Tải bản đầy đủ (.pdf) (282 trang)

Hội nhập quốc tế trong quá trìnhđổi mới giáo dục đại học Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.25 MB, 282 trang )

HỘI THẢO 2014
Hội nhập quốc tế trong quá trình
đổi mới giáo dục đại học Việt Nam
International Integration in
the Process of Higher Education Reform in Viet Nam
Tp. Hồ Chí Minh, 08 - 6 - 2014
HỘI ĐỒNG QUỐC GIA GIÁO DỤC
VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC
ĐẠI HỌC QUỐC GIA
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

ĐẠI HỌC QUỐC GIA
TP. HỒ CHÍ MINH

HỘI ĐỒNG QUỐC GIA GIÁO DỤC
VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC




TÀI LIỆU HỘI THẢO




Hội nhập quốc tế trong quá trình
đổi mới giáo dục đại học Việt Nam


International Integration in
the Process of Higher Education Reform in Viet Nam






Thành phố Hồ Chí Minh
Ngày 08 tháng 6 năm 2014


1
BÀI BÁO TOÀN VĂN

Phiên toàn thể – Sáng 08/6/2014

Phát biểu khai mạc và đề dẫn của Giám đốc ĐHQG-HCM
Hội nhập quốc tế - con đường tất yếu của
giáo dục đại học thời toàn cầu hóa 5
Phan Thanh Bình, Giám đốc ĐHQG-HCM

BC-01
Đại học Quốc gia Tp. HCM: Hội nhập quốc tế để phát triển –
kinh nghiệm và đề xuất 10
Nguyễn Hội Nghĩa, Phó Giám đốc ĐHQG-HCM

BC-02
Globalization Strategies of NUS 18
TAN Eng Chye, Provost, National University of Singapore

BC-03
International Integration of Higher Education in a Runaway World:
Challenges to the Universities in ASEAN 28

Choltis Dhirathiti, ASEAN University Network (AUN)

BC-04
Hai ý tưởng quan trọng nên học tập từ Hoa Kỳ:
Phân tầng hệ thống giáo dục đại học và quản lý đầu tư nghiên cứu 32
Lâm Quang Thiệp, Trường ĐH Thăng Long

BC-05
Hội nhập quốc tế để thúc đẩy đổi mới
và đổi mới thành công sẽ hội nhập có hiệu quả 43
Trần Chí Đáo, Nguyên Giám đốc ĐHQG-HCM

BC-06
Sự chuyển dịch tư duy trong lĩnh vực hợp tác - hội nhập
của giáo dục đại học Việt Nam với quốc tế (Thành tựu, hạn chế) 46
Nguyễn Tấn Phát, Nguyên Thứ trưởng Bộ GD&ĐT, Nguyên GĐ ĐHQG-HCM

BC-07
Trả lời cho ba câu hỏi về tài chính giáo dục đại học 48
Phạm Phụ, Trường ĐH Bách khoa, ĐHQG-HCM

BC-08
Mấy suy nghĩ về giáo dục đại học Việt Nam
trong quá trình hội nhập quốc tế 53
Nguyễn Ngọc Giao, Nguyên Phó Giám đốc ĐHQG-HCM



2
Phân ban 1 – Chiều 08/6/2014


TL-01
Toàn cầu hóa và giáo dục đại học 55
Hồ Thanh Phong, Trường ĐH Quốc tế, ĐHQG-HCM

Globalization and Higher Education 67
Ho Thanh Phong, International University, VNU-HCM

TL-02
Experiential Learning Approach for International Joint Programs:
Two Case Studies at the University of Science, VNU-HCM 79
Paul McAfee, Keuka College, New York, United States of America
Tran Minh Tuan, Vu Hai Quan, University of Science, VNU-HCM

TL-03
Chất lượng đào tạo đại học và hội nhập quốc tế 91
Nguyễn Hồng Minh, Lê Thế Vinh, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vinh

TL-04
The Advantages of International Connections
for Innovative Approaches within Higher Education 98
Michelle Vickers, Trường ĐH RMIT

TL-05
Trung tâm xuất sắc – mô hình đào tạo gắn liền với nghiên cứu
nhằm tăng cường năng lực trong đại học nghiên cứu 102
Ban Khoa học Công nghệ, ĐHQG-HCM
Phân ban 2 – Chiều 08/6/2014

TL-06

Một góc nhìn về thành tựu và hạn chế của hội nhập quốc tế
trong giáo dục đại học ở Việt nam 111
Võ Văn Sen, Nguyễn Ngọc Thơ,
Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM

A Perspective on Achievements and Limitations of
International Integration in Higher Education in Vietnam 126
Vo Van Sen, Nguyen Ngoc Tho
University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM

TL-07
Hội nhập quốc tế của giáo dục đại học Việt nam:
Kinh nghiệm của ĐHQG Hà Nội 141
Nguyễn Quý Thanh, Vũ Thị Mai Anh, Viện Đảm bảo Chất lượng, ĐHQG-HN

TL-08
Xây dựng giao diện mới đối với giáo dục đại học Việt Nam
để thích nghi với hội nhập quốc tế chủ động, tích cực và sâu rộng 150
Nguyễn Thường Lạng, Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, Hà Nội


3
TL-09
Giáo dục đại học Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế:
Thuận lợi và khó khăn 161
Nguyễn Cảnh Huệ, Trường ĐH Sư phạm Tp. HCM

TL-10
Đề xuất mô hình phát triển nguồn nhân lực
cho Việt Nam giai đoạn (2015-2035) 169

Trần Đức Cảnh, Nguyên Giám đốc ĐT&PTNNL và An sinh Xã hội
cho chính quyền Bang Massachusetts
Các tham luận khác

TL-11
Đổi mới nền giáo dục đại học Việt Nam
hướng đến sự phát triển của kinh tế tri thức 178
Hàn Viết Thuận, Trường ĐH Kinh tế Quốc dân Hà Nội

TL-12
Hội nhập trong đào tạo và nghiên cứu các ngành KHXH&NV:
một số vấn đề đặt ra 185
Ngô Văn Lệ, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM

TL-13
Phối hợp đào tạo giữa Việt Nam và quốc tế 190
Dương Minh Đức, Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQG-HCM

TL-14
Hội nhập quốc tế với đổi mới hệ thống đào tạo
trong giáo dục đại học kĩ thuật Việt Nam 197
Nguyễn Hữu Phúc, Phạm Đình Trực,
Khoa Điện - Điện tử, Trường ĐH Bách khoa, ĐHQG-HCM

TL-15
Đội ngũ điều dễ hiểu nhưng khó thực hiện 208
Nguyễn Thế Hữu, Nguyên Giám đốc ĐH Huế

TL-16
Hội nhập quốc tế trong quá trình đổi mới giáo dục đại học Việt Nam 211

Đặng Mậu Chiến, Phòng Thí nghiệm Công nghệ Nano (LNT), ĐHQG-HCM

TL-17
Mô hình giáo dục đại học của Hàn Quốc và kinh nghiệm cho Việt Nam 216
Phan Thế Công, Trường Đại học Thương mại
Nguyễn Thị Nhị, Trường Đại học Vinh

TL-18
Những thách thức hội nhập quốc tế của giáo dục đại học Việt Nam 225
Nguyễn Thế Thắng, Trung tâm Nghiên cứu Quản lý Giáo dục,
Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam


4
TL-19
Hợp tác giáo dục đại học giữa Việt Nam với các nước ASEAN 232
Nguyễn Thị Chinh, Khoa Lí luận Chính trị, HV Ngân hàng

TL-20
Hội nhập quốc tế trong quá trình đổi mới giáo dục đại học
theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khoá XI)
tại học viện Ngân hàng 237
Trần Mạnh Dũng, Học viện Ngân hàng

TL-21
Kinh nghiệm thu hút sinh viên quốc tế trong
giáo dục đại học ở Cộng hòa liên bang Đức 240
Hoàng Thị Nga, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

TL-22

Quốc tế hóa giáo dục tại Viện Đào tạo Quốc tế ĐHQG-HCM 246
Trương Quang Được, Viện Đào tạo Quốc tế, ĐHQG-HCM

TL-23
Higher Education in Social Sciences and Humanities –
the Case of USSH, Pathway Vision for 2050 248
Võ Văn Sen, Trần Cao Bội Ngọc,
Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM

TL-24
An American Professor’s Observations
about Higher Education in Vietnam 259
Heather Marie Stur , Fulbright Scholar in Vietnam, 2013-14
University of Southern Mississippi, USA

TL-25
Implementing an Internal Quality Assurance System
to Reach International Standards 263
Nguyễn Thanh Thủy, Trường ĐH Quốc tế, ĐHQG-HCM

TL-26
Hoạt động quan hệ quốc tế trong đảm bảo
chất lượng giáo dục tại Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh 269
Nguyễn Thị Mỹ Ngọc, Nguyễn Thị Thanh Nhật, Nguyễn Tiến Công
Trung tâm Khảo thí và Đánh giá chất lượng đào tạo, ĐHQG-HCM

TL-27
Thách thức đối với công tác đảm bảo chất lượng
giáo dục đại học Việt Nam trong quá trình hội nhập
và một số gợi mở cho việc đổi mới công tác này 274

Nguyễn Duy Mộng Hà, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM


5
HỘI NHẬP QUỐC TẾ - CON ĐƯỜNG TẤT YẾU CỦA
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THỜI TOÀN CẦU HÓA


PGS.TS. Phan Thanh Bình

Đại học Quốc gia – Tp. Hồ Chí Minh


MỞ ĐẦU

Khi chúng ta đang tổ chức Hội thảo này, tình hình thế giới đang diễn ra sôi động và phức tạp.
Hơn lúc nào hết, chúng ta cảm nhận rõ vai trò quan trọng của hội nhập quốc tế trong việc
bảo vệ chủ quyền quốc gia.

Hội nhập quốc tế cũng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của một quốc gia. Trong
buổi nói chuyện với với ĐHQG-HCM sáng 10/5/2014, tác giả của quyển sách Thế giới phẳng
- ông Thomas Friedman đã nhấn mạnh: “Thế giới càng ngày càng phẳng và tôi cho rằng có
3 nhân tố để mang đến thành công cho một quốc gia, cụ thể là Việt Nam. Thứ nhất là xây
dựng một Nhà nước pháp quyền, khuyến khích sáng tạo. Thứ hai là phải xây dựng tốt cơ sở
hạ tầng và sau cùng là phải cải cách giáo dục, trang bị kỹ năng, tạo sự tương tác với thế
giới.”

Vấn đề cần đặt ra ở đây là chúng ta cần làm gì và làm như thế nào để “tương tác hiệu quả”
với thế giới trong thời đại toàn cầu hóa?



THẾ GIỚI PHẲNG- KỶ NGUYÊN GIÁO DỤC TOÀN CẦU HÓA

Toàn cầu hóa được biết với nhiều định nghĩa khác nhau trên cơ sở các cách tiếp cận khác
nhau [1].Toàn cầu hoá liên quan đến sự chuyển động của nền kinh tế, công nghệ, con người
và những ý tưởng vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Trong giáo dục, toàn cầu hoá thường
được đề cập đến là sự tương tác chặt chẽ giữa chương trình giáo dục với sự phát triển kinh
tế. Tuyên ngôn đại học của UNESCO năm 2009 cũng đã nêu rõ “toàn cầu hóa là thời kỳ mà
tri thức ngày càng giữ vai trò quyết định trong tiến trình phát triển xã hội. ”[2]

Thế giới phẳng ngày nay cũng làm “phẳng hoá” giáo dục, tạo ra một sân chơi giáo dục bằng
phẳng, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh. Lịch sử toàn cầu hóa về giáo dục đã cho thấy Giai
đoạn đầu tiên là hợp tác quốc tế về giáo dục đã diễn ra trong thập niên cuối của thế kỷ XX.
Sang đến thập niên đầu của thế kỷ XXI, giáo dục đã chuyển sang một giai đoạn phát triển
mới, cao hơn và phức tạp hơn. Đó là quốc tế hóa về giáo dục.

Từ một thế giới toàn cầu hóa, khái niệm quốc tế hoá giáo dục giúp chúng ta hiểu được khả
năng hội nhập giáo dục của mỗi quốc gia vào tiến trình toàn cầu. Quốc tế hóa giáo dục đại
học của mỗi quốc gia thường được đo lường bằng khả năng hội nhập, khả năng thay đổi,
khả năng thích ứng và khả năng được quốc tế chấp nhận các giá trị.

Với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, quốc tế hóa giáo dục thường được các nhà
phân tích quốc tế nhận định rằng: đó là tiến trình của những cải cách, của những đổi mới
giáo dục dựa trên kết quả của nhận thức tư tưởng mới xuất phát từ sự tích hợp ý kiến giữa
việc cải tổ nền GDĐH trên toàn cầu cùng với tính lịch sử, yếu tố văn hoá của nền GDĐH Việt
Nam.



6

Trong quá trình quốc tế hóa giáo dục, ngay cả với nước Mỹ- một nền đại học xếp hạng hàng
đầu mang tính hình mẫu của thế giới cũng phải thay đổi. Họ đã xác định “Sức mạnh mềm
của Mỹ là củ cà rốt mang tên “Giáo dục đại học”. Quyền lực mềm trong thời kỳ toàn cầu hóa
cũng đã được thay đổi bởi chính cha đẻ của khái niệm đó là Joseph Nye “Quyền lực mềm
được định nghĩa đầy đủ là khả năng ảnh hưởng tới người khác thông qua thông qua các
công cụ hợp tác, thuyết phục và gợi ra sức hút tích cực để có được những kết quả mong
đợi”[3]. Và giáo dục đại học Mỹ là một thí dụ đã được ông phân tích (với số sinh viên nước
ngoài đến Mỹ học hàng năm tăng cao [4], với vị trí của các trường đại học Mỹ luôn được xếp
hạng cao trên thế giới, với số tiền lên đến hàng chục tỷ đô la/năm mà GDĐH Mỹ thu được từ
các sinh viên nước ngoài [5]).

Như vậy thế giới của thời kỳ toàn cầu hóa đã tác động mạnh mẽ lên “tháp ngà đại học”. Tất
cả các quốc gia đều bị cuốn vào sự vận động chung hướng đến thịnh vượng của toàn cầu.
Trong bối cảnh đấy, GDĐH chính là chìa khóa, là con đường tất yếu cho sự phát triển mang
tính bền vững của mỗi quốc gia.


ĐỔI MỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM- NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG CƠ BẢN CỦA HỘI
NHẬP QUỐC TẾ

Kể từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam (2/9/1945), giáo dục Việt Nam đã tiến hành nhiều cuộc cải cách vào các năm 1950,
1956, 1979 và đặc biệt năm 1986. Sau gần ba mươi năm Đổi mới, chúng ta lại tiếp tục làm
một cuộc cách mạng giáo dục mới với tiêu chí hội nhập quốc tế một cách chủ động. Trong
quá trình Đổi mới vì Hội nhập đấy, chúng ta nhận thấy: Đổi mới và Hội nhập là hai quá trình
song song trong một thế giới toàn cầu hóa. Hai quá trình này có tính liên kết lôgic và chặt
chẽ với nhau. Hai quá trình này là động lực chính thúc đẩy sự phát triển của các quốc gia.

Nền GDĐH Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn từ các nước khác trong đó có Trung Quốc, Pháp
và Liên Xô (cũ). Tuy nhiên, khi chủ động tham gia vào toàn cầu hóa, những tác động bên

ngoài đều được Việt Nam hóa khi ứng dụng vào bối cảnh của quốc gia. Công cuộc Đổi mới
của kinh tế đã làm thay đổi tư duy “bao cấp giáo dục đại học”. GDĐH VN ở thời kỳ này có
đặc tính linh hoạt bởi chúng ta, vừa tự Đổi mới để Hợp tác quốc tế , rồi lại cải tiến, rồi đổi
mới và tiếp tục hợp tác quốc tế. Ba thành tựu đổi mới GDĐH VN được các nhà tư vấn của
Ngân hàng thế giới[6] nhận thấy rõ nhất là :

Tổ chức lại hệ thống GDĐH : Cho đến thập niên cuối của thế kỷ XX, GDĐH VN vẫn là nền
giáo dục bao cấp. Nhưng khi chuyển nền kinh tế theo hướng thị trường, GDĐH VN đã mở
cửa cho nhiều thành phần khác nhau tham gia vào hệ thống giáo dục. Điều đó đã thúc đẩy
nền giáo dục Việt Nam tổ chức lại hệ thống giáo dục theo hướng mở, thực tế hơn và đáp
ứng được nhu cầu của số đông. Việc tổ chức lại hệ thống GDĐH được xem là phương tiện
rất quan trọng để đạt được sự hội nhập quốc tế.

Sự đa dạng hoá : Thế giới càng phẳng, nhu cầu về nguồn nhân lực cũng đa dạng hơn. Đầu
tiên là sự đa dạng hóa chủ thể đại học , đa dạng hóa nguồn tài chính, cung cấp đa dạng sự
lựa chọn cho sinh viên, đa dạng tính cạnh tranh tìm kiếm sinh viên. Sự đa dạng hóa được
thể hiện trong việc tăng theo cấp số nhân các ngành đào tạo đại học. Sự đa dạng hóa dễ
dàng nhận thấy trong các loại hình đào tạo. Sự đa dạng hoá đã kéo theo những hệ lụy mà
GDĐH VN phải đối mặt như khả năng quản lý, khả năng kiểm soát chất lượng, khả năng
bảo đảm đầu ra…

Sự phân quyền : Kinh nghiệm cho thấy ở các quốc gia châu Á, mặc dù đa số đã từng duy
trì hệ thống giáo dục mang tính tập trung rất cao, tuy nhiên khi cải tiến phân quyền theo
nguyên tắc tự chủ đại học cũng rất thành công. Việt Nam cũng là một trường hợp như thế.
Phân quyền ở đây không có nghĩa là bãi bỏ những quy định hay không có sự quản lý của


7
nhà nước, mà thay thế vào đó là cơ chế về trách nhiệm giải trình đã được hình thành bao
gồm kiểm định, đánh giá thực hiện, và tiêu chí đối sánh với các trường đại học hàng đầu của

thế giới. Do đó, vai trò của Nhà nước trong việc ban hành các quy định và phối hợp đã trở
nên thiết thực hơn. Một số nhà giáo dục xem việc bãi bỏ các quy định là môt hình thức “tái
điều chỉnh” trong công tác quản lý.

Ba quá trình trên được coi như những bước cải tiến. Nói cải tiến chứ không phải cải cách vì
tác động của nó mới chỉ đụng chạm đến một số lĩnh vực trong giáo dục. Hợp tác quốc tế đã
góp phần chuyển đổi hệ thống GDĐH, góp phần làm đa dạng hoá trường ĐH và các loại
hình đào tạo, góp phần hình thành nên những nhận thức mới về sự phân quyền. Tuy nhiên
Chất luợng giáo dục đại học và hiệu quả của sự chuyển biến nhằm tác động vào xã hội vẫn
còn rất chậm chạp. Và chậm trong một thế giới đã chuyển sang giai đoạn quốc tế hóa, có
nghĩa GDĐH VN đã thụt lùi.

Như đã nêu ở trên, quốc tế hóa GDĐH là một quá trình cho tất cả các quốc gia với những cơ
hội và thách thức của nền GDĐH thời kỳ toàn cầu hóa. Với những quốc gia mạnh, quốc tế
hóa giáo dục là “mỏ vàng cho nền kinh tế”. Còn với các quốc gia đang phát triển, quốc tế
hóa GDĐH là cơ hội thoát nghèo, là nguyên tắc cơ bản của phát triển bền vững. Từ những
yêu cầu cơ bản của hội nhập quốc tế trong GDĐH ở giai đoạn mới, chúng ta thử dùng phân
tích SWOT để đánh giá khả năng thành công cho hội nhập quốc tế của GDĐHVN

Điểm mạnh (Strengths)

a. Sau gần 30 năm Đổi mới và hợp tác quốc tế, Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo đã giành được những thành tựu vô cùng quan trọng, làm thay đổi
diện mạo của đất nước, nâng tầm vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
b. Việt Nam đang chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế với nhịp độ tăng
trưởng kinh tế khá cao, với môi trường chính trị ổn định và mức sống của các tầng
lớp nhân dân ngày càng được cải thiện.
c. Đảng, Nhà nước, Chính phủ và toàn dân nhận thức sâu sắc về vai trò của hội nhập
quốc tế trong tương lai phát triển của đât nước.
d. GDĐHVN đã có những kinh nghiệm trong hội nhập quốc tế, đặc biệt với sự kiện gia

nhập WTO (2005), Việt Nam đã ký ngay cam kết tham gia vào GATS với 4 phương
thức thương mại dịch vụ chính liên quan đến giáo dục : cung cấp xuyên biên giới,tiêu
dùng ngoài lãnh thổ, hiện diện thương mại và hiện diện thể nhân.
e. Trong thập niên đầu của thế kỷ XXI, GDĐHVN đã đạt được những thành tựu bước
đầu trong hội nhập khu vực và quốc tế về kiểm định theo chuẩn AUN, ABET…, hai
ĐHQG đã lọt vào trong top 200 các trường ĐH Châu Á.

Điểm yếu (Weaknesses)

a. Tư duy hội nhập chậm thay đổi ở chính những con người đang làm giáo dục đại học,
đặc biệt là ý thức “ngại thay đổi, ngại thêm việc” của các giảng viên-đội ngũ nòng cốt
cơ bản của GDĐHVN
b. Có định hướng về hội nhập quốc tế với mục tiêu rõ ràng, nhưng chưa có lộ trình chi
tiết mang tính ràng buộc và mang tính khả thi cao.

c. Cơ chế quản lý GDĐH chưa được thay đổi triệt để. Sự phân cấp trong GDĐH vẫn
mang nặng tính hình thức, chưa thật sự đi vào cuộc sống.
d. Đội ngũ quản lý, đội ngũ giảng viên sử dụng thuần thục một ngoại ngữ khác (đặc biệt
là tiếng Anh) không nhiều.
e. Kỹ năng chủ động hội nhập quốc tế ở các cấp chưa được trang bị đầy đủ.





8
Thời cơ (Opportunities)

a. Cuộc cách mạng Khoa học công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, làm nền tảng cho
sự phát triển kinh tế tri thức. Sự phát triển của khoa học công nghệ đã làm thay đổi

mạnh mẽ nội dung, phương pháp giáo dục trong các trường đại học, đồng thời đòi
hỏi giáo dục phải cung cấp được nguồn nhân lực có trình độ cao.
b. Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế vừa là quá trình hợp tác để phát triển vừa là quá
trình đấu tranh của các nước đang phát triển để bảo vệ lợi ích quốc gia. Các nước
đều xem phát triển giáo dục là nhiệm vụ trọng tâm của chiến lược phát triển kinh tế
xã hội, dành cho giáo dục những đầu tư ưu tiên, đẩy mạnh cải cách giáo dục nhằm
giành ưu thế cạnh tranh trên trường quốc tế.
c. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông, mạng viễn thông, công nghệ tin học
tạo thuận lợi cho Giáo dục từ xa đã trở thành một thế mạnh của thời đại, tạo nên một
nền giáo dục mở, phi khoảng cách, thích ứng với nhu cầu của từng người học.
d. Sau gần 30 năm đổi mới, những thành tựu đạt được trong phát triển kinh tế xã hội,
sự ổn định chính trị làm cho lực nước ta lớn mạnh lên nhiều so với trước. Sự đóng
góp về nguồn lực của nhà nước và nhân dân cho phát triển giáo dục ngày càng được
tăng cường.

Nguy cơ (Threats)

a. Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ trên thế giới có thể
làm cho khoảng cách kinh tế và tri thức giữa Việt Nam và các nước ngày càng lớn
hơn, nước ta có nguy cơ bị tụt hậu xa hơn.
b. Hội nhập quốc tế không chỉ tạo cho giáo dục cơ hội phát triển mà còn chứa đựng
nhiều hiểm họa, đặc biệt là nguy cơ xâm nhập của những giá trị văn hóa và lối sống
xa lạ làm xói mòn bản sắc dân tộc. Khả năng xuất khẩu giáo dục kém chất lượng từ
một số nước có thể gây nhiều rủi ro lớn đối với giáo dục Việt Nam
c. Năng lực quản lý của ta đối với giáo dục xuyên quốc gia còn yếu, không có nhiều
kinh nghiệm để định hướng và giám sát chặt chẽ các cơ sở giáo dục có yếu tố nước
ngoài.
d. Sự phân hóa trong xã hội của Việt Nam có chiều hướng gia tăng. Điều này có thể
làm tăng thêm tình trạng bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục giữa các vùng miền
và giữa các đối tượng người học.


Kết quả phân tích SWOT bước đầu giúp chúng ta xác định được những bước hành động
phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế. Nhưng chúng ta cần phải xác định được những mục
tiêu và lộ trình thực hiện rõ ràng hơn, chi tiết hơn để có thể bắt kịp với sự biến chuyển nhiều,
biến chuyển nhanh và biến chuyển sâu của xã hội ở thế kỷ 21.


KẾT LUẬN

Kết thúc thập niên đầu của thế kỷ XXI, toàn cầu hóa đã khiến cho giáo dục đại học có những
thay đổi sâu sắc hơn, tính quốc tế hóa trong GDĐH càng mạnh mẽ và thực chất hơn trong
một thế giới tiếp tục phẳng hơn. Quốc tế hóa giáo dục đại học khiến một nền giáo dục đại
học yếu kém, chắc chắn sẽ mất lợi thế cạnh tranh. Cuộc đua giáo dục quốc tế là cuộc đua
phát triển các khả năng trí tuệ mà mọi người ở bất cứ nơi đâu trên thế giới đều cần để đối
phó với những thách thức lớn của thế kỷ XXI
Với những nhận thức về một thế giới luôn thay đổi nhanh chóng và phức tạp hơn , Hội thảo
ngày hôm nay với chủ đề “ Hội nhập quốc tế trong quá trình đổi mới giáo dục đại học Việt
Nam” sẽ hướng đến những nội dung cơ bản như sau:

- Đánh giá tác động của hội nhập quốc tế đến đổi mới Giáo dục đại học Việt Nam.



9
- Phân tích những thành tựu và hạn chế của GDĐH VN trong trong quá trình hội nhập
quốc tế.

- Nghiên cứu những kinh nghiệm, mô hình để đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy đổi mới
GDĐH VN.


- Đề xuất cho Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực tư vấn giúp Thủ
tướng Chính phủ chỉ đạo triển khai Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị Trung ương
Đảng lần thứ 8 (khóa XI) về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
XHCN và hội nhập quốc tế.

Hội thảo rất hân hạnh khi đã quy tụ được những nhà lãnh đạo, các nhà quản lý giáo dục,
những chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực hợp tác quốc tế và đổi mới đại học của thế giới
và của Việt Nam.

Tôi hy vọng rằng, với những tham luận đầy tính khoa học và đầy tâm huyết, với những lời
chia sẻ thẳng thắn cùng những phần tranh biện sôi nổi, Hội thảo sẽ tạo ra những giá trị thực
tiễn cao, góp phần thiết thực cho sự phát triển của GDĐH VN.

Chúc sức khỏe của tất cả quý vị đại biểu và chúc cho Hội thảo thành công!


TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Manfred B.Steger. Globalization: A very short introduction.P17. Theo ông: Vào cuối thập niên
đầu của thế kỷ XXI đã có tới hàng triệu quy chiếu liên quan đến khái niệm Toàn cầu hóa trong
in ấn lẫn trên môi trường internet.

[2] UNESCO. Tuyên ngôn đại học 2009.t.2

[3] Joseph Nye. The Future of Power.2012.p21

[4] Báo cáo Open Doors được công bố bới Viện giáo dục quốc tế là một điều tra hàng năm về sinh
viên quốc tế tại Hoa Kỳ bắt đầu từ năm 1949. Báo cáo hàng năm này cho thấy trong ba năm
đầu của thập niên thứ hai-thế kỷ XXI, số sinh viên đến Mỹ du học tăng trưởng từ 3-3,5%/năm

và mang tính tăng trưởng ổn định. Sinh viên quốc tế đóng góp khoảng 24 tỷ đô la hàng năm
cho nền kinh tế Mỹ - thông tin từ Viện Giáo dục quốc tế và Cục Giáo dục và Văn hóa thuộc Bộ
Ngoại giao Mỹ 2013

[5] Top các trường đại học hàng đầu trên thế giới theo xếp hạng, các đại học Mỹ thường chiếm từ
6-8/10 theo tạp chí Times Higher Education bình chọn hàng năm.

[6] World Bank. Báo cáo Tư vấn giáo dục Việt Nam Việt Nam 2009


10
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH:
HỘI NHẬP QUỐC TẾ ĐỂ PHÁT TRIỂN – KINH NGHIỆM VÀ ĐỀ XUẤT


PGS.TS. Nguyễn Hội Nghĩa

Đại học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh


TÓM TẮT

Trong thời đại toàn cầu hóa, sự phát triển của các quốc gia, tổ chức luôn phải được gắn kết
với quá trình hội nhập quốc tế. Từ những ngày đầu thành lập, Đại học Quốc gia TP.HCM
(ĐHQG-HCM) đã nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của hội nhập quốc tế, coi đây là
một động lực to lớn để thúc đẩy quá trình đổi mới ĐHQG-HCM. Qua gần 20 năm xây dựng
và phát triển, ĐHQG-HCM luôn định hướng hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực hoạt động
của ĐHQG-HCM như quản trị, đào tạo, phát triển đội ngũ, nghiên cứu khoa học – chuyển
giao công nghệ, hợp tác quốc tế… Nhờ đó, ĐHQG-HCM luôn là một trong các đơn vị tiên
phong triển khai nhiều mô hình, công nghệ mới trong giáo dục và đào tạo, đạt được những

thành quả nhất định, góp phần đổi mới giáo dục đại học, phát triển kinh tế - xã hội. Căn cứ
trên kinh nghiệm của quá trình triển khai công tác hội nhập quốc tế tại ĐHQG-HCM, chúng
tôi cũng đề xuất một số giải pháp chung cho quá trình đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục
đại học Việt Nam.


TỪ KHÓA

Hội nhập quốc tế, giáo dục đại học, đổi mới căn bản và toàn diện.


ĐẶT VẤN ĐỀ

Hội nhập quốc tế là một xu thế khách quan, diễn ra dưới nhiều hình thức, cấp độ và trên
nhiều lĩnh vực khác nhau, trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác động mạnh mẽ
đến các lĩnh vực đời sống của từng quốc gia. Thực tế cho thấy không một quốc gia nào có
thể “đứng một mình” trên con đường phát triển. Ngày nay, hội nhập quốc tế được xem như
phương tiện để các quốc gia phát triển chính mình và góp phần vào sự phát triển của cộng
đồng.

Trong xu thế hội nhập, giáo dục đại học Việt Nam tất yếu sẽ chịu ảnh hưởng ngày càng tăng
của giáo dục quốc tế. Làn sóng toàn cầu hoá mang lại cho giáo dục đại học Việt Nam nhiều
cơ hội nhưng cũng không ít những khó khăn, thách thức. Điều này đòi hỏi cần có những
bước đi phù hợp để hội nhập. Nghị quyết số 29-NQ/TW Hội nghị Trung ương 8 khóa XI cũng
chỉ rõ hội nhập quốc tế là một trong 09 nhiệm vụ, giải pháp để đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo. Hội nhập quốc tế cũng sẽ thúc đẩy các nhiệm vụ, giải pháp còn lại để
có thể đạt được mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.

Là trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học, công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực chất lượng
cao, nòng cốt trong hệ thống giáo dục đại học và là nơi đi đầu trong đổi mới, từ những ngày

đầu thành lập, Đại học Quốc gia TP.HCM (ĐHQG-HCM) đã nhận thức được tầm quan trọng
của hội nhập quốc tế và đã định hướng triển khai trong tất cả các hoạt động của ĐHQG-
HCM như quản trị, đào tạo, phát triển đội ngũ, nghiên cứu khoa học – chuyển giao công
nghệ, hợp tác quốc tế.



11
Bài viết này điểm lại một số kết quả thu được từ quá trình hội nhập quốc tế tại ĐHQG HCM
trong những năm qua, từ đó đề xuất các giải pháp để hội nhập quốc tế thực sự góp phần
vào đổi mới cơ bản toàn diện giáo dục đại học Việt Nam, nâng tầm giáo dục Việt Nam tiếp
cận chất lượng quốc tế.


MỘT SỐ KẾT QUẢ CỦA QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ TẠI ĐHQG-HCM

Hoàn thiện mô hình hệ thống đại học đa ngành, đa lĩnh vực với cơ chế tự chủ, tự chịu
trách nhiệm như các hệ thống đại học lớn trên thế giới

Hai ĐHQG được thành lập trên cơ sở tổ chức lại một số trường đại học lớn trong nước để
trở thành trung tâm đào tạo đại học, sau đại học và nghiên cứu khoa học - công nghệ đa
ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao, đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và thế giới, làm nòng
cốt cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Trong xu thế hình thành các hệ thống đại học lớn trên thế giới, việc thành lập hai ĐHQG là
một bước hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Việc xây dựng hai ĐHQG có tính tự
chủ cao, được ưu tiên đầu tư phát triển là phù hợp với tình hình chung của thế giới và định
hướng phát triển nền giáo dục và khoa học công nghệ Việt Nam.

Hệ thống ĐHQG-HCM hiện bao gồm 33 đơn vị thành viên và trực thuộc, trong đó có 6
trường đại học thành viên, 1 Viện Nghiên cứu và 1 Khoa trực thuộc, tham gia đào tạo và

nghiên cứu tại 5 lĩnh vực khoa học chính: khoa học tự nhiên, khoa học xã hội – nhân văn,
khoa học kỹ thuật – công nghệ, khoa học kinh tế - quản lý, khoa học sức khỏe.

ĐHQG-HCM có hệ thống các viện, trung tâm, phòng thí nghiệm chuyên sâu như: Viện Tài
nguyên và Môi trường, Khu Công nghệ Phần mềm, Phòng thí nghiệm Công nghệ Nano,
Phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia về Polyme, về Kỹ thuật số và điều khiển hệ thống,
Phòng thí nghiệm tế bào gốc, Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Thiết kế Vi mạch, Phòng thí
nghiệm An toàn mạng, đảm bảo phục vụ tốt cho các hoạt động nghiên cứu và chuyển giao
công nghệ

Bên cạnh đó, hệ thống thư viện, tạp chí khoa học, nhà xuất bản, hệ thống ký túc xá sinh
viên, các trung tâm: Đào tạo Quốc tế, Đào tạo và Phát triển Nguồn nhân lực, Trung tâm
Khảo thí & đánh giá chất lượng đào tạo, Trung tâm Dịch vụ và xúc tiến đầu tư, phục vụ tốt
cho công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học,

Nhằm hỗ trợ cho công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, ĐHQG-HCM đã thành lập Quỹ
phát triển ĐHQG-HCM và quỹ Khoa học công nghệ. Hai Quỹ này đã đi vào hoạt động, khai
thác thế mạnh, vị thế của ĐHQG-HCM để tạo nguồn tài chính, góp phần phát triển chung
cho ĐHQG-HCM.

Tham khảo mô hình của các hệ thống đại học trên thế giới, ĐHQG-HCM xác định rõ cơ chế
quản lý: ĐHQG-HCM chịu trách nhiệm về lãnh đạo chung, xây dựng chiến lược phát triển,
đưa ra các quyết sách về phương hướng, đường lối cho toàn hệ thống. Các trường, viện
thành viên, với mô hình trường đại học nghiên cứu, đột phá từng thế mạnh riêng từng đơn vị
trong thế tương tác, hỗ trợ nhau. Qua đó, ĐHQG-HCM sẽ tạo thêm sức mạnh của hệ thống
thông qua việc tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường đại học thành
viên đối với ĐHQG-HCM và xã hội; tăng tính minh bạch và hiệu quả trong hoạt động của
ĐHQG-HCM và tạo môi trường sáng tạo khoa học, quản trị đại học cho các trường đại học
thành viên.






12
Đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về chương trình đào tạo và phương pháp tuyển sinh,
kiểm tra, đánh giá

Với ưu thế đặc thù, tập hợp được sức mạnh của nhiều trường đại học, là một đại học đa
ngành, đa lĩnh vực cấp quốc gia cùng với chế độ ưu tiên phát triển của Nhà nước, ĐHQG-
HCM đã xây dựng được các mối quan hệ hợp tác quốc tế, từng bước tiếp thu các thành tựu,
kinh nghiệm của các nền giáo dục lớn trên thế giới.

Trên các kinh nghiệm đó, ĐHQG-HCM đã và đang chuẩn hóa các chương trình đào tạo theo
các tiêu chuẩn chung của quốc tế. Học chế tín chỉ, vốn được các Trường đại học Bách khoa
và Khoa học Tự nhiên áp dụng đầu tiên trong cả nước từ những năm 1992-1993, hiện đang
được áp dụng đại trà trong tất cả các cơ sở đào tạo. Các trường thành viên và khoa trực
thuộc đã rà soát và xây dựng lại các chương trình đào tạo phù hợp với học chế tín chỉ, tăng
cường liên thông, chuyển đổi giữa các chương trình, tăng tính chủ động cho sinh viên.
Chương trình đào tạo mới được xây dựng theo hướng tăng cường tính tự học, khả năng
nghiên cứu và khả năng sáng tạo của sinh viên, đổi mới phương pháp giảng dạy theo
hướng lấy sinh viên làm trung tâm, kiểm tra - đánh giá theo quá trình. Các chương trình đào
tạo đều nêu rõ mục tiêu, chuẩn đầu ra và cơ hội việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp.

ĐHQG-HCM đã đẩy mạnh các chương trình đào tạo chất lượng cao theo chuẩn mực quốc
tế. Chương trình đào tạo kỹ sư chất lượng cao tại Việt Nam (Chương trình PFIEV) được tiến
hành tại ĐHQG-HCM từ năm 1999. Sinh viên tốt nghiệp từ chương trình được nhận 02 bằng
- của Việt nam và của trường đối tác phía Pháp (bằng tương đương Master châu Âu). Tính
đến nay, chương trình đã cung cấp cho xã hội hơn 500 kỹ sư chất lượng cao được Ủy ban
bằng kỹ sư Pháp (CTI) đánh giá và công nhận.


Hệ đào tạo cử nhân, kĩ sư tài năng là một phương thức đào tạo đặc biệt nhằm tiếp cận ngay
chuẩn mực chất lượng quốc tế đối với một số ngành đào tạo mũi nhọn dành cho một bộ
phận sinh viên giỏi, với ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, đội ngũ giảng
viên giỏi và áp dụng phương pháp dạy - học tiên tiến. Kết quả 10 năm đào tạo hệ tài năng
cho thấy, tỉ lệ tốt nghiệp hạng giỏi, khá của hệ đào tạo này cao hơn hẳn hệ đại trà, được
quốc tế thừa nhận, đã có đóng góp tích cực cho các cơ quan, doanh nghiệp trong và ngoài
nước. Bên cạnh các chương trình tài năng, từ năm 2006, ĐHQG-HCM triển khai các
chương trình đào tạo tiên tiến giảng dạy bằng tiếng Anh, dựa trên việc phối hợp vận hành
các chương trình giảng dạy đang được sử dụng tại các trường đại học hàng đầu trên thế
giới.

Công nghệ đào tạo CDIO được ĐHQG-HCM tiếp nhận và áp dụng như một hệ thống giải
pháp đồng bộ đảm bảo chất lượng chương trình đào tạo, đang được đúc kết để mở rộng
nhằm chuẩn hóa chất lượng các chương trình đào tạo, phát triển các chương trình đào tạo
đạt chuẩn kiểm định quốc tế. ĐHQG-HCM chính thức áp dụng CDIO từ năm 2010 cho 6
chương trình đào tạo trọng điểm lĩnh vực Kỹ thuật Chế tạo và CNTT. Với hiệu quả và tác
động sâu như khung chuẩn cấu trúc mở cho việc hoạch định, triển khai và đánh giá chương
trình đào tạo theo chuẩn đầu ra, từ năm 2012, ĐHQG-HCM mở rộng áp dụng cho các
chương trình đào tạo có kế hoạch tham gia kiểm định.

ĐHQG-HCM cũng đẩy mạnh áp dụng hệ thống kiểm định chất lượng quốc tế như AUN,
ABET… cho các chương trình đào tạo. Hiện nay, ĐHQG-HCM là một trong các đơn vị có số
lượng chương trình được đánh giá ngoài cao nhất cả nước: 10 chương trình được công
nhận đạt chuẩn AUN-QA, 2 chương trình được kiểm định ABET và 1 chương trình được
đánh giá theo dự án hợp tác giữa AUN và DAAD. Đây là cơ sở tốt để ĐHQG-HCM tham gia
liên thông tín chỉ với các trường đại học trong khu vực và trên thế giới.

Theo xu hướng chung trên thế giới, ĐHQG-HCM cũng luôn chú trọng hoàn thiện công tác
tuyển sinh với mục tiêu tuyển chọn được đối tượng sinh viên có kiến thức, kỹ năng, thái độ



13
phù hợp với mục tiêu của các ngành đào tạo, đồng thời định hướng đúng đắn cho quá trình
học tập của học sinh, giúp học sinh có sự chuẩn bị tốt cho quá trình học đại học. Từ năm
2002, ĐHQG-HCM đã là đơn vị đi đầu trong việc áp dụng hình thức thi trắc nghiệm trong
tuyển sinh, kiểm tra, đánh giá. Để chuẩn bị cho một giai đoạn mới, ĐHQG-HCM đã xây dựng
kế hoạch đổi mới tuyển sinh, trong đó tách công tác thi với công tác tuyển sinh. Công tác thi
cần đánh giá phần chung nhất về kiến thức, kĩ năng cho nhiều trường, tăng liên thông, áp
dụng công nghệ đánh giá hiện đại. Công tác tuyển sinh có tính "mềm", bao gồm không chỉ
kết quả thi mà bổ sung một số yếu tố khác phù hợp với từng trường, ngành, vùng, tăng
tính tự chủ, phân quyền mạnh cho các trường trong tuyển chọn. Đề thi sẽ được xây dựng
theo hướng đánh giá định chuẩn (standardized test) nhằm đánh giá đúng năng lực của thí
sinh.

Từng bước đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, thu hút và phát triển đội ngũ nhà
giáo, cán bộ quản lý

Tài chính hiện nay được xem như một nút thắt cổ chai đối với các nỗ lực đổi mới trong lĩnh
vực giáo dục, đào tạo. Nhiều quy định đã không còn phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội
hiện nay. Ngân sách nhà nước cấp và mức thu học phí không tạo đủ điều kiện cần thiết để
nâng cao chất lượng đào tạo, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và hội nhập với
các nước trong khu vực. Do đó, giải quyết được bài toán về tài chính là một trong các giải
pháp quan trọng để đổi mới giáo dục đại học. Trong quá trình hội nhập quốc tế, ĐHQG-HCM
đã mạnh dạn đề xuất các mô hình để đổi mới cơ chế tài chính, nâng cao hiệu quả sử dụng
tài chính đầu tư cho giáo dục đại học. Trường ĐH Quốc tế thuộc ĐHQG-HCM là một thí
điểm mô hình tự chủ tài chính đại học, triển khai tiếp nhận, chuyển hóa chương trình và
phương thức giảng dạy, đào tạo, quản lý của các trường đại học tiên tiến nước ngoài tại Việt
Nam.


Trường có nhiệm vụ đi vào các lãnh vực khoa học, kỹ thuật và kinh tế, kinh doanh đáp ứng
yêu cầu của xã hội, công nghiệp, doanh nghiệp và cộng đồng, đào tạo các sinh viên có khả
năng làm việc hiệu quả, chất lượng cao trong môi trường xã hội hội nhập và toàn cầu hóa.
Môi trường học tập nghiên cứu hoàn toàn bằng tiếng Anh với các chương trình chuyển giao
từ các trường đại học tiên tiến và chuyển đổi phù hợp trong điều kiện Việt Nam, có cơ sở vật
chất và phương tiện học tập giảng dạy hiện đại, giảng viên được tạo điều kiện để tập trung
vào công việc chuyên môn bao gồm giảng dạy, nghiên cứu khoa học với số giảng viên thỉnh
giảng từ nước ngoài đến trường chiếm tỷ lệ cao. Để đảm bảo các yêu cầu này, kinh phí cho
hoạt động nhà trường là một vấn đề quan trọng. Với yêu cầu cao về điều kiện làm việc, học
tập và chuẩn đầu ra, ngay từ khi thành lập vào năm 2003, Trường ĐH Quốc tế đã xây dựng
kế hoạch tự chủ tài chính theo hướng tự bảo đảm hoàn toàn kinh phí thường xuyên, phù
hợp hướng đến các mục tiêu:

- Tạo quyền chủ động trong quản lý và chi tiêu tài chính, đảm bảo tính khả thi của việc
triển khai kế hoạch chiến lược của nhà trường;
- Tạo ra cơ chế tiền lương mang tính cạnh tranh để thu hút và giữ chân người tài; tăng và
thay đổi căn cơ thu nhập của cán bộ viên chức, định hướng hiệu quả hoạt động của
từng cá nhân để nâng cao chất lượng đào tạo và phục vụ đào tạo;
- Khuyến khích tăng thu, sử dụng tài sản đúng mục đích và hiệu quả.

Qua hơn 10 năm xây dựng và phát triển, trường đã đạt được nhiều thành quả đáng ghi nhận
từ công tác phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, hoạt động NCKH có bước chuyển
biến mang tính đột phá, chất lượng giảng dạy – học tập được đánh giá cao. Từ những thành
quả ban đầu đó, Trường ĐH Quốc tế khẳng định: Việc triển khai tự chủ tài chính có tác động
tích cực đến tinh thần, thái độ cũng như hiệu quả công tác của cán bộ viên chức, giúp nhà
trường có môi trường thuận lợi để triển khai thành công chiến lược phát triển thành trường
đại học định hướng nghiên cứu.




14
Dựa trên mô hình này và các chương trình đào tạo đã được kiểm định, ĐHQG-HCM đang thí
điểm triển khai các chương trình đào tạo chất lượng cao, học phí tương ứng nhằm đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của người học và của nền kinh tế, xã hội.

Đội ngũ cán bộ là nhân tố quyết định sự phát triển của ĐHQG-HCM. Trong các năm qua,
ĐHQG-HCM luôn chú trọng xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên, cán bộ khoa học, quản
lý trình độ cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giáo dục, đào tạo; hình thành đội ngũ cán bộ
mạnh trong các lĩnh vực: khoa học tự nhiên, kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn, khoa
học kinh tế và quản lý, khoa học sức khỏe nhằm phục vụ công tác đào tạo, nghiên cứu khoa
học và chuyển giao công nghệ. Qua gần 20 năm xây dựng và phát triển, ĐHQG-HCM hiện
có tổng số cán bộ, viên chức là 5.514 người với 3.342 cán bộ giảng dạy và cán bộ nghiên
cứu trong đó 2.872 cán bộ có trình độ sau đại học (888 tiến sĩ, 1.769 thạc sĩ, 215 giáo sư và
phó giáo sư). Dựa trên mối quan hệ hợp tác với các trường trên thế giới, hàng năm ĐHQG-
HCM cử đi đào tạo, tập huấn hàng trăm lượt cán bộ, giảng viên.

ĐHQG-HCM đẩy mạnh chính sách thu hút các chuyên gia trong và ngoài nước cùng làm
việc và đóng góp cho sự phát triển chung của ĐHQG-HCM. Nhiều nhà khoa học từ các cơ
sở đào tạo và nghiên cứu trên thế giới hiện đang trực tiếp làm việc tại ĐHQG-HCM hoặc
đang cộng tác nghiên cứu, đồng hướng dẫn thạc sĩ, tiến sĩ với các giảng viên trong ĐHQG-
HCM. Có thể kể một số điển hình như: GS. Võ Văn Tới (ngành Kỹ thuật Y sinh tại trường
ĐH Quốc Tế), GS. TS. Hồ Tấn Nhựt (xây dựng chương trình đào tạo theo tiếp cận CDIO),
GS. Đào Trung Giang, GS. Đặng Lương Mô (cố vấn Ban Giám đốc ĐHQG-HCM xây dựng
và phát triển ngành thiết kế vi mạch) và GS. Dương Nguyên Vũ (Trung tâm Xuất sắc – John
Von Neumann).

Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công
nghệ

ĐHQG-HCM đã triển khai thực hiện một chiến lược tổng thể nhằm xây dựng và phát triển

tiềm lực KH&CN theo hướng hội nhập quốc tế và gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương. Nhờ đó hoạt động KH&CN đạt được nhiều thành tựu quan trọng, làm cơ sở
để ĐHQG-HCM phát huy vai trò là trung tâm KH&CN lớn khu vực phía Nam thông qua việc
triển khai các chương trình KH&CN trọng điểm của Nhà nước, tham gia góp phần giải quyết
các nhiệm vụ KH&CN quan trọng của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và Đồng bằng sông
Cửu Long.

Được sự quan tâm đầu tư của Nhà nước kèm với sự năng động tìm kiếm các nguồn tài trợ
quốc tế, đến nay ĐHQG-HCM đã hình thành một hệ thống 60 phòng thí nghiệm (PTN) phục
vụ NCKH, CGCN và đào tạo. Trong số đó có 2 PTN trọng điểm Quốc gia và 10 PTN trọng
điểm cấp ĐHQG . Các PTN trọng điểm được đầu tư mạnh cả về trang thiết bị, con người, cơ
chế đóng vai trò chủ lực trong việc thực hiện các chương trình KH&CN trọng điểm của
ĐHQG-HCM.

Trong quá trình hợp tác nghiên cứu khoa học với các đối tác trên thế giới, ĐHQG-HCM đã
hình thành các nhóm nghiên cứu mũi nhọn, trong số đó nhiều nhóm đã đi thẳng vào những
hướng nghiên cứu hiện đại hoặc giải quyết những thực tiễn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước như: trí tuệ nhân tạo, thiết kế vi mạch, KH&CN Vật liệu Nano, Cơ
khí - Tự động hóa, Năng lượng, Tế bào gốc, Kỹ thuật Y sinh, Sức khỏe sinh sản, Vật lý tính
toán…

Song song với các mô hình đào tạo truyền thống, ĐHQG-HCM đã chủ động, sáng tạo áp
dụng những mô hình mới nhằm gắn kết chặt chẽ đào tạo với công tác NCKH và quan hệ
doanh nghiệp. Một số ví dụ có thể kể đến như: Chương trình đào tạo thạc sỹ nghiên cứu
trong khuôn khổ dự án SUPREM hợp tác với JICA, Chương trình đào tạo kỹ sư chất lượng
cao hợp tác với các đại học Pháp tại Trường ĐH Bách khoa; Tại Trung tâm xuất sắc John


15
Von Neumann các chương trình sau đại học đều gắn với các dự án nghiên cứu, hợp tác

cách tân công nghiệp, đồng thời lấy phòng thí nghiệm làm hạt nhân cho các mảng hoạt
động; Trung tâm MANAR hợp tác với UCLA lấy mentoring làm phương pháp chủ đạo trong
truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm từ thầy đến trò…

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác sở hữu trí tuệ (SHTT) trong xu thế hội nhập
Quốc tế, bắt đầu từ năm 2008 ĐHQG-HCM đã tổ chức nhiều hoạt động quảng bá, tổ chức
nhiều lớp tập huấn kiến thức về SHTT, đồng thời chủ động đứng ra thực hiện việc đăng ký
quyền sở hữu các kết quả nghiên cứu, phát minh, sáng chế cho các nhà khoa học tại các
đơn vị thành viên. ĐHQG-HCM đã thành lập Trung tâm SHTT – CGCN với nhiệm vụ nghiên
cứu, đào tạo, nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của tài sản trí tuệ và công tác bảo hộ
SHTT đồng thời cung ứng các dịch vụ tư vấn về SHTT – CGCN cho các đại học, doanh
nghiệp trong và ngoài ĐHQG-HCM.

Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế

Những thành tựu mà hoạt động hợp tác quốc tế thực hiện được trong thời gian qua đã
không ngừng góp phần thúc đẩy sự lớn mạnh của ĐHQG-HCM, tạo dựng hình ảnh ĐHQG-
HCM đối với thế giới. Số lượng, số giảng viên, sinh viên đến thăm và làm việc với ĐHQG-
HCM và các đơn vị thành viên trung bình hơn 1.000 người mỗi năm học. Với chính sách
khuyến khích hợp tác quốc tế trong giáo dục đại học của Đảng và Nhà nước, ĐHQG-HCM
đã kí kết và triển khai hơn 200 thỏa thuận hợp tác với các trường đại học uy tín trên thế giới.
Có thể nói ĐHQG-HCM đang được cộng đồng các cơ quan giáo dục đại học trên thế giới
quan tâm và đánh giá cao trong mối quan hệ hợp tác của họ. Đã có nhiều cơ quan giáo dục
đại học trong khu vực và trên thế giới đến đặt quan hệ hợp tác lâu dài và xem ĐHQG-HCM
là một đối tác quan trọng: Hoa Kỳ (UC, CA, Rutgers, UCLA, Illinois, Dukes, Loyola, ), Pháp
(các ĐH Paris Orsay, Pierre et Marie Curie, ; Hệ thống INP, Nhật Bản (ĐHQG Tokyo, ĐH
Waseda), Hàn Quốc (ĐH Korea, ), Thái Lan (AIT, Chulalongkorn, )

ĐHQG-HCM đã xây dựng cho mình một mạng lưới đối tác có quan hệ chặt chẽ, bền vững từ
châu Á, châu Âu đến Bắc Mỹ, Úc và New Zealand… Chính nhờ việc xây dựng mạng lưới

các đối tác chiến lược rộng khắp này, ĐHQG-HCM đã từng bước chuẩn hóa các hoạt động
của mình và hội nhập vươn ra thế giới, khẳng định vị thế và trở thành đối tác quan trọng đối
với các cơ quan giáo dục đại học trong khu vực và trên thế giới.

ĐHQG-HCM cũng là nơi các quỹ học bổng tin tưởng ký kết tài trợ cho học tập và nghiên cứu
khoa học. Trong các năm qua, toàn ĐHQG-HCM đã thu hút được hơn 2.300 suất học bổng
với tổng giá trị gần 8,3 triệu USD, chủ yếu cho các chương trình đào tạo đại học, thạc sĩ, tiến
sĩ. Có thể nói đây là nguồn hỗ trợ rất lớn cho việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
của nước ta.

Không chỉ tham gia tích cực các hội nghị, hội thảo quốc tế với tư cách là thành viên chính
thức (AUN, AUF, APAIE, ), ĐHQG-HCM còn chủ động đứng ra đăng cai tổ chức các hội
nghị, hội thảo quốc tế, xem đây là cơ hội để giới thiệu mình đến các trường bạn và hệ thống
các trường đại học trên thế giới. Trong hơn 4 năm từ 2009 đến 2013, ĐHQG-HCM đã tổ
chức hoặc cùng tổ chức hơn 60 hội nghị, hội thảo quốc tế hoặc các buổi gặp gỡ trao đổi học
thuật, kinh nghiệm nghiên cứu thu hút đông đảo chuyên gia, cán bộ và sinh viên trong và
ngoài nước tham gia được các đơn vị đối tác nước ngoài đánh giá cao.

Để tăng nguồn lực, ĐHQG-HCM đã chú trọng tìm kiếm, xây dựng các dự án hợp tác quốc tế
thông qua việc tìm kiếm các nhà tài trợ, xây dựng các nhóm viết dự án, triển khai các dự án
với sự tham gia của nhiều đơn vị thành viên và trực thuộc. Tính đến năm 2013, ĐHQG-HCM
đã hoàn thành 37 dự án quốc tế với tổng giá trị hơn 25.218.625 USD. Hiện nay, ĐHQG-HCM
đang triển khai 15 dự án quốc tế với tổng giá trị là 22.931.892 USD + 35.143.200.000 VNĐ +
320.000 Euro. Ngoài ra, có 2 dự án đang trong giai đoạn đàm phán.


16

MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ


Qua những thành tựu đã kể trên, có thể thấy rằng, trong giai đoạn gần 20 năm qua kể từ
ngày thành lập, ĐHQG-HCM luôn luôn quán triệt sâu sắc sứ mạng của mình, đã, đang và sẽ
nỗ lực phấn đấu hết sức mình, không ngừng nghỉ để trở thành “trung tâm đào tạo, nghiên
cứu khoa học, công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực chất lượng cao”, “đào tạo, bồi dưỡng nhân
tài khoa học; chuyển giao tri thức và cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế”. Dựa trên kinh nghiệm thực tiễn của quá trình hội
nhập quốc tế tại ĐHQG-HCM, ĐHQG-HCM xin kiến nghị một số nội dung sau:

1. Tổng kết các kinh nghiệm thực tiễn trong toàn ngành giáo dục – đào tạo về hội nhập quốc
tế, từ đó đúc kết và rút ra các mô hình, mẫu hình, tập thể điển hình, xuất sắc trong việc
hội nhập, học tập kinh nghiệm của quốc tế và vận dụng có hiệu quả cao vào thực tiễn Việt
Nam, huy động tốt các nguồn lực quốc tế vào sự phát triển, từ đó phổ biến rộng rãi các
kinh nghiệm, bài học về hội nhập nhằm nhân rộng mô hình, mẫu hình cho toàn ngành
giáo dục – đào tạo.

2. Có chủ trương, giải pháp cụ thể nhằm ủng hộ và bố trí nguồn tài lực để hỗ trợ cho các dự
án, đề án mang tính hội nhập, trên cơ sở cạnh tranh, thi đua lành mạnh về nội dung, tính
chất, chất lượng, hiệu quả, phạm vi áp dụng trong và sau dự án, đề án.

3. Cho phép thực hiện một số giải pháp cụ thể:

+ Giao quyền tự chủ nhiều hơn, trước hết là về lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu, cho các
cơ sở đào tạo. Đồng thời, xây dựng cơ chế quản lý phù hợp, đẩy mạnh phân cấp,
phân tầng giữa các cơ sở đào tạo. Đối với các cơ sở đào tạo đã khẳng định được uy
tín, có chất lượng, thì tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội để tạo động lực và tính
chủ động, sáng tạo cho các cơ sở đào tạo, trước hết là hai ĐHQG cần được tự chủ tự
chịu trách nhiệm hướng theo các mô hình tiên tiến trên thế giới của hệ thống các
trường thành viên. Trước mắt là ủng hộ việc thực hiện triệt để nội dung Quy chế tổ
chức và hoạt động của ĐHQG và các cơ sở giáo dục đại học thành viên, được ban
hành theo QĐ 26/2014/QĐ-TTg ngày 26/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó đã

nêu:

- Đại học quốc gia được tự quyết định về phương thức tuyển sinh và chịu trách
nhiệm về công tác tuyển sinh trong Đại học quốc gia.

- Đại học quốc gia … có trách nhiệm ban hành Quy chế đào tạo, phù hợp với mô
hình, đặc điểm của Đại học quốc gia và pháp luật để áp dụng thực hiện trong toàn
Đại học quốc gia.

- Đại học quốc gia được tổ chức thí điểm mô hình, cơ chế quản lý các hoạt động
nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ mới.

- Đại học quốc gia được quyền tự chủ cao trong các hoạt động về tài chính theo
Quy chế này và cơ chế tài chính đặc thù do Thủ tướng Chính phủ quy định.

+ Đổi mới phương thức tuyển sinh đại học và sau đại học theo hướng hội nhập quốc tế,
cụ thể là đánh giá đúng năng lực của thí sinh nhằm tuyển chọn được đối tượng thí
sinh có kiến thức, kỹ năng, thái độ phù hợp với mục tiêu của các ngành đào tạo.

+ Đổi mới cơ chế quản lý tài chính theo hướng hội nhập quốc tế đối với các nhiệm vụ
KH&CN theo phương thức khoán dựa trên sản phẩm cuối cùng và cơ chế thuê chuyên
gia trong hoạt động KH&CN nhằm khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính


17
phục vụ cho sự phát triển của các ĐHQG, đồng thời làm cơ sở để đổi mới cơ chế quản
lý tài chính cho lĩnh vực hoạt động KH&CN của Nhà nước nói chung.

+ Thúc đẩy quá trình xây dựng và phát triển hệ thống kiểm định độc lập về chất lượng
giáo dục theo các tiêu chuẩn quốc tế. Trước mắt, hỗ trợ và thúc đẩy quá trình phát

triển của hai trung tâm kiểm định tại hai ĐHQG đi vào hoạt động một cách hiệu quả.


18
















19

















20
















21

















22
















23















×