Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

skkn ứng dụng sơ đồ tư duy vào dạy học làm văn nghị luận lớp 12 thpt chuyên lương thế vinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.48 MB, 34 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Đơn vị Trường THPT Chuyên Lương Thế Vinh
Mã số:
(Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi)
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ỨNG DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY
VÀO DẠY HỌC LÀM VĂN NGHỊ LUẬN
LỚP 12 THPT
Người thực hiện: TRƯƠNG THU HƯỜNG
Lĩnh vực nghiên cứu:
- Quản lý giáo dục 
- Phương pháp dạy học bộ môn: Ngữ văn 
- Lĩnh vực khác: 

Có đính kèm: Các sản phẩm không thể hiện trong bản in SKKN
 Mô hình  Đĩa CD (DVD)  Phim ảnh  Hiện vật khác
(các phim, ảnh, sản phẩm phần mềm)
Năm học:
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
––––––––––––––––––
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: TRƯƠNG THU HƯỜNG
2. Ngày tháng năm sinh: 25/06/1982
3. Nam, nữ: Nữ
4. Địa chỉ: 50 tổ 3 khu phố 4 phường Long Bình – Biên Hòa – Đồng Nai
5. Điện thoại: 0902887728
6. Fax: E-mail:
7. Chức vụ: Giáo viên
8. Nhiệm vụ được giao: Giảng dạy môn văn lớp 12 Anh 1, 12 Anh 2, 12 A 1
9. Đơn vị công tác: Trường THPT Chuyên Lương Thế Vinh
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO


- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Thạc sĩ
- Năm nhận bằng: 2011
- Chuyên ngành đào tạo: Lý luận và phương pháp giảng dạy Văn – Tiếng
Việt
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Sư phạm
Số năm có kinh nghiệm: 10 năm
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
+ Kiểm tra đánh giá trong quá trình vận dụng lý thuyết kiến tạo vào dạy
học Tiếng Việt THPT
+ Vận dụng lý thuyết kiến tạo vào dạy học Tiếng Việt THPT
2
Tên SKKN
ỨNG DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY
VÀO DẠY HỌC LÀM VĂN NGHỊ LUẬN LỚP 12 THPT
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục là một hệ thống lớn, có liên quan mật thiết đến việc hình thành con
người, là nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người. Như vậy, để đào
tạo được những con người thật sự có kiến thức văn hóa, khoa học công nghệ; có kỹ
năng vận dụng kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp; có sức khỏe, đạo đức và đặc biệt là
có tính độc lập, tự chủ, năng động, sáng tạo, năng lực và thói quen tự học suốt đời
thì việc đổi mới phương pháp giáo dục là một yêu cầu tất yếu. Một mặt, nó đáp
ứng nhu cầu thực tiễn của thời đại bùng nổ thông tin - khoa học - công nghệ; mặt
khác, nó phát huy được thành quả nghiên cứu khoa học của tâm lý học hiện đại về
phát triển con người và cũng phù hợp với quan điểm triết học Mác- Lênin.
Ngày nay, trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, trào lưu đổi mới
PPDH đang không ngừng phát triển. Xu hướng chung là chuyển trung tâm của quá
trình dạy học từ hoạt động dạy của giáo viên sang hoạt động học của học sinh, phát
huy tính tích cực, chủ động nhận thức của người học, biến quá trình dạy - học
thành quá trình tự học, tự đào tạo.

Một trong những PPDH được quan tâm nhiều trong thời gian qua chính là sử
dụng Sơ đồ tư duy (SĐTD). Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã tổ chức những
chương trình, hội thảo mang tầm quốc gia về PPDH hiện đại này. Những nghiên
cứu bước đầu cho thấy SĐTD có vai trò tích cực trong việc làm tăng mức độ hứng
thú, sáng tạo, nâng cao hiệu quả học tập của học sinh. Việc nghiên cứu ứng dụng
SĐTD trong dạy học cũng đã trở thành đối tượng của nhiều công trình khoa học.
Tuy nhiên, tính khả thi của việc sử dụng SĐTD trong dạy học môn Ngữ văn THPT
vẫn chưa được nghiên cứu một cách hệ thống và đặc biệt, hiện nay vẫn chưa có
nghiên cứu hay ứng dụng nào về việc sử dụng SĐTD trong dạy học Làm văn nghị
luận lớp 12 THPT – một bộ phận kiến thức có tính khái quát và hệ thống cao, phù
hợp với những đặc điểm của SĐTD.
Từ những đặc điểm và đòi hỏi khách quan đó, chúng tôi đã xem xét nghiên
cứu và thực nghiệm đề tài “Ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Làm văn lớp 12
THPT” tại trường THPT Chuyên Lương Thế Vinh.
3
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Sơ đồ tư duy và việc ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy học
1.1. Sơ đồ tư duy
Ở nước ngoài, vấn đề ứng dụng sơ đồ tư duy (Mindmap) trong cuộc sống đã
được Tony Buzan và Barry Buzan đề cập trong cuốn “Sơ đồ tư duy” (1995). Trong
cuốn sách này, hai anh em nhà Buzan đã đưa ra các ứng dụng của SĐTD . Bên
cạnh các ứng dụng của SĐTD đối với cá nhân, đối với gia đình, trong lĩnh vực
kinh doanh và các lĩnh vực chuyên môn thì các tác giả còn bàn đến những ứng
dụng của SĐTD trong giáo dục cụ thể như dùng để soạn ghi chú cho bài giảng,
hoạch định cho năm, hoạch định cho một học kỳ, hoạch định cho ngày, bài học và
cách trình bày, thi cử, dự án . Từ đó, hai anh em Buzan đã khái quát 7 lợi ích của
việc giảng dạy với SĐTD:
- SĐTD gợi hứng thú cho người học.
- SĐTD làm cho bài học cũng như cách trình bày bài học ngẫu hứng, sáng
tạo và lý thú hơn với giáo viên và học sinh.

- Nhờ SĐTD, việc ghi chú bài giảng của giáo viên trở nên linh hoạt. Giáo
viên có thể làm mới, bổ sung bài giảng một cách dễ dàng và nhanh chóng.
- SĐTD giúp người học đạt điểm cao trong các kỳ thi
- MM giúp người học hiểu sâu hơn về chủ đề
- Số lượng ghi chú cho bài giảng giảm đi rất nhiều
- SĐTD vô cùng hữu ích cho các em thiếu niên “có vấn đề về học tập”, đặc
biệt là những em mắc chứng khó đọc.
Sau cuốn sách này, Tony Buzan viết tiếp cuốn “Bản đồ tư duy trong công
việc” để cụ thể hóa việc vận dụng SĐTD. Đặc biệt cuốn sách“Tôi tài giỏi, bạn
cũng thế” của Adam Khoo về ích lợi của việc sử dụng SĐTD được nhiều người
quan tâm.
Ở Việt Nam, SĐTD được nghiên cứu và đưa vào sử dụng chủ yếu trong lĩnh
vực kinh doanh vào những năm đầu của thế kỷ XXI. Đến năm 2006, vấn đề ứng
dụng SĐTD trong dạy học mới thực sự được chú ý khi dự án “Ứng dụng công cụ
phát triển tư duy – Sơ đồ tư duy” của nhóm Tư duy mới (New Thinking Group –
NTG), Đại học Quốc gia Hà Nội được triển khai thực hiện. Từ đó, xuất hiện các đề
tài nghiên cứu khoa học như: “Ứng dụng sơ đồ tư duy nâng cao hiệu quả dạy học
tiếng Anh” của tác giả Nguyễn Đặng Nguyệt Hương, Phạm Thu Liên, ĐHSP Hà
Nội và chuyên đề “Giảng dạy và học tập với công cụ bản đồ tư duy” của Thạc sĩ
Trương Tinh Hà. Trên Tạp chí Giáo dục cũng có một số bài viết đề cập đến vai trò
và hiệu quả của việc sử dụng SĐTD trong dạy học. Tiêu biểu là các bài viết: “Bản
đồ tư duy – Công cụ hỗ trợ hiệu quả trong dạy học môn Toán” của Chu Cẩm Thơ,
“Hệ thống hóa bài tập Vật lí với Sơ đồ tư duy” của Lê Công Triêm, Lương Thị Lệ
Hằng, “Sử dụng bản đồ tư duy - một biện pháp hiệu quả hỗ trợ học sinh học tập
môn Toán” của Trần Đình Châu.
Người đầu tiên đưa SĐTD ứng dụng vào dạy học Văn là thầy Hoàng Đức
Huy – giáo viên Trung tâm Giáo dục thường xuyên quận 4, Tp. HCM. Sáng kiến
đổi mới dạy học này của thầy được thể hiện trong nghiên cứu “Bản đồ tư duy đổi
4
mới dạy học”. Tuy nhiên, công trình này chỉ đề cập đến phương pháp giảng dạy

bằng bản đồ tư duy với những tác phẩm thơ, văn tự sự và văn thuyết minh.
Hiện nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về SĐTD, gồm cả những tác
phẩm của chính Tony Buzan – cha đẻ của phương tiện ghi nhớ, tư duy hiện đại này
và những công trình ứng dụng SĐTD của các nhà nghiên cứu, giáo dục khắp nơi
trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Nhìn chung, các công trình này đã xác lập khái niệm, chỉ ra những đặc điểm
bản chất của SĐTD, làm rõ những mặt tích cực của SĐTD trong hoạt động học tập
và lao động của con người.
1.1.1. Khái niệm sơ đồ tư duy
Sơ đồ tư duy (Mindmap) là một phương tiện mạnh để tận dụng khả năng ghi
nhận hình ảnh của bộ não. Đây là cách để ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp, hay để
phân tích một vấn đề ra thành một dạng của lược đồ phân nhánh. Khác với máy
tính, ngoài khả năng ghi nhớ kiểu tuyến tính (ghi nhớ theo một trình tự nhất định,
chẳng hạn như trình tự xuất hiện của một câu chuyện) thì não bộ còn có khả năng
liên hệ các dữ kiện với nhau, bản đồ tư duy có thể khai thác tốt cả hai khả năng này
của bộ não.
- Cấu tạo của sơ đồ tư duy:
+ Ở giữa sơ đồ là một hình ảnh trung tâm hay một cụm từ khái quát chủ đề.
+ Gắn liền với hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp một mang các ý chính
làm rõ chủ đề.
+ Phát triển các nhánh cấp một là các nhánh cấp hai mang các ý phụ làm rõ
mỗi ý chính.
+ Sự phân nhánh cứ tiếp tục để cụ thể hóa chủ đề, nhánh càng xa trug tâm
thì ý càng cụ thể, chi tiết. Có thể nói, SĐTD là một bức tranh tổng thể, một mạng
lưới tổ chức, liên kết khá chặt chẽ theo cấp độ để thể hiện một nội dung, một đơn
vị kiến thức nào đó.
Hình ảnh minh họa cấu trúc của sơ đồ tư duy
5
1.1.2. Những ưu điểm của sơ đồ tư duy
Sơ đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy. Đây là phương pháp tốt nhất để

chuyển tải thông tin vào bộ não rồi đưa thông tin ra ngoài bộ não. Nó là một
phương tiện ghi chép đầy sáng tạo và đầy sáng tạo theo đúng nghĩa của nó, “ sắp
xếp” ý nghĩ của con người.
So với các cách thức ghi chép truyền thống thì SĐTD có những ưu điểm
vượt trội như sau:
- Ý chính sẽ ở trung tâm và được xác định rõ ràng.
- Quan hệ tương hỗ giữa mỗi ý được chỉ ra tường tận. Ý càng quan trọng thì
sẽ nằm vị trí càng gần với ý chính.
- Liên hệ giữa các khái niệm then chốt sẽ được tiếp nhận lập tức bằng thị
giác.
- Ôn tập và ghi nhớ sẽ hiệu quả và nhanh hơn.
- Thêm thông tin (ý) dễ dàng hơn bằng cách vẽ chèn thêm vào sơ đồ.
- Mỗi sơ đồ sẽ được phân biệt với nhau tạo sự dễ dàng cho việc gợi nhớ.
- Các ý mới có thể được đặt vào đúng vị trí trên hình một cách dễ dàng, bất
chấp thứ tự của sự trình bày, tạo điều kiện cho việc thay đổi một cách nhanh chóng
và linh hoạt cho việc ghi nhớ.
- Được hỗ trợ bởi các phần mềm trên máy tính như: Buzan's
iMindmap, Visual Mind,Inspiration, FreeMind
1.2. Sơ đồ tư duy trong dạy học
Dùng SĐTD giúp kích thích cả hai bán cầu não của con người. Nhờ việc sử
dụng cả hai bán cầu não nên các hoạt động như học tập, phân tích, truyền đạt, sáng
tạo… có được hiệu quả vượt trội bất ngờ.
- Ghi nhớ: Sơ đồ tư duy dùng rất ít chữ, 1 – 2 từ/ nhánh của sơ đồ. Sử dụng
tối đa hình ảnh và biểu tượng khi thiết kế sơ đồ nên tiện cho việc ghi nhớ của bộ
não.
- Sáng tạo: Một lẽ tự nhiên cái gì ta thích thì ta sẽ nghĩ về nó, tưởng tượng tô
vẽ lên cho nó thú vị hơn nữa.
Khi sáng tạo sơ đồ tư duy ta dùng nhiều màu sắc để vẽ. Các nhánh của sơ đồ
được vẽ thành đường cong, không dùng đường thẳng. Những điều này làm bộ não
của chúng ta vui vẻ thích thú, hấp dẫn sự sáng tạo hơn.

Với yêu cầu chuyển đổi ngôn ngữ thành hình ảnh để đáp ứng yêu cầu nhiều
hình ảnh trong sơ đồ cũng là một động lực để bạn phát huy tính sáng tạo của bản
thân.
- Học tập:
Để học tốt, chúng ta cần gì?
+ Ghi nhớ kiến thức
6
+ Sự sáng tạo và liên kết kiến thức để có thể suy nghĩ hướng đi các bài tập
khó
+ Tập trung vào nội dung hoặc đối tượng chính của bài học
Sơ đồ tư duy sẽ bắt đầu với hình ảnh trung tâm (nội dung chính/ đối tượng
chính) ở giữa sơ đồ. Từ hình ảnh trung tâm ta mọc lên các nhánh chính để làm rõ ý
cho hình ảnh trung tâm. Từ các nhánh chính sẽ mọc lên các nhánh cấp 1 để làm rõ
cho các nhánh chính. Dần dần sẽ mọc lên các nhánh cấp 2, cấp 3 ….
Hình ảnh trung tâm ở giữa sơ đồ và kết cấu các nhánh mọc ra từ hình ảnh
trung tâm giúp cho các ý tưởng, kiến thức… đều tập trung vào trung tâm.
Với việc sử dụng nhiều màu sắc, các nhánh đường cong, các nhánh mọc một
cách ngẫu nhiên từ bất cứ đâu cho phép học sinh thoát khỏi sự “buồn ngủ”.
Phương pháp học tập truyền thống có chữ viết theo hàng, các ý phát triển tuần tự
nhau thường khiến người học mệt mỏi và buồn ngủ.
Giữa các nhánh sơ đồ, ta có thể dễ dàng vẽ đường liên kết để kết nối các
nhánh với nhau, phục vụ cho việc liên kết kiến thức/ ý tưởng một cách dễ dàng và
vui vẻ.
Tất cả những điều trên là cơ sở lý luận để khiến người học cảm thấy việc thu
nạp kiến thức sẽ trở nên thú vị, vui vẻ và hiệu quả.
- Truyền đạt: sơ đồ giúp chúng ta sắp xếp suy nghĩ, thông tin trong đầu mình
một cách hệ thống và mạch lạc.
Như vậy, SĐTD là một công cụ nhận thức phù hợp với bản chất chảu quá
trình dạy học. Sử dụng hiệu quả SĐTD trong dạy học sẽ mang lại nhiều kết quả tốt
trong phương thức học tập của học sinh và phương pháp giảng dạy của giáo viên.

Học sinh sẽ học được phương pháp học tập, tăng tính chủ động, sáng tạo và phát
triển tư duy. Giáo viên sẽ tiết kiệm được thời gian, tăng sự linh hoạt trong bài
giảng, và quan trọng nhất sẽ giúp học sinh nắm được kiến thức thông qua một “sơ
đồ” thể hiện các liên kết chặt chẽ của tri thức.
1.3. Giới thiệu một số phần mềm dùng để tạo sơ đồ tư duy
SĐTD có thể được thực hiện dễ dàng trên một tờ giấy với các loại bút màu
khác nhau. Tuy nhiên, cách thức này có nhược điểm là khó lưu trữ, thay đổi, chỉnh
sửa. Một giải pháp được hướng đến là sử dụng các phần mềm để tạo ra SĐTD. Có
thể kể đến một số phần mềm tiêu biểu trong thể loại “phần mềm mind mapping”
(mind mapping software):
- Phần mềm Buzan's iMindmap™: một phần mềm thương mại, tuy nhiên có
thể tải bản dùng thử 30 ngày. Phần mềm do công ty Buzan Online Ltd. thực hiện.
Trang chủ tạiwww.imindmap.com
- Phần mềm Inspiration: sản phẩm thương mại của công ty Inspiration
Software, Inc. Sản phẩm có phiên bản dành cho trẻ em (các em từ mẫu giáo đến
lớp 5) rất dễ dùng và nhiều màu sắc. Có thể dùng thử 30 ngày. Trang chủ
tại www.inspiration.com
7
- Phần mềm Visual Mind: sản phẩm thương mại của công ty Mind
Technologies. Phần mềm dễ sử dụng và linh hoạt trong sắp xếp các nút chứa từ
khóa. Có thể dùng thử 30 ngày. Trang chủ tại www.visual-mind.com
- Phần mềm FreeMind: sản phẩm hoàn toàn miễn phí, được lập trình trên
Java. Các icon chưa được phong phú, tuy nhiên chương trình có đầy đủ chức năng
để thực hiện mind mapping. Trang chủ tại:
/>- Ngoài ra, chúng ta còn có thể tham khảo một danh sách các phần mềm loại
mind mapping tại địa chỉ:
/>2. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh THPT
Lứa tuổi học sinh THPT là giai đoạn quan trọng trong việc phát triển trí tuệ.
Do cơ thể các em đã được hoàn thiện, đặc biệt là hệ thần kinh phát triển mạnh tạo
điều kiện cho sự phát triển các năng lực trí tuệ. Trong đó, học sinh lớp 12 là đối

tượng phát triển khá toàn diện, hoàn thiện những đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi này.
Trí nhớ của học sinh THPT cũng phát triển rõ rệt. Trí nhớ có chủ định giữ
vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ. Các em đã biết sắp xếp lại tài liệu học tập
theo một trật tự mới, có biện pháp ghi nhớ một cách khoa học. Có nghĩa là khi học
bài các em đã biết rút ra những ý chính, đánh dấu lại những đoạn quan trọng,
những ý trọng tâm, lập dàn ý tóm tắt, lập bảng đối chiếu, so sánh. Các em cũng
hiểu được rất rõ trường hợp nào phải học thuộc trong từng câu, từng chữ, trường
hợp nào càn diễn đạt bằng ngôn từ của mình và cái gì chỉ cần hiểu thôi, không cần
ghi nhớ. Nhưng ở một số em còn ghi nhớ đại khái chung chung, cũng có những em
có thái độ coi thường việc ghi nhớ máy móc và đánh giá thấp việc ôn lại bài.
Hoạt động tư duy của học sinh THPT phát triển mạnh. Các em đã có khả
năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập và sáng tạo hơn. Năng lực
phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa phát triển cao giúp cho các em có thể
lĩnh hội mọi khái niệm phức tạp và trừu tượng. Các em thích khái quát, thích tìm
hiểu những quy luật và nguyên tắc chung của các hiện tượng hàng ngày, của những
tri thức phải tiếp thu… Năng lực tư duy phát triển đã góp phần nảy sinh hiện tượng
tâm lý mới đó là tính hoài nghi khoa học. Trước một vấn đề các em thường đặt
những câu hỏi nghi vấn hay dùng lối phản đề để nhận thức chân lý một cách sâu
sắc hơn. Thanh niên cũng thích những vấn đề có tính triết lí vì thế các em rất thích
nghe và thích ghi chép những câu triết lý.
Nhìn chung tư duy của học sinh THPT phát triển mạnh, hoạt động trí tuệ
linh hoạt và nhạy bén hơn. Các em có khả năng phán đoán và giải quyết vấn đề
một cách rất nhanh. Vì vậy giáo viên cần hướng dẫn, giúp đỡ các em tư duy một
cách tích cực độc lập để phân tích đánh giá sự việc và tự rút ra kết luận cuối cùng.
Việc phát triển khả năng nhận thức của học sinh trong dạy học là một trong những
nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên. Trong đó, sử dụng SĐTD là một PPDH
hiệu quả, vừa phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, vừa góp phần tích cực
vào sự phát triển khả năng nhận thức của học sinh.
8
3. Nội dung và chương trình dạy học Làm văn lớp 12 THPT

Chương trình, SGK Ngữ văn lớp 12, phần Làm văn tiếp tục rèn luyện cho
học sinh các kĩ năng: thực hành lập luận (vận dụng kết hợp các thao tác lập luận,
phát hiện và sửa chữa các lỗi về lập luận), viết phần mở bài và kết bài trong bài
văn nghị luận, diễn đạt trong văn nghị luận; ôn tập và nâng cao các kĩ năng đã
được học ở THCS và ở lớp 10,11: các thao tác lập luận, kết hợp các phương thức
biểu đạt trong bài văn nghị luận.
Ngoài những bài viết, nội dung Làm văn nghị luận lớp 12 có các bài học:
Nghị luận về một tư tưởng, đạo lý.
- Nghị luận về một hiện tượng đời sống
- Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ
- Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học
- Vận dụng kết hợp các phương thức biểu đạt trong văn bản nghị luận
- Nghị luận về một tác phẩm văn xuôi
- Kĩ năng mở bài và kết bài trong bài văn nghị luận
- Diễn đạt trong bài văn nghị luận
Như vậy, Làm văn ở bậc THPT nói chung, lớp 12 nói riêng, vẫn kế thừa một
số nội dung ở bậc THCS nhưng cũng đã nâng cao, mở rộng hơn; đặc biệt là chú
trọng vào việc hình thành kĩ năng viết bài nghị luận cho học sinh. Văn nghị luận là
loại văn trong đó người nói (người viết) đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng về một vấn
đề nào đó và thông qua cách thức bàn luận, thuyết phục người nghe (người đọc).
Về bản chất, văn nghị luận là loại văn được xây dựng trên cơ sở của tư duy logic,
có kết cấu chặt chẽ. Sức thuyết phục của bài văn nghị luận không chỉ ở nội dung tư
tưởng sâu sắc mà còn nằm ở hê thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, bằng chứng
xác thực. Vì thế, làm văn nghị luận đòi hỏi học sinh không chỉ cần có kinh nghiệm,
kiến thức mà còn phải có khả năng triển khai nội dung một cách logic, chặt chẽ.
Việc dạy học sử dụng SĐTD sẽ giúp học sinh đáp ứng được những yêu cầu đó.
III. CÁCH THỨC TỔ CHỨC ỨNG DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG
DẠY HỌC LÀM VĂN
1. Khả năng ứng dụng của sơ đồ tư duy trong dạy học Làm văn 12
1.1. Sơ đồ tư duy là một công cụ để trực quan hóa kiến thức bài học Làm

văn nghị luận
Trực quan là nhóm PPDH nhằm thúc đẩy học sinh sử dụng nhiều giác quan
vào quá trình dạy học. Phương pháp này giúp học sinh hứng thú hơn, hiểu sâu sắc,
nhớ chính xác và vận dụng kiến thức linh hoạt.
Sơ đồ tư duy giúp giáo viên có một công cụ hữu ích để trực quan hóa kiến
thức bài học. Bởi lẽ, SĐTD sử dụng những hình ảnh, từ khóa dễ nhớ - có thể lấy từ
sách giáo khoa hoặc do học sinh tự vẽ, tự sáng tạo. Một số phần mềm tạo lập
9
SĐTD mới còn cho phép chèn thêm âm thanh, đường dẫn… Như vậy, bằng vốn tư
liệu sẵn có hoặc bằng khả năng liên tưởng, sáng tạo, giáo viên có thể giúp học sinh
biến toàn bộ nội dung bài giảng khô khan thành những hình ảnh sinh động, hấp
dẫn.
Ví dụ, hướng dẫn học sinh tìm hiểu những ý tưởng cho bài văn về “bạo lực
học đường”, giáo viên có thể sử dụng SĐTD với hình ảnh gây ấn tượng:
Để có nhiều hình ảnh trực quan sinh động, giáo viên và cả học sinh có thể
sưu tầm từ sách, báo, tạp chí , đặc biệt là từ mạng internet.
1.2. Sơ đồ tư duy là một công cụ gợi mở ý tưởng cho học sinh trong quá
trình làm văn nghị luận
Đặc trưng của văn nghị luận đòi hỏi học sinh không chỉ nắm được kĩ năng
xây dựng hệ thống lập luận mà còn phải có ý tưởng sâu sắc. Những lí lẽ và dẫn
chứng có thể được khái quát từ nhiều nguồn nhưng quan trọng hơn cả vẫn là khả
năng tự khám phá của học sinh. Điều quan trọng là làm thế nào để học sinh có
những ý tưởng toàn diện cho đề bài văn nghị luận.
Xét về tổng thể, quá trình tìm ý cho bài văn nghị luận rất gần với quá trình
tạo lập SĐTD. Mối quan hệ tầng bậc giữa các nhánh, giữa ý lớn và ý nhỏ phản ánh
quá trình tư duy của học sinh từ khái quát đến cụ thể. Mặt khác, sơ đồ tư duy còn
tạo nên những cấu trúc logic, gợi cho học sinh những ý tưởng để triển khai bài văn
nghị luận một cách mạch lạc, chặt chẽ.
Ví dụ, phương Tây ca ngợi vai trò “6 người đầy tớ trung thành của các nhà
khoa học”: 5W1H, tương ứng với các câu hỏi: Who (ai?), What (cái gì?), Where

(Ở đâu?), When (Khi nào?), Why (Tại sao?) và How (Như thế nào?). Sử dụng
SĐTD, giáo viên hướng dẫn học sinh tạo lập sơ đồ cấu trúc bàn luận về hiện tượng
đời sống:
10
Kiến thức của con người được hình thành và tích tụ theo thời gian. Mỗi
người cũng không thể hoàn thành SĐTD trong một lúc. Theo thời gian và sự trải
nghiệm thực tế, cách nhìn nhận vấn đề có thể khác đi, có thể sâu sắc hơn hoặc đơn
giản hơn, nhưng chắc chắn sẽ chín chắn, đầy đủ, toàn diện hơn. Do đó, bất cứ lúc
nào xuất hiện ý tưởng, người học đều có thể bổ sung nhánh để SĐTD trở nên hoàn
thiện hơn.
1.3. Sơ đồ tư duy là một công cụ để phát triển năng lực khái quát hóa cho
học sinh trong dạy học văn nghị luận
Khái quát hóa là một năng lực đặc thù của tư duy con người. Đó là hình thức
phản ánh những dấu hiệu và phẩm chất chung của các sự vật, hiện tượng.
Trong Làm văn, nhất là văn nghị luận, tính khái quát được nâng lên ở mức
độ cao. Tính khái quát đó được thể hiện ở các khái niệm, các bố cục kiểu bài, các
dàn ý, các vấn đề nghị luận… Từ việc tìm hiểu những ngữ liệu, học sinh khái quát
tri thức về kiểu bài nghị luận xã hội, nghị luận văn học. Từ việc xây dựng dàn ý
những nội dung chính để giải quyết vấn đề, học sinh hình thành tri thức, kĩ năng
làm kiểu bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí; nghị luận về một hiện tượng đời
sống; nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ; nghị luận về một ý kiến bàn về văn học;
nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích văn xuôi… Mỗi vấn đề tư tưởng, hiện tượng
11
xã hội hay một tác giả, tác phẩm, trào lưu văn học… vừa mang tính cụ thể, lại vừa
mang tính khái quát, trừu tượng.
Khi sử dụng SĐTD trong dạy học làm văn nghị luận, học sinh có thể hiểu
nhanh và nắm được những nội dung cơ bản nhất của bài học thông qua hình ảnh và
cách nối kết nhánh ý tưởng. Bởi lẽ, trong SĐTD, việc xếp nhánh trước, nhánh sau,
nhánh lớn, nhánh nhỏ, không đơn thuần chỉ là cách trình bày mà còn căn cứ vào
mức độ quan trọng của nội dung. Những nhánh nào chứa nội dung khái quát hơn

được ưu tiên đặt trước, những nhánh chứa nội dung đơn giản, cụ thể được trình bày
sau. Chỉ cần nhìn vào các nhánh trên SĐTD ta cũng có thể mở rộng được sự liên
hệ giữa các nhánh với nhau và giữa mỗi nhánh với sơ đồ tổng thể. Từ đó, SĐTD
giúp giải quyết hiệu quả những vấn đề có nhiều hướng phát triển như suy nghĩ về
các vấn đề xã hội và vấn đề văn học.
Hơn nữa, trong quá trình tạo lập SĐTD, bản thân người học phải tìm hiểu
kiến thức từ nhiều nguồn tư liệu, theo nhiều hướng khác nhau rồi mới lựa chọn,
sắp xếp, phân loại thành hệ thống ý và hoàn thiện trên sơ đồ. Với các bước làm
như vậy, người học đã thực hiện cùng lúc thao tác hệ thống hóa và khái quát hóa
vấn đề. Chính vì vậy, SĐTD là một công cụ hữu ích để phát triển năng lực khái
quát hóa cho học sinh trong quá trình làm văn nghị luận.
Ví dụ, thông qua phân tích ngữ liệu, giáo viên giúp học sinh sơ đồ hóa cấu
trúc cơ bản của một bài làm văn nghị luận về một ý kiến bàn về văn học:
2. Biện pháp ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Làm văn 12
2.1. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà bằng sơ đồ tư duy
Việc chuẩn bị bài của học sinh không chỉ đơn thuần là bước đầu làm quen
với kiến thức mà còn là sự tổ chức lại kiến thức trong một cấu trúc mới để kiến
thức trở nên tinh gọn hơn, giúp học sinh ghi nhớ kiến thức lâu dài. Do vậy, việc
đầu tiên là phải thông hiểu kiến thức. Việc thông hiểu kiến thức này phải qua quá
12
trình tư duy, qua việc thực hiện các thao tác tư duy như: phân tích, tổng hợp, khái
quát hóa, hệ thống hóa… để xử lý thông tin nhằm tìm ra các thuộc tính bản chất
của khái niệm.
Theo cách thức học truyền thống, học sinh hầu hết soạn bài theo hệ thống
câu hỏi trong sách giáo khoa. Từ đó dẫn đến thực trạng học sinh đối phó bằng cách
chép sách tham khảo hoặc chép bài của bạn, là mất đi hiệu quả thực sự của hoạt
động chuẩn bị bài ở nhà. Vì thế, để khắc phục những hạn chế trên, giáo viên cần
hướng dẫn học sinh chuẩn bị cho những bài học làm văn nghị luận bằng SĐTD.
- Bước 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh xác định vấn đề trung tâm của bài
học

- Bước 2: Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm những ý chính liên quan đến
vấn đề cần nghị luận.
- Bước 3: Giáo viên hướng dẫn học sinh khái quát hóa thành dạng SDTD.
Ví dụ, để chuẩn bị cho bài học “Nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích
văn xuôi”, vì trong sách giáo khoa đã có phần hướng dẫn khá chi tiết, giáo viên có
thể yêu cầu học sinh vẽ lại thành dạng SĐTD:
Quá trình chuẩn bị bài ở nhà với SĐTD của học sinh có thể gặp những sai
lầm. Khi lên lớp, giáo viên chuẩn xác lại những nội dung bài học, học sinh có thể
chỉnh sửa lại trong SĐTD.
Chuẩn bị bài ở nhà bằng SĐTD đòi hỏi học sinh khái quát được nội dung bài
học và nắm được rõ bản chất vấn đề. Mỗi cá nhân lại có cách thức thể hiện riêng
nên cũng sẽ không có trường hợp học sinh sao chép bài soạn của nhau. Do vậy,
kiểm tra phần chuẩn bị thông qua sơ đồ tư duy, giáo viên có thể kiểm soát được cả
về ý thức và năng lực học tập của học sinh. Mặt khác, soạn bài bằng SĐTD cũng
khiến học sinh cảm thấy hứng thú hơn nhiều so với việc viết chữ, trả lời câu hỏi
13
trong sách giáo khoa. Đó là điều kiện để học sinh chủ động, tự giác, tích cực học
tập.
2.2. Ứng dụng sơ đồ tư duy trong quá trình tổ chức hình thành tri thức, kĩ
năng làm văn nghị luận cho học sinh
2.2.1. Hướng dẫn học sinh nắm được tri thức tổng quát của bài học
Trong dạy học theo phương pháp truyền thống, kiến thức bài học được tái
hiện từ đầu đến cuối theo trật tự tuyến tính. Vì thế, học sinh khó bao quát tổng thể
bài học, kĩ năng liên hệ, so sánh không tốt. Với hình ảnh trực quan sinh động,
nhiều màu sắc hấp dẫn, SĐTD trở thành một bức tranh tổng thể, toàn vẹn về bài
học. Đồng thời, SĐTD cũng giúp học sinh có cách nhìn nhận đa chiều về mọi mặt
của vấn đề để từ đó có thể đưa ra những ý tưởng mới, phát hiện mới, tìm ra mạch
logic của bài học.
Ví dụ, SĐTD làm cho cấu trúc bài văn nghị luận hiện lên rõ ràng trong tiếp
nhận của học sinh:

2.2.2. Hướng dẫn học sinh học tập hợp tác, tự hình thành tri thức, kĩ năng
Quá trình học tập đòi hỏi học sinh làm việc cộng hưởng nhằm mục đích tìm
ra kết quả tối ưu cho vấn đề cần giải quyết. Trong đó, giáo viên cần hướng dẫn học
sinh từng bước khám phá tri thức, hoàn thiện SĐTD theo hướng mở.
14
Cách thứ nhất: Giáo viên chia lớp thành nhiều nhóm, mỗi nhóm chịu trách
nhiệm thảo luận về một vấn đề nào đó, sau đó cùng hoàn thiện thành SĐTD.
Ví dụ, khi dạy bài “Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học”, giáo viên có
thể chia lớp thành 3 nhóm giải quyết đề bài số 1: Nhóm I giải thích và chứng minh
nội dung “văn học Việt Nam rất phong phú và đa dạng”, nhóm II giải thích và
chứng minh nội dung “văn học văn học yêu nước là chủ lưu xuyên suốt lịch sử văn
học Việt Nam”, nhóm III lí giải nguyên nhân khiến văn học yêu nước trở thành chủ
lưu xuyên suốt lịch sử văn học Việt Nam. Các nhóm thảo luận, trình bay nội dung
ra bảng phụ rồi cùng ghép lại thành một sơ đồ tổng thể.Giáo viên nhận xét, chỉnh
sửa, trình chiếu phần chuẩn bị của mình lên bảng cho học sinh tham khảo.
Cách thứ hai: Giáo viên yêu cầu học sinh làm việc cá nhân. Sau đó, giáo
viên yêu cầu một số em trình bày ý tưởng về nội dung bài học. Các học sinh khác
theo dõi, nhận xét, bổ sung để hoàn thiện sơ đồ. Cùng vấn đề, nhưng mỗi học sinh
lại có cái nhìn khác nhau, cách thể hiện khác nhau.
Sơ đồ tư duy giúp giáo viên dễ dàng hướng dẫn học sinh nắm được cấu trúc
của từng kiểu bài. Giáo viên có thể xây dựng sơ đồ các dạng đề bài nghị luận xã
hội và nghị luận văn học. Chắc chắn với các “công thức” này, học sinh không phải
lo lắng đến việc không tìm ra ý tưởng viết văn nữa; mà chỉ cần chọn lọc, sắp xếp
các ý tưởng của mình tìm được để có một bài viết đủ ý, bố cục rõ ràng, mạch lạc,
chặt chẽ.
15
Ví dụ: hệ thống sơ đồ cho các dạng đề nghị luận:
Sơ đồ tư duy cấu trúc bài nghị luận về một hiện tượng đời sống
Sơ đồ tư duy cấu trúc bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí
16

Sơ đồ tư duy cấu trúc bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ
Sơ đồ tư duy cấu trúc bài nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích văn xuôi
Sơ đồ tư duy cấu trúc bài nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích văn xuôi
17
Sử dụng PPDH này có nhiều ưu điểm:
+ Đóng góp của mỗi học sinh đều được ghi nhận và lưu lại đúng cách.
+ Thông tin không bị mất đi.
+ Những học sinh trong lớp sẽ phát biểu đúng trọng tâm hơn.
+ Sau buổi học, mỗi học sinh tự biết hoàn thiện SĐTD, nhờ vậy nắm kiến
thức, kĩ năng tốt hơn.
+ Học sinh liên tục, chủ động tham gia vào toàn bộ bài học thay vì chỉ chú
tâm đến việc ghi lại ý kiến sau cùng; từ đó, có khả năng phân tích, nhận xét sắc
sảo, kết hợp mạch lạc, ghi nhớ hiệu quả và nắm vững tổng thể hơn.
Trong quá trình hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài, giáo viên có thể gợi mở
từng ý bằng những ghi chú. Học sinh tiếp tục giải mã những ghi chú này cũng là
hoàn thiện sơ đồ nội dung đề văn nghị luận. Ví dụ:
2.2.3. Hướng dẫn học sinh ghi chép trên lớp
Theo PPDH truyền thống, học sinh thường ghi chép bài giảng bằng chữ viết,
theo trật tự tuyến tính. Vì thế, những trang vở dày đặc chữ thường dễ khiến học
sinh mệt mỏi, nản lòng. SĐTD ngược lại, sử dụng tranh ảnh, hình vẽ, màu sắc,
đường nét, kí hiệu, con số… nên khơi gợi trí tò mò, hứng thú cho các em.
Tuy nhiên, SĐTD làm hạn chế khả năng ngôn ngữ cá nhân. Do đó, giáo viên
cần hướng dẫn học sinh ghi chép bài học bằng cách kết hợp cả hai phương pháp
trên. Cụ thể, giáo viên hướng dẫn học sinh chia vở thành 2 phần, một phần dùng để
vẽ SĐTD khái quát nội dung bài học, phần còn lại ghi chú những ý quan trọng,
những từ khó. Khi về nhà, học sinh sẽ tiếp tục hoàn thiện SĐTD để tái hiện kiến
18
thức. Với cách này, học sinh vừa phải ghi chép ít, có thể hoàn thiện bài theo ý
mình, kết hợp ôn tập hiệu quả.
Hình minh họa cách ghi chép của học sinh với sơ đồ tư duy

2.2.4. Hướng dẫn học sinh ứng dụng sơ đồ tư duy để thực hành lập dàn ý
cho bài văn nghị luận
Làm văn nghị luận đòi hỏi nhiều kĩ năng nhưng trong đó lập ý vẫn là kĩ năng
quan trọng bậc nhất. Sauk hi tìm hiểu đề, học sinh phải tìm ý và lập dàn ý cho bài
văn. Gơt-tơ, nhà văn nổi tiếng của Đức quả quyết: Tất cả đều lệ thuộc vào bố cục.
Còn Đôt-tôi-ep-xki, nhà văn Nga của thế kỉ XX ước ao: Nếu tìm được một bản bố
cục đạt thì công việc sẽ nhanh như trượt trên băng. Ix-pen, một nhà văn của Thuỵ
Điển đã để hẳn một năm lao động xây dựng bố cục cho bản trường ca và ông đã
hoàn thành bản trường ca đó trong ba tháng. Thật vậy, để làm một dàn ý tốt không
phải dễ. Muốn có một dàn ý tốt thì ngoài việc nghiên cứu kĩ đề để lĩnh hội yêu cầu
của đề còn phải có thói quen bố trí cho khoa học. Có nhiều học sinh cho rằng: Thời
gian làm bài rất hạn chế, chỉ 90 phút nếu còn phải lập dàn ý thì lãng phí mất
khoảng thời gian quý báu! Sự thật không phải như vậy. Dàn ý là nội dung sơ lược
của bài văn. Nói cách khác, đó là những hệ thống suy nghĩ, tìm tòi, nhận xét, đánh
giá của học sinh dựa trên yêu cầu cụ thể của đề bài. Lập dàn ý trước khi viết bài có
những cái lợi sau:
- Nhìn được một cách bao quát toàn bộ nội dung chủ yếu mà bài làm cần đạt
được, đồng thời thấy được mức độ giải quyết vấn đề đáp ứng những yêu cầu của đề
bài, tránh bài làm xa lệch trọng tâm.
- Thông qua việc làm dàn ý, học sinh có điều kiện suy nghĩ sâu sắc và toàn
diện hơn để điều chỉnh hệ thống luận điểm. Lập dàn ý sẽ tránh tình trạng bỏ sót
những ý quan trọng và tránh những ý thừa.
- Dàn ý cụ thể giúp học sinh chủ động phân chia thời gian giữa các phần cho
hợp lí, giúp bài viết cân đối.
19
Ở mỗi đề luyện tập, giáo viên thường yêu cầu học sinh lập dàn ý. Ta thường
thấy các em lập dàn ý theo đề mục. Học sinh thường đánh dấu các ý lớn, ý nhỏ của
một dàn ý bằng số, gạch đầu dòng hoặc cộng đầu dòng. Cách lập dàn ý này cũng
khá khoa học nhưng học sinh vẫn phải viết cả câu văn, đoạn văn. Nếu vậy, các em
vẫn mất nhiều thời gian trong khi đó thời gian cho một buổi thi không nhiều. Hơn

nữa, dàn ý theo kiểu truyền thống ấy khó kích thích tư duy logic của các em. Vì
vậy, giáo viên hướng dẫn cho các em lập dàn ý theo SĐTD sẽ khắc phục được
những hạn chế trên.
Với phân môn làm văn, đặc biệt là ở những bài học liên quan đến việc hình
thành bố cục bài viết, tìm ý cho những đề bài cụ thể, SĐTD đã phát huy rất cao sự
hứng thú học tập của học sinh. Bởi vì hoạt động tìm ý cho một bài văn có điểm
tương đồng về thao tác tư duy với việc hình thành một SĐTD. Thế nên thay vì giáo
cho học sinh tìm ý sau đó diễn đạt lại bằng những câu văn dài dòng thì giáo viên có
thể thay bằng việc gợi ý để học sinh xây dựng SĐTD thể hiện hệ thống ý.
Bên cạnh đó, SĐTD còn giúp học sinh lập dàn ý đúng với cấu trúc nội dung,
lập luận của từng kiểu đề bài. Quá trình lập dàn ý chi tiết cần được bắt đầu bằng
SĐTD dàn ý đại cương, thể hiện cấu trúc của kiểu bài văn nghị luận, rồi dần dần
học sinh cụ thể hóa, chi tiết hóa những ý lớn đó bằng hệ thống nhánh trình bày ý
nhỏ hơn.
Ví dụ, trong thời gian thực hành luyện tập, để học sinh biết cách lập dàn ý
cho đề văn nghị luận về một ý kiến của nhà văn Thạch Lam bàn về văn học, giáo
viên cho học sinh vẽ giản đồ cấu trúc bài. Sau đó, giáo viên tiếp tục để học sinh tự
thảo luận, hoàn thiện sơ đồ chi tiết cho đề bài.
20
Như vậy, quá trình thực hành luyện tập tiếp tục giúp học sinh nắm vững cấu
trúc kiểu bài văn nghị luận và cả kĩ năng tìm ý, phát triển ý. Chắc chắn, việc triển
khai thành bài viết sẽ đảm bảo được tính chặt chẽ trong lập luận.
2.3. Hướng dẫn học sinh ôn tập củng cố các kiểu bài văn nghị luận
Sau mỗi bài học bao giờ cũng có phần củng cố, nhắc lại kiến thức trọng tâm.
Phần ôn tập, củng cố, khái quát bài học giúp học sinh nắm vững kiến thức và kĩ
năng làm văn nghị luận và cả tri thức về những vấn đề xã hội hay văn học.
Với cách học truyền thống, học sinh ghi chép và tái hiện kiến thức theo trật
tự tuyến tính, khả năng ghi nhớ chỉ khoảng 50% dung lượng bài học. Sau mỗi giai
đoạn, học sinh lại mất không ít thời gian để ôn lại. Thông thường, học sinh còn rơi
vào trạng thái tâm lí căng thẳng vì cảm thấy không đủ thời gian để ôn lại tất cả các

bài trước khi thi.
Sử dụng SĐTD trong dạy học làm văn nghị luận sẽ giúp học sinh khắc phục
được những hạn chế đó. Thực tế cho thấy, sau mỗi giờ học, khi cần củng cố lại
kiến thức về bố cục kiểu bài hay những vấn đề cụ thể, học sinh chỉ cần nhìn vào
SĐTD có thể tái hiện được 80%  90% kiến thức bài học. Đến khi chuẩn bị thi
cử, kiểm tra, học sinh cũng không cần quá nhiều thời gian như phương pháp
truyền thống mà chỉ cần quan sát hay vẽ lại sơ đồ tổng thể vẫn có thể tái hiện toàn
bộ nội dung bài học một cách cụ thể, chi tiết (tham khảo hệ thống SĐTD cho các
kiểu bài văn nghị luận cơ bản ở phần trước).
So sánh SĐTD của giáo viên với sơ đồ do học sinh tự vẽ, giữa sản phẩm của
học sinh với nhau, có thể thấy học sinh không chỉ nắm bắt được nội dung bài học
mà đã có sáng tạo. Điều đó chứng tỏ kiến thức, kĩ năng đã thực sự chuyển hóa vào
tư duy các em.
21
Hình họa minh SĐTD cấu trúc kiểu bài nghị luận về một hiện tượng đời sống
22
Sơ đồ tư duy giúp học sinh ôn tập cả nội dung vấn đề và cấu trúc dạng đề
IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
Kết quả thực nghiệm được đánh giá dựa trên các phương diện của sự nhiệt
tình học tập, động cơ, sự chủ động - tích cực và chất lượng, hiệu quả nhận thức.
Qua dự giờ, quan sát, chúng tôi nhận thấy:
- Ở lớp đối chứng: Giáo viên dạy học theo giáo án thông thường. trong giờ
dạy vẫn chủ yếu là giáo viên thuyết trình, học sinh yên lặng lắng nghe và ghi chép.
Tuy học sinh cũng có trả lời các câu hỏi giáo viên đặt ra nhưng chưa thể hiện sự
hứng thú và tự giác. Học sinh còn thụ động trong học tập, chưa thể hiện được vai
trò là chủ thể của hoạt động nhận thức. Phần lớn các giáo viên ở lớp đối chứng đều
“lướt nhanh” hệ thống kiến thức, thường chỉ tập trung thời gian để trả lời các câu
hỏi dạng bài tập vận dụng. Các sơ đồ, bảng biểu thường do giáo viên tự chuẩn bị,
học sinh quan sát và nghe giảng.
Kết quả bài kiểm tra cho thấy đa số học sinh nắm được bài, có kĩ năng nhận

diện và phân tích, đánh giá nội dung ý nghĩa các khái niệm, quy tắc, Tuy nhiên, ở
bài luyện tập vận dụng thì khả năng trình bày, diễn đạt của các em chưa tốt, vì lí do
nắm kiến thức không vững; khả năng nâng cao, sáng tạo trên cơ sở kiến thức đã
học hầu như không có.
23
- Ở lớp thực nghiệm: Giáo viên tiến hành tổ chức các hoạt động cho học sinh
thảo luận khám phá bài học theo dạng SĐTD. Giờ học được chia thành nhiều hoạt
động với nhiều nhiệm vụ học tập khác nhau nhưng không quá tải với học sinh mà
ngược lại, học sinh rất tích cực, chủ động và hăng hái. Các em rất sôi nổi, nhiệt
tình trong việc phát biểu ý kiến, hứng thú khi làm việc với SĐTD. Số lượng và
chất lượng các câu hỏi của học sinh đưa ra cao hơn nhiều so với lớp đối chứng.
Quá trình học sinh thảo luận để lập SĐTD giải quyết các câu hỏi trong sách giáo
khoa làm cho học sinh tích cực, chủ động và sáng tạo hơn trong học tập;khả năng
tổng hợp kiến thức nhanh hơn, có hệ thống hơn; khả năng lập luận, trình bày vấn
đề của các em logic, chặt chẽ hơn; các em nhận thức một cách sáng tạo, có khoa
học, từ đó hiểu sâu sắc và ghi nhớ lâu hơn nội dung bài học.
Kết quả bài kiểm tra cho thấy, đa số học sinh nắm được kiến thức. Đặc biệt,
ở những câu hỏi yêu cầu kĩ năng phân tích, đánh giá, vận dụng thì tỉ lệ học sinh trả
lời đúng cao hơn so với lớp đối chứng. Khi làm bài luyện tập vận dụng, học sinh
nắm vững kiến thức nên trình bày rõ ràng, mạch lạc hơn. Với bài tập nâng cao kiến
thức, tỉ lệ học sinh đạt điểm khá giỏi nhiều hơn so với lớp đối chứng.
Như vậy, rõ ràng PPDH mới mà chúng tôi đề xuất có tác dụng nhất định tới
tính tích cực nhận thức và kết quả học tập của học sinh.
Thực tế cho thấy, trong quá trình dạy và học trước đây, mô hình dạy học
bằng SĐTD đã được hình thành nhưng ở mức độ đơn giản hơn như làm sơ đồ,
bảng biểu… Việc thực hiện của các giáo viên cũng chưa hoàn chỉnh, bài bản và
chưa áp dụng thường xuyên. Đối với SĐTD, tuy hình thức tương tự nhưng được
thực hiện ở mức độ cao và có những ưu điểm tích cực hơn hẳn, giúp học sinh
khái quát được vấn đề và phát huy tính chủ động, sáng tạo của mình. Các thầy, cô
giáo trực tiếp giảng dạy bằng SĐTD đều có chung nhận xét rằng, vật liệu làm

SĐTD dễ kiếm, kinh tế, cách làm đơn giản và có thể vận dụng với bất kỳ điều
kiện nào của các nhà trường hiện nay. SĐTD có thể được vẽ trên giấy bìa, bảng
phụ, sử dụng bút chì, màu, phấn, tẩy… hoặc cũng có thể thiết kế trên powerpoint
hay các phần mềm chuyên dùng để hỗ trợ thiết kế SĐTD. Với các trường có cơ
sở hạ tầng thông tin tốt có thể cài vào phần mềm máy tính cho cán bộ, giáo viên,
học sinh sử dụng. Tuy nhiên, đa số đều cho rằng việc sử dụng giấy, bút chì, bút
màu, tẩy để vẽ SĐTD có ưu điểm là giúp người học dễ dàng phát triển ý tưởng và
bổ sung ý tưởng, qua đó phát huy tính sáng tạo của mỗi người. Mặt khác, SĐTD
còn giúp phát triển năng khiếu hội hoạ, sở thích lựa chọn tự do màu sắc, đường
nét. Do tự "sáng tác" nên mỗi SĐTD thể hiện rõ cách hiểu, trình bày kiến thức
của mỗi cá nhân; đồng thời do chính bản thân học sinh làm ra nên các em càng
yêu quý, trân trọng "tác phẩm" của mình; từ đó làm tăng mức độ hứng thú và tính
chủ động, tích cực sáng tạo của học sinh, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học
văn nói chung, dạy học Làm văn nghị luận nói riêng.
V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ
Sơ đồ tư duy là một công cụ học tập hiệu quả, có tác dụng thúc đẩy khả năng
tư duy, ghi nhớ của con người. Đây không chỉ là một biện pháp hỗ trợ tốt cho học
24
sinh trong việc học tập, làm bài văn nghị luận mà còn có thể sử dụng rộng rãi ở các
nội dung, phân môn, lĩnh vực khác. SĐTD cần được áp dụng vào quá trình dạy học
văn nói chung, dạy văn nghị luận nói riêng trong trường THPT để học sinh bắt
nhịp được với PPDH mới.
Mặc dầu có nhiều ưu điểm nhưng trên thực tế việc ứng dụng SĐTD trong
dạy học Làm văn nghị luận cũng cho thấy những hạn chế của phương pháp này:
- Còn khá nhiều học sinh chưa quen với cách tiếp nhận bài giảng một cách
chủ động.
- Khả năng vẽ SĐTD của một số học sinh chưa tốt nên hiệu quả dạy học
chưa cao.
- Kĩ năng diễn đạt bằng ngôn ngữ của học sinh bị hạn chế.
Ứng dụng SĐTD trong dạy học Làm văn nghị luận 12 cũng cho thấy,

phương pháp này đặc biệt hiệu quả đối với kiểu bài nghị luận xã hội. Tuy nhiên,
với kiểu bài cảm thụ thơ trữ tình, vốn đòi hỏi học sinh có những cảm nhận riêng,
mới mẻ, thì SĐTD chỉ có thể cung cấp cấu trúc chung, còn phần nội dung kiến
thức vẫn chủ yếu do học sinh tự suy nghĩ.
Những bất lợi đó có thể được giảm thiểu khi giáo viên biết vận dụng PPDH
này một cách linh hoạt, vì không có phương pháp nào là vạn năng. Bên cạnh việc
sử dụng SĐTD, giáo viên cần cho học sinh rèn luyện kĩ năng dựng đoạn, diễn đạt
lôgic kiến thức bài học từ những sơ đồ đó. Mặt khác, cần nâng cao nhận thức của
giáo viên và học sinh về vai trò của SĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học;
nhà trường có chương trình bồi dưỡng PPDH mới nói chung, kiến thức, kĩ năng sử
dụng SĐTD nói riêng, cho cả giáo viên và học sinh vào thời gian phù hợp….
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ GD & ĐT (2008), Ngữ văn 12, Tập 1 - 2, NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Bộ GD & ĐT (2008), Ngữ văn 12, Sách GV, Tập 1 - 2, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
3. Tony Buzan, Barry Buzan (Lê Huy Lâm dịch) (2008), Sơ đồ tư duy, NXB
Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
4. Tony Buzan (New Thinking Group dịch, Hải Hà, Hồng Hoa hiệu đính)
(2010), Bản đồ tư duy trong công việc, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội.
5. Jean - Luc Deladriere, Frederic Le Bihan, Piere Mongin, Dennis Rebaud
(Bản dịch của Trần Chánh Nguyên) (2009), Sắp xếp ý tưởng với Sơ đồ tư duy,
NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
6. Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng (2008), Tâm lý học lứa
tuổi và Tâm lý học sư phạm, NXB Thế giới, Hà Nội.
7. Adam Khoo (Trần Đăng Khoa, Uông Xuân Vy dịch) (2007), Tôi tài giỏi,
bạn cũng thế, NXB Phụ Nữ, Hà Nội.
25

×