Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

tìm hiểu tính độc lập của ngân hàng trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.98 KB, 31 trang )

Tìm hiểu tính độc lập của NHTW
1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
1.1. Khái Niệm, Đặc Điểm Của Ngân Hàng Trung Ương
- Khái Niệm
Ngân hàng trung ương (NHTW) là ngân hàng phát hành tiền của một quốc gia,
là cơ quan quản lý và kiểm soát lĩnh vực tiền tệ ngân hàng trong phạm vi toàn quốc.
NHTW là bộ máy tài chính tổng hợp, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ
và hoạt động ngân hàng, đồng thời là ngân hàng của các ngân hàng và tổ chức tín
dụng khác trong nền kinh tế.
Trong một quốc gia, hoặc một nhóm các quốc gia chỉ có một NHTW duy nhất,
thực hiện việc điều tiết và kiểm soát lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng một cách tập trung và
thống nhất.
- Đặc điểm:
 Không giao dịch với công chúng, chỉ giao dịch với các tổ chức tín dụng.
 Chức năng quản lý của NHTW khác với sự quản lý của các Bộ. Ngoài quản lý
bằng biện pháp hành chính, Ngân hàng trung ương còn có các nghiệp vụ mang
tính chất kinh doanh, song NHTW sử dụng các công cụ sinh lời chỉ như
phương tiện quản lý, không nhằm mục đích lợi nhuận.
 Mục đích hoạt động của NHTW là cung ứng, điều hòa lưu thông tền tệ, quản lý
hệ thống ngân hàng nhằm phát triển kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định lưu
thông tiền tệ.
 NHTW là định chế hỗn hợp của hai tính chất: quản lý hành chính và doanh
nghiệp.
1.2. MÔ HÌNH TỔ CHỨC NHTW
Trang 1/31
Tìm hiểu tính độc lập của NHTW
1.2.1. Mô hình NHTW trực thuộc Chính phủ
Theo mô hình tổ chức này thì NHTW là một bộ máy của Chính phủ, là cơ quan
ngang bộ, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của chính phủ trong việc điều hành chính sách tiền
tệ quốc gia. NHTW là cơ quan quản lý chuyên ngành của Chính phủ, tham mưu cho
Chính phủ trong việc hoạch định chính sách tiền tệ quốc gia.


Ưu điểm của mô hình này là hoạt động của NHTW nằm trong sự kiểm tra và
giám sát trực tiếp của Chính phủ, vì vậy nó sẽ góp phần thực hiện các nhiệm vụ kinh tế
- xã hội mà quốc hội đã giao cho Chính phủ trong từng thời kỳ.
Tuy nhiên, mô hình NHTW trực thuộc chính phủ sẽ mất tính độc lập của NHTW
trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, với mô hình này có thể biến
NHTW thành nơi phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt trong ngân sách nhà nước, khiến
cho hoạt động phát hành tiền không tuân thủ nguyên tắc và có thể dẫn đến lạm phát.
Trang 2/31
QUỐC HỘI
CHÍNH PHỦ
NHTWBỘ VÀ CÁC CƠ
QUAN NGANG BỘ
CÁC MỤC TIÊU KINH TẾ -XÃ HỘI
Tìm hiểu tính độc lập của NHTW
1.2.2. Mô hình NHTW trực thuộc quốc hội
Theo mô hình này, NHTW có vị trí độc lập với chính phủ, được tổ chức và chỉ
đạo trực tiếp từ quốc hội.
Ưu điểm của mô hình này là hoạt động của NHTW không bị chi phối bởi chính
phủ, vì vậy NHTW thể hiện tính độc lập cao trong việc điều hành chính sách tiền tệ,
đồng thời có thể ngăn ngừa hiện tượng phát hành tiền do sự thiếu hụt của ngân sách
nhà nước.
Nhược điểm: theo mô hình này là thiếu sự phối hợp của chính phủ và NHTW,
khiến cho các mục tiêu khinh tế, xã hội không được thực hiện một cách nhất quán.
Tuy nhiên, mô hình này được coi là mô hình tổ chức tiên tiến, phù hợp vơi xu
thế với thời đại để từng bước nâng cao vị trí của NHTW trong nền kinh tế thị trường.
Để NHTW phát huy mạnh mẽ vai, trò, nhiệm vụ của mình, trên thế giới hiện nay
có nhiều loại mô hình Ngân hàng trung ương đang được sử dụng nhưng không có một
mô hình NHTW lý tưởng nào áp dụng chung cho mọi nước. Việc không có một mô hình
lý tưởng là do cấu trúc của NHTW của một nước chịu sự chi phối bởi hàng loạt các
nhân tố thuộc nước đó như thể chế kinh tế, chính trị, lịch sử, văn hoá, mà các nhân tố

này ở các nước khác nhau là không thể giống nhau. Vì vậy, điều quan trọng là các
nước hãy thiết lập một mô hình sao cho phù hợp nhất với giai đoạn trước mắt cũng như
tương lai có thể dự kiến được.
1.3. Chức năng của NHTW:
1.3.1. NHTW là ngân hàng phát hành và điều tiết lưu thông tiền tệ
Giấy bạc ngân hàng do NHTW phát hành là phương tiện thanh toán hợp pháp,
làm chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán. Do đó việc phát hành
tiền của NHTW có tác động trực tiếp đến tình hình lưu thông tiền tệ của đất nước. Bên
Trang 3/31
CHÍNH PHỦ
CÁC MỤC TIÊU KINH TẾ-XÃ HỘI
Bộ và các cơ quan ngang
bộ
NHTW
Tìm hiểu tính độc lập của NHTW
cạnh đó, với việc độc quyền phát hành tiền, NHTW thực hiện việc kiểm soát khối lượng
tiền cung ứng được tạo ra từ các ngân hàng thương mại bằng quy chế dự trữ bắt buộc,
lãi suất tái chiết khấu… nhằm thực hiện chính sách tiền tệ, đảm bảo ổn định giá trị đồng
tiền nước mình.
1.3.2. NHTW là ngân hàng của các ngân hàng
Trên cơ sở độc quyền phát hành tiền, NHTW thực hiện việc cung ứng tiền tệ cho
nền kinh tế thông qua việc cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian và kiểm soát quá
trình tạo tiền của các ngân hàng trung gian – khách hàng của NHTW.
a) NHTW mở tài khoản và nhận tiền gửi của các ngân hàng trung gian
Tiền gửi đó gồm 2 loại:
- Tiền gửi dự trữ bắt buộc
- Tiền gửi thanh toán
b) NHTW cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian
NHTW thực hiện cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian nhằm đảm bảo cho
nền kinh tế đủ phương tiện thanh toán cần thiết trong từng thời kỳ nhất định. Mặt khác,

thông qua đó để điều tiết lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế theo yêu cầu của chính
sách tiền tệ. NHTW cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian bằng nhiều phương
pháp khác nhau:
- Tái chiết khấu
- Cho vay bổ sung nguồn vốn ngắn hạn cho các ngân hàng trung gian.
- Cho vay bù đắp vốn trong thanh toán liên ngân hàng.
c) NHTW là trung tâm thanh toán của các ngân hàng
Hoạt động của Tung tâm thanh toán gắn liền với sự phát triển dịch vụ thanh toán
của các ngân hàng trung gian, tạo lập mạng lưới thanh toán liên hoàn trong phạm vi cả
nước, cùng với việc cải tiến, hiện đại hóa công nghệ thanh toán có ý nghĩa quyết định
cho việc tập trung các luồng chu chuyển tiền tệ vận động qua ngân hàng.
d) NHTW thực hiện việc quản lý nhà nước đối với hệ thống ngân hàng
NHTW là cơ quan quản lý và điều tiết hoạt động của hệ thống ngân hàng, bằng
những biện pháp kinh tế và hành chính.
1.3.3. NHTW là ngân hàng của nhà nước
Chức năng này của NHTW thể hiện ở một số điểm:
- NHTW thuộc sở hữu nhà nước
Trang 4/31
Tìm hiểu tính độc lập của NHTW
- Ban hành các văn bản pháp quy theo thẩm quyền của mình về tiền tệ, tín dụng,
thanh toán, ngoại hối và ngân hàng; kiểm tra thực hiện các văn bản pháp luật
có liên quan.
- Mở tài khoản, nhận và trả tiền gửi của Kho bạc nhà nước
- Tổ chức thanh toán cho Kho bạc nhà nước trong quan hệ thanh toán với các
ngân hàng
- Làm đại lý cho Kho bạc nhà nước trong một số nghiệp vụ
- Bảo quản dự trữ quốc gia về ngoại hối, các chứng từ có giá
- Cung cấp tín dụng và tạm ứng cho Ngân sách nhà nước trong những trường
hợp cần thiết.
- Thay mặt nhà nước quản lý các hoạt động tiền tệ - tín dụng và thanh toán đối

nội, đối ngoại của đất nước.
- NHTW thay mặt chính phủ ký kết các hiệp định tiền tệ, tín dụng và thanh toán
với nước ngoài và tham gia với cương vị là thành viên của một số tổ chức tài
chính - tiền tệ quốc tế.
1.4. Vai trò của NHTW:
1.4.1. Vai trò điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông
NHTW thực hiện vai trò này thông qua các công cụ điều tiết trực tiếp và gián
tiếp: lãi suất, hạn mức tín dụng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ
thị trường mở,…
1.4.2. Vai trò thiết lập và điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế
NHTW tham gia vào việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm
thiết lập một cơ cấu kinh tế hợp lý và có hiệu quả cao, phù hợp với thực tiễn nền kinh tế
đất nước và hội nhập với sự phát triển kinh tế trong khu vực và trên thế giới.
1.4.3. Vai trò ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia
Để ổn định sức mua đồng tiền quốc gia, NHTW góp phần cân đối tổng cầu và
tổng cung của toàn xã hội thông qua việc ổn định sức mua đối nội của đồng tiền quốc
gia. Bên cạnh đó, NHTW tác động mạnh đến cân đối cung cầu ngoại tệ để giữ vững tỷ
giá hối đoái, góp ổn ổn định sức mua đối ngoại của đồng tiền quốc gia. Từ đó vừa đẩy
mạnh xuất khẩu, vừa tăng cường nhập khẩu phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
1.4.4. Vai trò chỉ huy đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng
Với chức năng ngân hàng của các ngân hàng, NHTW chỉ huy toàn bộ hệ thống
ngân hàng. Việc chỉ huy hệ thống ngân hàng phải được thực hiện bằng những định
hướng có căn cứ khoa học, sự nắm bắt các tín hiệu thị trường nhanh nhạy, sự phân
tích sắc bén các diễn biến trong các lĩnh vực tín dụng, thanh toán, thị trường tiền tệ, thị
trường vốn,…và đưa ra các giải pháp điều chỉnh hữu hiệu.
Trang 5/31
Tìm hiểu tính độc lập của NHTW
Việc chỉ huy của NHTW đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng phải dựa vào hành
lang pháp lý nghiêm ngặt, đội ngũ cán bộ điều hành, cán bộ nghiệp vụ thành thạo về

chuyên môn, trong sạch về phẩm chất.
2. LÝ THUYẾT VỀ TÍNH ĐỘC LẬP CỦA NHTW.
2.1. Tại sao cần một NHTW độc lập.
Trong suốt những năm 90 của thế kỷ XX, tính độc lập của NHTW được xem như
là nền tảng của những cải cách về mặt thể chế để giảm sự can thiệp bất hợp lý của
chính trị đến quá trình xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) nhằm đạt được
mục tiêu ổn định giá cả. Lý do dẫn đến cuộc cải tổ này đó là việc xây dựng và điều hành
CSTT mà có sự can thiệp chính trị thường chỉ đạt được những mục tiêu ngắn hạn. Điều
này sẽ làm gia tăng tính tạm thời và không bền vững của kinh tế vĩ mô, đặt biệt là nguy
cơ bùng nổ lạm phát và theo đó hạn chế tăng trưởng kinh tế và làm gia tăng tỷ lệ thất
nghiệp.
Tính độc lập của NHTW được thể hiện thông qua việc xác định rõ cơ chế hoạch
định CSTT là như thế nào, NHTW có được toàn quyền quyết định việc sử dụng các
công cụ để thực thi CSTT hay không cũng như nêu rõ trách nhiệm của NHTW nói
chung và Thống đốc nói riêng trong trường hợp mục tiêu không đạt được như đã đặt ra.
Vậy tại sao cần một NHTW độc lập:
- Cần một sự phân quyền giữa 2 cơ quan tạo tiền (NHTW) và tiêu tiền của nhà
nước trong nền kinh tế
- Nếu NHTW chịu sự quản lý của nhà nước thì chính sách tiền tệ sẽ có thể được
nhà nước sử dụng để hỗ trợ cho các chính sách kinh tế của mình, không phải
bao giờ cũng phân bổ nguồn lực tối ưu. Nếu là tổ chức điều tiết độc lập, NHTW
có thể chủ động trong chính sách tiền tệ của mình nhằm bảo vệ sức mạnh của
đồng tiền, ngăn chặn lạm phát, phục vụ sự phát triển của đất nước mà không
quá phụ thuộc vào công việc hàng ngày của cơ quan hành pháp
2.2. Các mức độ độc lập của NHTW
Thực tế, NHTW các nước trên thế giới hiện nay đều có sự độc lập nhất định
trong hoạt động ở 3 lĩnh vực: Điều hành CSTT, Giám sát các Tổ chức tín dụng và Quản
trị điều hành nội bộ, tuy nhiên mức độ độc lập là không giống nhau. Độc lập về Điều
hành CSTT, theo tổng kết của IMF sự độc lập của NHTW các nước có thể chia ra làm 4
mức độ:

Một là, "Độc lập trong việc thiết lập mục tiêu": Trong mô hình này, NHTW có
trách nhiệm quyết định CSTT và chế độ tỷ giá nếu như nó không được thả nổi. Độc lập
về mục tiêu là trao cho NHTW thẩm quyền được quyết định lựa chọn cho mình mục tiêu
hoạt động chủ yếu trong số vài mục tiêu đã được luật định. Mức độ độc lập này là cao
nhất mà một NHTW có thể có được. Ví dụ điển hình cho kiểu độc lập này là Hệ thống
dự trữ liên bang Mỹ - Fed mà mục tiêu chủ yếu được nó lựa chọn trong số các mục tiêu
có thể xung đột với nhau là toàn dụng nhân công và ổn định giá cả.
Trang 6/31
Tìm hiểu tính độc lập của NHTW
Mô hình này là hình thức tự chủ cao nhất nhưng cũng khó áp dụng nhất. Một
NHTW muốn đạt được mức độ độc lập này phải có một mức độ tín nhiệm rất cao đối
vơi công chúng và các nhà chính trị để có thể chuyển đổi mục tiêu thành công, đặc biệt
khi đang trong giai đoạn phải thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt. Ngoài ra, mô hình này
đòi hỏi NHTW phải có được khả năng thống kê kinh tế - tài chính đặc biệt chính xác để
trên cơ sở đó có thể đưa ra được những dự báo kinh tế tốt. Để áp dụng mô hình này
cũng đòi hỏi phải có sự hiểu biết sâu sắc về các biến số kinh tế khác nhau, về tổng sản
phẩm quốc nội và về những mối liên kết giữa cung tiền, lãi suất và nền kinh tế. Điều này
là cần thiết để có thể quyết định tỷ lệ tăng trưởng cung ứng tiền tệ phù hợp nhằm duy trì
sự ổn định giá cả. Do chính sách tiền tệ có tác động tới nền kinh tế sau một độ trễ nhất
định (lên tới 18 tháng và có thể dài hơn để có thể đạt được hiệu ứng đầy đủ) nên những
dự báo kinh tế tốt là yếu tốt quan trọng đảm bảo cho một NHTW hoàn thành được mục
tiêu hoạt động chủ yếu của mình.
Hai là, "Độc lập trong việc xây dựng chỉ tiêu hoạt động": Ở mô hình này NHTW
được trao trách nhiệm quyết định chính sách tiền tệ và chế độ tỷ giá nhưng khác với
kiểu Độc lập về mục tiêu. Độc lập trong việc xây dựng chỉ tiêu hoạt động có một mục
tiêu chủ yếu đã được xác định rõ ràng trong Luật.
Độc lập trong việc xây dựng chỉ tiêu hoạt động là một mô hình NHTW khắt khe
hơn về mức độ tự chủ của NHTW. Ở mô hình này NHTW chỉ có một mục tiêu duy nhất
được quy định trong Luật NHTW và bất kỳ sự thay đổi nào cũng đòi hỏi Luật phải được
bổ sung, chỉnh sửa. Hình thức độc lập này có lẽ phù hợp với trường hợp của NHTW

Châu Âu - ECB khi mà có tới 25 nước có chủ quyền, một số này hùng cường hơn một
số khác, đang lôi kéo theo định hướng của riêng từng nước nhằm đáp ứng mục tiêu
kinh tế xã hội của quốc gia mình.
Ba là, "Tự chủ trong việc lựa chọn công cụ điều hành": Theo mô hình này thì
Chính phủ hoặc Quốc hội quyết định chỉ tiêu chính sách tiền tệ, có sự bàn bạc, thoả
thuận với NHTW. Sau khi Quyết định được thông qua, NHTW sẽ có trách nhiệm hoàn
thành chỉ tiêu. Như vậy NHTW sẽ được trao đủ thẩm quyền cần thiết để có thể toàn
quyền lựa chọn những công cụ điều hành chính sách tiền tệ phù hợp nhất sao cho đạt
tới mục tiêu đã xác định. Trên thế giới hiện có tới 36% trong số các NHTW của các
quốc gia có mức thu nhập cao, 42% số các NHTW của các quốc gia có mức thu nhập
trung bình khá và trên 50% thuộc các nước có mức thu nhập dưới trung bình lựa chọn
kiểu tự chủ này đối với NHTW.
Yêu cầu của hình thức tự chủ trong việc lựa chọn công cụ điều hành là cần thiết
phải đạt được thoả thuận giữa Chính phủ hoặc Quốc hội với NHTW. Nội dung chính
của thoả thuận là công bố chỉ tiêu cho chính sách tiền tệ hoặc chế độ tỷ giá và được
thiết lập cho một giai đoạn xác định. Trên cơ sở ý kiến của NHTW, chỉ tiêu tiền tệ có thể
được thiết lập dưới hình thức độ tăng trưởng cung tiền hoặc lạm phát giá cả cần đạt
được theo trục thời gian của sự thoả thuận. NHTW có đủ thẩm quyền để lựa chọn cách
tốt nhất sao cho đạt tới chỉ tiêu được giao. Sự không hoàn hảo của những thông tin kinh
tế có trong tay đòi hỏi phải linh hoạt, mềm dẻo trong cách tiếp cận và đặc tính kỹ thuật
của các thị trường tài chính gợi ý mạnh mẽ rằng việc lựa chọn công cụ nào là tốt nhất
nên thuộc về thẩm quyền của NHTW - cơ quan có đủ chuyên môn kỹ thuật cần thiết để
thực hiện. Điều này càng có sức thuyết phục hơn khi mà các NHTW đang nhanh chóng
Trang 7/31
Tìm hiểu tính độc lập của NHTW
tiến tới sử dụng các công cụ gián tiếp để đạt tới các mục tiêu chính sách tiền tệ của
mình. Vì vậy, đòi hỏi một sự hiểu biết sâu sắc về sự vận hành của các thị trường tài
chính và công cụ quản lý vốn khả dụng của hệ thống Ngân hàng.
Việc áp dụng mô hình tự chủ này có thuận lợi quan trọng nhất là nó cho phép có
sự hoà hợp giữa chính sách tiền tệ với các mục tiêu của chính sách kinh tế tổng thể của

một nước trong một giai đoạn nhất định, thường là từ 3 tới 5 năm. Cũng qua mô hình
này, NHTW có trách nhiệm giải trình đầy đủ cho những hành động của mình về chính
sách tiền tệ trước những nhà chính trị được bầu hợp pháp. Hơn nữa, việc các cơ quan
có thẩm quyền lẫn NHTW cùng thông báo quyết định sẽ tạo điều kiện thực hiện sự công
khai minh bạch về hoạt động của NHTW. Như vậy, trong mô hình này NHTW không chỉ
đóng vai trò quan trọng trong việc đề xuất mức chỉ tiêu hoạt động và thoả hiệp về chỉ
tiêu đó mà còn có toàn quyền (được luật định) trong việc lựa chọn cách tốt nhất để đạt
tới chỉ tiêu bằng cách sử dụng các công cụ được cho là thích hợp nhất.
Bốn là, "Mức độ tự chủ bị hạn chế thậm chí không có": Ở hình thức này Chính
phủ là người quyết định chính sách (cả mục tiêu lẫn chỉ tiêu hoạt động) cũng như là
thường xuyên can thiệp vào quá trình triển khai thực thi chính sách. Ở vị thế này,
NHTW thực chất chỉ là một cơ quan của Chính phủ - cơ quan ngang bộ. Vì vậy NHTW
không phát huy hết được khả năng, vai trò của mình trong việc xây dựng, điều hành
chính sách tiền tệ, ổn định giá cả, hỗ trợ kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
2.3. Các cơ chế thể hiện tính độc lập của NHTW.
Các hình thức xem xét về tính độc lập của NHTW: khi xem xét về mức độ độc
lập của NHTW, chúng ta thường xem xét những vấn đề sau đây:
- Độc lập về tài chính
 Ai sở hữu NHTW?
 Khả năng NN tài trợ chi tiêu nhờ các khoản vay từ NHTW
 Quan hệ giữa chính sách tiền tệ và tài chính công
- Độc lập về nhân sự
 Đại diện của nhà nước trong hệ thống quản trị NHTW
 Ảnh hưởng của NN đối với bổ/miễn nhiệm nhân sự chủ chốt
- Độc lập về chính sách
 Độc lập về mục tiêu
 Độc lập về công cụ.
3. SỰ ĐỘC LẬP CỦA NHTW CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI.
3.1. Các hình thức sở hữu NHTW trên thế giới.
Sở hữu nhà nước Sở hữu tư nhân Kết hợp sở hữu nhà nước và tư nhân

Argentina South Africa Austria (50% cổ phần chính phủ)
Trang 8/31
Tìm hiểu tính độc lập của NHTW
Australia Switzerland Belgium (50%)
Canada United States Chile (50%)
Denmark Greece (10%)
Finland Japan (55%)
France Mexico (51%)
Germany Turkey (25%)
India Italy (Public company)
Ireland
Netherland
New Zealand
Norway
Spain
Sweeden
United Kingdom
Nghiên cứu của Alesina và Summers (1993) dựa trên các quan sát giai đoạn từ
năm 1955-1988 cho thấy có mối quan hệ nghịch biến giữa tính độc lập của NHTW với
lạm phát bình quân và với sự biến thiên của chỉ số lạm phát. Kết quả này cũng phù hợp
với những kết quả nghiên cứu khác của Cukierman, Webb và Neyapti (1992), Debelle
và Fischer (1994).
Mức độ độc lập của NHTW và mức lạm phát ở một số nước (1955-1988).
Trang 9/31
Tìm hiểu tính độc lập của NHTW
Nguồn: Alesina and Summers (1993), trích lại trong Pollard (1993)
Mức độ độc lập của NHTW và biến thiên lạm phát ở một số nước (1955-1988)
Nguồn: Alesina and Summers (1993), trích lại trong Pollard (1993)
Nghiên cứu của Pollard (1993) về mối quan hệ giữa tính độc lập của NHTW với
cán cân ngân sách trong giai đoạn từ năm 1973-1989 đã chứng minh rằng ở những

nước có NHTW độc lập cao thì tỷ lệ thâm hụt ngân sách càng giảm.
Mức độ độc lập của NHTW và mức thâm hụt NS ở một số nước (1973-89)
Nguồn: Pollard (1993)
Trang 10/31
Tìm hiểu tính độc lập của NHTW
Mức độ độc lập của NHTW và biến thiên của thâm hụt NS (1973 – 1989)
Nguồn: Pollard (1993)
3.2. Nghiên cứu tình huống New Zealand
New Zealand là một trong số các quốc gia đầu tiên và thành công nhất của
OECD trong việc bình ổn giá cả, thực hiện chính sách lạm phát mục tiêu và là quốc gia
có những bước cải cách căn bản đầu tiên trong hoạt động của NHTW.
Năm 1989, hoạt động của Ngân hàng Dự trữ New Zealand đã có bước đột phá
với 2 cải cách lớn: thứ nhất, Ngân hàng Dự trữ được độc lập nhiều hơn với Chính phủ.
Thứ hai, đã thiết lập được một chính sách lạm phát mục tiêu rõ ràng mà sau này nhiều
quốc gia đã lần lượt áp dụng. Xét về sự độc lập tối thiểu của một NHTW, Ngân hàng Dự
trữ New Zealand lúc bấy giờ đứng vào tốp đầu tiên.
Các chuyên gia của Tạp chí Economic commentary đã cho rằng chính sự độc
lập cao hơn của Ngân hàng Dự trữ New Zealand là chìa khóa cho thành công trong
quản lý lạm phát ở New Zealand.
Trước năm 1989, Ngân hàng Dự trữ New Zealand là một “đại lý” của Chính phủ
và được trao rất ít sự độc lập. NHTW này chỉ hoạt động với tư cách là cố vấn cho Chính
phủ New Zealand, vì vậy CSTT của nó như là một công cụ hoạt động theo ý muốn của
Bộ Tài chính.
Lịch sử cho thấy, New Zealand đã được xếp vào loại những quốc gia có Điểm
số độc lập của NHTW thấp nhất và tỷ lệ lạm phát của nó đứng vào loại cao nhất trong
thế giới các nước Công nghiệp. Suốt thập niên 70, mức độ lạm phát của New Zealand
luôn ở ngưỡng 2 con số, đôi lúc lên đến 18%.
Trang 11/31
Tìm hiểu tính độc lập của NHTW
Từ những năm 1989, Ngân hàng Dự trữ New Zealand đã có một sự chuyển

mình mạnh mẽ trong điều hành. Điều này thể hiện qua việc Quốc hội New Zealand đã
nhanh chóng sửa đổi các đạo luật có liên quan, xây dựng và hoàn thiện các đạo luật
mới trong đó khẳng định tiên quyết rằng “Chức năng chủ yếu của Ngân hàng Dự trữ
New Zealand là trực tiếp xây dựng và hoàn thiện Chính sách tiền tệ hướng vào việc đạt
được các mục tiêu kinh tế và duy trì sự ổn định giá cả ”
Có thể kể ra một số những thay đổi căn bản trong hoạt động điều hành CSTT
của Ngân hàng Dự trữ New Zealand:
- Để ổn định giá cả, Quốc hội New Zealand đã đưa Chính sách lạm phát mục
tiêu vào trong hiến pháp. Việc lượng hóa mục tiêu lạm phát là kết quả của sự
trao đổi “công bằng, nghiêm túc” giữa Chính phủ và NHTW.
- NHTW New Zealand được phép xem xét tác động và đề xuất những kiến nghị
để giải quyết những tình huống có thể ảnh hưởng đến sự ổn định giá, như sự
biến động của kim ngạch xuất nhập khẩu, các loại thuế,
- NHTW New Zealand được thực sự độc lập trong việc theo đuổi mục tiêu CSTT
mà không bị hạn chế về mặt kỹ thuật, ngoại trừ trường hợp là việc thực hiện
CSTT phải cân nhắc đến tính hiệu quả và sự ổn định của hệ thống tài chính.
Đặc biệt, ngân hàng này được toàn quyền quyết định các điều kiện tiền tệ (như
các khối tiền M1, M2, M3, lãi suất, tỷ giá, ) trên cơ sở một thỏa ước với Bộ Tài
chính và sự cân nhắc các ý kiến đóng góp của các cơ quan chức năng khác.
Trong quá trình quản lý ổn định giá, NH Dự trữ đã rút ra kết luận sau đây:
- Việc theo đuổi quá nhiều mục tiêu sẽ hạn chế năng lực và tính chủ động của
một NHTW, hay nói cách khác, “việc NHTW tập trung giải quyết quá nhiều
trách nhiệm đối với Chính phủ sẽ làm giảm sút tính linh hoạt của nó”.
- Những chủ trương mới này đã cho phép NHTW đề ra được chính sách lạm
phát mục tiêu tương ứng với từng thời kỳ và có được những địa vị pháp lý
cũng như tính chủ động cao hơn trong giải quyết các mục tiêu ở trên. Ngoài ra,
việc thay đổi nhiệm kỳ của Nội Các Chính phủ không ảnh hưởng đến hoạt
động của Ban lãnh đạo NHTW.
Có thể thấy rõ, trong thời kỳ thứ nhất Ngân hàng Dự trữ New Zealand có số
điểm thấp nhất trong số các quốc gia Công nghiệp được nghiên cứu, tuy nhiên ở giai

đoạn sau, nó bứt phá lên tốp những NHTW có sự độc lập cao nhất.
Chúng ta có thể khẳng định chắc chắn rằng sự giảm xuống trong tỷ lệ lạm phát
ở New Zealand (trung bình 4,2%) nhờ chủ yếu vào sự tăng lên mạnh mẽ tính độc lập
của Ngân hàng Dự trữ New Zealand.
Như vậy, với những bằng chứng đưa ra cho thấy rằng đã có một mối quan hệ về
mặt nguyên tắc hết sức rõ ràng giữa tính độc lập của một NHTW và mức độ lạm phát
trong dài hạn. Một NHTW độc lập là cách thức hữu hiệu nhất để đảm bảo duy trì một
mức lạm phát thấp và hợp lý.
Trang 12/31
Tìm hiểu tính độc lập của NHTW
3.3. Hệ thống dự trữ liên bang Mỹ (FED)
3.3.1. Lịch sử hình thành
1791-1811: Ngân hàng thứ nhất của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ - The First Bank of
the United States được thành lập và đi vào hoạt động sau khi tổng thống Washington
đặt bút ký trao quyền thành lập với thời gian có hiệu lực 20 năm.
1816-1836: Ngân hàng thứ hai của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ - The Second Bank
of the United States được thành lập và đi vào hoạt động sau khi tổng thống Madison đặt
bút ký trao quyền thành lập với thời gian có hiệu lực 20 năm.
23/12/1913: Tổng thống Wilson ký dự luật Cục Dự trũ Liên bang Mỹ. Trong suốt
thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, nền kinh tế Mỹ chịu nhiều đe dọa từ những yếu kém của hệ
thống tài chính, dẫn đến những thất bại trong hệ thống ngân hàng và hàng loạt doanh
nghiệp phải phá sản. Cuộc khủng hoảng nghiêm trọng 1907 xảy ra đã thôi thúc quốc hội
Mỹ phải thành lập ngay một Ủy ban tiền tệ quốc gia, đồng thời đã đưa ra những đề nghị
thiết lập một thể chế có thể giúp ngăn ngừa và chống đỡ được những rủi ro trong lĩnh
vực tài chính. Sau các cuộc thảo luận kỹ lưỡng, Quốc hội Mỹ đã thông qua Hiệp ước
Dự trữ liên bang nhằm "tạo cơ sở cho sự ra đời của các ngân hàng dự trữ liên bang,
cung cấp các phương tiện đủ khả năng để tái chiết khấu các chứng từ thương mại, thiết
lập một cơ chế giám sát ngân hàng có hiệu quả hơn ở Mỹ, và vì nhiều mục đích khác
nữa". Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson đã ký thông qua hiệp ước thành luật vào
23/12/1913, chính thức thành lập Cục dự trữ liên bang Mỹ.

3.3.2. Cơ cấu FED.
Lãnh đạo FED là Hội đồng thống đốc gồm 7 thành viên do Tổng thống bổ nhiệm
và Thượng viện phê chuẩn. Mỗi thành viên có nhiệm kỳ cố định 14 năm, trên thực tế là
không được gia hạn. Trong đó, không có 2 thành viên nào đến từ cùng một vùng và
riêng Chủ tịch Fed có nhiệm kỳ 4 năm và có thể được gia hạn. Hội đồng ấn định mức
dự trữ bắt buộc và kiểm soát lái suất tái chiết khấu
FED bao gồm 12 ngân hàng dự trữ liên bang đại diện cho 12 vùng và 25 chi
nhánh ở khắp nước Mỹ. Mỗi ngân hàng Dự trữ liên bang đại diện cho một quận và
được đặt tên theo tên thành phố mà nó đặt trụ sở, đó là Boston, New York,
Philadelphia, Cleveland, Richmond, Atlanta, Chicago, St. Louis, Minneapolis, Kansas
City, Dallas, San Francisco.
Theo Tòa án tối cao Mỹ, các Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực không phải là
công cụ của chính quyền liên bang, chúng là các ngân hàng độc lập, sở hữu tư nhân và
hoạt động theo luật pháp ở địa phương. Phán quyết trên cũng cho rằng, các Ngân hàng
dự trữ liên bang khu vực có thể được coi là công cụ của chính quyền liên bang theo một
số mục đích nhất định. Trong một phán quyết khác ở tòa án cấp bang, sự khác biệt
giữa Hội đồng thống đốc và các Ngân hàng được quy định rõ ràng. Giấy bạc do Fed
phát hành là nguồn cung tiền tệ và chúng được đưa vào lưu thông qua các Ngân hàng
dự trữ liên bang khu vực
Trang 13/31
Tìm hiểu tính độc lập của NHTW
Các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực và ngân hàng thành viên
Tất cả các ngân hàng đều là thành viên của FED, phải tuân thủ mức dự trữ bắt
buộc, được vay tiền từ FED, được thanh toán bù trừ tại FED, chịu sự giám sát về các
hoạt động bởi FED. Mỗi ngân hàng dự trữ liên bang có 9 thống đốc:
- Nhóm A: 3 thống đốc, là những nhà chuyên môn trong lĩnh vực ngân hàng, do
các ngân hàng tư nhân trong vùng bầu ra
- Nhóm B: 3 thống đốc, là những nhà lãnh đạo xuất chúng đại diện cho khu vực
công nghiệp, nông nghiệp, lao động, người tiêu dùng, cũng do các ngân hàng
tư nhân trong vùng bầu ra

- Nhóm C: 3 thống đốc, đại diện cho lợi ích cộng đồng, do Hội đồng thống đốc
Fed cử (không được là quan chức, nhân viên, hay cổ đông của ngân hàng)
Mỗi một trong số 12 ngân hàng dự trữ liên bang được tổ chức giống như một
doanh nghiệp mà cổ phần được bán cho các ngân hàng thương mại và tổ chức tiết
kiệm tại khu vực của ngân hàng đó. Các cổ đông bầu ra sáu trong số chín người thống
đốc lập nên ban giám đốc và Chủ tịch Cục dự trữ liên bang tại mỗi địa phương với sự
phê chuẩn của Hội đồng thống đốc FED
Trang 14/31
Tìm hiểu tính độc lập của NHTW
3.3.3. Ủy ban thị trường mở liên bang (FOMC)
Ủy ban Bao gồm 12 thành viên: 7 thành viên của Hội đồng thống đốc, chủ tịch
ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và 4 chủ tịch (luân phiên) của 11 ngân hàng dự
trữ liên bang, Chủ tịch Fed đồng thời là chủ tịch FOMC. FOMC họp 1 năm 8 lần để
quyết định về hoạt động của thị trường mở. Vì các nghiệp vụ thị trường tự do là một
công cụ quan trọng của FED để kiểm soát cung ứng tiền tệ nên FOMC là tiêu điểm cho
việc hoạch định chính sách cuả hệ thống Dự trữ Liên bang. Trên thực tế, cả 3 quyết
định quan trọng của Fed (nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc, hệ số chiết khấu)
đều được quyết định ở cuộc họp FOMC.
3.3.4. Sứ mệnh của FED gồm một số nhiệm vụ chính như:
- Thực thi những chính sách tiền tệ quốc gia để duy trì mức việc làm, giá cả ổn
định và lãi suất tương đối thấp.
- Giám sát và quản lý các thể chế ngân hàng để đảm bảo đó là những nơi an
toàn để gửi tiền và để bảo vệ quyền lợi tín dụng của người dân.
- Cung cấp các dịch vụ tài chính cho các tổ chức tín dụng, Chính phủ Mỹ và
Ngân hàng trung ương các nước khác như thanh toán bù trừ, thanh toán điện
tử, phát hành tiền
- Ngoài ra FED còn tiến hành các nghiên cứu về nền kinh tế Mỹ cũng như kinh
tế các bang, cung cấp thông tin về nền kinh tế thông qua các ấn phẩm, hội thảo
giáo dục và qua website.
3.3.5. FED đã tác động đến nền kinh tế toàn cầu như thế nào?

Thứ nhất các quyết định về tăng giảm lãi suất của FED tác động trực tiếp đến
sức mạnh của đồng USD, qua đó ảnh hưởng mạnh đến các đối tác thương mại của Mỹ.
Trang 15/31
Tìm hiểu tính độc lập của NHTW
Nếu FED tăng lãi suất đồng USD nhằm kiềm chế lạm phát, vô hình chung làm tăng sức
mạnh của đồng USD trên thị trường tiền tệ quốc tế, làm tăng nhập khẩu, giảm xuất
khẩu, giảm đầu tư vào Mỹ.
Thứ hai, FED còn trực tiếp can thiệp vào việc xác lập giá trị đồng USD thông
qua hoạt động mua bán USD và các ngoại tệ khác. Ví dụ, nếu Mỹ bán đồng Yen ra
đồng thời mua vào USD thì giá trị của USD sẽ tăng, trong khi giá trị Yen giảm xuống,
dẫn đến tỉ giá USD/Yen tăng.
Chính vì vậy những chuyên tham gia vào thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế
không bao giờ bỏ qua những diễn biến của FED.
3.3.6. Kết luận.
Nói tóm lại, qua những thông tin cho ta thấy tính độc lập gần như ở mức cao
nhất của FED thể hiện qua các cơ chế sau:
- Độc lập về tài chính
 Thu nhập của Fed rất lớn từ việc nắm giữ chứng khoán và từ các khoản cho
ngân hàng thương mại vay
 Thu nhập này sau đó phải chuyển vào ngân khố.
- Độc lập về nhân sự
 Hội đồng thống đốc
 Uỷ ban nghiệp vụ thị trường mở
- Độc lập về chính sách
 Mục tiêu
 Công cụ
- Niềm tin của thị trường đối với FED
4. XEM XÉT TÍNH ĐỘC LẬP CỦA NHNN VIỆT NAM.
4.1. Lịch sử hình thành:
Trên cơ sở chủ trương chính sách mới về tài chính - kinh tế mà Đại hội Đảng

toàn quốc lần thứ II (tháng 2/1951) đã đề ra, ngày 6 tháng 5 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký Sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam với các nhiệm
vụ chủ yếu là: Quản lý việc phát hành giấy bạc và tổ chức lưu thông tiền tệ, quản lý Kho
bạc nhà nước, thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu
dịch để quản lý tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với địch.
Quá trình phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam kể từ khi Ngân hàng
Quốc gia Việt nam ra đời đến nay có thể chia thành 4 thời kỳ như sau:
1. Thời kỳ 1951-1954: Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập và hoạt
động độc lập tương đối trong hệ thống tài chính, thực hiện trọng trách đầu tiên: Phát
hành giấy bạc Ngân hàng, thu hồi giấy bạc Tài chính; Thực hiện quản lý Kho bạc Nhà
Trang 16/31
Tìm hiểu tính độc lập của NHTW
nước góp phần tăng thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý thu chi ngân sách; Phát triển
tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hóa, tăng cường lực lượng kinh
tế quốc doanh và đấu tranh tiền tệ với địch.
2. Thời kỳ 1955-1975: Đây là thời kỳ cả nước kháng chiến chống Mỹ, miền Bắc
vừa xây dựng, chiến đấu, vừa chi viện cho cách mạng giải phóng miền Nam. Trong thời
kỳ này, Ngân hàng Quốc gia thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Củng cố thị trường tiền tệ, giữ cho tiền tệ ổn định, góp phần bình ổn vật giá,
tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc khôi phục kinh tế trong chiến tranh phá hoại bằng
không quân của Mỹ ở miền Bắc.
- Phát triển công tác tín dụng nhằm phát triển sản xuất lương thực, đẩy mạnh
khôi phục và phát triển nông, công, thương nghiệp, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược: xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và giải phóng miền Nam.
3. Thời kỳ 1975-1985: Là giai đoạn khôi phục kinh tế sau chiến tranh giải phóng
và thống nhất nước nhà. Nhiệm vụ cụ thể của ngành Ngân hàng là tiến hành thiết lập
hệ thống Ngân hàng thống nhất trong cả nước và thanh lý hệ thống Ngân hàng của chế
độ cũ ở miền Nam. Theo đó, Ngân hàng Quốc gia của chính quyền Việt Nam Cộng
hòa đã được quốc hữu hóa và sáp nhập vào hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
cùng thực hiện nhiệm vụ thống nhất tiền tệ trong cả nước, phát hành các loại tiền mới

của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thu hồi các loại tiền cũ ở cả hai miền
Nam- Bắc vào năm 1978. Trong giai đoạn này, hệ thống Ngân hàng Nhà nước về cơ
bản vẫn hoạt động như là một công cụ ngân sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh
doanh tiền tệ theo nguyên tắc thị trường.
4. Thời kỳ 1986 đến nay: Là quá trình đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống
Ngân hàng Việt Nam:
- Tháng 7/1987: Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 218/CT cho phép làm thử
việc chuyển hoạt động của Ngân hàng sang kinh doanh XHCN.
- Tháng 3/1988: Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 53/HĐBT với định
hướng cơ bản là chuyển hẳn hệ thống ngân hàng sang hoạt động kinh doanh.
- Tháng 5/1990: Hội đồng Nhà nước thông qua và công bố 2 Pháp lệnh về ngân
hàng (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh ngân hàng, hợp
tác xã tín dụng và công ty tài chính). Sự ra đời của 2 Pháp lệnh Ngân hàng đã
chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ một
cấp sang hai cấp, trong đó Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, ngân hàng và thực thi nhiệm vụ của
một Ngân hàng trung ương; các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng
kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong
khuôn khổ pháp luật.
- Tháng 10/1993, quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và cộng đồng tài chính quốc tế
(Quỹ Tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á) được
tái lập và khơi thông.
Trang 17/31
Tìm hiểu tính độc lập của NHTW
- Ngày 2/12/1997, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín
dụng được Quốc hội khóa X chính thức thông qua và có hiệu lực thi hành từ
ngày 1/10/1998.
- Ngày 16/6/2010 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín
dụng được Quốc hội khóa XII chính thức thông qua và có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2011. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang

bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước
về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối; thực hiện chức năng Ngân hàng
trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng
dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn
định giá trị đồng tiền; bảo đảm sự an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống
các tổ chức tín dụng; bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ thống thanh toán
quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
4.2. Chức năng nhiệm vụ của Ngân Hàng Nhà Nước:
Nghị định số 178/2007/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2007 và Nghị định số
96/2008/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 26/08/2008 quy đỊnh chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng nhà nước Việt Nam như sau:
4.2.1. Vị trí và chức năng:
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và chức năng Ngân hàng
Trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quản lý nhà nước các dịch
vụ công thuộc phạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước.
4.2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn:
1. Trình Chính phủ dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp
lệnh, dự thảo nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội ; dự thảo nghị định của Chính
phủ theo chương trình, kế hoạch xây dựng pháp luật hàng năm của Ngân hàng Nhà
nước đã được phê duyệt và các dự án, đề án theo sự phân công của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ.
2. Trình Thủ tướng Chính phủ chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển dài
hạn, năm năm, hàng năm; chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình hành động và
các dự án, công trình quan trọng thuộc lĩnh vực ngân hàng; dự thảo quyết định, chỉ thị
và các văn bản khác thuộc thẩm quyền chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng Chính phủ
theo quy định của pháp luật.
3. Ban hành thông tư, quyết định, chỉ thị thuộc lĩnh vực quản lý của Ngân hàng

Nhà nước.
4. Chỉ thị, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật,
chiến lược, quy hoạch, chương trình, dự án, công trình quan trọng thuộc phạm vi quản
Trang 18/31
Tìm hiểu tính độc lập của NHTW
lý của Ngân hàng Nhà nước đã được phê duyệt; thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước.
5. Xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia, trình Chính phủ để trình Quốc
hội; sử dụng lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ
khác để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia; trình Chính phủ đề án phát triển hệ thống
ngân hàng và các tổ chức tín dụng.
6. Cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng, trừ
trường hợp do Thủ tướng Chính phủ quyết định; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngân
hàng của các tổ chức khác; quyết định giải thể, đổi tên và chấp thuận việc chia, tách,
hợp nhất, sáp nhập các tổ chức tín dụng; hướng dẫn về các điều kiện thành lập và hoạt
động của các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật.
7. Kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng; kiểm soát tín dụng; xử lý
các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo quy
định của pháp luật.
8. Quản lý ngoại hối.
9. Xây dựng cán cân thanh toán quốc tế
10. Quản lý việc vay, trả nợ nước ngoài của người cư trú là tổ chức kinh tế, tổ
chức tín dụng và cá nhân theo quy định của pháp luật
11. Quản lý cho vay và thu hồi nợ nước ngoài của Chính phủ, tổ chức kinh tế, tổ
chức tín dụng
12. Đàm phám, ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế về tiền tệ và hoạt động
ngân hàng
13. Đại diện cho nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các ngân hàng
và tổ chức tiền tệ quốc tế theo ủy quyền của Chủ tịch nước, Chính phủ:
14. Thực hiện các nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương:

15. Quyết định phê duyệt và tổ chức thực hiện các dự án đầu tư thuộc thẩm
quyền; thẩm định và kiểm tra việc thực hiện các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực ngân hàng
theo quy định của pháp luật.
16. Quản lý tài chính, tài sản được giao theo quy định của pháp luật; được sử
dụng các khoản trích từ nguồn thu hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ về ngoại hối, tiền
tệ và hoạt động ngân hàng để phục vụ công tác chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định
của pháp luật.
17. Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng
theo quy định của pháp luật.
Trang 19/31
Tìm hiểu tính độc lập của NHTW
18. Tổ chức và chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ khoa
học, công nghệ và bảo vệ môi trường trong lĩnh vực ngân hàng theo quy định của pháp
luật.
19. Quyết định các chủ trương, biện pháp cụ thể và chỉ đạo thực hiện cơ chế
hoạt động của các tổ chức dịch vụ công trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng;
quản lý và chỉ đạo hoạt động đối với các tổ chức sự nghiệp thuộc thẩm quyền theo quy
định của pháp luật;
20. Thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp có
vốn nhà nước.
21. Hướng dẫn và kiểm tra hoạt động của hội, tổ chức phi chính phủ trong
ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước; xử lý hoặc kiến nghị
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của hội, tổ
chức phi Chính phủ theo quy định của pháp luật.
22. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng thuộc thẩm quyền; phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực, quan liêu, cửa quyền; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
theo quy định của pháp luật.
23. Quyết định và chỉ đạo thực hiện chương trình cải cách hành chính của Ngân
hàng Nhà nước theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính của Chính

phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; quyết định và chỉ đạo đổi mới phương thức
làm việc, hiện đại hóa công sở và ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ hoạt động của
Ngân hàng Nhà nước.
24. Quản lý ngạch công chức, viên chức chuyên ngành thuộc lĩnh vực ngân
hàng;
26. Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế về tiền lương, tuyển dụng và
sử dụng cán bộ, công chức, viên chức phù hợp với đặc thù của Ngân hàng Nhà nước.
27. Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác do Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ giao và theo quy định của pháp luật.
Trang 20/31
Tìm hiểu tính độc lập của NHTW
4.3. Sơ đồ cơ cấu tổ chức Ngân hàng Nhà Nước
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được xây dựng theo mô hinh là cơ quan ngang
bộ trực thuộc Chính phủ
Vụ cục Ngân hàng Trung Ương là tổ chức giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
thực hiện chức năng quản lý nhà nước và chức năng Ngân hàng Trung ương.
4.4. Tính độc lập của NHNN Việt Nam
4.4.1. Cơ sở pháp lý
- Hiến pháp năm 1992
- Luật NHNN 1997 sửa đổi 2003
- Luật NHNN 2010 gồm 7 chương, 66 Điều. Trong đó, bổ sung mới 26 điều, sửa
đổi, bổ sung 38 điều, giữ nguyên 5 điều và huỷ bỏ 4 điều trong Luật Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam 2003
Trang 21/31
Tìm hiểu tính độc lập của NHTW
4.4.2. Tính độc lập về vị trí pháp lý
Điều 84 Hiến pháp 1992 quy định: “Quốc hội quyết định chính sách tài chính tiền
tệ quốc gia”
Luật NHNN 1997, Luật sửa đổi 2003 quy định về:
- Vị thế: NHNN Việt Nam là cơ quan của Chính phủ và là NHTW của nước Cộng

hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Chức năng: NHNN thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín
dụng và ngân hàng làm các dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ
- Mục tiêu: Hoạt động của NHNN nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần bảo
đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy
phát triển kinh tế – xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Địa vị pháp lý: NHNN là một pháp nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu Nhà
nước.
Luật NHNN 2010 quy định về địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
vẫn giữ nguyên như thể hiện trong Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1997 để phù
hợp với thể chế chính trị và Hiến pháp 1992. Tuy nhiên, cách thiết kế trong Luật Ngân
hàng Nhà nước 2010 đã thể hiện rõ hơn vị trí của NHNN:
- NHNN là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ (điều 2)
- Xác định rõ các chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước với tư cách là
NHTW của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện các chức
năng về quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng (Điều
1), qua đó, khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa hai chức năng quan trọng
của một Ngân hàng Trung ương: Thực thi chính sách tiền tệ và giám sát an
toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng. Như vậy, Luật NHNN 2010
không làm thay đổi vị trí pháp lý của NHNN, vì điều này còn phụ thuộc vào hiến
pháp 1990. Hay nói cách khác, để nâng cao vị trí của NHNN phải bắt nguồn từ
việc sửa đổi Hiến pháp.
Nhận xét: Khi NHNN VN là một cơ quan của Chính phủ thì tổ chức hoạt động
của nó chắc chắn sẽ phụ thuộc rất nhiều vào Chính phủ. NHNN trở thành một công cụ,
một cánh tay của chính phủ trong cơ chế vận hành chính sách tiền tệ quốc gia do đó đã
làm mất đi tính linh hoạt, tự chủ vốn có của một NHTW. Gần như mọi hoạt động của
NHNN đều phải được sự cho phép của Chính phủ như hoạt động phát hành tiền, thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia, hoạt động cho ngân sách trung ương vay, bảo lãnh
cho các doanh nghiệp vay vốn nước ngoài, cho vay các tổ chức tín dụng trong trường

hợp đặc biệt. Nhất là khi Chính phủ còn "chủ quản" nhiều doanh nghiệp nhà nước nên
đôi khi NHNN rất khó xử khi có "mệnh lệnh" trái ngược với sứ mệnh và các chính sách
tiền tệ và các quy chế điều tiết hệ thống ngân hàng thương mại của mình Nếu NHNN là
cơ quan điều tiết độc lập và luật cấm sự can thiệp hành chính như vậy của cơ quan
hành pháp thì những cơ hội như thế không còn hay được giảm rất nhiều, hệ thống có
Trang 22/31
Tìm hiểu tính độc lập của NHTW
khả năng vận hành lành mạnh. Như vậy, nhiệm vụ theo chức năng quản lý nhà nước và
nhiệm vụ theo chức năng NHTW chưa được phân định rõ ràng. Là cơ quan của Chính
phủ, những nhiệm vụ của NHNN nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước được
nhấn mạnh hơn những nhiệm vụ và chức năng của NHTW. Trên thực tế, NHNN có khi
phải làm thay một số nhiệm vụ không bảo đảm cho một CSTT hiệu quả như cho vay tái
cấp vốn dài hạn, tạo nguồn khoanh, xoá các khoản cho vay theo chỉ định, cho vay theo
kế hoạch Nhà nước.
Ví dụ, thực hiện yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp thường trực
Chính phủ ngày 12/06/2010, NHNN Việt Nam đã ra công văn 357/NHNN-TD ngày
17/07/2009 chỉ đạo các Ngân hàng thương mại hỗ trợ lãi suất cho Vinashin (thậm chí
khi cho vay vượt 15% vốn tự có thì có thể báo cáo NHNN để tìm cách giải quyết); xem
xét khoanh và cơ cấu lại khoản nợ cũ của Vinashin, chưa đưa vào nợ xấu để tiếp tục
cho vay thực hiện các hợp đồng đã ký kết.
Hoặc như ngày 24/12/2008, NHNN đã ra văn bản số 11170/NHNN-TD yêu cầu
các Ngân hàng thương mại cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với các khoản vay không trả
nợ đúng hạn, tạo điều kiện cho vay mới đối với các doanh nghiệp thép đang gặp khó
khăn trong sản xuất và kinh doanh do tác động của khủng hoảng tài chính thế giới.
NHNN thuộc chính phủ còn cho phép Chính phủ vay các khoản nợ từ NHNN để
chi tiêu và thực hiện chính sách công bằng cách chỉ đạo NHNN in tiền hoặc thực hiện
các công cụ của chính sách tiền tệ để tạo nguồn cho ngân sách nhà nước. Việc ngân
sách nhà nước liên tục bội chi, thâm hụt càng cho thấy nguy cơ chính phủ phải dựa vào
nguồn tiền từ NHTW cung cấp.
Luật NHNN 2010 có quy định cho phép NHNN được sử dụng vốn pháp định để

góp vốn thành lập doanh nghiệp đặc thù nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
NHNN theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ (Khoản 10, điều 9). NHNN không
tham gia góp vốn vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực khác ngoài chức năng nhiệm vụ
của NHNN. Việc góp vốn thành lập doanh nghiệp nhằm thực thi một số chức năng,
nhiệm vụ của NHNN, không nhằm mục tiêu kinh doanh thu lợi nhuận (như thành lập
Nhà máy in tiền quốc gia, tham gia góp vốn vào Công ty chuyển mạch thẻ quốc gia…).
Luật NHNN 2010 bắt đầu mở hướng cho NHNN được phép tham gia các hoạt
động kinh doanh, cho dù ban đầu chỉ là những hoạt động phục vụ cho việc thực hiện
chức năng nhiệm vụ của mình, không phải vì mục đích thu lợi, tuy nhiên vẫn phải theo
quyết định của Thủ tướng. Nghĩa là bản thân các hoạt động này muốn được thực hiện
phải thông qua sự xem xét và đồng ý của Chính phủ, NHNN không thể tự động tham
gia.
4.4.3. Độc lập về nhân sự, tổ chức, tài chính.
a) Tổ chức của NHNN:
- Luật NHNN 1997, sửa đổi 2003 quy định:
Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của bộ máy điều hành của Ngân hàng Nhà nước
do Chính phủ quy định (điều 10)
Trang 23/31
Tìm hiểu tính độc lập của NHTW
- Luật 2010, điều 7:
Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước do Chính phủ quy định, nhưng cơ cấu
tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước do Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước quy định, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 49 của Luật
này.
b) Thống đốc:
- Luật NHNN 1997, sửa đổi 2003, điều 11 quy định:
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (sau đây gọi là Thống đốc) là thành viên Chính
phủ, chịu trách nhiệm lãnh đạo và điều hành Ngân hàng Nhà nước
Thống đốc có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
 Chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước

quy định tại Điều 5 của Luật này và các quy định của Luật tổ chức Chính phủ;
 Chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội về lĩnh vực mình
phụ trách;
 Đại diện pháp nhân Ngân hàng Nhà nước.
- Luật 2010, điều 7:
Sửa lại rõ hơn lĩnh vực mà Thống đốc phải chịu trách nhiệm: Thống đốc chịu
trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội về quản lý nhà nước trong lĩnh
vực tiền tệ và ngân hàng.
Thêm/ghi rõ: Thống đốc NHNN có các nhiệm vụ, quyền hạn Tổ chức và chỉ đạo
thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia theo thẩm quyền; có quyền thành lập các ban, hội
đồng tư vấn về các vấn đề liên quan đến chức năng
Như vậy, do NHNN thuộc Chính phủ nên Thống đốc NHNN là thành viên của
Chính phủ có hàm tương đương Bộ trưởng. Ngoài ra, Thống đốc đồng thời cũng là một
thành viên trong Ban chấp hành Trung ương Đảng nên còn phải tuân thủ Điều lệ Đảng
và các quyết định của Bộ Chính trị. Giúp việc cho Thống đốc gồm các Phó Thống đốc
nhưng vẫn phải do Thủ tướng bổ nhiệm
c) Quy định về cán bộ công chức của NHNN:
Luật NHNN 2010, điều 9 có ghi rõ:
Việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý cán bộ, công chức Ngân hàng Nhà nước về
nguyên tắc thực hiện theo quy định của Luật cán bộ, công chức. Thủ tướng Chính phủ
quy định cơ chế tuyển dụng, chế độ đãi ngộ cán bộ, công chức phù hợp với hoạt động
nghiệp vụ đặc thù của Ngân hàng Nhà nước.
d) Vấn đề tài chính:
Trang 24/31
Tìm hiểu tính độc lập của NHTW
Vốn pháp định của NHNN do ngân sách nhà nước cấp. Mức vốn pháp định của
Ngân hàng Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Thu, chi tài chính của Ngân hàng Nhà nước về nguyên tắc thực hiện theo quy
định của Luật ngân sách nhà nước. Thủ tướng Chính phủ quy định những nội dung thu,
chi tài chính phù hợp với hoạt động nghiệp vụ đặc thù của Ngân hàng Nhà nước.

Từ kết quả tài chính hàng năm, NHNN được phép trích lập các quỹ nhưng mức
trích lập và việc sử dụng các quỹ này thì theo quy định của Thủ tướng, đồng thời các
khoản còn lại phải nộp vào Ngân sách nhà nước.
Qua một số các quy định cơ bản về khuôn khổ pháp lý và khuôn khổ tổ chức
của NHNN Việt Nam, chúng ta có thể nhận thấy rằng dù từng bước đã khơi thông cho
hoạt động của NHNN thông qua các sửa đổi, bổ sung, cải tiến từ Luật 1997 đến Luật
2010 thì nhìn chung NHNN còn chịu sự can thiệp hầu hết từ phía Chính phủ trên các
mặt tổ chức bộ máy, hoạt động và tài chính. Cụ thể:
- Việc chỉ đạo, điều hành hoạt động của NHNN được giao cho Thống đốc
NHNN, tuy nhiên những quyền hạn và điều kiện cần thiết để bảo đảm Thống
đốc NHNN có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình và tổ chức thực hiện có
hiệu quả mục tiêu của NHNN, đặc biệt là mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền còn
hạn chế.
- Giao cho Chính phủ quy định cụ thể tổ chức bộ máy của NHNN do vậy, Chính
phủ đã quy định tổ chức bộ máy của NHNN cũng như các cơ quan quản lý nhà
nước khác. Điều đó dẫn đến mô hình tổ chức bộ máy của một Ngân hàng
Trung ương do Chính phủ quy định không phù hợp với tổ chức của một cơ
quan quản lý nhà nước do Ngân hàng Trung ương có các chi nhánh hoạt động
trong phạm vi cả nước
- NHNN chưa được quyền quyết định về biên chế lao động, chế độ đãi ngộ, tổ
chức bộ máy để đảm bảo cho NHNN luôn đáp ứng được một cách nhanh
nhạy, linh hoạt đối với những thay đổi của môi trường hoạt động.
- Một Ngân hàng Trung ương cần phải có chế độ tài chính riêng theo nghĩa hoạt
động tài chính độc lập để phù hợp với đặc thù hoạt động ngân hàng. Trong một
chừng mực nào đó, chế độ tài chính độc lập của Ngân hàng Trung ương còn
độc lập ngay với cả ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, tính đặc thù về tài chính
của Ngân hàng Nhà nước chưa được quy định trong Luật mà giao cho Chính
phủ quy định từ về vốn, chế độ thu chi, sử dụng kết quả tài chính.
Những phân tích trên cho thấy hiện nay NHNN có mức độ độc lập thấp và chịu
sự can thiệp hành chính nhiều mặt của Chính phủ. Đây cũng là một trong những

nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của NHNN, nhất là trong việc thực hiện
mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền. Vì vậy, nâng cao tính độc lập của NHNN là một trong
những điều kiện tiên quyết để nâng cao một cách căn bản hiệu quả hoạt động của
NHNN và là nền tảng quan trọng bảo đảm trước hết NHNN thực sự là NHTW và sau đó
là tiến tới một NHTW hiện đại. Theo đó, Luật NHNN và Luật các Tổ chức tín dụng cần
phải sớm được sửa đổi để thể chế hoá tính độc lập của NHNN.
Trang 25/31

×