Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.07 KB, 68 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Lao động là nguồn lực không thể thiếu của một quốc gia, nó vừa là
động lực của phát triển kinh tế vừa là mục tiêu mà phát triển kinh tế. Vì lao
động là nguồn lực trong sản xuất vừa là người được hưởng trực tiếp các lợi
ích của phát triển kinh tế… Ở nước ta hiện nay, nền kinh tế về cơ bản vẫn
là nền kinh tế nông nghiệp, lao động nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao
và là lực lượng dân số chủ yếu. Trong quá trình CNH – HĐH đất nước hiện
nay, sự phát triển kinh tế của đất nước và của từng địa phương ngoài những
ảnh hưởng tích cựu đến nông nghiệp nông thôn, thì nó cũng có những ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sản xuất cũng như lao động nông nghiệp nông
thôn ở nước ta. Quá trình đô thị hóa ảnh hưởng đến nông nghiệp nông thôn
làm đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, trong khi diện tích đất nông
nghiệp của nước ta không có nhiều, thậm trí còn ít hơn rất nhiều so với các
nước trên thế giới. Sự phát triển của nền kinh tế còn ảnh hưởng nhiều đến
các mặt khác của nông nghiệp nông thôn, mà người bị ảnh hưởng trực tiếp
là lao động nông nghiệp nông thôn. Các chính sách nhà nước đối với nông
thôn như chính sách đất đai (nguồn lực đóng vai trò chủ đạo trong sản xuất
nông nghiệp), chính sách về đào tạo nghề, chính sách hộ trợ vốn và công
nghệ cho nông thôn trong sản xuất nông nghiệp, sự phát triển nông thôn…
Ngoài ra là các chương trình, chính sách của các Doanh nghiệp và Đoàn
thể, và ngay cả các bản thân người lao động ở địa phương cũng là nhân tố
ảnh hưởng đến lao động nông nghiệp nông thôn.
Vì vậy bài viết này muốn đi nghiên cứu, tìm hiểu thêm để trả lời câu
hỏi chính sách của nhà nước hiện nay có ảnh hưởng như thế nào đến lao
động nông nghiệp nông thôn, các doanh nghiệp hay đoàn thể ở địa phương
đã có những chính sách hay chương trình gì để hộ trợ cho lao động nông
nghiệp nông thôn, bản thân những người lao động đã làm được gì và chưa
làm được gì cho mình và cho những lao động nông nghiệp khác trong sự
SV: Nguyễn Thị Hằng Lớp: KTPT 47B-QN
1


Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phát triển của nền kinh tế hiện nay. Những điều đó đã tạo nên bất ổn ở
nông thôn, sự bất ổn đó biểu hiện trên các mặt đó là kinh tế, chính trị cũng
như cả đời sống xã hội ở nông thôn. Để trả lời câu hỏi đó cần phải tìm ra
thực trạng lao động nông nghiệp nông thôn hiện nay bất ổn như thế nào?
Phân tích những tác động của các chính sách đến lao động nông nghiệp
nông thôn về các phương diện như việc làm, thu nhập hay văn hóa… để từ
đó tìm ra các giải pháp khắc phục tình trạng xấu và phát huy những tác
động tốt?
SV: Nguyễn Thị Hằng Lớp: KTPT 47B-QN
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU LAO
ĐỘNG NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN
I. Lao động và vai trò của lao động
1. Khái niệm về nguồn lao động
Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định
của pháp luật, có khả năng lao động, có nguyện vọng tham gia lao động và
những người không thuộc độ tuổi lao động ( trên độ tuổi lao động) nhưng
vẫn đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân.
Ở các nước khác nhau, việc quy định độ tuổi lao động cũng khác nhau,
thậm chí ở các giai đoạn khác nhau thì việc quy định độ tuổi này cũng khác
nhau. Đa số các nước quy định cận dưới (tuổi tối thiểu) của độ tuổi lao
động là 15 tuổi, còn cận trên (tuổi tối đa) có sự khác nhau ( 60 tuổi, 64
tuổi…). Ở nước ta, theo quy định của Bộ luật Lao Động thì cận dưới độ
tuổi lao động là 15, cận trên là 55 tuổi đối với lao động nữ và 60 tuổi đối
với lao động nam.
2. Lao động nông nghiệp nông thôn
Lao động nông nghiệp nông thôn là một bộ phận trong nguồn lao động,
có khả năng và nguyện vọng tham gia lao động, và làm việc trong các

ngành nông nghiệp ở nông thôn.
Lao động nông nghiệp nông thôn là lao động chủ yếu làm việc trong
kinh tế hộ gia đình, lao động tự làm. Với mục đích là cùng với các thành
viên khác trong gia đình làm tăng sản lượng hoặc thu nhập cho gia đình.
Nông thôn là khu vực có tỷ lệ gia tăng dân số nhanh, vì vậy cung lao
động ở khu vực này tăng nhanh. Nhưng cầu lao động ở khu vực này lại
tăng chậm do nguồn lực cho sản xuất nông nghiệp bị hạn chế và ngày càng
bị hạn chế do tác động của sự phát triển kinh tế.
SV: Nguyễn Thị Hằng Lớp: KTPT 47B-QN
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
3. Vai trò của lao động trong sản xuất
Lao động có vai trò vô cùng quan trọng, biểu hiện là qua hai vai trò
chính sau:
- Lao động là một nguồn lực sản xuất chính và không thể thiếu trong
các hoạt động kinh tế. Nó được coi là có vai trò chủ động so với các yếu tố
khác. Với vai trò này, lao động được xem xét trên hai mặt đó là chi phí và
lợi nhuận.
- Lao động còn là một bộ phận của dân số, là những người được
hưởng thụ trực tiếp những lợi ích của quá trình phát triển kinh tế mang lại
và cũng là người chịu ảnh hưởng trực tiếp tác động xấu của nó. Các quốc
gia hiện nay đều nhấn mạnh đến mục tiêu “phát triển vì con người và coi
đó là động lực của sự phát triển”. Tức là lao động được coi là động lực tăng
trưởng kinh tế và tạo ra thay đổi căn bản cho xã hội.
4. Đặc điểm của lao động nông nghiệp nông thôn
Lao động nông nghiệp nông thôn có những đặc điểm là: Ngoài những
vai trò của lao động thì nó có những đặc điểm sau:
- Tính mùa vụ:
Trong các ngành kinh tế quốc dân thì không có ngành nào phụ thuộc
vào điều kiện thời tiết lớn như nông nghiệp. Vì vậy mà sản xuất nông

nghiệp luôn mang tính mùa vụ. Dựa vào những kinh nghiệm sản xuất được
truyền từ đời này qua đời khác mà việc sản xuất nông nghiệp được phân
theo các mùa vụ khác nhau, và ngoài các mùa vụ này ra thì việc sản xuất
nông nghiệp lại bị ngưng trệ do ảnh hưởng của thời tiết. Vì vậy lao động ở
khu vực nông nghiệp nông thôn cũng mang tính mùa vụ.
- Lực lượng đông đảo:
Theo điều tra dân số thì khu vực nông thôn là khu vực có tỷ lệ gia tăng
dân số nhanh nhất so với các khu vực khác, tỷ lệ gia tăng dân số ở khu vực
nông thôn thường cao gấp đôi so với khu vực thành thị. Khu vực này lại
chiếm đa số dân số của cả nước, hiện nay nước ta vẫn có khoảng hơn
SV: Nguyễn Thị Hằng Lớp: KTPT 47B-QN
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Trình độ chuyên môn không cao.
Do xuất phát từ làm nông nghiệp được truyền từ đời này qua đời khác,
do phong tục tập quán và điều kiện học tập ở nông thôn nên lao động ở khu
vực này vẫn chủ yếu làm việc trong ngành nông nghiệp, và họ ít được đào
tạo về chuyên môn. Vì vậy trong quá trình hội nhập của nền kinh tế trình
độ chuyên môn của lao động nông nghiệp nông thôn tăng lên rất ít so với
các khu vực khác.
II. Lao động nông thôn trong lĩnh vực nông nghiệp
1. Lao động sản xuất nông nghiệp
- Là những lao động chỉ tham gia sản xuất lương thực, hoặc chỉ lao
động trong các ngành nông nghiệp ở nông thôn. Đó là các ngành như trồng
trọt, chăn nuôi ở nông thôn. Những lao động này thường làm việc dựa vào
kinh nghiệm được truyền qua các thế hệ, vốn sản xuất ít và chủ yếu là đầu
tư ngắn hạn. Trình độ chuyên môn không cao, lao động chủ yếu dựa vào
sức khỏe. Vì lao động sản xuất nông nghiệp nên tính chất của lao động
nông nghiệp nông thôn cũng mang tính mùa vụ. Lực lượng lao động nông
nghiệp nông thôn cũng rất đông đảo.

2. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
- Nông nghiệp là ngành sản xuất có lịch sử lâu đời nhất.
Các hoạt động sản xuất nông nghiệp đã có từ hàng nghìn năm nay kể từ khi
con người bỏ săn bắn và hái lượm. Do tính chất lâu đời của nó mà nền kinh
tế nông nghiệp thường được nói đến như nền kinh tế truyền thống. Ngày
nay, mặc dù khoa học kỹ thuật ngày càng hiện đại nhưng sản xuất nông
nghiệp ở nông thôn vẫn dựa vào những kinh nghiệm truyền thống được
truyền từ hàng trăm ngàn năm nay để sản xuất. Vì xã hội ở nông thôn mang
tính chất truyền thống quá lớn và xâu sắc như vậy nên rất khó thay đổi.
Nông nghiệp cũng là ngành tạo ra sản phẩm thiết yếu nhất cho con người,
con người không thể thiếu những sản phẩm đó. Vì vậy ở bất cứ quốc gia
nào cũng phải có những chính sách để tự sản xuất các sản phẩm nông
SV: Nguyễn Thị Hằng Lớp: KTPT 47B-QN
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nghiệp này hoặc là nhập khẩu lương thực. Nông nghiệp là ngành có lịch sử
lâu đời nhất so với các ngành khác nhưng việc sản xuất nông nghiệp lại
chịu ảnh hưởng của rất nhiều các nhân tố khách quan không thể khắc phục
được.
- Sản xuất nông nghiệp chịu tác động của nhiều yếu tố, nhất là các
nhân tố khách quan.
Đầu tiên là đất đai, đất đai là nguồn tài nguyên không thể thiếu trong
sản xuất nông nghiệp, nó đóng vai trò chủ đạo trong sản xuất nông nghiệp.
Chất lượng của đất cũng ảnh hưởng lớn đến năng suất và chất lượng lương
thực hay hoa màu, nếu đất màu mỡ và phù hợp với loại cây được trồng thì
năng suất đạt được sẽ rất cao. Nhưng đất bạc màu và không phù hợp với
cây được trồng thì có thể sẽ không cho thu hoạch hoặc năng suất rất thấp.
Ngoài đất đai là yếu tố chủ đạo, thời tiết, khí hậu và nguồn nước sẵn có
cũng là nhân tố khách quan không thể thay đổi tác động đến sản xuất nông
nghiệp. Thời tiết thuận lợi sẽ làm nâng cao năng suất cây trồng và nâng cao

chất lượng của sản phẩm, vì vậy nó phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết và sản
xuất nông nghiệp cũng phải dựa vào những kinh nghiệm được truyền từ
hàng trăm nghìn năm ở từng vùng, với từng loại đất để có kế hoạch sản
xuất sao cho hiệu quả nhất. Cùng một loại cây trồng ở các vùng khác nhau,
thời tiết khác nhau thì phải có những kế hoạch sản xuất khác nhau để có thể
đạt được năng suất cao nhất.
- Chủ yếu sản xuất những sản phẩm thiết yếu.
Mặc dù phụ thuộc rất lớn vào tự nhiên, nhưng sản phẩm của nông
nghiệp tạo ra có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó là sản phẩm thiết yếu
không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Sản phẩm của nông nghiệp
cũng là nguồn nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp như công nghiệp chế
biến… Với nhu cầu của gia tăng dân số, sản xuất lương thực ngày càng
càng cần phải nâng cao năng suất để đáp ứng nhu cầu của người dân. Vì
vậy sản xuất nông nghiệp có xu hướng ngày càng được chuyên môn hóa.
SV: Nguyễn Thị Hằng Lớp: KTPT 47B-QN
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Có xu hướng ngày càng được chuyên môn hóa.
Theo các lý thuyết về mối quan hệ giữa thu nhập và tiêu dùng thì khi
thu nhập tăng lên tỷ trọng sản phẩm thiết yếu sẽ giảm dần. Tỷ lệ lao động
cũng vậy, khi nền kinh tế chưa phát triển, nông nghiệp là ngành sử dụng
nhiều lao động nhất. Nhưng sau đó, khi nền kinh tế ngày càng phát triển,
nông nghiệp sẽ được chuyên môn hóa và ứng dụng các khoa học kỹ thuật
hiện đại cầu lao động cho sản xuất nông nghiệp sẽ giảm. Nông nghiệp lúc
này chuyển dịch theo hướng đa dạng hóa cây trồng vật nuôi. Và khi xã hội
phát triển cao, nông nghiệp lúc này sẽ là nền nông nghiệp chuyên môn hóa,
nông nghiệp thương mại hiện đại.
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến lao động nông nghiệp nông thôn
1. Cung, cầu lao động nông nghiệp nông thôn
• Cung lao động nông nghiệp nông thôn

Cung lao động nông nghiệp nông thôn ngày càng tăng cả về quy mô và
cơ cấu. Cung lao động tăng sẽ làm áp lực việc làm tăng. Khu vực nông
thôn là khu vực có tỷ lệ gia tăng dân số nhanh nhất so với các khu vực
khác. Tỷ lệ gia tăng dân số ở khu vực nông thôn thường cao gấp đôi so với
thành thị. Khi dân số gia tăng, đồng thời với nó là số lao động nông nghiệp
nông thôn cũng tăng lên. Mà sản xuất ở khu vực nông thôn chủ yếu là sản
xuất nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp thì bị giới hạn bởi các nguồn lực.
Vì vậy áp lực việc làm đối với nông thôn ngày càng tăng.
Cung lao động nông nghiệp nông thôn có cơ cấu thay đổi theo sự phát
triển của nền kinh tế và địa phương. Nhưng tốc độ thay đổi cơ cấu lao động
ở khu vực này chậm hơn so với các khu vực khác trong nền kinh tế. Đối
với thành thị, tỷ lệ gia tăng dân số chậm hơn so với các khu vực khác nên
cung lao động ở khu vực này không lớn như ở các vùng khác. Ngược lại,
đối với khu vực nông thôn tỷ lệ gia tăng dân số cao dẫn đến cung lao động
ở khu vực này cũng tăng nhanh và với số lượng lớn.
SV: Nguyễn Thị Hằng Lớp: KTPT 47B-QN
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
• Cầu về lao động nông nghiệp nông thôn
Cầu về lao động nông nghiệp nông thôn thì lại giảm do điều kiện sản
xuất nông nghiệp ngày càng khó khăn nhất là sản xuất nông nghiệp thuần
túy:
Do ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa làm đất sản xuất nông nghiệp bị
thu hẹp. Diện tích đất thì có hạn mà bất kỳ ngành nào trong nền kinh tế
quốc dân cũng cần đất để làm địa điểm sản xuất. Vì vậy đồng thời với sự
phát triển của các ngành khác nhau trong nền kinh tế mà diện tích đất sản
xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Với những diện tích đất nông
nghiệp bị thu hồi thì số lao động cần thiết cho sản xuất nông nghiệp giảm
đi. Vì vậy cầu lao động cho sản xuất nông nghiệp sẽ giảm khi quá trình
CNH – HĐH ảnh hưởng đến nông thôn. Đô thị hóa đất nước làm cho diện

tích đất nông nghiệp giảm đi, trong khi khoa học kỹ thuật lại ngày càng
phát triển, điều đó dẫn tới những lao động trước đây làm việc trong nông
nghiệp giờ đây sẽ không đủ việc làm trong nông nghiệp. Nhưng họ lại có
trình độ chuyên môn không cao, nên việc tìm kiếm việc làm trong các
ngành nghề khác càng khó khăn. Vì vậy khi đô thị hóa gia tăng, áp lực việc
làm cho người lao động nông nghiệp nông thôn càng lớn. Vì vậy chính
sách của nhà nước cần phải có những chương trình đào tạo nghề và hướng
nghiệp cho những lao động đang trong nguy cơ thất nghiệp này.
Chính sách của nhà nước chưa thực sự hướng đến mục tiêu giải quyết
việc làm cho người lao động. Mặc dù cũng có các chính sách được đặt ra để
giải quyết việc làm cho người lao động, song các chính sách đó chưa được
thực hiện hiệu quả và chưa hướng đến các mục tiêu chính là giải quyết việc
làm cho người lao động. Tuy nhiên, các chính sách này thực hiện chưa thực
sự hiệu quả, nguồn vốn cho các chính sách vẫn hạn chế, hiệu quả sử dụng
vốn thấp. Một số các chính sách của nhà nước và địa phương ảnh hưởng
xấu đến cơ hội tạo việc làm cho người lao động nông nghiệp nông thôn. Ví
SV: Nguyễn Thị Hằng Lớp: KTPT 47B-QN
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
dụ như các chính sách phân bổ đất không hỗ trợ cho nông dân tích tụ đất
phát triển kinh tế trang trại, hay nhà nước thu hồi đất để phát triển các khu
công nghiệp, trong khi các khu công nghiệp đó lại không sử dụng lao động
nông nghiệp nông thôn ở khu vực này… Vì vậy để nền kinh tế phát triển
một cách bền vững thì nhà nước cần quan tâm hơn đến lao động nông
nghiệp ở nông thôn, giải quyết việc làm cho lao động ở khu vực này đồng
thời nâng cao đời sống của nhân dân ở đây.
Do trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng tăng, điều này ảnh hưởng đến
cầu lực lượng lao động cho sản xuất nông nghiệp ngày càng giảm. Khoa
học phát triển, trình độ công nghệ, kỹ thuật được nâng cao nên các công
việc nặng nhọc trong sản xuất dần được thay thế bằng máy móc. Vì vậy

người lao động trong sản xuất nông nghiệp được giải phóng sức lao động.
Công việc nặng nhọc, cần đến sức khỏe đã được sự trợ giúp của máy móc,
cầu về lao động giảm mà năng suất cây trồng vẫn được đảm bảo. Vì vậy lao
động nông nghiệp cũng cần nắm bắt được những khoa học kỹ thuật mới để
có thể ứng dụng vào sản xuất, thời gian dư thừa có thể phát triển các ngành
nghề khác để tăng thu nhập…
2. Các chính sách về lao động nông nghiệp nông thôn
• Các chính sách đất đai
- Chính sách đất đai hiện nay có tác động đến sản xuất nông nghiệp.
Trong sản xuất nông nghiệp, đất đai là nguồn lực bắt buộc phải có, vì vậy
nhà nước và các cơ quan chức năng phải có chính sách phù hợp để quá
trình CNH – HĐH đất nước không ảnh hưởng xấu đến diện tích và chất
lượng của đất để tránh ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp nông thôn.
Chính sách đất đai vừa phải phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
của đất nước và địa phương lại vừa phát đảm bảo nông nghiệp phát triển
một cách bền vững. Nếu chính sách đất đai ảnh hưởng đến sản xuất nông
nghiệp quá lớn, làm diện tích sản xuất nông nghiệp giảm đi làm nông
SV: Nguyễn Thị Hằng Lớp: KTPT 47B-QN
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nghiệp suy giảm thì sẽ dẫn đến sản phẩm nông nghiệp tạo ra cũng giảm
không đáp ứng đủ nhu cầu của xã hội. Điều này không những làm nền kinh
tế không những không đảm bảo được mục tiêu phát triển mà còn ảnh
hưởng đến nền kinh tế trong dài hạn. Vì vậy bên cạnh chính sách đất đai
trong quá trình CNH – HĐH đất nước thì nhà nước cần có những chính
sách đi kèm để sự phát triển của nền kinh tế nói chung cũng như sự phát
triển của ngành nông nghiệp nói riêng được bền vững.
- Chính sách đền bù phải thỏa đáng để người nông dân mất đất có thể
chuyển đổi ngành nghề sản xuất mà không bị ảnh hưởng nhiều đến đời
sống và sản xuất. Chính sách đền bù phải đảm bảo được rằng người nông

dân sau khi được đền bù có thể tự tìm việc làm hoặc tự phát triển ngành
nghề mới để đảm bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình. Để làm được
điều này, thì sau khi thu hồi đất nông nghiệp để phát triển ngành nghề khác
thì nhà nước cần có những chương trình đào tạo nghề, chính sách tạo việc
làm mới, khuyến khích phát triển các ngành nghề mới cho nông dân sau khi
mất đất làm việc. Ví dụ như các chương trình cho vay vốn phát triển chăn
nuôi, hỗ trợ các gia đình phát triển nông nghiệp thương mại, phát triển các
mô hình trang trại…
• Các chính sách hỗ trợ về vốn và công nghệ
- Các chương trình hỗ trợ về vốn và công nghệ cho nông dân sẽ giúp
cho sản xuất nông nghiệp đạt hiệu quả cao hơn, năng suất cao hơn, góp
phần phát triển ngành nông nghiệp ngày càng bền vững. Các chương trình
hỗ trợ vốn cho nông nghiệp giúp nâng cao kỹ thuật sản xuất, giải phóng sức
lao động cho nông dân và tiết kiệm thời gian cho người lao động. Các
chương trình hỗ trợ vốn sẽ giúp nông dân có thể phát triển mô hình kinh tế
trang trại hoặc phát triển các ngành nông nghiệp khác mà việc sản xuất
nông nghiệp vẫn hiệu quả.
SV: Nguyễn Thị Hằng Lớp: KTPT 47B-QN
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Các chương trình đầu tư vào nông nghiệp chủ yếu để chi cho mục
tiêu xã hội, xóa đói và thủy lợi. Mặc dù việc đầu tư vào nông nghiệp là rất
cần thiết để đảm bảo sự phát triển bền vững của nông nghiệp. Song hiện
nay vốn đầu tư cho nông nghiệp chủ yếu là đầu tư vào xóa đói giảm nghèo
và đảm bảo mục tiêu như công bằng xã hội… Vì các đầu tư vào nông
nghiệp chủ yếu là chi cho mục tiêu xã hội, xóa đói giảm nghèo nên số
lượng vốn đầu tư ít và hiệu quả của đầu tư không cao. Hơn nữa các khoản
chi cho nông nghiệp thường phải qua rất nhiều cơ quan, đoàn thể… dẫn
đến tăng chi phí và thất thoát khiến nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp đã
nhỏ lại giảm hơn nữa. Hiệu quả của đầu tư vào nông nghiệp không cao

hoặc không có lãi đã làm mất uy tín đối với các nhà đầu tư. Điều này làm
cho đầu tư vào nông nghiệp không đa dạng và tỷ lệ gia tăng cũng giảm. Vì
vậy nhà nước và các địa phương cần có các chương trình giới thiệu và
khuyến khích các nhà đầu tư đầu tư vào nông nghiệp nông thôn. Các
chương trình này cần có mục tiêu để nhà đầu tư hiểu được lợi ích và hiệu
quả của đầu tư để họ có động lực tham gia đầu tư vào khu vực này.
• Các hỗ chính sách hỗ trợ thị trường đầu ra
- Chính sách này có tác động giúp đời sống của nhân dân không bấp
bênh, Sau khi các chính sách hỗ trợ sản xuất cho sản xuất nông nghiệp đã
thành công, kết quả tất yếu là cần phải tìm kiếm thị trường đầu ra cho các
sản phẩm của nông nghiệp, tránh tình trạng nông dân được mùa thì lại chịu
cảnh mất giá còn mất mùa thì lại không có sản phẩm để bán trong khi giá
cả lại cao. Thực tế hiện nay tình trạng này thường xuyên xảy ra ở các nước
và ở cả nước ta. Lý do của tình trạng này là do nhà nước chưa dự báo được
chính xác tình hình cung cầu về lương thực cũng như các sản phẩm nông
nghiệp của cả nước dẫn đến tình trạng lúc được mùa thì dư cung còn khi
mất mùa thì lại thiếu cung (không đáp ứng đủ cầu).
SV: Nguyễn Thị Hằng Lớp: KTPT 47B-QN
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Chính sách hỗ trợ thị trường đầu ra cho nông nghiệp cũng là một
hình thức phát triển ngoại thương của đất nước hoặc là tiền đề để chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Khi nhà nước có những chính sách
phát triển đầu ra cho nông nghiệp, các chính sách đó có thể là mở rộng thị
trường xuất khẩu sang các nước trong khu vực hoặc ra thị trường quốc tế,
các chính sách này sẽ giúp thúc đẩy quan hệ của nước ta với các nước trên
thế giới và có thể là tiền đề cho phát triển xuất nhập khẩu các mặt hàng
khác (hay phát triển ngoại thương của nước ta với các nước trên thế giới).
Nó cũng là tiền đề để nền kinh tế chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực.
Theo phân tích của các nhà kinh tế, khi nông nghiệp phát triển là nguyên

liệu cho các ngành công nghiệp và dịch vụ sử dụng sản phẩm của nông
nghiệp. Đó là các ngành công nghiệp sử dụng các sản phẩm nông nghiệp
như công nghiệp chế biến, công nghiệp hóa chất như các ngành sản xuất
thuốc trừ sâu, công nghiệp cơ khí sản xuất máy móc, trang thiết bị sản xuất
nông nghiệp… Khi các ngành này phát triển nó sẽ kéo theo các ngành khác
trong nền kinh tế phát triển dựa vào mối quan hệ chiều dọc và chiều ngang.
• Các chính sách khuyến khích phát triển các loại hình kinh tế trong
nông nghiệp nông thôn
- Phát triển kinh tế trang trại, thủy sản, hay lâm nghiệp, Nhà nước
cũng có những chính sách nhằm phát triển các loại hình kinh tế trong nông
nghiệp nông thôn như phát triển kinh tế trang trại, nuôi trồng thủy sản…
Điều đó được thể hiện qua các chương trình cho vay vốn để phát triển các
loại hình kinh tế nông nghiệp. Các chương trình giao đất, giao rừng cho các
hộ gia đình quản lý, các chương trình hỗ trợ chăn nuôi như hỗ trợ tiền mua
giống bê, lợn, gia cầm để nâng cao năng suất. Tổ chức các lớp tập huấn kỹ
thuật chăn nuôi… Ngoài ra còn có các chương trình hỗ trợ về nuôi trồng
thủy sản, hỗ trợ về thiết kế, quy hoạch, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để
có thể chuyển các vùng trũng sang nuôi trồng thủy sản. Hơn nữa các
chương trình này giúp nông nghiệp chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực
SV: Nguyễn Thị Hằng Lớp: KTPT 47B-QN
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
và phát triển một cách bền vững, nó vừa giúp đa dạng hóa cơ cấu ngành
nghề cũng như thu nhập cho lao động nông nghiệp nông thôn.
- Theo xu hướng của sự phát triển kinh tế, khi thu nhập của người dân
tăng lên, nhu cầu về lương thực, thực phẩm thiết yếu cũng giảm đi. Vì vậy
nông nghiệp cũng cần sự chuyển dịch phù hợp với quá trình đó. Do đó
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngành nông nghiệp ở nông thôn là điều tất
yếu xảy ra, chuyển dịch cơ cấu ngành nghề nông nghiệp cũng giúp nông
dân tăng thu nhập và trình độ sản xuất cũng tăng lên. Khi nông nghiệp ở

nông thôn phát triển sẽ kéo theo các ngành khác ở nông thôn cũng phát
triển theo. Sự chuyển dịch cơ cấu ở nông thôn sẽ có đóng góp lớn vào sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của cả nước.
• Các chính sách đào tạo nghề
- Lao động nông thôn có trình độ chuyên môn thường thấp so với các
khu vực khác nên vì vậy những chương trình đào tạo nghề này cho nông
dân là rất cần thiết, đặc biệt là cho lao động nông dân trẻ sẽ giúp nâng cao
trình độ sản xuất của người dân và giúp người dân nông thôn phát huy
được tính năng động, sáng tạo trong sản xuất. Theo nghiên cứu thì trình độ
chuyên môn của lao động cũng là yếu tố quan trọng góp phần nâng cao
năng suất của sản xuất. Ở những vùng lao động có chuyên môn thấp, năng
suất sản xuất ở các vùng này thường thấp hơn các vùng khác có trình độ lao
động cao hơn. Các chương trình đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp
nông thôn sẽ không chỉ giúp tăng trình độ sản xuất của lao động tại đây mà
còn giúp xã hội ở nông thôn phát triển theo hướng tích cực, tránh các tác
động xấu của kinh tế thị trường…
- Chính sách đào tạo nghề là một giải pháp giúp giải quyết việc làm
cho người lao động thất nghiệp ở nông thôn. Khi lao động nông nghiệp
nông thôn được đào tạo nghề, những lao động này sẽ có trình độ chuyên
môn, các lao động này sẽ tự tìm kiếm được việc làm hoặc qua các chương
SV: Nguyễn Thị Hằng Lớp: KTPT 47B-QN
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trình tuyển dụng, giới thiệu việc làm họ sẽ được nhận vào làm việc tại các
công ty, doanh nghiệp dựa vào chuyên môn mà họ đã được học. Khi trình
độ lao động tăng lên cơ hội làm việc của họ cũng tăng. Khi đó lao động thất
nghiệp ở nông thôn sẽ giảm bớt. Chính sách đào tạo nghề là một chính sách
có tác động tốt đến nông thôn và lao động nông thôn, vì vậy nó cần được
phát huy và quan tâm thực hiện.
SV: Nguyễn Thị Hằng Lớp: KTPT 47B-QN

14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
3. Các yếu tố khách quan.
Các yếu tố khách quan mà lao động nông nghiệp nông thôn thường bị
ảnh hưởng đó là:
- Đất đai, tư liệu sản xuất chủ yếu: đó là tính chất của đất, thổ nhưỡng
ở vùng, nó là yếu tố dễ di chuyển trong công nghiệp hay dịch vụ, nhưng lại
khó di chuyển trong nông nghiệp. Ở các vùng có tính chất thổ nhưỡng tốt
và diện tích đất lớn sẽ phát triển ngành nông nghiệp, và tại vùng này sẽ thu
hút được nhiều lao động nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên ở các vùng có
tính chất thổ nhưỡng không tốt thì ở vùng này sản xuất nông nghiệp không
phát triển, không yêu cầu nhiều lao động nông nghiệp. Khi đó tại vùng này
lao động nông thôn sẽ phải tự tìm ra hướng giải quyết việc làm cho mình
bằng cách tham gia vào các loại hình kinh tế khác hoặc đến các vùng khác
để làm việc. Như vậy ta thấy chất lượng của đất hay diện tích đất có thể
canh tác ảnh hưởng rất lớn đến số lượng cũng như chất lượng lao động
nông nghiệp nông thôn. Đồng thời cũng ảnh hưởng lớn đến thu nhập của
người lao động, tỷ lệ thất nghiệp cũng như có việc làm tại đây. Thu nhập
của người lao động và tỷ lệ thất nghiệp cũng là nguyên nhân trực tiếp ảnh
hưởng đến sự ổn định hay bất ổn ở địa phương.
- Các yếu tố như nguồn nước, khí hậu cũng tác động mạnh đến sản
xuất nông nghiệp, điều kiện tự nhiên như thiên tai lũ lụt sẽ ảnh hưởng đến
sản xuất làm giảm năng suất của cây trồng. Ngành nông nghiệp ở những
vùng có nguồn nước và khí hậu thuận lợi sẽ phát triển, nếu đất đai tại đây
có tính chất không phù hợp với một số loại cây trồng thì con người có thể
tìm ra các loại cây trồng phù hợp để sản xuất và mang lại năng suất cao
nhất. Ngành nông nghiệp tại đây phát triển sẽ mang lại thu nhập, và việc
làm cho lao động nông nghiệp nông thôn tại đây. Góp phần lớn vào việc
tạo sự ổn định trong đời sống xã hội ở nông thôn. Như vậy khí hậu hay
nguồn nước cũng là yếu tố ảnh hưởng lớn đến sự ổn định trong đời sống

của nông thôn.
SV: Nguyễn Thị Hằng Lớp: KTPT 47B-QN
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
4. Tác động của CNH – HĐH đến lao động nông nghiệp nông thôn
Quá trình CNH – HĐH là quá trình tất yếu diễn ra ở bất cứ quốc gia
nào. Trong quá trình CNH – HĐH đất nước có những tác động tốt và tác
động xấu đến nông nghiệp nông thôn.
- Tác động tốt đó là nông nghiệp nông thôn sẽ được cơ giới hóa, hiện
đại hóa nhờ sự phát triển của ngành công nghiệp tác động sang, năng suất
của sản xuất nông nghiệp sẽ được tăng cao. Cũng nhờ tác động của CNH,
HĐH nông thôn ngành nông nghiệp sẽ được phát triển một cách bền vững.
CNH, HĐH đất nước giúp cho các ngành công nghiệp và dịch vụ phát
triển. 2 ngành này phát triển sẽ sử dụng nhiều nguyên liệu từ ngành nông
nghiệp nên các ngành công nghiệp hay dịch vụ sử dụng nguyên liệu từ
nông nghiệp sẽ phát triển theo, và theo lý thuyết kéo theo như vậy nền kinh
tế sẽ được phát triển toàn diện.
Tác động tốt nữa của CNH, HĐH đó là thị trường đầu ra và đầu vào
của nông nghiệp phát triển. Về thị trường đầu ra, khi các ngành công
nghiệp sử dụng sản phẩm của nông nghiệp phát triển nó sẽ tiêu thụ sản
phẩm của nông nghiệp và tăng cầu về các sản phẩm này, tức là thị trường
đầu ra cho nông nghiệp phát triển. Mặt khác, khi công nghiệp phát triển ví
dụ như công nghệ hóa chất, công nghệ sinh học phát triển sẽ tạo ra các
giống mới có năng suất cao hơn, hoặc tìm ra công nghệ sản xuất mới mang
lại hiệu quả kinh tế cao cho sản xuất nông nghiệp. Khi đó đầu vào của nông
nghiệp là giống, phân bón và kỹ thuật sản xuất… sẽ phát triển. Mặt khác
khi công nghiệp cơ khí phát triển, nông nghiệp sẽ được cơ giới hóa. Đầu
vào của nông nghiệp khi đó sẽ phát triển, giảm nhu cầu về lao động chân
tay, lao động trong nông nghiệp khi đó cũng có sự phát triển về trình độ
chuyên môn. Cơ cấu lao động nông nghiệp nông thôn lúc đó sẽ chuyển

dịch theo hướng tăng lao động có trình độ chuyên môn và giảm lao động
chân tay. Bộ mặt của đời sống nông thôn khi đó cũng sẽ đổi khác rất nhiều.
Sự bất ổn của nông thôn sẽ giảm đi vì trình độ của người dân nông thôn khi
SV: Nguyễn Thị Hằng Lớp: KTPT 47B-QN
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đó đã được nâng cao, ý thức của người dân cũng tăng lên, nông nghiệp phát
triển nên thu nhập của lao động nông nghiệp nông thôn khi đó cũng tăng
lên. Tuy nhiên đó không phải là tất cả các tác động của CNH, HĐH lên
nông nghiệp nông thôn. Ngoài những tác động tốt này còn có những tác
động xấu.
- Tác động xấu là diện tích đất sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp, cầu về
lao động nông nghiệp nông thôn giảm dẫn đến lao động nông nghiệp nông
thôn có tỷ lệ thất nghiệp ngày càng tăng, ô nhiễm môi trường làm cho điều
kiện sản xuất nông nghiệp bị ảnh hưởng, nguồn nước bị ô nhiễm dẫn đến
trồng trọt cây trồng đem lại kết quả không cao, ảnh hưởng đến cuộc sống
của nhân dân sống trong vùng ô nhiễm. Khi nông nghiệp được cơ giới hóa,
cầu về lao động trong sản xuất nông nghiệp khi đó sẽ giảm. Tỷ lệ thất
nghiệp tăng lên, những người thất nghiệp đó sẽ tìm mọi cách để kiếm sống,
song có những cách tích cực và có những cách tiêu cực. Từ đó nảy sinh
những tiêu cực trong nông thôn, làm cho xã hội trong nông thôn bất ổn.
Ngoài ra, các khu công nghiệp phát triển sẽ thải ra những chất thải độc hại
vào nguồn nước và đất canh tác của nông nghiệp, khiến chất lượng của đất
đai và nguồn nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Mặt khác, tác động của khí
thải công nghiệp sẽ ảnh hưởng đến bầu không khí và hiện tượng nhà kính,
tác động đến khí hậu. Trong khi nông nghiệp là ngành chịu ảnh hưởng lớn
từ các yếu tố khách quan đó (đất đai, nguồn nước, khí hậu và thời tiết). Sản
xuất nông nghiệp khi đó sẽ chịu ảnh hưởng rất xấu từ những ảnh hưởng
tiêu cực này. Vì vậy trong quá trình CNH, HĐH đất nước ở các quốc gia,
chính phủ nên có những quy hoạch phù hợp và quản lý giám sát chặt chẽ,

tránh ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp, để nông nghiệp có thể
phát triển một cách bền vững.
SV: Nguyễn Thị Hằng Lớp: KTPT 47B-QN
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
IV. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu lao động nông nghiệp nông thôn
Từ những lý thuyết đã được đưa ra ở trên cho thấy, sự phát triển của
nền kinh tế tất yếu sẽ tác động rất lớn đến nông nghiệp nông thôn, mà
người chịu ảnh hưởng trực tiếp là các lao động nông nghiệp ở khu vực này.
Những tác động của sự phát triển kinh tế không chỉ có mặt tốt mà còn có
những mặt bất lợi cho lao động nông thôn. Đặc biệt, ở Bắc Ninh lao động
nông nghiệp nông thôn chiếm tỷ trọng rất cao, và đây cũng là nơi có biểu
hiện rõ rệt về sự ảnh hưởng của phát triển kinh tế đến người lao động nông
thôn. Vì vậy tôi quyết định nghiên cứu đề tài lao động nông nghiệp nông
thôn hiện nay tại Bắc Ninh để nghiên cứu và tìm hiểu xem thực tế sự phát
triển kinh tế ở Bắc Ninh đã có những ảnh hưởng như thế nào đến lao động
nông thôn và từ đó tìm ra các giải pháp khắc phục tình trạng này.
SV: Nguyễn Thị Hằng Lớp: KTPT 47B-QN
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP
NÔNG THÔN HIỆN NAY TẠI TỈNH BẮC NINH
I. Giới thiệu chung về tỉnh Bắc Ninh
1. Điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ tầng
* Điều kiện tự nhiên:
Tuy là tỉnh có diện tích nhỏ nhất so với cả nước, nhưng Bắc Ninh cũng
giống với các tỉnh ở Đồng Bằng Sông Hồng, cũng là tỉnh có điều kiện tự
nhiên thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Nằm liền kề với thủ đô Hà Nội,
và nằm gọn trong vùng châu thổ Sông Hồng, nằm trong vùng tam giác tăng
trưởng Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, khu vực có mức tăng trưởng

kinh tế cao, giao lưu kinh tế giữa các địa phương khác trong nước phát
triển. biên giới của tỉnh giáp các tỉnh sau:
- Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang.
- Phía Nam giáp tỉnh Hưng Yên và một phần Hà Nội.
- Phía Đông giáp tỉnh Hải Dương.
- Phía Tây giáp thủ đô Hà Nội.
Tỉnh có vị trí địa lý thuận lợi cho giao lưu kinh tế với các vùng khác
nhất là vùng trung tâm Hà Nội. Tuy nhiên trên thực tế, tỉnh vẫn chưa tận
dụng được hiệu quả yếu tố thuận lợi này. Bằng chứng là đóng góp GDP của
tỉnh vào GDP của cả nước vẫn chưa cao (năm 2008 là vẫn chỉ khoảng 1%
so với cả nước). Ngoài điều kiện tự nhiên của tỉnh, cơ sở hạ tầng cũng là
một yếu tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến đầu tư vào phát
triển kinh tế của tỉnh.
* Cơ sở hạ tầng:
Trong giai đoạn đầu khi mới tái lập tỉnh thì cơ sở hạ tầng của nền kinh
tế còn yếu kém và lạc hậu. Nhưng qua hơn 10 năm đổi mới với nhiều sự nỗ
lực cơ sở hạ tầng của địa phương đã ngày càng phát triển vững chắc, phục
vụ cho sự phát triển kinh tế của địa phương. Từ khi mới tái lập tỉnh (1-1-
SV: Nguyễn Thị Hằng Lớp: KTPT 47B-QN
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1997), kết cấu hạ tầng còn khó khăn, thiếu thốn, quy mô nền kinh tế còn
nhỏ bé, cơ cấu kinh tế lạc hậu, sản xuất chậm phát triển… Nhưng trước yêu
cầu đổi mới, Đảng bộ và nhân dân tỉnh đã nắm vững và vận dụng đúng đắn,
sáng tạo chủ trương đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước: Phát
triển khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp làng nghề, đã nghề, phát
triển thương mại dịch vụ, nông nghiệp, xây dựng các công trình kết cấu hạ
tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn… Vì vậy trong 10
năm qua, kết cấu hạ tầng giao thông, hệ thống thủy lợi, thông tin, bưu
chính viễn thông, cơ sở hạ tầng giáo dục, văn hóa – thể thao, y tế và hệ

thống chợ nông thôn… được đầu tư khá hoàn chỉnh. Cơ sở hạ tầng của tỉnh
đã cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp, nông thồn, đồng thời
cũng tạo môi trường thuận lợi để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết
việc làm, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần xóa đói giảm nghèo, giải
quyết vấn đề phân hóa giàu nghèo trên địa bàn tỉnh. Hiệu quả của những
chủ trương đúng đắn trên đã làm cho kinh tế xã hội trong tỉnh có bước phát
triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực.
2. Dân số và nguồn lao động
- Theo thống kê, năm 2007 dân số của tỉnh là 1028800 người, dân số
nông thôn chiếm 86,8%, thành thị chiếm 13,2%. Tỷ lệ dân số nông thôn
cao hơn so với trung bình cả nước (27,44% thành thị và 72,56% nông
thôn). Đây cũng là một thuận lợi về nguồn lao động của tỉnh nhưng đồng
thời đây cũng là một khó khăn lớn trong phát triển kinh tế theo mục tiêu, vì
nông thôn là khu vực rất khó thay đổi.
- Lao động chủ yếu là xuất phát từ làm nông và làm việc trong các
làng nghề. Bắc Ninh là tỉnh có số làng nghề nhiều thứ hai ở khu vực Bắc
Bộ sau tỉnh Hà Tây cũ. Lao động trong độ tuổi phần lớn làm việc tại các
ngành nông nghiệp (53,9% lao động cả nước làm việc trong lĩnh vực nông
lâm thủy sản).
SV: Nguyễn Thị Hằng Lớp: KTPT 47B-QN
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
II. Các chính sách của nhà nước và lãnh đạo tỉnh về lao động nông
nghiệp nông thôn
Trong những năm vừa qua, nhà nước ta đã có những chính sách hỗ trợ
việc làm cho lao động nông thôn. Đó là sự kết hợp giữa các doanh nghiệp
và nhà nước nhằm giải quyết thất nghiệp cho người lao động. Ngoài ra còn
có các chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn, giúp họ nâng cao
tay nghề và có thể tự mình tìm những công việc phù hợp. Ví dụ như các
chính sách đào tạo nghề cho nông dân, chính sách hỗ trợ vốn để nông dân

mở rộng sản xuất…
Chính phủ mới đưa ra đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đang
được hoàn thiện và chuẩn bị đưa vào áp dụng. Ví dụ như đề án đào tạo
nghề cho lao động nông thôn, với mục tiêu từ năm 2009, mỗi năm đào tạo
nghề cho khoảng một triệu lao động nông nghiệp nông thôn, phấn đấu từ
nay đến năm 2015 sẽ nâng tỷ lệ lao động được đào tạo từ 20%(năm 2010)
lên 50% (năm 2020).
Theo quyết định của Bộ LĐTB&XH, xây dựng sàn giao dịch, tư vấn
việc làm tại Bắc Ninh. Để hỗ trợ sản xuất nông nghiệp của lao động nông
thôn, nhà nước còn có các chương trình hỗ trợ giống, cây con, kỹ thuật cho
nông dân nhằm đưa vào sản xuất thử nghiệm các loại cây trồng mới có
năng suất cao…
1. Chính sách đất đai của Bắc Ninh
Ngoài việc thực hiện các chính sách đất đai mà nhà nước đưa ra như
luật đất đai năm 2003, các chỉ thị về giải phóng mặt bằng cho các chương
trình dự án quốc gia, tỉnh ủy tỉnh Bắc Ninh còn ban hành các chỉ thị, quyết
định khác về quy hoạch đất đai nhằm thực hiện quy hoạch đất đai mà tỉnh
đã xây dựng. Ví dụ như quy hoạch sử dụng đất năm 2001-2005, quy hoạch
sử dụng đất giai đoạn 2006-2010.
Trong quy hoạch, tỉnh ủy đã có những phân chia chi tiết về diện tích,
địa điểm cần thực hiện, các địa điểm và diện tích đất chuyển đổi mục đích
SV: Nguyễn Thị Hằng Lớp: KTPT 47B-QN
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sử dụng để những người đang sử dụng hoặc sản xuất trên các vùng đất đó
chủ động thực hiện theo. Trong quy hoạch, diện tích đất ở, đất sản xuất
nông nghiệp hay đất phi nông nghiệp cũng được phân bố rõ ràng và hợp kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Song, quy hoạch sử dụng đất này
chưa chú trọng đến nông nghiệp, chưa thực sự quan tâm đến nông nghiệp,
trong quy hoạch đất nông nghiệp bị thu hồi để chuyển đổi mục đích sử

dụng sang phát triển khu công nghiệp hoặc phát triển các ngành nghề khác
mà không quan tâm khi đó người dân và đời sống nhân dân sẽ ra sao. Và
thực tế hiện nay đã xảy ra là: diện tích đất bị thu hồi nhưng mãi vẫn chưa
đưa được vào sản xuất, còn nông dân thì không có đất để sản xuất và cũng
không biết làm gì để kiếm sống. Đó là biểu hiện của việc quy hoạch sử
dụng đất chưa thực sự gắn với nhu cầu của nhân dân và chưa có những
chính sách giải quyết việc làm cho nông dân sau khi thu hồi đất một cách
hiệu quả. Sự không hiệu quả này làm cho tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp
vào trong GDP giảm đi nhưng đời sống của nông dân cũng không được
tăng lên. Quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp được biểu hiện ở bảng sau
đây:
Bảng: Quy hoạch cơ cấu đất nông nghiệp của tỉnh đến 2010
Đơn vị: ha
Loại đất Năm 2000 Năm 2010
Diện tích Tỷ lệ % Diện tích Tỷ lệ %
Đất nông nghiệp 51769.66 100 45096.66 100
1. Cây hàng năm 47390.95 91.54 36483.76 80.90
2. Đất vườn tạp 1752.91 3.39 847.30 1.88
3. Đất cây lâu năm 129.20 0.25 1000.00 2.22
4. Đất chăn nuôi 1.01 0.01 250 0.55
5. Đất MNNTTS 2495.59 4.82 6515.58 14.47
Nguồn: Phương án điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất tỉnh Bắc Ninh thời kỳ
đến 2010, tầm nhìn 2020
Trong quy hoạch ta thấy, đất nông nghiệp của tỉnh giảm đi. Đất nông
nghiệp được dùng để trồng lúa giảm đi, đất trồng các loại cây như cây hàng
SV: Nguyễn Thị Hằng Lớp: KTPT 47B-QN
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
năm và cây lâu năm cũng giảm đi. Thay vào đó diện tích đất dùng để trồng
cây lâu năm và đất chăn nuôi và đất mặt nước nuôi trồng thủy sản tăng lên.

Đặc biệt là đất dùng để nuôi trồng thủy sản và dùng để chăn nuôi tăng rõ
rệt từ 1,01ha lên 250ha (đất dùng để chăn nuôi) và từ 2495,59ha lên
6515,58ha (dùng để nuôi trồng thủy sản). Điều này phù hợp với sự phát
triển của nền kinh tế, khi nông nghiệp phát triển thì sản xuất nông nghiệp
sẽ được hiện đại hóa, đặc biệt là trồng trọt các cây lương thực như lúa sẽ
được cơ giới hóa và với sự chuyên môn hóa trong sản xuất các loại cây
trồng, khi đó diện tích đất cần thiết cho sản xuất nông nghiệp cũng giảm đi.
Tỷ trọng đóng góp của ngành trồng trọt trong cơ cấu GDP của ngành nông
nghiệp cũng giảm đi, tỷ trọng ngành chăn nuôi và thủy sản đóng góp vào
GDP sẽ tăng lên. Điều đó không chỉ được thể hiện trong quy hoạch, trong
quá trình thực hiện kế hoạch của tỉnh đề ra, trong những năm gần đây việc
sử dụng đất cũng theo hướng như trong quy hoạch.
Từ năm 2000 đến nay diện tích đất nông nghiệp của tỉnh đã được mở
rộng, từ 2001 tỉnh đã đầu tư cải tạo được 590.77ha đất chưa sử dụng để sản
xuất đất nông nghiệp, bằng 42.67% so với quy hoạch đã được duyệt và chủ
yếu bằng hình thức hộ nông dân thuê đất hoặc đấu thầu. Trong đó diện tích
đất bằng được khai thác cho trồng lúa là 6.73ha và mặt nước chưa sử dụng
đưa vào nuôi trồng thủy sản là 584.04ha. Những đưa được nhiều diện tích
chưa sử dụng vào sản xuất nông nghiệp là Lương Tài 289.03ha, Gia Bình
213.95ha, Yên Phong 44.92ha, Thuận Thành 42.87ha.
Trong 5 năm từ 2000 đến 2005, tỉnh đã chuyển được 1767ha đất ruộng
trũng cấy lúa năng suất thấp sang nuôi trồng thủy sản, đưa diện tích mặt
nước nuôi trồng thủy sản tăng từ 2538ha năm 2000 lên 4360ha năm 2004
và năm 2005 đạt khoảng 4600ha.
SV: Nguyễn Thị Hằng Lớp: KTPT 47B-QN
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2. Chính sách hỗ trợ vốn và công nghệ
Ngoài các chính sách thực hiện theo chỉ đạo của chính phủ về hỗ trợ
vốn và công nghệ cho nông dân trong sản xuất nông nghiệp, tỉnh Bắc Ninh

còn có các chương trình nhằm hỗ trợ kỹ thuật cho nông dân trong sản xuất,
các chương trình hỗ trợ cây con, hỗ trợ giá giống lúa mới, cây hoa màu mới
năng suất cao cho nông dân.
Tỉnh đã thực hiện các chính sách hỗ trợ về cây, con giống mới để
phát triển kinh tế nông nghiệp giai đoạn từ nay đến năm 2010 theo hướng
sản xuất hàng hóa, tăng nhanh giá trị thu nhập cho nông dân. Theo chính
sách này, các hộ nông dân, các đơn vị kinh tế sản xuất lúa, cây rau màu
mới có giá trị kinh tế cao được ngân sách hỗ trợ từ 50% đến 80% giá giống
được xác định cụ thể theo hàng năm và được đầu tư 100% kinh phí cho
việc tập huấn, hướng dẫn, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật trong năm
đầu thực hiện. Tỉnh cũng hỗ trợ 100% tiền thủy lợi phí cho diện tích cây vụ
động, hỗ trợ 100% kinh phí mua sắm các thiết bị lạnh khi xây dựng kho
lạnh theo thiết kế mẫu đã được duyệt để bảo quản các loại giống cây trồng
và nông sản thu hoạch. Trong chăn nuôi lợn nạc thương phẩm, nếu mua lợn
nái ngoại thuần về nuôi sinh sản có trọng lượng con giống từ 20kg/con trở
lên và với số lượng từ 5 con trở lên các hộ dân sẽ được hỗ trợ 200.000
đồng/con, từ 50 con giống trở lên được hỗ trợ 20% giá giống cho một lần
đầu. Còn về mua giống gia cầm ông bà nuôi theo phương pháp công nghiệp
có quy mô từ 500 con trở lên được hỗ trợ 50% giá giống cho một lần đầu.
Cùng với việc tạo điều kiện cho vay vốn ưu đãi từ nhiều nguồn tài chính,
tỉnh cấp miễn phí các loại vắc xin cho nhu cầu phòng trừ dịch bệnh. Tỉnh
hỗ trợ 50% kinh phí xây dựng chuồng trại chăn nuôi tập trung ngoài khu
dân cư với những dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt có quy mô diện
tích từ 2ha và 10 hộ chăn nuôi trở lên.
Chương trình phòng chống dịch gia súc gia cầm, ngày càng được chú
trọng. Trong những năm gần đây các chương trình phòng chống dịch gia
SV: Nguyễn Thị Hằng Lớp: KTPT 47B-QN
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
súc gia cầm chủ yếu là tập trung vào các chương trình phòng chống bệnh lở

mồm long móng ở gia súc và dịch cúm ở gia cầm, bệnh rối loạn sinh sản và
hô hấp ở lợn… Hiện nay chương trình phòng chống dịch đã ngày càng
được chú trọng vì dịch bệnh nếu xảy ra sẽ không chỉ ảnh hưởng trực tiếp
đến thu nhập và đời sống của các hộ chăn nuôi mà còn ảnh hưởng đến
người tiêu dùng và nhân dân sống trong vùng dịch.
Chương trình bảo vệ thực vật, thực hiện các chương trình: Phòng trừ
dịch hại tổng hợp, tập huấn dịch hại sâu bệnh, khảo sát thực nghiệm bệnh
hại cây trồng, thanh tra quản lý thuốc và kiểm dịch. Tổ chức tập huấn
nghiệp vụ thú y… và phổ biến chế độ và các pháp lệnh về chăn nuôi cho
các hộ chăn nuôi.
Về thủy sản: Đối với việc chuyển dịch vùng trũng sang nuôi trồng thủy sản,
tỉnh khuyến khích các địa phương chuyển những vùng gieo cấy lúa hiệu
quả thấp sang quy hoạch, phát triển các mô hình kinh tế trang trại và nếu có
các dự án khả thi, các đối tượng sẽ được hưởng các mức 100% kinh phí
cho điều tra, khảo sát, thiết kế, quy hoạch, hỗ trợ 100% kinh phí cho việc
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, 100% kinh phí cho xây dựng cơ sở
hạ tầng như cầu cống, trạm bơm cục bộ, đường điện, trạm điện. Các hộ dân
có diện tích sử dụng trong vùng dự án từ 2000 mét vuông trở lên được
chính quyền cơ sở cho phép xây dựng cơ sở hạ tầng như cầu cống, trạm
bơm cục bộ. đường điện, trạm điện. Các hộ dân có diện tích sử dụng trong
vùng dự án từ 2000 mét vuông trở lên được chính quyền cơ sở cho phép
xây dựng nhà bảo vệ không kiên cố trên diện tích được giao và được tỉnh
hỗ trợ toàn bộ lệ phí chuyển đổi ruộng đất. Khi xây dựng các vùng sản xuất
hàng hóa tập trung chuyên canh, các tổ chức và cá nhân được ngân sách
tỉnh hỗ trợ giá giống với mức như hỗ trợ giá giống đối với các loại cây
trồng mới, cây trồng có giá trị cao. Ngoài ra, tỉnh còn có các chính sách ưu
đãi, khuyến khích các hoạt động thu mua, tiêu thụ nông sản, thực phẩm, hỗ
trợ lãi suất tiền vay ngân hàng, trợ giá chênh lệch trong những thời điểm
SV: Nguyễn Thị Hằng Lớp: KTPT 47B-QN
25

×