ đẹp của ngôn từ văn
chương, gắng ghi nhớ và ghi chép những câu văn hay.
Các em có những phẩm chất tư duy có tính thống nhất: tư
duy phân loại, phân tích, trừu tượng hóa, khái quát hóa.
Có năng lực quan sát, nhận xét ngôn từ của mọi người và
của chính mình.
Có em còn biết quan sát hiện thực, biết liên tưởng, giàu
cảm xúc. Ví dụ một em nhìn thấy trăng bị mây che đã nói:
“ trăng đắp chăn”. Hay có em khi đọc 2 câu thơ “ Con xót
lòng mẹ hái trái bưởi đào

Con nhạt miệng có canh tôm nấu khế.”
Các em đã hiểu được vừa hình ảnh vừa cụ thể: mẹ lúc nào
cũng sẵn sàng chăm sóc con, lo lắng cho con, làm tất cả
những gì mà con cần
Từ đó ta thấy các em có khả năng tư duy nghệ thuật là có
khả năng tiếp nhận vẻ đẹp của ngôn từ, cách nói của văn
chương, biết phát hiện những tín hiệu nghệ thuật ngôn từ
trong việc biểu đạt nội dung.
Về khả năng sử dụng từ: Những học sinh giỏi Tiếng Việt
thường có khả năng sử dụng nhiều tính từ, từ láy, từ tượng
hình, từ tượng thanh, sử dụng những câu có nhiều thành
phần phụ như định ngữ, bỗ ngữ, câu văn sáng sủa, rõ ý, bộc
lộ được sự đánh giá, tình cảm của mình với hiện thực được
nói tới.
Chúng ta thử so sánh 2 cách diễn đạt của một học sinh
trung bình và một học sinh giỏi môn Tiếng Việt: “ Chúng
em đã đến thăm Quảng trường Ba Đình. Quảng trường
này rất có ý nghĩa vì tại đây bác Hồ đã đọc tuyên ngôn
độc lập, cũng vì thế, lăng Bác được dựng ở đây.”
“ Thế là chúng em đã được đến Quảng trường ba Đình
lịch sử. Nơi đây Bác Hồ đã đọc tuyên ngôn đọc lập khai
sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, cũng chính
nơi đây toàn dân ta đã chung sức xây nên nơi an nghỉ
cuối cùng của Người”
Đoạn văn của em học sinh giỏi nó có tác động không phải
chỉ vào lí trí mà cả tình cảm của người đọc.
Vậy cần đặt vấn đề phải phát hiện những học sinh có khả
năng giỏi Tiếng việt từ lúc nào? Nên tổ chức bồi dưỡng học
sinh giỏi từ lớp nào?
Trên thực tế, có nhiều trường khi chuẩn bị thi học sinh giỏi

mới tập trung một số buổi để ôn luyện, nhiều trường bồi
dưỡng từ lớp 4. Có thể nói việc bồi dưỡng học sinh giỏi
càng bắt đầu sớm bao nhiêu càng có hiệu quả bấy nhiêu.
Ở lớp 1, nhiệm vụ chính của các em là nhanh chóng chiếm
lĩnh công cụ chữ viết, đọc thông - viết thạo nên ở những
trường có điều kiện cũng chỉ nên bồi dưỡng học sinh giỏi
từ lớp 2.
Để phát hiện những học sinh có năng lực Tiếng Việt, cần
có sự điều tra các phép đo nhằm khảo sát, tìm hiểu hứng
thú, tìm hiểu thông qua phụ huynh, phỏng vấn trực tiếp các
em, theo dõi, nắm tình hình học tập của trẻ.
2/ Bồi dưỡng hứng thú học tập:
Hứng thú có vai trò quan trọng trong học tập và làm việc.
Không có việc gì người ta không làm được dưới ảnh hưởng
của hứng thú. Vì vậy M.goocki có nói: “ Thiên tài nảy nở
từ tình yêu đối với công việc”. Vì vậy bồi dưỡng hứng thú
học tập rất quan trọng. Không có con đường nào khác là
giúp các em thấy được vẻ đẹp và khả năng kì diệu của tiếng
Việt – văn học, từng giờ, từng phút trong giờ Tiếng Việt,
người giáo viên đều hướng đến hình thành và duy trì hứng
thú cho học sinh.
Ví dụ cách giới thiệu bài: Chúng ta đã được học rất nhiều
bài về mẹ, “Bao tháng bao năm mẹ bế con trên đôi tay mềm
mại ấy” “ mẹ là ngọn gió của con suốt đời” “ Bình yêu nhất
là đôi bàn tay mẹ, những ngón tay gầy gầy xương xương”
Hôm nay, chúng ta lại được học một bài có tựa đề về “ Mẹ”
của nhà thơ Bằng Việt, các em hãy cùng cô đọc xem bài
“Mẹ” này có gì khác với những bài về mẹ mà các em đã
học.
Cả những bài về từ ngữ hay ngữ pháp khô khan cũng đều

gây được hứng thú nếu giáo viên nắm được bản chất vấn đề
và biết dùng phương pháp nêu vấn đề.
Cho trẻ tiếp xúc trực tiếp càng nhiều càng tốt với những tác
phẩm văn chương, những mẫu hình sử dụng ngôn ngữ mẫu
mực vì “ không làm thân với văn thơ thì không nghe thấy
được tiếng lòng chân thật của nó” ( Lê Trí viễn)
Hứng thú Tiếng Việt – văn chương còn được tạo ra bằng
cách kể cho các em nghe về cuộc đời riêng của các nhà
văn, nhà thơ nổi tiếng, tổ chức nói chuyện thơ văn, ngoại
khóa Tiếng việt
3/ Bồi dưỡng vốn sống:
Hiện nay, nhiều giáo viên khi dạy làm văn cho học sinh
thường thiên về dạy kỉ thuật làm mà ít cung cấp các chất
liệu sống – cái tạo nên nội dung bài viết.
Khi một em học sinh ngồi trước một đề văn 15-20 phút vẫn
chưa viết được, giáo viên thường cho rằng các em không
nắm được lí thuyết thể văn mà không hiểu rằng nguyên
nhân đầu tiên làm các em không có hứng thú viết là các em
không tạo được một quan hệ thân thiết giữa mình với đề bài
- đối tượng kể hoặc tả, nghĩa là các em không có nội dung,
không có gì để nói, để viết. Nguyên nhân đó là việc thiếu
hụt về vốn sống, vốn cảm xúc của học sinh.
Từ đó, tôi rút ra phương pháp bồi dưỡng vốn sống cho các
em trước hết đó là vốn sống trực tiếp: cho các em quan sát,
trải nghiệm những gì các em sẽ phải viết.
Ví dụ hướng dẫn các em quan sát con đường trước khi yêu
cầu các em tả nó. Tất nhiên giáo viên cần làm cho vốn sống
thực này không cản trở trí tưởng tượng của các em. Nhưng
trí tưởng tượng dù có bay bổng đến mấy vẫn phải có cơ sở
bắt nguồn từ thực tiễn. Người giáo viên đóng vai trò dẫn

dắt, gợi mở, tạo nguồn cảm hứng khơi dậy suy nghĩ trong
các em như khi quan sát một con lợn, một cây chuối đang
trổ buồng, một đàn kiến tha hạt gạo, một cây bàng đang
thay lá
Giáo viên cần xây dựng cho học sinh hứng thú và thói quen
đọc sách . Đọc sách, các em không chỉ được thức tỉnh về
nhận thức mà còn rung động tình cảm, nảy nở những ước
mơ tốt đẹp khơi dậy năng lực hành động, bồi dưỡng tâm
hồn. Người xưa nói: “ trong bụng không có 3 vạn quyển
sách, trong mắt chưa có núi sông kì lạ của thiên hạ thì
chưa học được văn”.
4/ Bồi dưỡng kiến thức kĩ năng Tiếng Việt:
4.1 bồi dưỡng kiến thức- kĩ năng từ ngữ: Được chia làm 2
mãng lớn:
a/ Bồi dưỡng lí thuyết về từ: Nội dung không vượt ra ngoài
12 bài lí thuyết về từ, từ đơn, từ ghép, từ láy, từ ghép tổng
hợp, từ ghép phân loại, các kiểu từ láy, các dạng từ láy,
nghĩa của từ láy, từ tượng hình, từ tượng thanh, từ nhiều
nghĩa, từ cùng nghĩa, từ trái nghĩa, từ cùng âm khác nghĩa
b/ Phân loại nhận diện từ theo cấu tạo:
Dựa vào số lượng tiếng của từ chia ra từ đơn và từ đa âm.
Phân loại nhóm từ đa âm phải dựa vào mối quan hệ giữa
các tiếng trong từ: Nếu có mối quan hệ về mặt ngữ nghĩa là
từ ghép. Nếu có mối quan hệ về âm là từ láy.
Lưu ý ở tiểu học, những từ thuần Việt như tắc kè, bồ hóng,
bồ kết hay những từ vay mượn: mì chính, xà phòng, mít
tinh là những từ mà cả 2 tiếng đều không có quan hệ cả về
nghĩa lẫn về âm, vì vậy những từ này không được dùng làm
ngữ liệu để ra bài tập. Nếu HS chủ động đưa ra để hỏi thì
giáo viên trả lời đó là một từ ghép đặc biệt: từ ghép ngẫu

hợp
Các từ 2 tiếng có sự giống nhau nào đó về âm như chôm
chôm, thằn lằn, ba ba, ngày ngày, gật gật đều được xem là
từ láy.
Các kiểu từ như ồn ào, ầm ĩ, ọc ạch, ỏn ẻn đều được xem
là từ láy và được giải thích nó giống nhau ở chỗ cùng vắng
khuyết phụ âm đầu.
Những từ như cong queo, cuống quýt, king coong cũng là
từ láy có phụ âm đầu viết dưới dạng thức các con chữ khác
nhau.
Về phân biệt từ ghép tổng hợp và từ ghép phân loại;
Từ ghép tổng hợp: Giữa các tiếng có quan hệ đẳng lập,
mang tính tổng hợp, khái quát.
Từ ghép phân loại: Có yếu tố cụ thể hóa, cá thể hóa nghĩa
cho yếu tố kia.
Lưu ý một số từ tùy từng ngữ cảnh mà xếp khi là từ ghép
tổng hợp, khi là từ ghép phân loại . Ví dụ: từ “ sáng trong”
trong câu: “ Một tấm lòng sáng trong như ngọc” là từ ghép
tổng hợp. Có thể đổi thành “ trong sáng”. Nhưng trong câu
“ Nhớ mua bóng đèn sáng trong đừng mua bóng đèn sáng
đục” thì “ sáng trong” ở đây là từ ghép phân loại.
4.1.2 Làm giàu vốn từ hay luyện kĩ năng nắm nghĩa từ và
sử dụng từ cho HS:
Dạng 1: Yêu cầu HS giải nghĩa từ ngữ hay thành ngữ . Ví
dụ: Em hiểu thành ngữ “ Gió chiều nào che chiều ấy” là thế
nào? Lao động trí óc là gì?
Dạng 2: Cho những từ có cùng yếu tố cấu tạo: Ví dụ phân
biệt nghĩa của mẹ đẻ, mẹ nuôi, mẹ kế, mẹ ghẻ
Dạng 3: Yêu cầu HS kể ra các từ theo chủ đề:
Dạng 4: Yêu cầu phân loại từ theo nhóm nghĩa và đặt tên

cho nhóm.
Dạng 5: Dạng đề sửa lỗi dùng từ sai;
Dạng 6: Đặt câu, viết đoạn văn với từ cho sẵn:
Dạng 7: Điền từ vào chỗ trống.
Và nhiều dạng khác nữa, giáo viên phải nắm chắc, cho HS
được tiếp cận nhiều lần thì bài kiểm tra mới đạt hiệu quả
cao.
4.2 Bồi dưỡng kiến thức, kĩ năng ngữ pháp: trong các đề thi
học sinh giỏi, phần ngữ pháp thường chiếm số điểm 5/20.
Các dạng đề và những điều cần lưu ý cho HS:
1/ Khái niệm câu và bản chất của câu:
Các em thường nhầm trạng ngữ là câu, nhầm ngữ danh từ
là câu, thường đặt câu thiếu thành phần. Vì vậy cần tập
trung vào các dạng bài tập:
- các ví dụ sau, ví dụ nào đã thành câu? Ví dụ nào chưa
thành câu? Vì sao? Chữa lại cho đúng.
- Chữa câu sai bằng 2 cách
2/ Cấu tạo ngữ pháp của câu, các thành phần câu:
Đó là các dạng bài tập: Yêu cầu HS chỉ ra các thành phần
của câu cho sẵn
Yêu cầu HS tìm bộ phận chính, bộ phận phụ của câu
Yêu cầu HS kết hợp các thành phần câu
Dạng mở rộng nòng cốt câu bằng cách thêm các thành phần
phụ.
3/ Kiến thức về dấu câu và kĩ năng sử dụng dấu câu.
Dạng cho một đoạn văn không có dấu câu yêu cầu HS tự
đánh dấu câu và chỗ thích hợp.
Dạng chữa lại những chỗ đã đặt dấu câu không đúng.
4/ Kiến thức về từ loại, kĩ năng xác định từ loại:
Dạng yêu cầu HS tìm danh từ, động từ, tính từ trong câu,

đoạn văn
5 Bồi dưỡng cảm thụ văn học:
Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học là một quá trình lâu
dài và công phu. Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học
trước hết là bồi dưỡng vốn sống cho các em. Có vốn sống
các em mới có khả năng liên tưởng để tiếp nhận tác phẩm,
tạo điều kiện để các em tiếp xúc nhiều với tác phẩm, giáo
viên không được cảm thụ hộ, biến HS thành người minh
họa cho mình. Giáo viên là người gợi mở dẫn dắt cho sự
tiếp xúc của HS với tác phẩm tốt.
Hoạt động của giáo viên chỉ có tác động bổ trợ cho cảm
xúc thẩm mỹ nảy sinh. cần tôn trọng suy nghĩ, cảm xúc
thực, ngây thơ của trẻ và nâng chúng lên ở chất lượng cao
hơn. Đồng thời giáo viên phải trang bị cho các em một số
kiến thức về văn học như hình ảnh, chi tiết, kết cấu tác
phẩm, các đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật, một số biện pháp
tu từ
Một trong những biện pháp có hiệu quả nữa là giúp HS đọc
diễn cảm có sáng tạo, nó giúp HS nâng cao khả năng cảm
xúc thẩm mỹ và kích thích các em khám phá ra cái hay, cái
đẹp của văn chương.
Để giúp HS cảm thụ được tác phẩm, giáo viên cần có hệ
thống câu hỏi, bài tập liên tưởng, tưởng tượng, đó là những
câu hỏi về ý nghĩa của tác phẩm giúp HS hiểu mục đích
thông báo của văn bản, đánh giá nhân vật, thái độ, tình
cảm, tư tưởng của tác giả, đánh giá giá trị nghệ thuật những
từ ngữ hình ảnh cấu tứ gây ấn tượng.
6/ Bồi dưỡng làm văn:
Làm văn là nơi thử thách ở HS các kĩ năng Tiếng Việt: vốn
sống, vốn văn học, năng lực cảm thụ văn học một cách tổng

hợp. Học sinh phải thể hiện cảm xúc suy
nghĩ bằng ngôn ngữ nói và viết từ đó rèn cách nghĩ, cách
cảm chân thật, sáng tạo, luyện cách diễn tả chính xác, sinh
động, hồn nhiên tiến tới có nét riêng độc đáo.
Trước hết để luyện tập kĩ năng viết văn của HS cần có
những bài viết tốt, giáo viên biết lựa chọn đề, biết tự ra đề,
đề bài gần gũi, thân thiết quen thuộc với các em nhưng
không lặp lại, gò bó, nhàm chán.
Thứ 2: giáo viên cần rèn luyện cho HS kĩ năng tìm hiểu
phân tích đề, quan sát tìm ý, những kĩ năng diễn đạt , viết
đoạn và hoàn thiện bài viết.
Trong khâu luyện làm văn, khâu đánh giá, sửa chữa rất
quan trọng. Giáo viên cần chấm chữa bài cho từng em thật
kĩ lưỡng, trả bài giúp HS thấy được những ưu khuyết điểm
của bài viết của mình, tự rút ra kinh nghiệm và sửa chữa.
Nên tạo không khí trao đổi, tranh luận khi chữa bài.
V/ KẾT QUẢ:
Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu thực hiện đề tài này, tôi
nhận thấy tuy đây mới chỉ là bước đầu vừa làm vừa rút kinh
nghiệm nhưng HS giỏi môn Tiếng Việt khối 5 mà tôi phụ
trách đã có nhiều bước chuyển biến mới. Về kiến thức từ
ngữ, ngữ pháp các em nắm rất chắc và đã quen thuộc với
các dạng đề. Về khả năng cảm thụ văn học và làm văn thì
điểm tốt mới dùng lại ở một số ít HS nhưng các em đã có
sự tiến bộ vượt bậc so với khảo sát đầu năm học :
- Năm học 2007 – 2008:
TS
Giỏi
Khá
Trung bình

Yếu
Ghi chú
SL
Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
10
4
40
6
60
0
0
0
0
Kết quả thi HSG cấp huyện: Giải nhì: 1 em
Giải ba: 1 em
Giải khuyến khích: 2 em
Kết quả thi HSG cấp tỉnh: Giải ba: 1 em
Giải khuyến khích: 2 em
- Năm học 2008-2009:
TS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu

Ghi chú
SL
Tỉ lệ %
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
10
7
70
3
30
0
0
0
0
Kết quả thi HSG cấp huyện: Giải nhì: 1 em
Giải khuyến khích: 2 em
Kết quả thi HSG cấp tỉnh: Giải khuyến khích: 2 em
C/ PHẦN KẾT LUẬN:
I/ BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Qua thực tiễn nhiều năm bồi dưỡng học sinh giỏi, bản thân
tôi đã rút ra được bài học kinh nghiệm sau:
1/ Để bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt có hiệu quả, trước
hết phải có giáo viên vững về kiến thức – kĩ năng thực hành
Tiếng Việt, có vốn sống, vốn cảm xúc phong phú.
2/ Thực sự yêu nghề, tâm huyết với công việc bồi dưỡng
HS giỏi.

3/ thường xuyên học hỏi trau dồi kiến thức, tích lũy được
một hệ thống kiến thức phong phú.
4/ Có phương pháp nghiên cứu bài, soạn bài, ghi chép giáo
án một cách thuận tiện, khoa học.
5/ tham khảo nhiều sách báo, tài liệu có liên quan, giao lưu,
học hỏi các đồng nghiệp có kinh nghiệm và các trường có
nhiều thành tích.
6/ luôn thân thiện, cởi mở với HS, luôn mẫu mực trong lời
nói, việc làm, thái độ, cử chỉ, có tấm lòng trong sáng, lối
sống lành mạnh để HS noi theo.
7/ Đối với học sinh: tạo cho các em có niềm say mê hứng
thú học môn Tiếng việt.
8/ Học sinh cần có nhiều loại sách để tham khảo.
9/ luôn phối hợp với gia đình để tạo điều kiện tốt nhất cho
các em tham gia học tập
II/ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT:
1/ Đối với nhà trường: Nên tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi
ngay từ lớp 2,3
2/ Chú trọng hơn khi khảo sát lựa chọn học sinh vào lớp
bồi dưỡng.
3/ Chuyên môn nhà trường nên tổ chức một số buổi ngoại
khóa Tiếng Việt, báo cáo kinh nghiệm học tập bộ môn.
4/ Có nhiều giải pháp tốt để nâng cao chất lượng đại trà thì
mới tạo nền tảng vững chắc cho công tác bồi dưỡng học
sinh giỏi.
Cam Hiếu, ngày 15 tháng 11 năm 2010
Đánh giá của Tổ CM và Người viết:
HĐKH nhà trường
Lê Thị Hoài Thương

×