Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

tiểu luận môn quản trị ngân hàng luật các tổ chức tín dụng năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.96 KB, 29 trang )

LUẬT CÁC TCTD 2010 GVHD : PGS.TS.TRƯƠNG QUANG THÔNG
LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG NĂM 2010
PHẦN I - NHỮNG HƯỚNG THAY ĐỔI
Luật các tổ chức tín dụng 2010 (gọi tắt là Luật 2010) gồm 10 Chương và 163
Điều đã được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 16/6/2010 và sẽ có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011, trong đó có một số thay đổi chủ yếu so với
Luật Các tổ chức tín dụng 1997. Những thay đổi thể hiện trên các mặt như :
I.1. Về phạm vi điều chỉnh
Điều 1 xác định rõ phạm vi điều chỉnh bao gồm việc thành lập, tổ chức, hoạt
động, kiểm soát đặc biệt, tổ chức lại, giải thể tổ chức tín dụng (TCTD); thành lập, tổ
chức, hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của
TCTD nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng.
I.2. Về phạm vi hoạt động
- Điều 4 đã quy định cụ thể phạm vi hoạt động của từng loại hình TCTD,
trong đó lấy hoạt động của Ngân hàng thương mại (khoản 12 Điều 4) làm căn cứ
dẫn chiếu khi quy định phạm vi hoạt động của TCTD khác.Theo đó, tùy theo loại
hình hoạt động, TCTD có thể thực hiện một hoặc một số hoặc cả ba hoạt động Ngân
hàng thương mại (NHTM) khi được NHNN cấp Giấy phép thành lập và hoạt động.
- Về hình thức pháp lý và loại hình hoạt động:
Điều 6 quy định TCTD được tổ chức theo các hình thức pháp lý của Luật
Doanh nghiệp (hoặc Luật Hợp tác xã), cụ thể:
Ngân hàng thương mại trong nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức
công ty cổ phần (trừ ngân hàng thương mại nhà nước được thành lập dưới hình
thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn
điều lệ); TCTD phi ngân hàng trong nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn; TCTD 100% vốn nước ngoài, TCTD
liên doanh được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn;
Ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân được thành lập, tổ chức dưới hình
LỚP K19TCDND2 – NHÓM 5 Page 1
LUẬT CÁC TCTD 2010 GVHD : PGS.TS.TRƯƠNG QUANG THÔNG
thức hợp tác xã; Tổ chức tài chính vi mô được thành lập, tổ chức dưới hình thức


công ty trách nhiệm hữu hạn.
Như vậy, các quy định về quản trị, điều hành, kiểm soát được phân loại theo
hình thức pháp lý của TCTD (công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, hợp
tác xã). Đối với hoạt động của TCTD, Luật các TCTD 2010 quy định phạm vi hoạt
động của từng TCTD phụ thuộc vào loại hình hoạt động của chính TCTD, như
NHTM, ngân hàng hợp tác xã, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, tổ chức
tài chính vi mô, quỹ tín dụng nhân dân.
I.3. Về phân biệt các loại hình TCTD
I.3.1. Phân biệt ngân hàng và TCTD phi ngân hàng
Ranh giới phân biệt hoạt động giữa các TCTD là ngân hàng và các TCTD
không phải là ngân hàng được làm rõ hơn. Theo đó, các TCTD phi ngân hàng
không được phép nhận tiền gửi của cá nhân, không được cung ứng dịch vụ
thanh toán qua tài khoản của khách hàng. Quy định này phù hợp hơn với thông lệ
áp dụng tại hầu hết các nước và tạo điều kiện để một mặt giảm bớt rủi ro cho hệ
thống ngân hàng, mặt khác cho phép các TCTD phi ngân hàng được mở rộng phạm
vi cung ứng các dịch vụ ngân hàng khác của mình do các quy định về an toàn sẽ
được áp dụng ở mức độ thấp hơn so với các NHTM là những tổ chức nhận tiền gửi
của dân cư và tham gia vào hệ thống thanh toán.
I.3.2. Phân biệt giữa TCTD hoạt động kinh doanh và TCTD hoạt động
chính sách
Để bảo đảm các quy định của Luật áp dụng linh hoạt hơn đối với các ngân
hàng chính sách (như Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Phát triển Việt
Nam ), là những ngân hàng có nhiều điểm đặc thù khác hẳn với các ngân hàng
thương mại thông thường, Luật các TCTD 2010 quy định trao cho Chính phủ thẩm
quyền hướng dẫn cụ thể về tổ chức và hoạt động của những đối tượng này (Điều
17). Tuy nhiên, Điều 17 của Luật cũng quy định ngân hàng chính sách phải thực
hiện kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ; xây dựng, ban hành quy trình nội bộ về các
hoạt động nghiệp vụ; thực hiện chế độ báo cáo thống kê, báo cáo hoạt động và hoạt
động thanh toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước nhằm đảm bảo việc sử
LỚP K19TCDND2 – NHÓM 5 Page 2

LUẬT CÁC TCTD 2010 GVHD : PGS.TS.TRƯƠNG QUANG THÔNG
dụng vốn của nhà nước được minh bạch, công khai, an toàn. Như vậy, về cơ bản các
quy định của Luật sẽ chỉ áp dụng đối với các loại hình tổ chức hoạt động trên cơ sở
thị trường, không có sự hỗ trợ từ Chính phủ và các cơ quan khác. Điều này cũng
bảo đảm để các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành tiếp tục được áp dụng đối
với các ngân hàng chính sách.
I.3.3. Về mô hình ngân hàng đầu tư, nghiệp vụ ngân hàng đầu tư và mô
hình ngân hàng thương mại trong Luật
Hiện nay, ở Việt Nam chưa có mô hình ngân hàng đầu tư (investment bank).
Về bản chất, xét về phạm vi và nội dung hoạt động, ngân hàng đầu tư không phải là
một TCTD, mà là một định chế tài chính thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh chứng
khoán. Do đó, loại hình này sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật về chứng khoán. Kế
thừa các quy định của Luật Các TCTD 1997 và bài học rút ra từ khủng hoảng tài
chính toàn cầu, Luật mới quy định mô hình NHTM ở Việt Nam là mô hình ”ngân
hàng thương mại đa năng hạn chế”, theo đó các NHTM được thực hiện các hoạt
động ngân hàng truyền thống (như nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng các dịch
vụ thanh toán) và tùy theo mức độ rủi ro thị trường của từng nghiệp vụ ngân hàng
đầu tư, các ngân hàng thương mại được phép trực tiếp (Điều 107) hoặc gián tiếp
(thông qua công ty con, công ty liên kết) thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng đầu tư
(Điều 103).
I.4. Về quản trị, điều hành
Thực tiễn quản lý hoạt động của các TCTD cho thấy, TCTD là những đối
tượng cần được quản lý chặt chẽ, vì đây là những doanh nghiệp có các hoạt động
ảnh hưởng lớn đến sự ổn định xã hội, kinh tế đất nước và là những tổ chức có được
quyền lực rất lớn trong việc sử dụng, phân bổ nguồn vốn huy động từ xã hội. Việc
quản lý thiếu chặt chẽ, sự lạm dụng quyền lực trong nội bộ của một TCTD thường
là những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng, gây ra sự mất lòng tin trong dân cư và
đe doạ sự mất ổn định của cả hệ thống TCTD Do đó, một số các quy định về tổ
chức quản lý đối với các TCTD thường được thiết kế chặt chẽ hơn so với các doanh
nghiệp khác trong nền kinh tế. Đây cũng là một thông lệ chung được thừa nhận rộng

rãi trên bình diện quốc tế. So với Luật các TCTD 1997, Luật các TCTD 2010 đã bổ
LỚP K19TCDND2 – NHÓM 5 Page 3
LUẬT CÁC TCTD 2010 GVHD : PGS.TS.TRƯƠNG QUANG THÔNG
sung nhiều quy định đặc thù liên quan đến quản trị, điều hành của TCTD (60 điều
so với 6 điều trong Luật các TCTD 1997). Các quy định này chủ yếu là các quy
định được luật hóa từ các quy định của Nghị định số 59/2009/NĐ-CP, Quyết định
số 24/2007/QĐ-NHNN và các văn bản quy phạm pháp luật khác do NHNN ban
hành, có tham khảo “25 nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng hiệu quả của Ủy
ban Basel” nhằm bảo đảm hoạt động của TCTD được an toàn, hiệu quả. Những thay
đổi chủ yếu về quản trị, điều hành của TCTD so với Luật các TCTD 1997 bao gồm:
Thứ nhất, giảm bớt các thủ tục hành chính: Luật các TCTD 2010 bỏ quy
định chuẩn y sau các chức danh quản lý, điều hành, kiểm soát. Thay vào đó, Điều
51 của Luật 2010, NHNN sẽ chấp thuận trước danh sách dự kiến bầu, bổ nhiệm các
chức danh thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc.
Quy định này ngoài việc đáp ứng được yêu cầu về cải cách hành chính còn xóa
được bất cập về khoảng trống pháp lý hiện nay khi các chức danh nói trên đã được
Đại hội đồng cổ đông bầu nhưng chưa có hiệu lực pháp lý vì chưa được NHNN
chuẩn y. Đồng thời Luật các TCTD 2010 cũng bỏ thủ tục chuẩn y Điều lệ của
TCTD (TCTD chỉ phải đăng ký Điều lệ với NHNN sau khi được cơ quan có thẩm
quyền của TCTD thông qua); giảm bớt các thay đổi cần phải chấp thuận trước của
NHNN so với quy định của Luật các TCTD 1997.
Thứ hai, nâng cao yêu cầu đối với người quản lý, điều hành của TCTD:
Điều 33 quy định về các trường hợp không được đảm nhiệm chức vụ và Điều 34
quy định những trường hợp không cùng đảm nhiệm chức vụ nhằm tránh xung đột
lợi ích, lạm dụng quyền ảnh hưởng của mình để ra những quyết định xung đột với
lợi ích của tổ chức tín dụng. Ngoài ra, Luật 2010 cũng bổ sung quy định cụ thể về
quyền, nghĩa vụ của người quản lý, điều hành TCTD, trách nhiệm công khai các lợi
ích liên quan (Điều 38, 39). Luật 2010 bổ sung các quy định về tiêu chuẩn, điều
kiện đối với người quản lý, người điều hành thành viên Ban kiểm soát (Điều 50),
các quy định về tiêu chuẩn đối với thành viên độc lập của Hội đồng quản trị. Theo

đó, Hội đồng quản trị của TCTD là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn
phải có ít nhất một thành viên độc lập. Thành viên độc lập của Hội đồng quản trị
phải bảo đảm tính độc lập (không là nhân viên, người quản lý, thành viên Ban kiểm
soát, không nhận lợi ích khác, bản thân không sở hữu quá 1% vốn điều lệ hoặc vốn
LỚP K19TCDND2 – NHÓM 5 Page 4
LUẬT CÁC TCTD 2010 GVHD : PGS.TS.TRƯƠNG QUANG THÔNG
cổ phần có quyền biểu quyết của TCTD, bản thân và người có liên quan không sở
hữu quá 5% vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần có quyền biểu quyết của TCTD, không có
người liên quan tham gia quản trị, điều hành TCTD). Hội đồng quản trị của TCTD
tối thiểu phải có ½ tổng số thành viên Hội đồng quản trị là thành viên độc lập và
thành viên không phải là người điều hành TCTD.
Thứ ba, khẳng định chính sách đại chúng hóa các NHTM cổ phần: Luật
các TCTD 2010 thay đổi mức tỷ lệ sở hữu cổ phần (Điều 55) đối với cổ đông là cá
nhân từ 10% xuống không được sở hữu vượt quá 5% vốn điều lệ của một TCTD; cổ
đông là tổ chức từ 20% xuống không vượt quá 15% vốn điều lệ của mọt TCTD (trừ
trường hợp sở hữu cổ phần theo quyết định của Ngân hàng Nhà nước để xử lý tổ
chức tín dụng gặp khó khăn, bảo đảm an toàn hệ thống tổ chức tín dụng; sở hữu cổ
phần nhà nước tại các tổ chức tín dụng cổ phần hóa; sở hữu cổ phần của nhà đầu tư
nước ngoài). Cổ đông và những người có liên quan của cổ đông đó không được sở
hữu vượt quá 20% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng. Các tỷ lệ sở hữu nêu trên
bao gồm cả phần vốn uỷ thác cho các tổ chức, cá nhân khác mua cổ phần. Theo
định hướng này, Nhà nước không cho phép thành lập NHTM tư nhân tại Việt Nam.
Thứ tư, các quy định đặc thù về quản trị, điều hành được xây dựng theo
hình thức pháp lý của TCTD: Theo đó, Luật chỉ quy định các vấn đề đặc thù về
quản trị điều hành của TCTD. Các nội dung khác về quản trị, điều hành không được
quy định trong Luật sẽ được thực hiện theo quy định chung của Luật Doanh nghiệp,
Luật Hợp tác xã. Về kết cấu, các quy định về quản trị, điều hành của Luật 2010
được chia thành các quy định chung áp dụng chung cho tất cả các TCTD và các quy
định riêng áp dụng cho TCTD theo từng hình thức pháp lý.
Thứ năm, yêu cầu cao hơn đối với hoạt động kiểm toán độc lập: Các quy

định khác về kiểm toán nội bộ, kiểm soát nội bộ, kiểm toán độc lập cũng được quy
định cụ thể tại Luật 2010, trong đó đáng chú ý là quy định về việc lựa chọn kiểm
toán độc lập phải được thực hiện trước khi năm tài chính được kiểm toán bắt đầu vì
theo thông lệ quốc tế và yêu cầu của chuẩn mực kiểm toán, tổ chức kiểm toán phải
tham dự các cuộc họp của Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát để nắm bắt tình hình
kinh doanh của TCTD suốt năm tài chính. Ngoài ra, để bảo đảm đánh giá trung
LỚP K19TCDND2 – NHÓM 5 Page 5
LUẬT CÁC TCTD 2010 GVHD : PGS.TS.TRƯƠNG QUANG THÔNG
thực, chính xác tình hình hoạt động của TCTD, Luật 2010 yêu cầu báo cáo kiểm
toán không được có ý kiến ngoại trừ (qualified opinion); trường hợp có ý kiến ngoại
trừ, TCTD phải thực hiện kiểm toán lại để đảm bảo báo cáo kiểm toán không có ý
kiến ngoại trừ.
I.5. Về hoạt động kinh doanh của TCTD
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh có điều kiện; những điều kiện
để được hoạt động ngân hàng đều rất chặt chẽ, từ tổ chức bộ máy đến quản lý nội
bộ, quản trị rủi ro; những điều kiện này thông thường các tổ chức khác không phải
là TCTD đều không đáp ứng được. Các thay đổi căn bản về phạm vi hoạt động của
TCTD của Luật 2010 bao gồm:
I.5.1. Về Giấy phép và phạm vi hoạt động kinh doanh (Điều 90):
Luật 2010 quy định cụ thể phạm vi, loại hình, nội dung hoạt động ngân hàng,
hoạt động kinh doanh khác của TCTD trong Giấy phép cấp cho từng TCTD. Trong
quá trình hoạt động, TCTD có thể mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi hoạt động và sẽ
được NHNN chấp thuận bằng Quyết định sửa đổi, bổ sung Giấy phép; Quyết định
này sẽ là một bộ phận không tách rời của Giấy phép thành lập và hoạt động.
Luật 2010 cũng đã quy định rõ phạm vi hoạt động kinh doanh của từng loại
hình tổ chức tín dụng và không chỉ giới hạn trong khuôn khổ các hoạt động ngân
hàng mà còn bao gồm các hoạt động kinh doanh khác (Chương IV). Tuy nhiên, cần
phân biệt giữa khái niệm “hoạt động ngân hàng” là các hoạt động chỉ có thể được
thực hiện bởi các TCTD và khái niệm “các hoạt động kinh doanh khác của các
TCTD” là các hoạt động không chỉ TCTD mà các tổ chức khác cũng có thể được

thực hiện. Theo cách tiếp cận này, các nghiệp vụ tư vấn tài chính, môi giới tiền tệ,
lưu ký chứng khoán, kinh doanh vàng là những nghiệp vụ mà TCTD được phép
thực hiện nhưng không phải là “hoạt động ngân hàng”. Để tăng quyền chủ động
kinh doanh cho các TCTD, Luật đã có bước cải cách quan trọng giảm đáng kể yêu
cầu xin chấp thuận, xin giấy phép ”con”. Theo đó ngân hàng thương mại (NHTM)
có thể thực hiện ngay 20 nhóm hoạt động kinh doanh sau khi được cấp Giấy phép
thành lập và hoạt động; chỉ có 6 nhóm hoạt động kinh doanh có nhiều rủi ro thì
NHTM phải xin phép để được hoạt động.
LỚP K19TCDND2 – NHÓM 5 Page 6
LUẬT CÁC TCTD 2010 GVHD : PGS.TS.TRƯƠNG QUANG THÔNG
I.5.2. Về cơ chế xác định phí, lãi suất của TCTD (Điều 91):
TCTD và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong
hoạt động ngân hàng của TCTD theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp cần
thiết, để bảo đảm an toàn của hệ thống TCTD, Ngân hàng Nhà nước có quyền quy
định cơ chế xác định phí, lãi suất trong hoạt động kinh doanh của TCTD.
I.5.3. Về yêu cầu ban hành quy định nội bộ (Điều 93):
Luật các TCTD 2010 quy định TCTD phải xây dựng và ban hành các quy
định nội bộ đối với mọi hoạt động nghiệp vụ của tổ chức tín dụng (bao gồm: Quy
định về cấp tín dụng, quản lý tiền vay; Quy định về phân loại tài sản có, trích lập và
sử dụng dự phòng rủi ro; Quy định về đánh giá chất lượng tài sản có và tuân thủ tỉ lệ
an toàn vốn tối thiểu; Quy định về quản lý thanh khoản; Quy định về hệ thống kiểm
soát nội bộ và cơ chế kiểm toán nội bộ; Quy định về hệ thống xếp hạng tín dụng nội
bộ; Quy định về quản trị rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng; Quy định về
quy trình, thủ tục để ngăn ngừa hành vi rửa tiền, tài trợ khủng bố và tội phạm khác;
Quy định về phương án xử lý các trường hợp khẩn cấp) nhằm bảo đảm TCTD hoạt
động an toàn, liên tục. Các quy định nội bộ của TCTD sau khi ban hành phải được
gửi cho NHNN.
I.5.4. Về góp vốn, mua cổ phần của NHTM (Điều 103):
NHTM chỉ được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần
vào các doanh nghiệp khác. Để hoạt động trong các lĩnh vực chứng khoán (gồm bảo

lãnh phát hành chứng khoán, môi giới chứng khoán; quản lý, phân phối chứng chỉ
quỹ đầu tư chứng khoán; quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và mua, bán cổ
phiếu), cho thuê tài chính và bảo hiểm, NHTM phải thành lập công ty con, công ty
liên kết. Đối với các lĩnh vực quản lý tài sản bảo đảm, kiều hối, kinh doanh ngoại
hối, bao thanh toán, phát hành thẻ tín dụng, tín dụng tiêu dùng, dịch vụ hỗ trợ thanh
toán, NHTM có thể lựa chọn trực tiếp thực hiện các hoạt động này hoặc gián tiếp
thực hiện thông qua thành lập công ty con, công ty liên kết. Tuy nhiên, việc góp
vốn, mua cổ phần của NHTM phải tuân thủ các giới hạn quy định tại Điều 129 của
Luật. Việc mua, nắm giữ cổ phiếu của NHTM, công ty con của NHTM trong các
TCTD khác được thực hiện theo quy định (về giới hạn và điều kiện) của NHNN.
LỚP K19TCDND2 – NHÓM 5 Page 7
LUẬT CÁC TCTD 2010 GVHD : PGS.TS.TRƯƠNG QUANG THÔNG
I.5.5. Về kinh doanh, cung ứng dịch vụ ngoại hối, sản phẩm phái sinh của
NHTM (Điều 105):
Sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận, NHTM được kinh doanh,
cung ứng dịch vụ cho khách hàng ở trong nước và nước ngoài các sản phẩm ngoại
hối; phái sinh về tỷ giá, lãi suất, ngoại hối, tiền tệ và tài sản tài chính khác theo quy
định của pháp luật về ngoại hối. NHNN quy định cụ thể về phạm vi kinh doanh,
điều kiện, trình tự, thủ tục chấp thuận cho NHTM thực hiện cung ứng các dịch vụ
này.
Ngoài ra, các NHTM được trực tiếp thực hiện một số hoạt động kinh doanh
khác (Điều 107) như quản lý tiền mặt, tư vấn tài chính, quản lý, bảo quản tài sản,
cho thuê tủ, két an toàn, tư vấn tài chính doanh nghiệp, tư vấn mua, bán, hợp nhất,
sáp nhập doanh nghiệp, tư vấn đầu tư, mua, bán trái phiếu Chính phủ, trái phiếu
doanh nghiệp, môi giới tiền tệ. Đối với các nghiệp vụ như lưu ký chứng khoán, kinh
doanh vàng và các hoạt động kinh doanh khác liên quan đến hoạt động ngân hàng,
NHTM sẽ được thực hiện sau khi được NHNN cho phép.
I.5.6. Về phạm vi hoạt động của công ty tài chính, công ty cho thuê tài
chính:
Theo quy định của Luật các TCTD 2010, công ty tài chính có thể thực hiện

một (công ty tài chính chuyên doanh) hoặc một số các hoạt động ngân hàng (công
ty tài chính tổng hợp) (Điều 108) tùy theo nhu cầu hoạt động của mình. Luật giao
quyền cho Chính phủ quy định cụ thể về điều kiện (vốn, địa bàn hoạt động ) để
công ty tài chính thực hiện các hoạt động ngân hàng theo quy định (một hoạt động -
công ty tài chính chuyên doanh hoặc một số hoạt động - công ty tài chính tổng hợp).
Công ty tài chính cũng được thực hiện một số hoạt động kinh doanh khác (Điều
111) và được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của doanh
nghiệp, quỹ đầu tư. Công ty tài chính chỉ được thành lập, mua lại công ty con, công
ty liên kết hoạt động trong các lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán, quản lý tài sản bảo
đảm sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản. Đặc biệt, như đã
đề cập ở phần trên, Luật 2010 quy định các TCTD phi ngân hàng (công ty tài chính,
LỚP K19TCDND2 – NHÓM 5 Page 8
LUẬT CÁC TCTD 2010 GVHD : PGS.TS.TRƯƠNG QUANG THÔNG
công ty cho thuê tài chính) chỉ được nhận tiền gửi của tổ chức và không được cung
cấp dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng.
Đối với công ty cho thuê tài chính, Luật 2010 quy định rõ công ty cho thuê
tài chính là loại hình công ty tài chính có hoạt động kinh doanh chủ yếu là hoạt
động cho thuê tài chính. Ngoài ra, công ty cho thuê tài chính được cho vay bổ sung
vốn lưu động đối với bên thuê tài chính; cho thuê vận hành với tổng giá trị tài sản
cho thuê vận hành không vượt quá 30% tổng tài sản có của công ty cho thuê tài
chính và được thực hiện các hình thức cấp tín dụng khác sau khi NHNN cho phép.
Công ty cho thuê tài chính được thực hiện một số hoạt động kinh doanh khác theo
quy định tại Điều 116 của Luật 2010 nhưng không được góp vốn, mua cổ phần,
thành lập công ty con, công ty liên kết dưới bất cứ hình thức nào.
I.6. Các quy định về bảo đảm an toàn trong hoạt động TCTD
Hoạt động của các tổ chức tín dụng có những tác động lớn đến sự ổn định xã
hội, phát triển kinh tế của đất nước, vì với tư cách là các trung gian tài chính, tổ
chức tín dụng là những doanh nghiệp có khả năng huy động và sử dụng nguồn vốn
rất lớn trong xã hội. Việc quản lý thiếu chặt chẽ có thể dẫn đến đổ vỡ tổ chức tín
dụng, gây ra sự mất lòng tin trong nhân dân và đe doạ sự ổn định của hệ thống các

tổ chức tín dụng cũng như của cả nền kinh tế. Do vậy, Luật Các tổ chức tín dụng
2010 đã có nhiều quy định để nâng cao mức độ an toàn trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng trên cơ sở quán triệt quan điểm: tổ chức tín dụng là các doanh nghiệp
đặc biệt, cần được quản lý một cách đặc biệt và tiếp cận sát với thông lệ quốc tế về
các yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng (các nguyên tắc của Uỷ ban
Basel), coi bảo đảm an toàn hệ thống trong hoạt động ngân hàng là một trong những
mục tiêu hàng đầu. Nội dung này được thể hiện như sau:
I.6.1. Về bảo vệ quyền lợi cho khách hàng
Chương 1, Điều 10 - Bảo vệ quyền lợi của khách hàng quy định: tổ chức tín
dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có trách nhiệm tham gia tổ chức bảo toàn,
bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật và công bố công khai việc tham gia tổ
chức bảo toàn, bảo hiểm tiền gửi tại trụ sở chính và chi nhánh. Việc tham gia bắt
buộc đối với các tổ chức tín dụng về bảo hiểm tiền gửi, công khai giấy chứng nhận
LỚP K19TCDND2 – NHÓM 5 Page 9
LUẬT CÁC TCTD 2010 GVHD : PGS.TS.TRƯƠNG QUANG THÔNG
bảo hiểm tiền gửi tại các điểm giao dịch của các tổ chức tín dụng càng khẳng định
rõ vai trò của bảo hiểm tiền gửi trong việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, giúp
người gửi tiền yên tâm hơn khi gửi tiền vào các tổ chức tín dụng.
Một điểm rất quan trọng khác là về bảo mật thông tin của khách hàng. Nếu
như Luật hiện hành chỉ quy định TCTD được quyền từ chối yêu cầu về việc cung
cấp thông tin liên quan đến “tiền gửi” và “tài sản” gửi của khách hàng, Luật mới mở
rộng hơn một cách đáng kể. Theo đó, TCTD có thêm nghĩa vụ bảo đảm bí mật
thông tin liên quan đến “tài khoản” và các “giao dịch” của khách hàng (điều 14).
Như vậy, gần như toàn bộ các thông tin liên quan đến khách hàng đều được bảo
mật.
I.6.2. Các quy định về tăng cường quản lý, ngăn chặn sự lũng đoạn
Điều 20 bổ sung quy định chặt chẽ về điều kiện của cổ đông sáng lập, thành
viên sáng lập TCTD, điều kiện, tiêu chuẩn đối với người quản lý, điều hành, yêu
cầu công khai lợi ích liên quan có liên quan đến TCTD, giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ
phần nhằm bảo đảm điều kiện tài chính, năng lực quản trị, điều hành của cổ đông,

thành viên sáng lập, người quản lý, người điều hành TCTD, ngăn ngừa khả năng
lũng đoạn hoạt động ngân hàng của các cá nhân tổ chức là cổ đông lớn và hạn chế
xung đột lợi ích tiềm tàng. Đồng thời, Điều 26 bổ sung quy định chặt chẽ về điều
kiện khai trương hoạt động của TCTD để bảo đảm TCTD khi khai trương hoạt động
có đầy đủ các điều kiện về bộ máy nhân sự, cơ sở vật chất, quy trình quản lý, kiểm
soát nội bộ, kiểm soát rủi ro.
I.6.3. Về trường hợp cấm, hạn chế cấp tín dụng
Điều 126 quy định cụ thể về những trường hợp không được cấp tín dụng.
Theo đó, TCTD không được cấp tín dụng hoặc nhận bảo đảm để cấp tín dụng hoặc
thực hiện việc bảo đảm để TCTD khác cấp tín dụng đối với:
(i) Thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Ban kiểm soát, Tổng
Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc của TCTD, pháp nhân là cổ đông có người đại diện
phần vốn góp là thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát của TCTD cổ phần,
pháp nhân là thành viên góp vốn, chủ sở hữu của TCTD;
LỚP K19TCDND2 – NHÓM 5 Page 10
LUẬT CÁC TCTD 2010 GVHD : PGS.TS.TRƯƠNG QUANG THÔNG
(ii) Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên HĐQT Hội đồng quản trị, Hội
đồng thành viên, Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc của TCTD.
Ngoài ra, Luật còn cấm TCTD không được cấp tín dụng cho doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán mà TCTD nắm quyền kiểm soát;
không được cấp tín dụng trên cơ sở cầm cố bằng cổ phiếu của chính TCTD hoặc
công ty con của TCTD; không được cho vay để góp vốn vào một TCTD khác trên
cơ sở nhận tài sản bảo đảm bằng cổ phiếu của chính TCTD nhận vốn góp.
Để đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng của TCTD, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài và nhằm tránh xung đột lợi ích, Điều 127 Luật 2010 quy định về
những trường hợp hạn chế cấp tín dụng. Theo đó, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài không được cấp tín dụng không có bảo đảm, cấp tín dụng với điều kiện ưu
đãi đối với tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên đang kiểm toán tại TCTD, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài; thanh tra viên đang thanh tra tại TCTD, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài; kế toán trưởng của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; cổ đông

lớn, cổ đông sáng lập, thành viên góp vốn; doanh nghiệp có một trong những đối
tượng bị cấm cấp tín dụng theo quy định tại khoản 1 Điều 126 sở hữu trên 10% vốn
điều lệ của doanh nghiệp đó; người thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng; công ty con,
công ty liên kết của TCTD hoặc doanh nghiệp mà TCTD nắm quyền kiểm soát.
Luật cũng quy định các giới hạn về tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với các
đối tượng nêu trên nhằm bảo đảm an toàn cho TCTD, tránh trường hợp TCTD bị
ảnh hưởng khi công ty con, công ty liên kết của TCTD hoặc doanh nghiệp mà
TCTD nắm quyền kiểm soát gặp rủi ro hoặc sự cố.
I.6.4. Về giới hạn cấp tín dụng (Điều 128)
Về cơ bản, các giới hạn cấp tín dụng là các quy định kế thừa từ Luật các
TCTD năm 1997. Tuy nhiên, khái niệm cấp tín dụng đã được làm rõ hơn, bao gồm
tất cả các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo
lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác. Ngoài ra, tổng mức giới hạn
cấp tín dụng còn gồm cả tổng mức đầu tư vào trái phiếu do khách hàng là doanh
nghiệp phát hành. Đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các giới hạn cấp tín
dụng sẽ được tính trên vốn tự có của chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
LỚP K19TCDND2 – NHÓM 5 Page 11
LUẬT CÁC TCTD 2010 GVHD : PGS.TS.TRƯƠNG QUANG THÔNG
Một quy định mới khác so với Luật các TCTD năm 1997 là tổng mức dư nợ
cấp tín dụng đối với một khách hàng và tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một
khách hàng và người có liên quan áp dụng đối với tổ chức tín dụng phi ngân hàng
được quy định cao hơn so với các mức áp dụng đối với ngân hàng thương mại (các
tỷ lệ tương ứng 25% và 50% vốn tự có của tổ chức tín dụng phi ngân hàng so với
15% và 25% vốn tự có của ngân hàng thương mại). Vấn đề này cũng đã được đề
cập ở trên, quy định này phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn hoạt động của
các TCTD vì các TCTD phi ngân hàng không nhận tiền gửi của cá nhân và cung
cấp dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng nên mức độ rủi ro ảnh hưởng
đến hệ thống TCTD thấp hơn nhiều so với các ngân hàng thương mại. Ngoài ra, quy
định này sẽ tạo điều kiện cho các TCTD phi ngân hàng phát triển và hoạt động hiệu
quả hơn.

Luật cũng quy định mở đối với các trường hợp đặc biệt, để thực hiện nhiệm
vụ kinh tế - xã hội mà khả năng hợp vốn của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài chưa đáp ứng được yêu cầu vay vốn của một khách hàng thì Thủ tướng Chính
phủ có thể quyết định mức cấp tín dụng tối đa vượt quá các giới hạn quy định đối
với từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, tổng các khoản cấp tín dụng vượt giới hạn
không vượt quá 04 lần vốn tự có của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
I.6.5. Về giới hạn góp vốn, mua cổ phần (Điều 129)
Các giới hạn về góp vốn, mua cổ phần được quy định chặt chẽ hơn và thực tế
được xây dựng trên cơ sở các quy định của các văn bản dưới luật hiện hành (Quyết
định 457). Trong đó, tỷ lệ giới hạn góp vốn, mua cổ phần của các TCTD được tính
trên cơ sở hợp nhất (bao gồm cả phần góp vốn, mua cổ phần của công ty con, công
ty liên kết theo tỷ lệ sở hữu tương ứng). Theo mức độ rủi ro đối với hệ thống, Luật
2010 quy định tỷ lệ giới hạn góp vốn, mua cổ phần của công ty tài chính cao hơn so
với NHTM. Đồng thời Luật cũng có quy định cấm TCTD góp vốn, mua cổ phần
của các doanh nghiệp, TCTD khác là cổ đông, thành viên góp vốn của chính TCTD
(cấm sở hữu chéo).
I.6.6. Về các tỷ lệ bảo đảm an toàn
LỚP K19TCDND2 – NHÓM 5 Page 12
LUẬT CÁC TCTD 2010 GVHD : PGS.TS.TRƯƠNG QUANG THÔNG
Luật 2010 quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn mà TCTD phải duy trì, bao
gồm: tỷ lệ khả năng chi trả, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (8% hoặc cao hơn, theo
Thông tư 13 là 9%), tỷ lệ tối đa của vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn. Các tỷ lệ
bảo đảm an toàn mới được bổ sung gồm: trạng thái ngoại tệ, vàng tối đa so với vốn
tự có; tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi và các tỷ lệ tiền gửi trung, dài hạn so
với tổng dư nợ cho vay trung, dài hạn. NHNN sẽ quy định cụ thể các tỷ lệ bảo đảm
an toàn nói trên đối với từng loại hình TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Ngoài ra, Luật 2010 còn bổ sung quy định NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng quốc gia phải nắm giữ số lượng tối
thiểu giấy tờ có giá được phép cầm cố tại Ngân hàng Nhà nước theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ.

Luật 2010 cũng quy định rõ tổng số vốn của một TCTD đầu tư vào TCTD
khác, công ty con của TCTD dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần và các khoản
đầu tư dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần nhằm nắm quyền kiểm soát các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán phải trừ khỏi
vốn tự có khi tính các tỷ lệ an toàn.
Luật còn trao quyền cho NHNN áp dụng các biện pháp cần thiết khi các
TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không duy trì được hoặc có khả năng
không duy trì được tỷ lệ bảo đảm an toàn theo quy định, bao gồm cả việc hạn chế
phạm vi hoạt động, xử lý tài sản của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhằm
bảo đảm để TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đạt tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.
I.6.7. Về kinh doanh bất động sản
Theo Điều 132, TCTD không được kinh doanh bất động sản, trừ trường hợp
TCTD mua, đầu tư, sở hữu bất động sản để sử dụng làm trụ sở kinh doanh, địa điểm
làm việc hoặc cơ sở kho tàng phục vụ trực tiếp cho các hoạt động nghiệp vụ. TCTD
được phép cho thuê một phần trụ sở kinh doanh chưa sử dụng hết thuộc sở hữu của
TCTD. Trường hợp TCTD nắm giữ bất động sản do việc xử lý nợ vay thì trong thời
hạn 03 năm kể từ ngày quyết định xử lý tài sản bảo đảm là bất động sản, TCTD phải
bán, chuyển nhượng hoặc mua lại bất động sản này để đảm bảo tỷ lệ đầu tư vào tài
sản cố định và mục đích sử dụng tài sản cố định quy định tại Điều 140 của Luật này
LỚP K19TCDND2 – NHÓM 5 Page 13
LUẬT CÁC TCTD 2010 GVHD : PGS.TS.TRƯƠNG QUANG THÔNG
I.6.8. Về nhóm công ty mẹ - công ty con
Luật 2010 bổ sung quy định về quyền và trách nhiệm của công ty kiểm soát
(những công ty mà theo định nghĩa quy định tại Luật các TCTD 2010, nắm giữ, sở
hữu trực tiếp hoặc gián tiếp trên 20% vốn điều lệ của một NHTM) nhằm hạn chế
các quan hệ tín dụng, hùn vốn, góp vốn chéo (góp vốn, mua cổ phần lẫn nhau) giữa
TCTD với các công ty có quan hệ về vốn liếng, tránh rủi ro cho các NHTM do sự
can thiệp quá mức của các công ty kiểm soát. Để đạt được mục đích này, Luật đưa
ra các quy định buộc phải minh bạch hoá các quan hệ giữa công ty kiểm soát với
các NHTM, giữa NHTM với các công ty con của mình; quy định không cho phép

NHTM và các công ty con, liên kết của cùng một công ty kiểm soát được sở hữu
chéo cổ phần; công ty con, công ty liên kết của cùng một TCTD không được góp
vốn, mua cổ phần của TCTD; TCTD là công ty con, công ty liên kết của công ty
kiểm soát không được góp vốn, mua cổ phần của công ty kiểm soát. Ngoài ra, Điều
141 cũng có quy định yêu cầu các công ty con, công ty liên kết của TCTD phải gửi
báo cáo tài chính, báo cáo hoạt động của mình cho NHNN khi được yêu cầu.
I.6.9. Về kiểm soát đặc biệt (Chương VIII)
Để chủ động xử lý các TCTD có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng
thanh toán, bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, trên cơ sở kế thừa các quy
định pháp luật hiện hành, các nội dung về kiểm soát đặc biệt đã được quy định đầy
đủ, chi tiết hơn và tăng thẩm quyền cho NHNN áp dụng các biện pháp cần thiết khi
TCTD được đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt. Ngoài các trường hợp kế thừa
từ Luật các TCTD năm 1997, Điều 146 Luật 2010 bổ sung thêm hai trường hợp mà
NHNN sẽ xem xét, đặt TCTD vào kiểm soát đặc biệt là: (i) TCTD hai năm liên tục
bị xếp loại yếu kém theo quy định của NHNN; (ii) khi TCTD không duy trì được tỷ
lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định trong thời hạn một năm liên tục hoặc tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu thấp hơn 4% trong thời hạn 06 tháng liên tục.
Ngoài ra, nhằm tạo điều kiện để NHNN có thể chủ động can thiệp sớm hơn
khi phát hiện thấy những yếu kém cơ bản của một TCTD với mục đích giảm bớt
khả năng rủi ro cho hệ thống do không có sự can thiệp kịp thời của cơ quan quản lý,
Luật các TCTD 2010 quy định NHNN có quyền yêu cầu chủ sở hữu tăng vốn, bắt
LỚP K19TCDND2 – NHÓM 5 Page 14
LUẬT CÁC TCTD 2010 GVHD : PGS.TS.TRƯƠNG QUANG THÔNG
buộc sáp nhập, hợp nhất, mua lại; trực tiếp hoặc chỉ định TCTD khác góp vốn, mua
cổ phần của TCTD được kiểm soát đặc biệt trong trường hợp TCTD được kiểm soát
đặc biệt không có khả năng thực hiện yêu cầu tăng vốn của NHNN hoặc khi NHNN
xác định số lỗ lũy kế của TCTD đã vượt quá giá trị vốn điều lệ và các quỹ dự trữ
của TCTD được kiểm soát đặc biệt.
I.6.10. Về giải thể, thanh lý
Để tạo điều kiện cho việc xử lý phá sản một TCTD có thể được thực hiện

nhanh chóng, hạn chế tác động đến hệ thống TCTD, Điều 154 – 155 – 156 Luật
2010 quy định: khi xử lý phá sản TCTD, Toà án có thể áp dụng ngay thủ tục thanh
lý tài sản sau khi NHNN đã có văn bản chấm dứt áp dụng kiểm soát đặc biệt hoặc
chấm dứt áp dụng, không áp dụng các biện pháp phục hồi, mà TCTD vẫn lâm vào
tình trạng phá sản. Như vậy, quá trình phục hồi theo trình tự phá sản các doanh
nghiệp thông thường không cần phải áp dụng đối với các TCTD đã được NHNN
kiểm soát đặc biệt (thực chất là để phục hồi) nhưng đã xác định không còn khả năng
thanh toán.

PHẦN II - CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA
II.1. Những ưu điểm nổi bật của Luật 2010:
Về quan điểm chỉ đạo xây dựng luật các tổ chức tín dụng 2010:
LỚP K19TCDND2 – NHÓM 5 Page 15
LUẬT CÁC TCTD 2010 GVHD : PGS.TS.TRƯƠNG QUANG THÔNG
- Luật các TCTD phải thể chế hoá được quan điểm, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước về phát triển hệ thống các TCTD nói chung và ngân hàng
nói riêng tại Việt Nam.
- Kế thừa được những nội dung tốt, đã được trải nghiệm qua thực tiễn 10
năm thi hành Luật các tổ chức tín dụng hiện hành, bảo đảm tính kế thừa trong quản
lý.
- Phù hợp hơn với những cam kết hội nhập quốc tế của Việt Nam và thông lệ
quốc tế trong hoạt động ngân hàng.
- Tạo ra được một cơ sở pháp lý bảo đảm sự tự chủ trong kinh doanh của các
TCTD, đồng thời bảo đảm sự chặt chẽ, thận trọng trong hoạt động ngân hàng, đặc
biệt là nâng cao được khả năng kiểm soát, giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối
với hoạt động của từng TCTD và sự ổn định, an toàn của hệ thống ngân hàng.
- Khắc phục bất cập đã nảy sinh trong quá trình thực hiện Luật các TCTD
hiện hành như quy định về phạm vi điều chỉnh, tổ chức, quản trị, điều hành, hình
thức sở hữu, tỷ lệ an toàn…; đồng thời, khắc phục các bất cập do xung đột với Luật
doanh nghiệp, Bộ luật dân sự, Luật chứng khoán…

Cụ thể:
Khắc phục những bất cập của Luật các tổ chức tín dụng hiện hành:
- Nâng cao quyền tự chủ kinh doanh và tự chịu trách nhiệm của các tổ chức
tín dụng. Luật các TCTD năm 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung năm 2004 (sau đây gọi
tắt là Luật Các TCTD hiện hành) chưa quy định thật cụ thể và rõ ràng quyền chủ
động kinh doanh, tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của TCTD. Luật chưa quy định rõ
phạm vi hoạt động của từng loại hình TCTD, đặc biệt trong việc xác định loại
nghiệp vụ được phép thực hiện nên khi triển khai thực hiện đã gặp nhiều vướng
mắc, đặc biệt trong việc xác định loại nghiệp vụ mà một loại hình TCTD cụ thể
được phép thực hiện. Do vậy, đã ảnh hưởng đến hoạt động và sự phát triển của các
loại hình TCTD.
- Đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính trong lĩnh vực ngân hàng. Một số
quy định của Luật các TCTD hiện hành chưa theo kịp so với công cuộc cải cách
hành chính chung đang được thực hiện. Một số công việc chỉ cần giao cho Ngân
hàng Nhà nước nhưng Luật lại giao cho Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ, nên
LỚP K19TCDND2 – NHÓM 5 Page 16
LUẬT CÁC TCTD 2010 GVHD : PGS.TS.TRƯƠNG QUANG THÔNG
phát sinh nhiều đầu mối quản lý, làm chậm trễ quá trình hướng dẫn thực hiện Luật
và việc xử lý các vấn đề phát sinh trên thực tiễn. Ngoài ra, thủ tục xin chấp thuận,
chuẩn y các thay đổi của TCTD trong Luật các TCTD hiện hành mang tính hành
chính, không cần thiết và làm tăng thêm chi phí cho các TCTD cũng cần được xem
xét để thay đổi cho phù hợp.
- Đáp ứng nhu cầu đa dạng hoá, tính năng động, linh hoạt trong hoạt động
kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Luật các TCTD hiện hành chưa tạo lập được
cơ sở pháp lý để cụ thể hoá hoặc đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng, nên chưa khai
thác được hết tiềm năng, nội lực của các TCTD. Các quy định của Luật các TCTD
hiện hành chưa phân biệt phạm vi hoạt động của từng loại hình TCTD, do vậy, ảnh
hưởng đến hoạt động và sự phát triển của các loại hình TCTD.
Các bất cập của Luật các TCTD hiện hành không chỉ làm hạn chế sự phát
triển và hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng, mà còn ảnh hưởng lớn đến

hiệu quả quản lý, thanh tra, giám sát an toàn của Ngân hàng Nhà nước đối với hệ
thống TCTD. Việc soạn thảo và ban hành Luật các TCTD mới gắn với việc khắc
phục bất cập của Luật hiện hành, đặc biệt là các quy định về tổ chức, quản trị, điều
hành, kiểm soát, hoạt động và bảo đảm an toàn, tạo lập khung pháp lý hoàn chỉnh,
minh bạch cho tổ chức và hoạt động của các TCTD là yêu cầu cấp thiết của thực
tiễn.
Luật các TCTD năm 2010 đã thay đổi tiêu chí phân biệt giữa ngân hàng và
TCTD phi ngân hàng. Theo đó, phạm vi hoạt động của các TCTD phi ngân hàng
khác với các ngân hàng là không được phép nhận tiền gửi của cá nhân và không
được cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng. Theo tiêu chí này,
ranh giới phân biệt hoạt động giữa ngân hàng và TCTD phi ngân hàng được làm rõ
hơn.
- Đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập và xây dựng hệ thống các tổ chức
tín dụng hiện đại:
Một số quy định của Luật các TCTD hiện hành còn chưa phù hợp với thông
lệ quốc tế như các quy định về an toàn vốn, dịch vụ ngân hàng được phép cung
cấp… Do vậy, việc ban hành Luật các TCTD mới với mục tiêu thể chế hóa các tiêu
chuẩn, chuẩn mực quốc tế vào trong Luật, phù hợp với điều kiện Việt Nam là rất
LỚP K19TCDND2 – NHÓM 5 Page 17
LUẬT CÁC TCTD 2010 GVHD : PGS.TS.TRƯƠNG QUANG THÔNG
cần thiết để tạo cơ sở pháp lý xây dựng hệ thống TCTD hiện đại, có đủ năng lực
cạnh tranh trong điều kiện hội nhập, cũng như cho việc giám sát an toàn trong hoạt
động của các TCTD.
- Đảm bảo sự đồng bộ giữa các quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các
Luật khác:
Luật các TCTD năm 1997 thiếu các quy định cụ thể, đặc thù về tổ chức, quản
trị, điều hành, kiểm soát, hoạt động của các TCTD, do vậy, trên thực tiễn đã phát
sinh xung đột luật giữa các quy định hướng dẫn của Chính phủ, Ngân hàng Nhà
nước với các quy định của Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật chứng khoán, Luật
cạnh tranh, Luật hợp tác xã, Luật phá sản Điều này đã ảnh hưởng lớn để hiệu quả,

hiệu lực của hoạt động quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với các TCTD.
Luật các TCTD 2010 có điểm mới so với Luật các TCTD năm 1997 là xác
định rõ nguyên tắc áp dụng Luật theo hướng: Luật các TCTD quy định cụ thể các
đặc thù trong việc thành lập, tổ chức, quản lý và hoạt động của TCTD; khi có các
quy định khác nhau giữa Luật các TCTD và luật khác thì Luật các TCTD sẽ được
ưu tiên áp dụng.
Tùy theo hình thức pháp lý của TCTD, các nội dung không được quy định
trong Luật các TCTD sẽ được thực hiện theo quy định của Luật doanh nghiệp, Luật
hợp tác xã.
II.2. Những hạn chế của Luật 2010
Tuy nhiên, theo đánh giá của một số người làm công tác chuyên môn thì
những thay đổi của Luật 2010 vẫn còn có những hạn chế, vướng mắc và chưa rõ
ràng từ đó có thể gây ra trở ngại cho sự phát triển trên nhiều lĩnh vực liên quan, nhất
là ở lĩnh vực kinh tế - tài chính. Cụ thể trên các khía cạnh sau:
II.2.1. Về mặt chính sách, quản lý tổ chức & phạm vi hoạt động
Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 đã có nhiều tiến bộ hơn so với Luật
năm 1997 trong việc quy định cụ thể về TCTD nước ngoài tại VN, nhưng nó vẫn
còn có nhiều vấn đề cần xem xét :
- Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) vẫn còn bộc lộ một số hạn chế
như, thiên về tăng cường, kiểm tra, giám sát bảo đảm an toàn, chưa tạo được sự hài
hòa giữa bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng và quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
LỚP K19TCDND2 – NHÓM 5 Page 18
LUẬT CÁC TCTD 2010 GVHD : PGS.TS.TRƯƠNG QUANG THÔNG
trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Các quy định về quản lý nhà nước đối với
tổ chức, hoạt động của tổ chức tín dụng còn nặng về hành chính, cấp phép mà chưa
thể hiện tư tưởng đổi mới quản lý các tổ chức tín dụng theo tinh thần Quyết định
112. Trong luật, còn nhiều quy định chưa cụ thể, có quá nhiều nội dung giao Chính
phủ và Ngân hàng Nhà nước quy định.
- Còn bỏ ngỏ việc hợp đồng TD có bắt buộc phải gắn liền với mục đích vay
vốn SXKD như Luật hiện hành hay không.

- Trên thực tế, mặc dù các quy định được đưa ra tại Thông tư 13 được cho là
cần thiết, nhằm đảm bảo an toàn và hạn chế rủi ro đối với hệ thống ngân hàng
(NHTM) Việt Nam. Tuy nhiên, nếu phải thực hiện tất cả các quy định của Thông tư
nói trên ngay trong một thời điểm sẽ rất khó cho các nhà băng. Bởi xuất phát từ
"mặt bằng" của nền kinh tế Việt Nam hiện nay và xuất phát từ "mặt bằng" của các
NHTM, công ty tài chính không đồng đều…, sẽ có không ít khó khăn cho các
NHTM, công ty tài chính trong quá trình thực hiện. Đồng thời, đà giảm lãi suất tiền
đồng sẽ chững lại trước áp lực mới và khó có thể thực hiện được chủ trương giảm
lãi suất của Chính phủ đưa ra. Vì thế, việc chỉnh sửa một số quy định tại Thông tư
13 được cho là cần thiết.
- Với khoản 2 Điều 90, nếu áp dụng một cách cứng nhắc, các cơ quan quản lý
sẽ tất bật “chạy theo” sự vụ sửa đổi, bổ sung giấy phép để giải quyết đòi hỏi yêu cầu
kinh doanh hàng ngày của hàng trăm TCTD, và điều đó tất yếu sẽ làm nảy sinh cơ
chế “xin cho”.
- Điều 103 quy định về góp vốn, mua cổ phần: Ngân hàng thương mại không
được mua, nắm giữ cổ phiếu của các tổ chức tín dụng khác, trừ trường hợp nắm giữ
cổ phiếu theo quy định tại điểm b khoản 2, điểm a khoản 3 và khoản 4 Điều này;
hoặc trường hợp nắm giữ cổ phiếu do xử lý nợ hoặc nắm giữ cổ phiếu của tổ chức
tín dụng khác theo chỉ định của Ngân hàng Nhà nước để xử lý tổ chức tín dụng gặp
khó khăn có nguy cơ đổ vỡ. Trong trường hợp nắm giữ cổ phiếu do xử lý nợ, ngân
hàng thương mại phải bán số cổ phiếu này trong vòng 06 tháng kể từ ngày xử lý tài
sản bảo đảm là cổ phiếu.
Theo thông lệ và kinh nghiệm thực tiễn trên thế giới hiện nay, các ngân hàng
thương mại vẫn có quyền mua và nắm giữ cổ phiếu của các TCTD khác. Việc mua
LỚP K19TCDND2 – NHÓM 5 Page 19
LUẬT CÁC TCTD 2010 GVHD : PGS.TS.TRƯƠNG QUANG THÔNG
và nắm giữ các cổ phiếu này là nhằm phân tán rủi ro và kiểm soát rủi ro của các
ngân hàng thương mại. Có thể quy định giới hạn số vốn ngân hàng thương mại sử
dụng để mua, nắm giữ cổ phiếu của các TCTD khác.
- Tại Khoản 3 Điều 103 của Dự thảo đang có mâu thuẫn với điểm b, khoản 2

Điều 107. Theo khoản 3 Điều 103 Ngân hàng thương mại có thể được mua cổ phần
nhưng theo khoản điểm b, khoản 2 Điều 107, Ngân hàng thương mại chỉ được thực
hiện việc mua bán cổ phần thông qua công ty con, công ty liên kết. Theo nội dung
này, ngân hàng thương mại được yêu cầu phải thành lập công ty con, công ty liên
kết để thực hiện một số nghiệp vụ đặc thù (chứng khoán, bảo hiểm…). Nhưng việc
ngân hàng thương mại hoạt động thông qua công ty con, công ty liên kết theo hình
thức nào thì không được quy định rõ. Bên cạnh đó, cũng tại Điều 103, việc góp vốn,
mua bán cổ phần của Ngân hàng thương mại phải được Ngân hàng Nhà nước chấp
thuận trước khi thực hiện. Trong khi đó, thực tế hiện nay là các ngân hàng đang
được chủ động góp vốn, mua bán cổ phần thì đã có một bước kiểm soát của Ngân
hàng Nhà nước với vấn đề này. Như vậy là đã có cơ chế bảo đảm an toàn hoạt động
ngân hàng và vận hành của thị trường chứng khoán.
Tuy nhiên, lại không có quy định điều kiện, thủ tục để Ngân hàng Nhà nước
chấp thuận việc Ngân hàng thương mại góp vốn, mua cổ phần. Chính vì vậy, quy
định này sẽ tạo cơ chế “tiền kiểm” không rõ ràng. Do đó, việc góp vốn, mua bán cổ
phần, tham gia thị trường chứng khoán nên được áp dụng theo nguyên tắc “hậu
kiểm”. Tức là, các TCTD có thể chủ động mua bán trong một giới hạn nhất định
(Điều 129 đã quy định), đồng thời có các báo cáo gửi Ngân hàng Nhà nước theo
định kỳ. Việc kiểm soát các giao dịch góp vốn, mua bán cũng không phải là quá
phức tạp vì các chứng từ, tài liệu, báo cáo về tài chính cũng khá rõ ràng nên Ngân
hàng Nhà nước hoàn toàn có thể kiểm tra được tại từng thời điểm. Thêm vào đó
việc cấm Ngân hàng thương mại không được mua, nắm giữ cổ phiếu của các tổ
chức tín dụng khác sẽ vi phạm quyền mua cổ phiếu của ngân hàng thương mại với
tư cách là một doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp. Vì vậy, điều khoản này cũng
mâu thuẫn với Điều 53 khoản 3: “cổ đông phổ thông có quyền được ưu tiên mua cổ
phần mới chào bán tương ứng với tỷ lệ cổ phần phổ thông của từng cổ đông trong
công ty”.
LỚP K19TCDND2 – NHÓM 5 Page 20
LUẬT CÁC TCTD 2010 GVHD : PGS.TS.TRƯƠNG QUANG THÔNG
- Điều kiện để thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại VN được coi

là hơi khắt khe so với điều kiện áp dụng cho việc thành lập ngân hàng liên doanh
hoặc ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại VN. Nếu thành lập ngân hàng liên doanh
hoặc ngân hàng 100% vốn nước ngoài chỉ cần tổng tài sản của ngân hàng mẹ lớn
hơn 10 tỷ USD, trong khi lập chi nhánh lại chịu quy định ngân hàng mẹ phải có
tổng tài sản lớn hơn 20 tỷ USD vào thời điểm kết thúc năm trước khi nộp đơn.
Ngoài ra, theo cam kết WTO, trong vòng 5 năm kể từ khi gia nhập, VN có thể giới
hạn quyền của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép nhận tiền gửi bằng
đồng VN từ các cá nhân mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng theo một lộ trình
nghiêm ngặt.
Mặt khác, mức vốn pháp định cho đến năm 2010 của chi nhánh ngân hàng
nước ngoài là 15 triệu USD (tương đương 300 tỷ đồng), còn mức vốn pháp định của
NHTM là 3.000 tỷ đồng (theo Nghị định 141/2006/CP-NĐ về ban hành danh mục
mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng). Như vậy, việc áp dụng cùng 1 tỷ lệ về
giới hạn cho vay, bảo lãnh cho chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các NHTM
trong nước sẽ làm hạn chế khả năng cho vay của chi nhánh ngân hàng nước ngoài
so với các NHTM trong nước.
Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, căn cứ cam kết gia nhập WTO của VN,
từ 01/01/2011, chi nhánh NHNN được đối xử bình đẳng quốc gia, do đó, các chi
nhánh NHNN cũng phải bình đẳng như các NHTM trong nước trong việc áp dụng
các giới hạn về cấp tín dụng.
- Đối xử quốc gia là một trong những nguyên tắc tạo thành nền tảng của hệ
thống thương mại đa phương. Theo Hiệp định chung về Thương mại và Dịch vụ
(GATS), tại Điều 15, mỗi quốc gia thành viên của WTO phải dành cho dịch vụ và
người cung ứng dịch vụ của bất kỳ quốc gia thành viên nào khác sự đối xử không
kém thuận lợi hơn sự đối xử mà thành viên đó dành cho dịch vụ và nhà cung ứng
của mình. Tuy vậy, nguyên tắc này đã được giải thích và áp dụng theo hướng bình
đẳng giữa các nhà cung ứng dịch vụ trong nước và nước ngoài cả về quyền lợi và
nghĩa vụ mà không xét trên khía cạnh mức độ thuận lợi của sự bình đẳng đó đối với
nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài. Các chi nhánh NHNN kể từ ngày 01/01/2011 trở
LỚP K19TCDND2 – NHÓM 5 Page 21

LUẬT CÁC TCTD 2010 GVHD : PGS.TS.TRƯƠNG QUANG THÔNG
đi sẽ được đối xử bình đẳng về giới hạn cho vay, bảo lãnh so với các NHTM trong
nước bất kể sự đối xử đó là kém hay không kém thuận lợi hơn.
- Tỷ lệ sở hữu CP của nhà đầu tư nước ngoài:
Theo cam kết WTO, giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần trong các NHTM VN của
nhà đầu tư nước ngoài dưới hình thức góp vốn mua cổ phần không được vượt quá
30% vốn điều lệ của NHTM đó.
Để cụ thể hóa quy định này, Chính phủ đã ban hành Nghị định 69/2007/NĐ-
CP ngày 20/4/2007 về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của NHTM VN.
Trong đó, tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài và người có liên
quan không vượt quá 30% vốn điều lệ của một NHTM VN, của một nhà đầu tư
nước ngoài không phải là tổ chức tín dụng nước ngoài và người có liên quan không
quá 5% và của một tổ chức tín dụng nước ngoài và người có liên quan không quá
10%. Nghị định 69 cũng cho phép những ngoại lệ để nâng mức sở hữu cổ phần của
nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức tín dụng lên 15% đối với nhà đầu tư chiến lược,
thậm chí là 20% nếu có sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ (Điều 4). Tạm thời,
tỷ lệ sở hữu như trên vẫn được duy trì kể cả khi Luật TCTD 2010 có hiệu lực.
Như vậy, trên thực tế, một ngân hàng 100% vốn nước ngoài hay một ngân
hàng liên doanh tại VN, mặc dù được thành lập và hoạt động theo pháp luật VN,
nhưng lại thuộc đối tượng “người có liên quan” của tổ chức tín dụng nước ngoài
theo quy định tại Nghị định 69. Vì vậy, các ngân hàng này khi mua cổ phần tại các
NHTM VN cũng bị hạn chế ở mức tối đa 20% vốn điều lệ của NHTM VN đó.
Trong bối cảnh hiện nay, các NHTM VN còn đang đứng trước cơn khủng
hoảng thiếu vốn, công nghệ và năng lực quản trị. Việc đặt ra các giới hạn trong giới
hạn của tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài sẽ tạo ra rào cản giữa các
NHTM VN được tiếp cận với các nguồn tài chính, trình độ công nghệ và năng lực
quản trị của các tổ chức tín dụng nước ngoài và các ngân hàng 100% vốn nước
ngoài, ngân hàng liên doanh tại VN.
Đã gần 4 năm kể từ khi VN tham gia WTO, các quy định liên quan đến đầu
tư trong các tổ chức tín dụng đang từng bước được hoàn thiện để phù hợp với luật

chơi của WTO. Thế nhưng, trong quá trình xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp
LỚP K19TCDND2 – NHÓM 5 Page 22
LUẬT CÁC TCTD 2010 GVHD : PGS.TS.TRƯƠNG QUANG THÔNG
luật, chúng ta cũng cần phải xem xét các vấn đề thực tiễn khác trong quá trình thực
thi pháp luật, để tránh việc đưa ra những quy định có tuổi thọ ngắn ngủi.
- Luật không điều chỉnh về tập đoàn tài chính - ngân hàng trong khi hiện
nay nhiều nước trên thế giới đều có các đạo luật riêng; trong đó quy định chung về
các quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm với cơ quan nhà nước về thành lập, sở hữu,
niêm yết và những quan hệ trong nội bộ tập đoàn về mô hình, cấu trúc vốn hoạt
động, cấu trúc quản trị; cũng như quy định về phương thức quản lý, giám sát, kiểm
tra của nhà nước.Tại Việt Nam hiện nay, do đã có những thay đổi lớn, căn bản về cơ
cấu kinh tế và môi trường kinh doanh, nên sự ra đời của những tập đoàn tài chính -
ngân hàng là tất yếu nhằm tăng năng lực cạnh tranh, đảm bảo quyền chi phối của
Nhà nước thông qua các tập đoàn trong việc phát triển kinh tế. Hiện chúng ta cũng
đã có Nghị định 101/2009/NĐ-CP về thành lập, quản lý, giám sát tập đoàn kinh tế
nhà nước nhưng vẫn còn nhiều vấn đề vướng mắc, bất cập. Hơn nữa, nghị định này
không hướng đến điều chỉnh tập đoàn tài chính - ngân hàng nên dường như vẫn còn
bỏ ngỏ khả năng các cơ quan quản lý nhà nước sẽ ban hành quy định mang tính
chuyên ngành về mô hình này.
II.2.2. Về cơ chế hoạt động kinh doanh
Với việc giữ nguyên thời gian thực hiện các quy định đưa ra tại Thông tư 13
cũng như tỷ lệ vốn huy động được cấp tín dụng không thay đổi (tỷ lệ không sử dụng
quá 80% vốn huy động để cấp tín dụng, thay vì 100% như trước) sẽ khiến các
NHTM, nhất là các NHTM nhỏ phải tính toán kỹ hơn trong phát triển hoạt động cho
vay, mặc dù với hướng chỉnh sửa mới, các ngân hàng sẽ được đưa thêm 25% tiền
gửi không kỳ hạn của tổ chức kinh tế (trừ tổ chức tín dụng); tiền vay của tổ chức
trong nước, tiền vay của tổ chức tín dụng khác có kỳ hạn từ 3 tháng trở lên (trừ tiền
vay của tổ chức tín dụng khác trong nước để bù đắp thiếu hụt tạm thời đối với tỷ lệ
về khả năng chi trả theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 của Thông tư 13) vào mẫu số
của các tỷ lệ trên nhưng theo thông lệ trên thế giới hiện nay thì chưa có quốc gia

nào áp dụng tỷ lệ này (ngoại trừ Trung Quốc, do tín dụng của quốc gia này đã tăng
nóng vào cuối năm trước và hiện thị trường bất động sản Trung Quốc vẫn chưa hạ
nhiệt).
LỚP K19TCDND2 – NHÓM 5 Page 23
LUẬT CÁC TCTD 2010 GVHD : PGS.TS.TRƯƠNG QUANG THÔNG
Để thực hiện được các quy định của Thông tư 13, có hiệu lực từ ngày 1/10,
các ngân hàng sẽ phải cân đối lại nguồn, tăng cường huy động và cân nhắc hơn
trong phát triển tín dụng. Thêm vào đó, với quy định các ngân hàng không được sử
dụng quá 20% vốn liên ngân hàng hiện nay sẽ dẫn đến hệ lụy khó giảm lãi suất theo
chủ trương đưa ra. Nguồn vốn đưa ra nền kinh tế từ đó cũng sẽ chậm lại. Còn tín
dụng cho vay cầm cố kinh doanh chứng khoán và cho vay kinh doanh bất động sản
sẽ khó phát triển, vì hệ số rủi ro vẫn giữ 250%. Do đó, ngân hàng phải tăng vốn tự
có và đẩy mạnh huy động tiền gửi. Thế nhưng, với các ngân hàng cổ phần quy mô
nhỏ, để cạnh tranh huy động vốn trong bối cảnh hiện nay là không dễ. Còn muốn
nâng vốn tự có phải chờ hoàn tất việc tăng vốn điều lệ theo lộ trình đưa ra tại Nghị
định 141/2006/NĐ-CP. Như vậy, phải sang năm 2011, sau khi hoàn tất việc tăng
vốn, vốn tự có của ngân hàng nhỏ mới được nâng lên để phát triển mạnh hơn tín
dụng.
Các tổ chức tín dụng nước ngoài bị hạn chế trong các hoạt động kinh
doanh: Khoản 2 Điều 90 - “Tổ chức tín dụng không được tiến hành bất kỳ hoạt
động kinh doanh nào ngoài các hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh doanh khác
ghi trong Giấy phép được Ngân hàng Nhà nước cấp cho tổ chức tín dụng” - có
nghĩa rằng hoạt động của các tổ chức tín dụng bị hạn chế trong nhận tiền gửi, cấp
tín dụng và dịch vụ thanh toán. Liên quan đến các hoạt động khác như ngoại hối,
kinh doanh vàng, phát hành thẻ tín dụng, trao đổi ngoại tệ, tổ chức tín dụng phải
thành lập Cty con để thực hiện các hoạt động trên. Đây là những hạn chế khác biệt
với thông lệ quốc tế và hạn chế sự phát triển của các dịch vụ tài chính ở VN. Điều
này sẽ hạn chế phạm vi hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân
hàng 100% vốn nước ngoài hiện đã được quy định trong Thông tư 03/2007/TT-
NHNN ngày 28/2/2007 bởi Điều 37 và 61 của Thông tư 03. Thông tư này quy định

rõ chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài được phép
thực hiện các hoạt động ngoài phạm vi các hoạt động ghi trong Giấy phép nếu được
NHNN chấp thuận bằng văn bản hoặc đã có văn bản quy phạm pháp luật quy định
về việc thực hiện các nghiệp vụ này, đồng thời trong đó quy định rõ chi nhánh ngân
hàng nước ngoài là đối tượng áp dụng và được thực hiện các nghiệp vụ đó. Vì vậy,
LỚP K19TCDND2 – NHÓM 5 Page 24
LUẬT CÁC TCTD 2010 GVHD : PGS.TS.TRƯƠNG QUANG THÔNG
NHNN cần linh hoạt để có thể bổ sung thêm các dịch vụ và hoạt động cho các tổ
chức tín dụng khi cần thiết.
Hạn mức tín dụng chưa hợp lý:Khoản 1 Điều 128 - “Tổng mức dư nợ cấp
tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân
hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức
tài chính vi mô” sẽ tác động xấu đến chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở VN. Bởi tất
cả các chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở VN hiện nay đều duy trì hạn mức cho vay
đối với một khách hàng là 15% trên vốn chủ sở hữu của ngân hàng mẹ. Và vì thế,
nếu điều 128 được áp dụng, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ vi phạm điều
này hoặc vi phạm hợp đồng cho vay đang có hiệu lực và sẽ phải kết thúc hợp đồng
sớm hơn dự kiến. Thêm vào đó, điều này sẽ cản trở các chi nhánh nước ngoài của
các ngân hàng nhỏ trong việc kinh doanh tại thị trường VN. Và sẽ là trở ngại lớn đối
với các thành viên mới gia nhập thị trường hoặc các hoạt động mở rộng đầu tư.
Điều này sẽ ảnh hướng đến cả việc thu hút đầu tư nước ngoài nói chung vào VN bởi
các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có vai trò quan trọng trong việc cấp vốn tại chỗ
cho các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, các dự án cơ sở hạ tầng và nhiều ngành
công nghiệp chủ chốt ở VN.
Với nội dung của điều 128 thì chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại VN buộc
phải thay cơ bản hoạt động tín dụng hiện nay. Trong trường hợp này, một số chi
nhánh bắt buộc phải giảm mức cho vay bằng cách thu hồi nợ trước hạn hoặc chuyển
khoản vay hiện có cho chi nhánh tại quốc gia khác. Mặt khác quy định mới này còn
có khả năng làm tăng phần nợ đối với cán cân thanh toán của VN do việc chi nhánh
ngân hàng nước ngoài sẽ chuyển các khoản vay vượt hạn mức cho các chi nhánh

khác ở nước ngoài. Các khoản vay nợ trong nước sẽ thành các khoản nợ nước
ngoài.
Trong khi đó, hiện nay theo Nghị định 22, một chi nhánh ngân hàng nước
ngoài là chi nhánh trực thuộc của ngân hàng mẹ, vì vậy các khoản cho vay của chi
nhánh phải dựa trên vốn chủ sở hữu của ngân hàng mẹ .
Về quy định ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không
được cho vay đầu tư, kinh doanh cổ phiếu (khoản 7, Điều 126) sẽ tác động tiêu cực
đến thị trường chứng khoán Việt Nam. Quy định của pháp luật hiện hành vẫn cho
LỚP K19TCDND2 – NHÓM 5 Page 25

×