Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Sở hữu và sở hữu nhà nước, lý do và tầm quan trọng của việc nghiên cứu vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.06 KB, 26 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lời nói đầu
Vấn đề sở hữu và sở hữu nhà nớc là một vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức quan
trọng và rất phức tạp có nhiều ý kiến rất khác nhau về vấn đề này, do nội dung đề cập
tơng đối rộng đòi hỏi phải có sự thảo luận, nghiên cứu có quy mô và nghiêm túc. Tuy
nhiên do khả năng kiến thức em khó có thể đề cập đầy đủ khía cạnh của vấn đề nay.
Chắn em sẽ nhiều thiếu sót vì vậy em rất mong sự góp ý và chỉ bảo của thầy ! Em
xin cảm ơn!
A. Đặt vấn đề:
Sở hữu và sở hữu nhà nớc, lý do và tầm quan trọng của việc nghiên cứu vấn đề
này.
Sở hữu là một phạm trù lịch sử, là hệ thống các quan hệ xã hội giữa ngời và ngời
trong quá trình sử dụng TLSX. Sở hữu biến đổi tính chất của nó cùng với sự biến đổi
của các hình thái kinh tế, xã hội tong lịch sử. Mỗi hình thái kinh tế xã hội có một
hình thức sở hữu đặc trng biểu hiện QHSX trong xã hội đó. Đây là một vấn đề có tính
chất sống còn của mọi giai cấp, mọi tổ chức và cá nhân. Sở hữu về TLSX là cơ sở
đầu tiên quyết định địa vị thống trị xã hội của giai cấp cầm quyền. Sở hữu là cơ sở
kinh tế và là cơ sở pháp lý để các chủ thể thực hiện các quyền năng pháp lý của nhà
nớc.
Đối với nớc ta hiện nay, việc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát
triển TBCN là một mô hình trớc nay cha từng có thì việc đòi hỏi phải củng cố và hoàn
thiện một hệ thống lý luận khoa học sắc bén, trong đó có lý luận về vấn đề sở hữu" là
tất yếu khách quan.
Năm 1986 đât nớc ta bắt đầu thực hiện đổi mới nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch
hóa tập trung sang cơ chế thị trờng. Trong những năm đầu đổi mới, đất nớc ta đã thu
đợc những thành công nhất định tuy nhiên bên cạnh đó là một loạt những vấn đề nảy

1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sinh. Trong đó, cải cách chế độ sở hữu nhà nớc là một vấn đề hết sức nan giải nhng
không thể không tránh đợc. Những quan niệm về sở hữu nhà nớc trớc đây đã không


còn phù hợp và hầu hết các doanh nghiệp này đều cha thay đổi t duy kinh tế, làm ăn
kém hiệu quả buộc nhà nớc phải dùng ngân sách để bù lỗ. Từ những quan điểm nêu
trên, chúng ta có thể thấy rằng giải quyết sở hữu nhà nớc là yêu cầu khách quan của
nền kinh tế hàng hoá đặt ra, giảỉ quyết sở hữu nhà nớc một cách đúng đắn sẽ tạo cơ
sở vững chắc để tiếp tục sự nghiệp đổi mới kinh tế của đất nớc.
B. Giải quyết vấn đề:
I. Phạm trù sơ hữu. Một số vấn đề lý luận về sở hữu nói chung.
Trớc khi đi vào phân tích nội dung của đề án em xin nhắc lại một số khái niệm về
phạm trù sở hữu và sở hữu nhà nớc :
Sở hữu là quan hệ cơ bản nhất của con ngời trong quá trình sản xuất . Đó là sự chiếm
hữu của một ngời hay một cộng đồng ngời đối với những thực thể của thế giới vật
chất.
Quan hệ sở hữu bao gồm quan hệ giữa chủ thể sở hữu với chủ thể sở hữu và chủ thể
sở hữu với đối tợng sở hữu. Những quan hệ nay mang tính chất kinh tế xã hội, quyết
đinh các hình thức phân phối tài sản, sản phẩm, thu nhập, giá trị giữa các chủ thể sở
hữu.
Quyền chiếm hữu là yếu tố đầu tiên, bao chùm của sở hữu. Nó tơng đối ổn định, tĩnh
tại nhng đôi khi chỉ là quyền danh nghĩa. Đó là trờng hợp chủ thể sở hữu không thực
hiện đợc nó, không sử dụng nó mà giao lại cho ngời khác và chỉ giữ quyền thu nhập
về sở hữu.
Quyền sử dụng là quyền sử dụng đối tợng sở hữu theo mục đích và nguyện vọng của
ngời sử dụng đối tợng sở hữu, có thể thống nhất ở một ngời hoặc phân chia giữa
nhiều ngời. Điều này có nghĩa là ngời sử dụng đối tợng sở hữu có thể không phải là
chủ sở hữu và ngợc lại.

2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Quyền định đoạt là quyền thực hiện toàn diện với đối tợng sở hữu theo bất cứ cách
nào kể cả việc chuyển quyền sở hữu cho ngời khác, thậm chí từ bỏ nó. Trên thực tế
ngời chủ sở hữu chỉ thực sự là chủ sở hữu khi ngời đó có quyền định đoạt đối tợng sở

hữu.
Sở hữu toàn dân là sở hữu trong đó của cải tự nhiên đợc toàn dân sử dụng, các thành
viên trong xã hội có quyền ngang nhau trong việc sử dụng của cải này.
Sở hữu nhà nớc là một phần của sở hữu toàn dân (bao gồm những tài nguyên thiên
nhiên, t liệu sản xuất nhất định...) đợc chuyển cho cơ quan nhà nớc điều hành và sử
dụng theo ý chí của nhân dân, theo quyết định của cơ quan quyền lực đại diện cho
nhân dân với những điều kiện nhất định.
Sở hữu tập thể là hình thức sở hữu mà chủ thể sở hữu không phải là một các nhân cụ
thể mà là một tập hợp ngời, một tập thể cùng sở hữu.
Sở hữu t nhân là hình thức chiếm hữu trong đó những sản phẩm lao động rơi vào tay
chủ thể và khác với sở hữu các nhân sở hữu t nhân có quy mô lớn hơn nhiều.
Nh chúng ta đã biết mỗi hình thái kinh tế xã hội có một hình thức sở hữu đặc trng
biểu hiện QHSX trong xã hội đó. Trong các tác phẩm của Mác luôn xuyên xuốt một
quan điểm: Sở hữu không phải là vật dụng mà con ngời có quyền sở hữu nó, càng
không phải là quan hệ của con ngời với vật dụng. Sở hữu là một quan hệ khách quan
giữa ngời với ngời trong sản xuất. Trong lịch sử không có một hình thái sở hữu nào
mà không phản ánh những quan hệ trong sản xuất. Theo cách diễn đạt của Mác thì sở
hữu đợc thực hiện chỉ thông qua chính nền sản xuất. Nơi nào không có một hình
thái sở hữu nào cả thì ở đó cũng không thể có một nền sản xuất nào cả . Sở hữu- đó
là những quan hệ về các điều kiện khách quan của sản xuất, phân phối, trao đổi và
tiêu dùng những của cải vật chất.
Sở hữu là quan hệ kinh tế luôn ở trạng thái vận động, đối tợng của sở hữu cũng luôn
biến đổi và ngày càng đợc mở rộng. Lịch sử cho thấy đối tợng chủ yếu của sở hữu đã

3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
từng chuyển dịch từ sở hữu nô lệ, đất đai sang sở hữu t bản( sở hữu vốn ) dới dạng sức
lao động, t liệu sản xuất (máy móc, thiết bị . . . ). Trong điều kiện nớc ta hiện nay thì
đối tợng chủ yếu của sở hữu là những t liệu sản suất quan trọng nh đất đai, tài
nguyên, nhà máy, hầm mỏ, phơng tiện kỹ thuật hiện đại.

Chủ nghĩa Mác đã khẳng định: "Không thể xoá bỏ ngay t hữu và thiết lâp ngay chế
độ công hữu về TLSX Sự bình đẳng về mặt xã hội của con ngời trong mối quan hệ
qua lại của họ đối với TLSX tức là sự chiếm hữu mà tiêu chí duy nhất của nó là lao
động sống. Lực lợng sản xuất: Phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên của con ngời,
nó biểu hiện năng lực thực tiễn của con ngời trong quá trình tạo ra của cải vật chất.
Lực lợng sản xuất xã hôi bao gồm: T liệu sản xuất và ngời lao động với những kinh
nghiệm sản xuất, kỹ năng, kỹ xảo và thói quen lao động của họ. Trong sự phát triển
của lực lợng sản xuất do công cụ lao động và trình độ khoa học-kỹ thuật (ngày nay
trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp là động lực phát triển nhanh, mạnh) phát triển,
trong đó kỹ năng, lao động của con ngời là quyết định. Con ngời là nhân tố trung tâm
là mục đích của nền sản xuất xã hội. Trong điều kiện ngày nay, cuộc cách mạng khoa
học - kỹ thuật - công nghệ rất phát triển, vị trí trung tâm của con ngời càng đợc nhấn
mạnh. Do vậy, việc nâng cao dân trí là nhu cầu bức bách. Nó vừa là đòi hỏi của nền
sản xuất xã hội, vừa là điều kiện để thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển nhanh
hơn.
Chính quá trình phát triển của nền kinh tế quốc tế mà trực tiếp nhất, sâu xa nhất là sự
phát triển của lực lợng sản xuất với các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật là động
lực thúc đẩy nhanh mạnh nhất, nó cho biết rằng các quyền gắn liền với phạm trù sở
hữu đã có sự biến đổi đáng kể. Thờng ở thời kỳ đầu (Nh trong thời kỳ CNTB cạnh
tranh tự do) thì 3 quyền trong quyền sở hữu (quyền sở hữu, quyền quản lý và quyền
sử dụng)thống nhất trong một chủ thể. Sự xuất hiện của t bản cho vay đã làm cho
quyền sở hữu và quyền sử dụng tách rời nhau. Khi lực lợng sản xuất đợc xã hội hoá

4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
(trong điều kiện của kinh tế thị trờng) thì 3 quyền trên tách rời giữa các chủ thể (khi
đó lao động quản lý trở thành một nghề. Ví dụ trong công ty cổ phần, quyền sở hữu
nằm trong tay các cổ đông, quyền điều hành chung thuộc Hội đồng quản trị, còn
quyền quản lý trực tiếp thuộc về giám đốc(hoặc tổng giám đốc). Trong đó quyền sở
hữu vẫn giữ vai trò quyết định chi phối quyền quản lý, sử dụng, phân phối.

II. Sở hữu nhà nớc:
1, Sở hữu nhà nớc và các hình thức của sở hữu nhà nớc.
Về sở hữu nhà nớc : Trớc đây chúng ta thờng dùng khái niệm sở hữu nhà nớc với sở
hữu toàn dân là một. Do nhầm lẫn nh vậy, có thời gian dài ngời ta bỏ quên hình thức
sở hữu nhà nớc, chỉ quan tâm đặc biệt tới hình thức sở hữu toàn dân với chế độ công
hữu tồn tại dới hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể. Và cũng bởi vì sở hữu toàn
dân gắn kết với sự phát triển của kinh tế quốc doanh. Vì vậy mà chúng ta đã ra sức
quốc doanh hoá nền kinh tế với niềm tin cho rằng có nh vậy mới có CNXH nhiều
hơn.
Trong một xã hội mà nhà nớc còn tồn tại thì sở hữu toàn dân cha có điều kiện vận
động trên bề mặt của đời sống kinh tế nói chung. Hình thức sở hữu nhà nớc, xét về
tổng thể mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu nhà nớc ở nớc ta, sở hữu nhà nớc có
thể tồn tại dới các hình thức doanh nghiệp 100% vốn nhà nớc, hoặc dới hình thức
doanh nghiệp mà vốn nhà nớc nắm đa số hay nắm hàm lợng cổ phần chi phối, cổ
phần đặc biệt hoặc có cổ phần trong các doanh nghiệp khác với hàm lợng cha nhiều.
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ ở giai đoạn cuối do sự phát triển của LLSX sau
ba cuộc phân công lao động xã hội (lần thứ 1, ngành trăn nuôi tách khỏi trồng trọt;
lần thứ 2, thủ công nghiệp tách khỏi công nghiệp; lần thứ 3, với sự xuất hiện của tầng
lớn thơng nhân). Do năng xuất lao động đã lao hơn trớc, con ngời có kinh nghiệm
hơn v.v... Trong xã hội có sản phẩm d thừa và xuất hiện những ngời chiếm đoạt của
cải d thừa đó và trở thành giàu có, (t hữu riêng) đã đẩy nhanh quá trình phân hoá tầng

5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
lớp xã hội và giai cấp xuất hiện. Có giai cấp thì tất yếu có đấu tranh giai cấp. Để cuộc
đấu tranh giai cấp nằm trong vòng trật tự nhất định không phá vỡ xã hội thì có một tổ
chức đặc biệt ra đời để quản lý xã hội. Đó là nhà nứơc.
Trong chế độ chiếm hữu nô lệ: Pháp luật của nhà nứơc chủ nô duy trì và bảo vệ chế
độ sở hữu của chủ nô đối với tất cả các t liệu sản xuất của xã hội ngay cả sở hữu bản
thân ngời nô lệ (nô lệ là công cụ biết nói không đợc xem là ngời). ở đây, trình độ t

hữu của còn thấp nhng tính chất khắc nghiệt và bất bình đẳng là tuyệt đối.
Trong xã hội phong kiến: Sở hữu đẳng cấp phong kiến thể hiện rõ ở chế độ"phong
tớc, cấp điền" của các vua chúa phong kiến. Nhà nớc và pháp luật phong kiến bảo vệ,
duy trì chế độ sở hữu của địa chủ lãnh chúa phong kiến đối với ruộng đất và duy trì
tình trạng nửa phong kiến của nông dân và giai cấp phong kiến.
Trong chế độ t bản chủ nghĩa: Trên cơ sở tan rã dần của sở hữu phong kiến đã xuất
hiện và phát triển quan hệ sở hữu t sản. Đó là chế độ chiếm hữu t nhân t bản chủ
nghĩa về t liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng d (do công nhân làm thuê sáng tạo ra
bị giai cấp t sản chiếm không)
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH: Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì có 2
phơng thức quá độ lên CNXH. Đối với những nớc nh nớc ta quá độ lên CNXH từ
một nớc nghèo, lạc hậu cha qua giai đoạn phát triển TBCN, thì nhất thiết cần có một
thời kỳ lịch sử với sự tồn tại của đa thành phần kinh tế với đa hình thức sở hữu, trong
đó có sở hữu t nhân để sử dụng sức mạnh và u thế của các thành phần kinh tế trong
nền kinh tế hàng hoá, tất cả nhằm tạo ra tiền đề xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cần
thiết cho CNXH. Mặc dù vậy, trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nớc ta
hiện nay nhằm phát triển LLSX thì sở hữu nhà nớc, kinh tế nhà nớc vẫn giữ vai trò
chủ đạo để định hớng cho sở hữu t nhân nói riêng và nền kinh tế nớc ta nói chung đi
theo đúng quĩ đạo.
2, Quá trình hình thành và phát triển sở hữu nhà nớc ở Việt Nam.

6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
a. Giai đoạn 1945 1959:
Cách mạng tháng tám thành công ngày 02/9/1945 nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà,
một nhà nớc công - nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam á ra đời với mục tiêu xây
dựng một chế độ xã hội mới theo con đờng phát triển của chủ nghĩa cộng sản. Hiến
pháp 1946 đã tạo cơ sở pháp lý và từ đây quyền sở hữu tài sản riêng của công dân trở
thành quyền hiến định. Nhiệm vụ cấp bách của cách mạng Việt Nam lúc đó phải xoá
bỏ quyền sở hữu đối với t liệu sản xuất quan trọng của thực dân Pháp, của các đế

quốc khác, các thế lực phản động và thù nghịch, của giai cấp địa chủ phong kiến
Pháp luật giai đoạn 1945 - 1959 đã tạo ra những tiền đề quan trọng trong việc xác lập
quan hệ sở hữu mới dới chính quyền dân chủ nhân dân. Từ đó xây dựng cơ sở vật
chất bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của chế độ mới. Trong giai đoạn này ta đã
dùng chính quyền vô sản làm công cụ cải tạo xã hội thiết lập quan hệ sản xuất
XHCN, chúng ta coi công hữu là mục tiêu.
b. Giai đoạn 1959 1960:
Miền Bắc tiến lên CNXH, còn miền nam tiếp tục tiến hành cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân trong điều kiện mới để đi đến cuộc tổng tiến công và nổi dậy ngày
30/4/1975 giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc, cả nớc đi lên CNXH. Miền Bắc
về cơ bản hoàn thành cải tạo XHCN đối với các thành phần kinh tế phi XHCN.
Nhiệm vụ chủ yếu thời kỳ này ta xác lập và hoàn thiện chế độ sở hữu XHCN ở miền
Bắc. Điều 12, hiến pháp 1959 khẳng định "Kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân
giữ vai trò lãnh đạo nền kinh tế quốc dân". Trong đó tồn tại các hình thức sở hữu là:
Sở hữu nhà nớc, sở hữu của các nhà t sản dân tộc, sở hữu của tiểu thơng, thợ thủ công,
hộ nông dân cá thể; sở hữu tập thể của các HTX, đợc quy định tại điều 11 Hiến pháp
1959... thực hiền các Nghị quyết Đại hội Đảng, lần thứ III, IV, là vừa xây dựng vừa
cải tạo, trong cải tạo có xây dựng sở hữu thời kỳ này tạo tiền đề quan trọng có ý
nghĩa to lớn cho thời kỳ tiếp theo.

7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
c. Giai đoạn 1980 1986:
Hiến pháp 1980 thay thế hiến pháp 1959 đã ghi nhận phạm vi và bản chất của sở hữu
toàn dân. Trong đó tại các điều 18, 19, 23, 24, 27 của hiến pháp 1980 đã quy định các
hình thức sở hữu cơ bản sau: Sở hữu toàn dân đối với đất đai, hầm mỏ, rừng núi sông
hồ... (Điều 19); Sở hữu tập thể; sở hữu của công dân. Tuy nhiên, xét về thực tế nớc ta
quá độ lên CNXH từ một nớc nông nghiệp lạc hậu, trình độ lực lợng sản xuất thấp
kém, năng suất lao động thấp, dân trí thấp vv... Còn về chủ quan, do quá nhiệt tình,
cộng với sự thiếu hiểu biết nhận thức không đúng nhiều luận điểm của chủ nghĩa

Mác-Lênin, nên đã tuyệt đối hoá tính hơn hẳn của sở hữu XHCN. Một thời gian dài
chúng ta đã định kiến với sở hữu cá nhân của ngời lao động, thậm chí coi nó là hình
thức đối lập với XHCN, là mầm mống khôi phục chế độ bóc lột. Thật ra, sở hữu cá
nhân không biến thành t bản, không biến thành công cụ để bóc lột ngời lao động. Sở
hữu cá nhân chủ yếu đối với các vật phẩm tiêu dùng, nhằm thỏa mãn các nhu cầu của
ngời lao động phụ thuộc vào trình độ của sở hữu xã hội. Trong "tuyên ngôn Đảng
cộng sản" đã chỉ ra "Chúng tôi cần gì phải xoá bỏ sở hữu ấy, sự tiến bộ của công
nghiệp đã xoá bỏ và hàng ngày vẫn tiếp tục xoá bỏ cái đó rồi.
Do nhấn mạnh đề cao, tuyệt đối hoá vai trò và tính u việt của kinh tế quốc doanh
và kinh tế tập thể (HTX) nên đến một thực tế. Năng suất lao động thấp kém, hàng
hoá khan hiếm thiếu lơng thực, khủng hoảng kinh tế, xã hội. Trớc tình hình đó Đảng
ta đã nhìn nhận lại, nhận thức lại và thừa nhận sai lầm khuyết điểm do chủ quan nóng
vội muốn có ngay CNXH và vận dụng quy luật kinh tế sai (đặc biệt là quy luật quan
hệ sản xuất - lực lợng sản xuất). Từ đây, đờng lối đổi mới toàn diện của Đảng cộng
sản Việt Nam đợc tập trung trong văn kiện Đại hội VI (1986) và tiếp tục sau này đợc
các Đại hội VII, VIII khẳng định là: Chúng ta xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng
XHCN.

8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
d: Cơ cấu sở hữu trong nền kinh tế thị trờng ở nớc ta hiện nay:
Chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới, tiến hành hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN,
trớc hết là điều chỉnh các hình thức sở hữu vốn có, là kết hợp một cách tối u các lợi
ích. Lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích của nhà nớc. Sự đa dạng hoá các hình
thức sở hữu việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần không phải là"thụt
lùi" không làm "Mất CNXH" nh một số ngời lầm tởng mà chính là một chủ trơng lớn
để khai thác, phát huy mọi tiềm năng của toàn xã hội cũng nh tranh thủ các nớc và
các tổ chức quốc tế. Cơ sở lý luận của việc xác lập tính đa dạng các hình thức sở hữu
thể hiện ở luận điểm của C.Mác và Ănghen cho rằng các hình thức sở hữu đựơc xác

lập bởi trình độ xã hội hoá sản xuất. Vì vậy, chủ trơng phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, đa dạng hoá sở hữu là một thành tựu lớn cả về lý luận và thực tiễn
của công cuộc đổi mới.
Với những thành tựu đáng mừng về kinh tế - xã hội của đất nớc ta sau hơn 10 năm
đổi mới đã chứng tỏ đờng lối đổi mới của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, hợp lý. Thực
tế cũng cho thấy một nền kinh tế nhiều thành phần đơng nhiên phải bao gồm nhiều
hình thức sở hữu để phù hợp với tính chất đặc điểm của từng thành phần kinh tế và
phù hợp cũng nh khai thác, thúc đẩy đợc các yếu tố của lực lợng sản xuất ở các trình
độ khác nhau phát triển. Khi thực hiện chính sách đổi mới của Đảng, Nhà nứơc ta đã
ban hành nhiều văn bản pháp luật thể chế hoá về sở hữu phản ánh trình độ xã hội hoá
của lực lợng sản xuất nớc ta còn thấp không đồng đều. Vì thế ứng vói nó là các hình
thức sở hữu đa dạng. Bởi vì: phát triển nền kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân
dân, thực hiện dân giàu nớc mạnh, xã hội công bằng văn minh là mục đích cuối cùng
của chế độ xã hội ta. Trong phạm vi hẹp có thể coi sở hữu là một trong những phơng
tiện để đạt mục tiêu này và bớc đầu thực hiện CNH, HĐH đất nớc (văn kiện hội nghị
đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII 1/1994) vai trò của mỗi hình thức sở hữu trong một
chế độ sở hữu có ý nghĩa và tác dụng khác nhau trong nền kinh tế quốc dân. Điều 15,

9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hiến pháp 1992, quy định"cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức
sản xuất - kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu
ta nhân trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng". Ta lần lợt xem xét
xu hớng vận động và biến đổi của các hình thức sở hữu, ở nớc ta hiện nay.
3, Đánh giá về việc thực hiện sở hữu nhà nớc ta hiện nay.
a. Thực trạng sở hữu nhà nớc thuộc các doanh nghiệp nhà nớc:
Sở hữu nhà nớc và gắn liền với nó là khu vực kinh tế nhà nớc luôn đợc Đảng và nhà
nớc ta xác định giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống sở hữu và trong nền kinh tế quốc
dân. Nhng thực trạng sở hữu nhà nớc hiện nay ra sao ? Hiệu quả của các doanh
nghiệp nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng nh thế nào? Rất nhiều lời giải đáp cho

những câu hỏi này thờng xuyên đợc đăng trên các tạp trí chính trị, kinh tế khoảng
chục năm trở lại đây. Sở dĩ nh vậy là bởi vì những câu hỏi này rất nóng, rất thời sự .
Tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi này đồng nghĩa với việc xác định các doanh
nghiệp nhà nớc đang đứng ở đâu, đang có trong tay những gì và những doanh nghiệp
này đang và sẽ phải đơng đầu với những thách thức gì ?
Qua hơn mời năm thực hiện đổi mới, tính đến cuối tháng sáu năm 1998 cả nớc còn
5700 doanh nghiệp nhà nớc. Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp đã đợc nâng
lên. Tốc độ tăng trởng GDP của các doanh nghiệp nhà nớc gần gấp rỡi so với bình
quân toàn nền kinh tế và gấp đôi so vứi khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Tỷ trọng
của doanh nghiệp nhà nớc trong thu nhập quốc dân tăng từ 32% năm 1990 lên 42%
năm 1996. Các doanh nghiệp nhà nớc đã đóng góp một phần không nhỏ cho ngân
sách nhà nớc. Tuy nhiên mức đóng góp đó hoàn toàn cha tơng xứng với sự đầu t, sự
mong đợi của nhà nớc và phần lớn có đợc là từ thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt
chỉ có một phần rất nhỏ là từ thuế lợi nhuận. Số lợng các doanh nghiệp nhà nớc vẫn
còn quá nhiều và bố trí không đợc hợp lý, hiệu quả sử dụng vốn không cao. Quy mô
của các doanh nghiệp nhà nớc còn quá nhỏ bé, gần 40% tổng số các doanh nghiệp

10

×