Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

tâm lý học với việc nghiên cứu hạnh phúc con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.87 KB, 6 trang )

Tâm lý học với việc nghiên cứu hạnh phúc con người
Tâm lý học với việc nghiên cứu hạnh phúc con người
Hạnh phúc là gì? Định nghĩa về nó tưởng vô cùng đơn giản, song lại khiến bao nhà nghiên cứu
phải đau đầu và cho tới nay vẫn chưa có sự thống nhất hoàn toàn trong việc định nghĩa hạnh
phúc.
Nhà tâm lý học Tal Ben-shahar, trong cuốn sách viết dưới nhan đề "Happier: Learn the Secrets
of Daily Joy and Lasting Fulfillment” (tạm dịch: "Để hạnh phúc hơn: Hãy học những bí mật
niềm vui hàng ngày và hiện thực hóa lâu dài"), xuất bản cách đây không lâu, đã miêu tả hạnh
phúc như sự cảm nhận những đều sung sướng và cảm nhận ý nghĩa cuộc đời. Định nghĩa này
không có gì rõ ràng hơn, mới mẻ hơn và về cơ bản không khác gì lắm so với định nghĩa mà nhà
triết học Ba Lan Wadysalf' Tatarkiewicz đã nêu trong một bài báo luận về hạnh phúc viết từ
những năm phát xít Hitler chiếm đóng Ba Lan. Trong bài viết này, ông gọi hạnh phúc là sự hài
lòng mang tính bền vững về cuộc sống và được chứng minh cơ sở tồn tại. Sự hài lòng là gì thì ai
cũng biết, cho nên chúng ta thử đi sâu phân tích tính bền vững và tìm hiểu xem cơ sở tồn tại của
nó đã được chứng minh như thế nào. Nhưng trước tiên xin kể một câu chuyện có thật đã xảy ra
cách đây một số năm.
Ở ngoại vi thủ đô London của nước Anh có một thị trấn nhỏ tên là Slough, tiếng Anh có nghĩa là
bùn lầy hay vũng nước. Với tên gọi ấy, thị trấn này chắc chắn không thể được liệt vào danh sách
những địa danh hấp dẫn khách thập phương về du lịch và cảnh quan. Vì trong quá khứ nó đã
từng là một khu công nghiệp, cư dân ở đây vừa rất vô sản vừa đa sắc tộc. Đông đảo nhất là
những người theo đạo Hồi (13,4%), người Xích (9,1%), sau đó là người ấn và những người theo
Thiên chúa giáo, con cháu lính Ba Lan từng theo tường Anders lưu lạc sang đây: Chính vì cư dân
Slough không được coi là những người đặc biệt khá giả, không phải lo miếng cơm manh áo hàng
ngày và hạnh phúc nên nó đã thu hút sự chú ý của một nhóm những người quan tâm đặc biệt đến
tâm lý học xã hội, khiến họ không ngần ngại chọn thị trấn này làm nơi ấn hành một cuộc thí
nghiệm với mục tiêu cao cả là biến. cư dân vùng này trở thành những người hạnh phúc. Cuộc thí
nghiệm đã được miêu tả tỉ mỉ trong cuốn sách nhan đề “Trở thành người hạnh phúc như thế
nào”? sau một thời gian xuất bản đã được dịch ra khá nhiều ngôn ngữ trên thế giới.
Công việc mà những người trong nhóm kể trên tiến hành khó có thể coi là một công trình khoa
học thực thụ, đúng hơn đó là chương trình phổ biến khoa học được chương trình truyền hình
BBC2 tài trợ và kết thúc thành công. Trong số sáu người tổ chức cuộc thí nghiệm này có nhà tâm


lý học thuộc một Trường Đại học mở là ông Richard Stevens, nhà tâm lý tư liệu Brett Kahn, hai
nữ chuyên gia về đều kiện lao động là Jessica Pryce- Jones và.Philippa Chapman, nhà hoạt động
xã hội tích cực kiêm nhà doanh nghiệp Andrew Mawson và nhà kinh tế học kiêm triết học
Richard Reeves. Bao trùm cuộc chơi là tinh thần của một lĩnh vực khoa học mới xuất hiện những
năm 90 ở Mỹ và được gọi tên là tâm lý học tích cực. Những người thừa nhận nó đặc biệt nhấn
mạnh niềm tin vào một điều răng bản chất con người là thứ có thể dạy được, cho nên có thể dạy
con người vươn tới hạnh phúc ra sao, hay ít nhất có thể dạy con người ta cách tiếp cận với hạnh
phúc.
Làm cho 120.000 dân của thị trấn Slough trở nên hạnh phúc là một việc làm vượt quá khả năng
của sáu con người trong nhóm thực nghiệm, cho nên để tham gia vào cuộc thí nghiệm với mục
đích phục vụ cho nhu cầu của truyền hình hơn là làm thí nghiệm khoa học, người ta mời 50 tình
nguyện viên, đại diện cho các nghề nghiệp và có những nẻo đường đời khác nhau. Trước tiên,
người ta đo mức độ hài lòng chung của những người này về cuộc sống và thu được kết quả là
6,4, tức là thấp hơn chỉ số bình quân trên toàn nước Anh (7,3), thấp hơn một chút so với Trung
Quốc (6,5), nhưng cao hơn hẳn Ba Lan (5,9). Sau khi xác định hiện trạng ban đầu, trong mấy
tháng liền, những người tình nguyện tham gia thí nghiệm, dưới sự hướng dẫn của các chuyên
gia, được tập huấn “chiến thuật", đã học hát tập thể và thực hiện một số bài tập khác, với một
tâm niệm thường trực trong đầu là con người ta chỉ có thể đến được với hạnh phúc bằng những
bước đi rất từ từ.
Sau bốn tháng kiên trì, cần mẫn hát trong đội đồng ca, gọi điện thoại cho bạn bè, nở nụ cười với
người quen cũng như người lạ, mang xẻng đi đào hố trồng cây, những người dân Slough tình
nguyện làm thí nghiệm đã được đo lại mức độ hài lòng về cuộc sống của mình và những người tổ
chức thí nghiệm đã ngẩng cao đầu tuyên bố rằng chỉ số hạnh phúc trung bình của 50 tình nguyện
viên đã tăng33%, đạt mức bình quân của cư dân Đan Mạch và Thụy Sĩ.
Cuộc thí nghiệm được tiến hành ở Sluogh, suy cho cùng, chỉ là một trò chơi và những kết luận
rút ra từ đó có thể là hời hợt, nông cạn. Nhưng chuyện hạnh phúc con người thì không được phép
coi thường, bởi đây là vấn đề mà hàng ngàn năm nay, từ Aristoteles đến Sigmund Freud và
Bertrand Russell đều đã hao tổn không biết bao nhiêu sức lực trong những đêm suy nghĩ lao lung
để tìm ra câu trả lời cho câu hỏi mà phần lớn nhân loại quan tâm.
Trở lại định nghĩa của Wladyslaw Tatarkiewicz, chúng ta thấy có hai vấn đề cần đi sâu nghiên

cứu, phân tích. Thứ nhất là tính bền vững của trạng thái hài lòng: Tính bền vững này (theo quan
niệm của Ben-shahar thì đó là tính chất chung nhất) là cơ sở để chúng ta chỉ có thể nói đến hạnh
phúc trong ý nghĩa triết học của nó và trong bối cảnh toàn bộ những trải nghiệm cuộc đời của
con người. Ngay cả khi có một cuộc sống hạnh phúc, thành đạt, chúng ta vẫn không tránh khỏi
những phút giây đau đớn, khổ sở, những thất bại tạm thời, thậm chí những thời điểm ta thấy tan
nát cõi lòng. Niềm sung sướng nhất thời đem lại cho ta sự hài lòng, mãn nguyện, song kết quả
cuối cùng mới thật sự là điều đáng nói. Chẳng hạn mong ước của rất nhiều người trong chúng ta
là trúng xổ số, đoạt giải thưởng lớn, một may mắn mà nhiều người tin lả có thể làm thay đổi điều
kiện sống của họ và giúp họ trở thành những người hạnh phúc vĩnh viễn. Nhưng không phải vậy,
bằng chứng là vào cuối thập kỷ 70 của thế kỷ trước, nhà tâm lý học xã hội người Mỹ, ông Philip
Brickman và các đồng nghiệp của ông đã quyết định kháo sát số phận 22 người may mắn đánh
dấu đúng các ô số nên trúng thưởng và trở thành các nhà triệu phú. Tất nhiên họ rất vui mừng,
nhưng mấy tháng sau độ mãn nguyện với cuộc sống của họ đã trở lại mức độ trước đó, còn sau
một năm thì nhiều người trong số này thậm chí cảm thấy mình không hạnh phúc bằng những
năm tháng trước khi trúng số độc đắc. Cũng có thể họ sẽ mãn nguyện suốt cả cuộc đời nếu lần
nào chơi xổ số cũng trúng cả - mặc dù giả thiết chưa chắc đã đúng một khi khái niệm về bản chất
con người được hiểu rất khác nhau.
Tính bền vững hay tính lặp lại của những sự kiện đem đến sự dễ chịu là không đủ để thỏa mãn
đòi hỏi của hạnh phúc nói chung. Chúng ta hãy hình dung một con người - mà những người loại
này đang đầy rẫy quanh ta - luôn có niềm vui lớn khi được chứng kiến sự bất hạnh của người
khác (cụ thể là sự bất hạnh của ông hàng xóm gần gũi nhất). Chẳng hạn như năm nay ông ấy bị
chết con bò sữa và càng “tuyệt vời" hơn nếu năm sau nhà ông ta bị sét đánh trúng và cả nhà kho
với toàn bộ những gì có được sau một năm làm lụng vất vả đã theo khói bay lên trời. Thậm chí
nếu những điều “đáng mừng” như vậy cứ lặp đi lặp lại, với hậu quả lần sau kinh khủng hơn lần
trước (đối với ông hàng xóm) thì con người ghen ăn ghét ở trong giả thiết của chúng ta kia đằng
nào cũng không vươn tới được cái hạnh phúc hiểu theo ý nghãi mà Tatarkiewicz đã chỉ ra, bởi lẽ
sự hài lòng, mãn nguyện về cuộc sống của anh ta không có cơ sở vững chắc.
Yếu tố thứ hai là cơ sở. Khi nói về việc chứng minh cơ sở của hạnh phúc, chúng ta đã đi vào lĩnh
vực triết học, đạo đức học, luật học và tâm lý học xã hội. Con người là một sinh vật phức tạp.
Giống như các con vật khác, con người có những nhu cầu thiết yếu, sơ đẳng để sinh tồn (nhưng

thêm vào đó phải kể đến nhu cầu vượt lên trên đồng loại), song con người cũng lại là sinh vật
mang tính xã hội, cho nên một cá nhân lành mạnh (hoặc bình thường) về mặt tâm lý không thể
tồn tại mà bỏ qua những nguyên tắc đạo đức chung sống trong xã hội. Nhu cầu được thừa nhận,
sự hạn chế từ phía những người khác là động lực to lớn trong các hoạt động của chúng ta và điều
đó cũng dẫn tội việc chúng ta thường xuyên làm những việc tốt để xứng đáng được thừa nhận và
để những việc làm tết đem đến cho chúng ta sự mãn nguyện, hài lòng thực sự. Nhưng đáng tiếc
là trong chúng ta vẫn tồn tại những kẻ không chỉ có thói ghen ăn ghét ở mà còn có vấn đề về thần
kinh vô cùng nguy hiểm, những kẻ coi chuyện gây đau khổ, bất hạnh cho người khác là niềm vui
của bản thân mình (chẳng hạn những kẻ hiếp dâm, những tên giết người hàng loạt) và những
chuẩn mực của chung sống xã hội đã được xây dựng theo hướng làm sao hạn chế đến mức tối đa
khả năng vươn tới sự mãn nguyện lâu dài nhờ được thỏa mãn thú vui của bọn người này. Đối với
chúng, xã hội cố gắng ngăn cản bước tiến tới sự sung sướng mang tính ích kỷ, cá nhân. Để đáp
ứng cảm giác công bằng xã hội, bọn người kể trên bị tống giam hoặc phải nhận án tử hình.
Như vậy liệu có phải chủ nghĩa tuân thủ những tập quán hiện đang tồn tại và những chuẩn mực
xã hội là điều kiện cần thiết để đạt tới hạnh phúc bền vững? không hẳn thế. Bởi vì chúng ta
không chỉ là những sinh vật mang nặng tính xã hội mà còn là những đơn vị độc lập được thiên
phú một hệ thống nội tâm bao hàm rất nhiều niềm tin khác nhau được gọi chung là tâm hồn. Đặc
điểm này cho phép chúng ta bay bổng, vượt lên trên chủ nghĩa tuân thủ và tự điều chỉnh cách xử
sự của mình bằng những giá trị cao cả hơn, chẳng hạn như những giá trị mang tính tôn giáo. Đôi
khi, ví dụ như trường hợp những người chấp nhận khổ hạnh nhân danh đức tin, cuộc sống đã
hiến dâng cho những điều tốt đẹp vẫn là cuộc sống hạnh phúc.
Nếu cân nhắc lại đều chúng ta đã nói về hạnh phúc thật sự, có lẽ chúng ta không còn phải ngạc
nhiên tại sao các nhà triết học thông thái nhất lại phải vò đầu bứt tai để tìm ra cốt lõi của vấn đề
hạnh phúc và những cách thức đạt tới hạnh phúc. Nói chung những điều các vị rút ra đều mang
đậm yếu tố bi quan. Có lẽ chúng ta nên biết ơn các nhà tư tưởng Anh thời kỳ Ánh sáng khi họ đề
nghị loài người đừng ảo tưởng hóa quan hệ con người với con người, bởi “người với người là
chó sói” (về điều này thì những người La Ma cổ đại đã thấy rất rõ), đồng thời nói thêm rằng cuộc
sống con người là “khốn khổ, cô đơn, tàn bạo và ngắn ngủi”. Nhà tư tưởng người Mỹ thế kỷ
XIX, Henry David Thoreau, cũng có những quan điểm tương tự khi ông khẳng định rằng “có biết
bao người đang sống trong cô đơn thầm lặng”. Cả Sigmund Freud lẫn Carl Jung đều không tin

vào khả năng cong người có một cuộc đời hạnh phúc khi các ông cho rằng hạnh phúc, ngay cả
trong trường hợp tốt đẹp nhất, cũng chỉ là một xúc cảm thoảng qua, nó sẽ nhạt dần và biến mất
không cách nào níu kéo. Tâm lý học, với tư cách lĩnh vực nghiên cứu, nhưng từ buổi đầu hình
thành cũng chỉ quan tâm nghiên cứu chủ yếu các tệ nạn, tức là cái biến chúng ta thành những kẻ
bất hạnh, chứ không đặt ra các mục tiêu chứa đựng tham vọng lớn hơn là giảm bất hạnh đến mức
có thể chấp nhận được.
Hiện tượng hạnh phúc con người cho đến tận đậu thập kỷ 90 vẫn chỉ có chỗ đứng trong mối quan
tâm chính của các nhà tâm lý học. Số các nhà nghiên cứu danh tiếng quan tâm đến đề tài này có
thể tính trên đầu ngón tay của hai bàn tay. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này chắc
chắn là cái thực tế đã chỉ ra rằng đối với các nhà hành vi học và cả các nhà tâm lý học nhận thức
(những người nghiên cứu về lý luận nhận thức) đề tài này mềm quá, mang tính nhân văn và triết
học quá, trong khi đó tham vọng của các nhà khoa học là tạo ra một thứ tâm lý học thật sự "khoa
học" hơn. Hạnh phúc đã không giành được sự quan tâm thích đáng của những người thừa nhận
trường phái mới, trường phái tâm lý học tiến hóa với lý do là nhìn từ góc độ quan điểm của
Darwin, có thể dễ dàng giải thích niềm vui và sự mãn nguyện về cuộc sống.
Đồng thời với lý thuyết tiến hóa, thuyết di truyền cũng đã xuất hiện trong tâm lý học và vào năm
1996, các Giáo sư của Đại học bang Minnesot là David Lykken và Auke Tellegen, những người
thuộc nhóm nghiên cứu tâm lý học các cặp song sinh có gen di truyền giống hệt nhau tức là sinh
đôi một trứng, nhưng bị tách ra ngay sau khi sinh và được nuôi dạy trong những điều kiện môi
trường khác nhau đã công bố kết quả nghiên cứu của mình về vấn đề di truyền hạnh phúc. Theo
kết quả các nghiên cứu, nói chung việc chúng ta có hạnh phúc hay không là do gen di truyền
quyết định. Mỗi người chúng ta nha hai nhà khoa học đã chứng minh, đều được thiên phú một
mức độ hạnh phúc di truyền tự nhiên, cho nên những sự kiện mang tính may rủi xảy ra chỉ làm
chúng ta mất thăng bằng trong chốc lát. Bằng chứng là những người trúng xổ số cao và trở thành
triệu phú, họ chỉ "sung sướng ngất trời" được một thời gian ngắn là lại trở về với mức độ hạnh
phúc trước đó. Tương tự như vậy, thật may mắn, những người gặp bất hạnh lớn lao như bị bệnh
hiểm nghèo, trở nên tàn tật cũng thích nghi nhanh chóng với hoàn cảnh mới và trở lại hạnh phúc
như xưa, dù điều bất hạnh ấy có thể là bị mù mắt hay liệt toàn thân.
Kết luận của Lykkerl và Tellegen, trong đó nói rằng cố gắng vươn tới mức độ hạnh phúc lâu dài
cũng vô nghĩa như mong muốn của những người không may bị hạn chế về chiều cao, tự nhiên

cao xawngtimet, bị nhiều người coi là quan điểm quá bị quan và không phù hợp với thực tế.
Nghe đâu những suy nghĩ bi quan, sự hoài nghi trong quan điểm của mình đã hành hạ chính bản
thân ông Lykken, cho nên khi nghỉ hưu, chỉ bốn năm sau thời điểm công bố bài báo gây nhiều
tranh cãi, ông đã cho xuất bản cuốn sách nhan đề: “Happiness: The Nature and Nurture of Joy
and Contentment” (“Hạnh phúc: ảnh hưởng của gen di truyền và môi trường tới niềm vui và sự
mãn nguyện”), trong đó ông đoạn tuyệt với tư tưởng tiền định của mình và đồng ý với quan điểm
rằng hạnh phúc một phần là sản phẩm của gen di tuyền và một phần là sản phẩm của quá trình
phát triển tính cách.
Cuối cùng, thời đại tâm lý học tích cực đã đến. Nó là lĩnh vực nhận nv nghiên cứu về mặt khoa
học sự hành chức khả quan nhất của cá nhân con người, bởi một khi hạnh phúc của chúng ta
được sắp đặt từ trước và do gen di truyền giữ vai trò chủ đạo thì những câu hùng hồn trong
Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, chẳng hạn về quyền vươn tới hạnh phúc không thể phủ nhận
là của mỗi con người, chắc chắn chỉ là những lời trống rỗng. Đại đa số chúng ta tin tưởng, tuy
mức độ có khác nhau rằng chúng ta chính là người thợ rèn rèn nên số phận của mình Nhưng các
nhà tâm lý học cũng phải mất một thời gian dài để ghi chân lý này vào chỉ tiêu tri thức của mình.
Thời điểm bước ngoặt diễn ra vào năm 1998. Nhưng công đầu về việc khởi xướng tâm lý học
tích cực lại được Giáo sư Martin Seligman ghi cho cô con gái lúc ấy mới có mấy tuổi đầu của
mình, bởi lẽ cô không chỉ nổi tính cách lạnh lùng, bộ mặt rầu rĩ, động một tý là kêu ca, phàn nàn
của ông bố. Thực tế này đã đòi hỏi ông trước hết phải xem xét lại bản thân cho mình. Cho đến
thời điểm ấy, chuyên môn nghề nghiệp của ông Seligman là nghiên cứu về sự ức chế và những
biểu hiện bất lực ở con người, song để đáp ứng thử thách do cô con giá đặt ra, ông đã thay đổi
hẳn đề tài nghiên cứu của mình và trở thành một chuyên gia về chủ nghĩa lạc quan. Hiệu quả các
công trình nghiên cứu của ông có thể nhận thấy qua những bức ảnh chụp các nhà khoa học Mỹ
này xuất hiện dày đặc trên Internet. Đâu đâu cũng thấy một người đàn ông tuổi không còn trẻ
nữa, tóc thưa thớt trên đầu, nhưng nụ cười thì luôn tươi roi rói.
Để quảng bá một lĩnh vực nghiên cứu mới, ông Seligman đã tận dụng thành quả trước đó của các
đại diện trường phái tâm lý học nhân văn là Abraham maslow and Carl Rogers cũng như công
trình nghiên cứu của David Myers, Ed Diener and Mihaly Csikszentmihalyi. Đặc biệt ông
Seligman đã phát triển một cách sáng tạo quan điểm cảm thụ lạc quan (optimal experience), sau
này được gọi ngắn gọn là FLOW, do Csikszentmihalyi đề xuất trước đó khá lâu.

'Theo lý thuyết- FLOW, điều kiện để đạt tới sự mãn nguyện bền vững (và nếu mọi chuyện diễn
ra suôn sẻ thì sẽ có cả sự mãn nguyện có cơ sở vững chắc nữa) là việc tham gia vào các hoạt
động hơi khó khăn một chút nhằm mục đích chống lại cảm giác buồn chán và đơn điệu, nhưng
đông thời lại không khó đến mức vượt quá khả năng của một cá nhân cụ thể để không tạo ra cảm
giác thất bại trong đời, không khiến người ta chán nản. Hạnh phúc khi đó không phải là mục đích
tự thân mà chỉ là một thứ sản phẩm phụ của hoạt động sáng tạo.
Ngày nay, tâm lý học tích cực đã được giảng dạy tại hàng trăm trường Đại học, Cao đẳng ở Mỹ
và Anh.Liệu trong thời gian tới khoa báu tri thức này có được mở toang để cung cấp hiểu biết
cho tất cả mọi người trên thế giới không và liệu khi đó hạnh phúc có phải là thứ phổ cập trên
hành tinh, trở thành chuyện “cơm bữa” của tất cả mọi người không? Có lẽ sẽ không xảy ra khả
năng này, đã thành bản chất tự nhiên của con người là trong khi có những lúc nào cũng hăng hái,
nhiệt tình đi tìm khía cạnh tích cực của cuộc đời thì không thiếu gì những kẻ yếu thế, hơi một tý
là nghĩ đến chuyện trời sắp sập, nhìn mọi thứ đều màu đen. Hãy so sánh tâm trạng sau khi có kết
quả chuẩn đoán bệnh của hai loại người này. Những người lạc quan coi bệnh tật chỉ là một thứ
“trải nghiệm tích cực” của cuộc đời, còn kẻ yếu thế lập tức thấy mình ốm nạng và bắt đầu than
thân trách phận về những nỗi đau mà con người ngàn đời phải chịu.
Các nhà nghiên cứu đã thống nhất đưa ra 10 nguyên tắc của một cuộc đời hạnh phúc, thành công
như sau:
1. Không lảng tránh sinh hoạt tình dục - sự gần gũi về mặt thể xác giữa hai con người đem lại
cho chúng cảm giác về giá trị bản thân mình.
2. Hãy tắt tivi.
3. Luôn nở nụ cười - thậm chí cười miễn cưỡng cũng góp phần cải thiện tâm trạng mỗi người.
4. Gọi điện thường xuyên cho bạn bè.
5. Tận hưởng những giây phút thoải mái.
6. Đi dạo bằng những bước chân nhanh nhẹn mỗi ngày 2km
7. Hãy chọn lấy một nghề nghiệp mà mình yêu thích, còn thời gian rảnh rỗi thì tham gia các hoạt
động xã hội - gia nhập đội đồng ca hoặc trồng cây ở những nơi công cộng.
8. Hãy hài lòng với những gì mình có.
9. Mỗi ngày nên tự thưởng cho mình một món quà và hãy dành cho mình thời gian tận hưởng
món quà đó.

10. Mỗi ngày nên cố gắng làm điều gì đó tốt đẹp cho mình và cho người khác.
Nói chung sẽ thật sự hời hợt và ngây thơ nếu chúng ta kết luận như đinh đóng cột rằng có thể
đem lại hạnh phúc cho cả một xã hội bằng cuộc vận động mọi người tham gia đội đồng ca hoặc
cuối tuần cầm cuốc xẻng đi trồng cây hay dọn rác. Nhưng cũng không loại trừ khả năng là đối
với một số người, để có hạnh phúc trọn vẹn, họ chỉ còn thiếu mỗi một việc là cầm cuốc xẻng đi
trồng cây. - một cố gắng vừa phải sẽ tạo cảm giác phấn chấn.

×