Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

tổng quan tình hình kinh tế vĩ mô năm 2010 và định hướng cho năm 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (660.07 KB, 16 trang )

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH KINH TẾ VĨ MÔ NĂM 2010 VÀ
ĐỊNH HƯỚNG CHO NĂM 2011

I. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2010 CỦA VIỆT NAM
Năm 2010 là năm cuối thực hiện kế hoạch 5 năm 2006-2010, Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2001-2010 và cũng là năm có nhiều sự kiện quan trọng của đất
nước (tập trung sức phấn đấu thực hiện các mục tiêu Đại hội Đại biểu Đảng toàn
quốc lần thứ X, tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp và chuẩn bị cho Đại hội Đại biểu
Đảng toàn quốc lần thứ XI vào đầu năm 2011).
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010 được thực hiện trong bối
cảnh đất nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do tác động bất lợi từ
cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu và thiên tai, dịch bệnh.
Nhưng với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, các ngành, các cấp, của nhân dân
và cộng đồng doanh nghiệp, Việt Nam đạt được phần lớn các chỉ tiêu mà Quốc
hội đề ra.
Quán triệt các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính trị,
các Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân
sách nhà nước và phân bổ ngân sách Trung ương năm 2010, Nghị quyết của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về phân bổ vốn trái phiếu Chính phủ năm 2010, Chính phủ đã
ban hành các quyết định giao kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán Ngân
sách nhà nước, vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ năm
2010 cho các bộ, ngành và các địa phương; ban hành các Nghị quyết về các giải
pháp chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch (Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày
15/01/2010 và Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 06/4/2010); tăng cường công tác chỉ
đạo, điều hành nhằm thực hiện tốt mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm
2010 đã được đề ra.
Trên cơ sở tình hình thực hiện các tháng đầu năm và dự báo khả năng thực
hiện trong các tháng cuối năm, đánh giá tình hình kinh tế, xã hội năm 2010 trên
các nội dung chủ yếu như sau:
1. Đã ngăn chặn được suy giảm, kinh tế phục hồi và tăng trưởng khá cao


Mặc dù sau khủng hoảng, kinh tế toàn cầu phục hồi chậm, nhưng kinh tế
nước ta đã sớm ra khỏi tình trạng suy giảm và có mức tăng trưởng khá cao. GDP
cả năm 2010 tăng khoảng 6,7%, cao hơn chỉ tiêu Quốc hội đề ra. Khu vực nông
nghiệp tăng 2,6%, công nghiệp và xây dựng tăng 7,6%, dịch vụ tăng 7,5%. Với
kết quả này, tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 5 năm 2006 - 2010 đạt
khoảng 7%/năm. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt khoảng 1.160 USD.
Vốn đầu tư phát triển năm 2010 ước tăng 12,9% so với năm 2009 và bằng
khoảng 41% GDP. Kết quả giải ngân vốn Nhà nước khá cao và có tiến bộ trong
điều hành, dự kiến cả năm sẽ đạt kế hoạch; nhờ đó sớm hoàn thành nhiều công
trình kết cấu hạ tầng và tạo thêm cơ sở sản xuất mới, góp phần thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và phục hồi tăng trưởng.
Năm 2010, có khoảng 85 nghìn doanh nghiệp dân doanh thành lập mới với
số vốn đăng ký khoảng 500 nghìn tỷ đồng; bình quân đạt gần 6 tỷ đồng/doanh
nghiệp, tăng 125% so với năm 2009, góp phần quan trọng phát triển sản xuất
kinh doanh và tạo thêm nhiều việc làm mới.
2. Kinh tế vĩ mô có bước cải thiện, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ
bản được bảo đảm
Trong khi sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn, cán cân thương mại
thâm hụt lớn, bội chi ngân sách năm trước ở mức cao nhất trong những năm gần
đây và những tác động phụ của gói kích thích kinh tế năm 2009, việc bảo đảm
ổn định kinh tế vĩ mô là một thách thức lớn, nhưng nhờ những biện pháp điều
hành linh hoạt, phù hợp nên tình hình đã có bước cải thiện.
Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2010 dự kiến vượt 12,7% so với dự toán
và tăng 17,6% so với năm 2009, bảo đảm được các nhiệm vụ chi và góp phần
giảm bội chi xuống dưới 6%, thấp hơn kế hoạch đề ra (6,2%). Đến hết năm
2010, dư nợ Chính phủ tương đương khoảng 44,5% GDP, dư nợ nước ngoài của
quốc gia khoảng 42,2% GDP và dư nợ công bằng 56,7% GDP, nằm trong giới
hạn an toàn.
Chính sách tiền tệ đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng và kiểm soát lạm phát,
cơ bản bảo đảm được các mục tiêu đã đề ra từ đầu năm: tổng phương tiện thanh

toán tăng khoảng 20%, dư nợ tín dụng tăng khoảng 25%. Tỷ giá được điều hành
linh hoạt hơn theo nguyên tắc thị trường; thực hiện điều hành lãi suất cho vay
theo cơ chế thoả thuận và theo hướng giảm dần; tăng cường giám sát bảo đảm
an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng; kiểm soát nợ xấu dưới 3%.
Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2010 ước tăng 19,1%, gấp hơn 3 lần so với
kế hoạch góp phần quan trọng vào việc giảm nhập siêu giảm bớt thâm hụt cán
cân thanh toán quốc tế.

2
Sản xuất kinh doanh phát triển, cân đối cung cầu được bảo đảm, cùng với
các biện pháp tăng cường kiểm soát giá và chống đầu cơ, thị trường giá cả đã
dần ổn định.
3. Bảo đảm tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội trong điều kiện
kinh tế còn nhiều khó khăn
Trong điều kiện phải giảm bội chi ngân sách, nhưng các lĩnh vực văn hóa
và xã hội vẫn được quan tâm chăm lo tốt hơn, góp phần thiết thực vào ổn định
và cải thiện đời sống nhân dân. Thu nhập bình quân đầu người một tháng đạt 1
triệu 365 nghìn đồng, tăng 8,9% (đã loại trừ yếu tố tăng giá).
Cả năm tạo được khoảng 1,6 triệu việc làm mới; đã đào tạo nghề cho trên
1,7 triệu người. Chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn được tích
cực triển khai, riêng đào tạo nghề cho nông dân là 430 nghìn người. Dự kiến đến
cuối năm 2010, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 40%.
Công tác giảm nghèo, nhất là ở 63 huyện nghèo nhất, được triển khai đồng
bộ với các giải pháp trợ giúp thiết thực cả về sản xuất và đời sống. Tỷ lệ hộ
nghèo giảm 1,85%, xuống còn 9,5%. Chương trình xây dựng nông thôn mới
đang được triển khai tích cực. Chính sách trợ giúp người có công và bảo trợ xã
hội tiếp tục được hoàn thiện, đã mở rộng đối tượng thụ hưởng và nâng mức trợ
cấp. Nhà nước dành hơn 19.000 tỷ đồng (tăng 17% so với năm 2009) để thực
hiện chính sách cho hơn 1,4 triệu người có công với cách mạng; dành 4.500 tỷ
đồng (gấp hơn 2 lần năm 2009) để thực hiện trợ cấp thường xuyên cho hơn 1,6

triệu người và dành hàng nghìn tỷ đồng, hàng chục nghìn tấn gạo để trợ cấp đột
xuất, chủ yếu cho khắc phục thiên tai và cứu đói giáp hạt.
Các chính sách phát triển nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp tập
trung, người có thu nhập thấp khu vực đô thị, nhà ở cho người nghèo ở nông
thôn, ký túc xá cho học sinh, sinh viên được khẩn trương triển khai và đạt kết
quả tích cực. Dư nợ cho vay ưu đãi để thực hiện các chính sách xã hội là 91.000
tỷ đồng, tăng 25% so với năm 2009, riêng dư nợ tín dụng cho 1,9 triệu học sinh,
sinh viên là 29.000 tỷ, tăng 60%. Tiếp tục thực hiện lộ trình cải cách tiền lương,
đã điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu chung thực hiện từ ngày 01 tháng 5 năm
2010 và một số chính sách liên quan.
Hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tiếp tục phát triển. Số người tham
gia bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế đều tăng, góp phần tích cực vào giảm thiểu
thiệt hại và khó khăn cho người tham gia khi gặp rủi ro.

3
Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân, dân số, kế hoạch hóa gia
đình, bảo vệ và chăm sóc trẻ em, bình đẳng giới đã được quan tâm hơn, nhiều
mặt đạt được kết quả tích cực, đã cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu Quốc hội giao.
Một số bệnh dịch mới, nguy hiểm đã được khống chế và đẩy lùi. Hệ thống cơ sở
y tế tiếp tục được củng cố và phát triển. Việc thực hiện các đề án xây dựng, cải
tạo, nâng cấp hệ thống các bệnh viện, luân chuyển cán bộ y tế và đẩy mạnh xã
hội hóa đã góp phần nâng cao năng lực và chất lượng khám chữa bệnh, nhất là ở
tuyến tỉnh và tuyến huyện. Có khoảng 80% số xã đạt chuẩn y tế (năm 2009 là
65,36%). Nhiều kỹ thuật khám, chữa bệnh bằng công nghệ cao được nghiên cứu,
ứng dụng thành công ở nhiều bệnh viện. Đã hình thành mạng lưới kiểm nghiệm
chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm quốc gia.
Giáo dục và đào tạo có bước phát triển. Tích cực triển khai thực hiện đổi
mới cơ chế quản lý giáo dục, cơ chế tài chính, phát triển đội ngũ nhà giáo, cán
bộ quản lý và đổi mới phương pháp giảng dạy. Cùng với việc tăng đầu tư của
Nhà nước, đã đẩy mạnh xã hội hoá để nâng cấp cơ sở vật chất, phát triển mạng

lưới cơ sở giáo dục - đào tạo từ mầm non đến đại học. Đã kết nối internet cho tất
cả các trường phổ thông. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia bậc mầm non và các
cấp học phổ thông tăng nhanh, 100% tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục
trung học cơ sở; tỷ lệ học sinh bỏ học ở hầu hết các vùng đều giảm, kỷ cương
trong thi cử đã được thực hiện tốt hơn. Kiểm soát chặt chẽ hơn việc thành lập
mới các trường đại học. Đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu xã hội và tích cực triển
khai hợp tác đào tạo theo chương trình tiên tiến với các trường đại học nước
ngoài.
Văn hóa, thông tin, thể dục thể thao có bước phát triển. Thông tin báo chí
đã góp phần quan trọng vào việc phổ biến, tuyên truyền các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước; kịp thời phản ánh ý kiến nhân dân về các vấn đề
của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Các hoạt động sáng tạo văn
học nghệ thuật có bước phát triển mới, làm tăng tính đa dạng của sản phẩm văn
hoá, góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân. Công tác
bảo tồn và phát huy di sản văn hóa được quan tâm thực hiện. Năm 2010 nước ta
đã có thêm hai di sản văn hoá được công nhận là di sản thế giới. Phong trào thể
dục, thể thao quần chúng và thể thao thành tích cao tiếp tục được đẩy mạnh với
nhiều hình thức phong phú. Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội
được tổ chức trọng thể, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần giáo dục lòng yêu
nước, truyền thống tốt đẹp, nâng cao niềm tự hào của nhân dân cả nước về Thủ
đô Anh hùng nghìn năm văn hiến.

4
4. Khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường đạt được những kết quả
tích cực
Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ
công lập bước đầu đã phát huy hiệu quả. Các doanh nghiệp khoa học công nghệ
và cơ sở nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ được khuyến khích phát
triển. Năm 2010 có trên 300 doanh nghiệp khoa học công nghệ được thành lập
mới, gấp 2 lần năm 2009. Thị trường công nghệ có bước phát triển, giá trị các

giao dịch, mua bán công nghệ tăng so với năm trước. Số lượng sáng chế của
người Việt Nam được đăng ký bảo hộ tăng gấp 2 lần, trong đó số bằng bảo hộ
được cấp tăng 15%; các nhà khoa học Việt Nam đã tạo được hơn 30 giống cây
trồng mới có năng suất, chất lượng cao.
Công tác quản lý tài nguyên, khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường đã
được chú ý chấn chỉnh một bước. Hệ thống pháp luật về tài nguyên khoáng sản
tiếp tục được hoàn thiện. Công tác thanh tra, kiểm tra việc cấp phép và chấp
hành pháp luật về khai thác khoáng sản được tăng cường. Đã xây dựng và triển
khai chiến lược khai thác, sử dụng khoáng sản nhằm bảo đảm hiệu quả kinh tế
xã hội, an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường. Công tác quản lý tài nguyên
đất, tài nguyên nước được quan tâm hơn. Đến nay, đã cơ bản hoàn thành việc
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đang khẩn trương tổng kết việc thi hành
luật đất đai để tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện.
Công tác bảo vệ môi trường được coi trọng và tập trung chỉ đạo đồng bộ cả
về xây dựng thể chế, chính sách; thực hiện các giải pháp phòng ngừa ô nhiễm;
tăng cường kiểm tra, thanh tra và xử lý các vi phạm. Đã xử lý hàng trăm cơ sở vi
phạm pháp luật về môi trường, trong đó, có nhiều vụ vi phạm nghiêm trọng.
Công tác đánh giá tác động môi trường và giải pháp ngăn ngừa ô nhiễm ở các dự
án đầu tư mới được kiểm soát chặt chẽ hơn. Xử lý chất thải rắn đô thị, chất thải
rắn y tế được đẩy mạnh. Việc bảo đảm nước sinh hoạt cho nhân dân được quan
tâm, đến nay đã có 83% dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh, 76%
dân số đô thị được sử dụng nước sạch. Trồng và bảo vệ rừng có tiến bộ, đến cuối
năm 2010, độ che phủ rừng đạt 39,5%. Chương trình mục tiêu và kế hoạch hành
động quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu đang được tích cực triển khai.
5. Cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm
được quan tâm chỉ đạo và đạt những kết quả thiết thực
Cải cách hành chính tiếp tục được coi là một khâu đột phá với các nội dung
là hoàn thiện thể chế, kiện toàn tổ chức bộ máy và cải cách thủ tục hành chính.
Chính phủ đã trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội 16 dự án luật, pháp


5
lệnh theo đúng tiến độ, đồng thời đẩy nhanh việc ban hành các văn bản hướng
dẫn thi hành. Đề án 30 về đơn giản hoá thủ tục hành chính được triển khai đồng
bộ; đã công bố Bộ cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính, đồng thời chuẩn
hóa và thống nhất thủ tục hành chính tại các cấp chính quyền; đang thực hiện
đơn giản hoá 258 thủ tục thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ, ngành, tập
trung vào các lĩnh vực như đất đai, nhà ở, xây dựng, thuế, hải quan. Kiểm soát
chặt chẽ việc ban hành mới các thủ tục hành chính theo nguyên tắc tăng tính
công khai, minh bạch và giảm phiền hà nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý tốt hơn
và tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Cơ chế một cửa, một cửa liên
thông, việc ứng dụng công nghệ thông tin đã phát huy hiệu quả thiết thực.
Công tác kiểm tra, xử lý và theo dõi thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật
được đẩy mạnh. Mô hình tổ chức của Bộ đa ngành, đa lĩnh vực tiếp tục được
hoàn thiện. Việc thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân ở huyện, quận,
phường được triển khai nghiêm túc, chặt chẽ.
Công tác phòng, chống tham nhũng có những tiến bộ cả trong xây dựng thể
chế, kiện toàn bộ máy chỉ đạo, thực hiện các giải pháp phòng ngừa và kiểm tra,
thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch
thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng. Các Bộ, ngành,
địa phương đã ban hành và triển khai Kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia
về phòng, chống tham nhũng. Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh kết hợp với việc tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng
và thực hiện các cuộc đối thoại đã góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ,
đảng viên và nhân dân về hoạt động phòng, chống tham nhũng.
Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được chỉ đạo tập trung vào các lĩnh
vực như chi ngân sách, đầu tư xây dựng, quản lý tài sản công, đất đai, tài
nguyên. Việc thực hiện cơ chế khoán chi hành chính, cơ chế tự chủ về tài chính,
ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách thủ tục, họp trực tuyến đã tiết kiệm
đáng kể cho ngân sách và các nguồn lực của xã hội.
6. Chính trị xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm, Công

tác đối ngoại, hợp tác quốc tế đạt nhiều kết quả tích cực, vị thế của nước ta
được nâng cao trên trường quốc tế.
Đã từng bước nâng cao chất lượng, tăng cường tiềm lực cho quân đội, công
an, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh quốc gia. Các lực lượng chức năng đã
chủ động nắm chắc tình hình, phát hiện và đấu tranh làm thất bại nhiều âm mưu,
hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Các sự kiện lớn về chính trị, kinh
tế, xã hội, ngoại giao của đất nước được bảo vệ an toàn. Công tác phòng ngừa và

6
đấu tranh, trấn áp tội phạm được triển khai thực hiện có hiệu quả. Công tác đặc
xá cho các phạm nhân được thực hiện tốt, nhất là trong khâu chuẩn bị tái hoà
nhập cộng đồng.
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân được quan tâm chỉ đạo.
Việc phối hợp giữa các cấp, các ngành chức năng và tăng cường đối thoại giữa
cơ quan hành chính với người khiếu nại, tố cáo đã góp phần xử lý dứt điểm
nhiều vụ việc, trong đó có những vụ việc phức tạp, tồn đọng kéo dài.
Công tác đối ngoại được triển khai đồng bộ, toàn diện, cả ngoại giao chính
trị, kinh tế và văn hoá; kết hợp đối ngoại của Đảng với ngoại giao của Nhà nước
và ngoại giao nhân dân. Hoạt động đối ngoại của Lãnh đạo cấp cao của Đảng và
Nhà nước đã thúc đẩy nâng cấp quan hệ với nhiều đối tác, tạo điều kiện mở rộng
quan hệ hợp tác nhiều mặt, cùng có lợi, tạo dựng vị thế mới của Việt Nam trong
khu vực và trên thế giới. Những kết quả nổi bật của các Hội nghị Cấp cao
ASEAN 16, Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng
ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị các Bộ trưởng ASEAN về các trụ cột
kinh tế, văn hoá và xã hội mà Việt Nam trên cương vị Chủ tịch ASEAN, Chủ
tịch AIPA và là nước chủ nhà Diễn đàn kinh tế Đông Á, được dư luận quốc tế và
trong nước đánh giá cao. Công tác hội nhập quốc tế được triển khai tích cực và
chủ động với những kết quả thiết thực. Công tác người Việt Nam ở nước ngoài
tiếp tục được quan tâm. Những kết quả này đã góp phần nâng cao uy tín và vị
thế quốc tế của Việt Nam, tạo thêm điều kiện thuận lợi và nguồn lực quan trọng

để phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, năm qua, nền kinh tế Việt Nam vẫn
còn những hạn chế, yếu kém chậm được khắc phục:
1. Kinh tế tăng trưởng nhưng thiếu tính bền vững; cơ cấu kinh tế chuyển
dịch chậm; cơ sở hạ tầng còn yếu kém; hiệu quả đầu tư thấp; đầu tư cho nông
nghiệp, nông thôn chưa tương xứng với vai trò chiến lược của khu vực này.
Công nghiệp hỗ trợ kém phát triển, giá trị gia tăng của sản phẩm thấp. Phát triển
nguồn điện chưa đáp ứng kịp yêu cầu. Khu vực doanh nghiệp nhà nước giữ một
phần lớn vốn, tài sản, đất đai, tài nguyên quốc gia nhưng hiệu quả đầu tư và tăng
trưởng chưa tương xứng; cổ phần hoá và đổi mới doanh nghiệp nhà nước còn
chậm; quản lý nhà nước và thực hiện quyền chủ sở hữu đối với doanh nghiệp
nhà nước còn nhiều bất cập.
2. Thể chế kinh tế thị trường chưa đồng bộ; bao cấp qua giá điện, giá than
còn kéo dài, không khuyến khích tiết kiệm năng lượng và hạn chế việc huy động
vốn đầu tư của các thành phần kinh tế vào phát triển nguồn điện. Quản lý giá

7
một số mặt hàng nhất là giá sữa, giá thuốc chữa bệnh chưa tốt. Các cân đối vĩ
mô chưa vững chắc; điều tiết qua thuế còn cao, thất thu còn nhiều, chi ngân sách
còn lãng phí, bội chi còn lớn, nhập siêu còn cao, cán cân thanh toán tổng thể vẫn
còn thâm hụt, dự trữ ngoại tệ giảm, lãi suất cho vay còn cao. Sự phối hợp giữa
chính sách tài chính và chính sách tiền tệ còn chưa đồng bộ. Việc xử lý mối
quan hệ giữa ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng chưa thật hợp lý, tốc độ tăng
trưởng tuy đạt khá cao nhưng lại làm nảy sinh những khó khăn mới cho ổn định
kinh tế vĩ mô.
3. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, tỷ lệ hộ cận nghèo và tái nghèo còn
cao. Chưa tạo được chuyển biến mạnh trong giải quyết việc làm và nâng cao
chất lượng lao động. Chế độ tiền lương chưa hợp lý, nhất là khu vực hành chính
công. Công tác khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân vẫn còn không ít
khó khăn, yếu kém; quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm chưa tốt.

Việc xây dựng đời sống, lối sống văn hoá chưa tạo được nhiều chuyển biến
trong việc bồi dưỡng, phát huy các nhân tố tích cực, đẩy lùi tiêu cực. Các hoạt
động lễ hội chưa được quản lý tốt; nhiều hoạt động còn tự phát, thiếu chọn lọc,
phô trương hình thức, lãng phí. Tệ nạn xã hội ở một số nơi còn diễn biến phức
tạp; kết quả kiềm chế lây nhiễm HIV chưa vững chắc, vẫn tiềm ẩn nguy cơ bùng
phát cao. Tai nạn và ùn tắc giao thông vẫn còn là vấn đề bức xúc.
4. Quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo vẫn còn bất cập. Chất lượng giáo
dục đào tạo không đồng đều, chậm được cải thiện; nội dung và chương trình đào
tạo nghề nghiệp, phương pháp dạy và học chậm được đổi mới. Phát triển giáo
dục đào tạo ở các vùng khó khăn còn nhiều hạn chế, tỷ lệ thu hút học sinh ở bậc
trung học phổ thông, tỷ lệ học sinh vào đại học cao đẳng đạt thấp, tỷ lệ học sinh
yếu kém còn cao. Tình trạng vi phạm đạo đức trong nhà trường còn diễn ra ở
nhiều nơi, gây bức xúc trong xã hội.
5. Công tác nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ vẫn chưa tạo
được kết quả mang tính đột phá góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản
phẩm. Hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước trong lĩnh vực này còn thấp, chưa
có cơ chế phù hợp để huy động mạnh mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển khoa
học và đổi mới công nghệ.
Công tác bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên khoáng sản còn nhiều yếu
kém, hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước còn thấp; ý thức về bảo vệ môi trường
trong xã hội chưa cao, nguồn lực cho bảo vệ môi trường chưa đáp ứng được yêu
cầu. Một số chỉ tiêu trong lĩnh vực môi trường chưa đạt kế hoạch đề ra.

8
6. Thể chế, chính sách còn thiếu đồng bộ, vừa làm hạn chế hiệu quả quản
lý, vừa dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm. Việc
phân cấp mạnh quản lý nhà nước trong khi chưa có quy hoạch phù hợp, thiếu
kiểm tra, giám sát nên thực hiện còn tuỳ tiện, dẫn đến tình trạng đầu tư trùng
lặp, phân tán, hiệu quả thấp, lãng phí nguồn lực. Công tác thanh tra, kiểm tra còn
chồng chéo, chất lượng thấp. Một bộ phận cán bộ, công chức yếu kém về năng

lực, phẩm chất, lạm dụng quyền hạn, vi phạm pháp luật. Kết quả phòng chống
tham nhũng và thực hành tiết kiệm còn hạn chế.
Tình hình trên đây có nguyên nhân khách quan nhưng những khuyết điểm
chủ quan trong quản lý điều hành ở các cấp, các ngành là nguyên nhân chủ yếu
và trực tiếp, cần sớm được khắc phục.
Nhìn tổng quát, nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và quản lý có hiệu quả
của Nhà nước, sự chỉ đạo điều hành quyết liệt của Chính phủ và chính quyền các
cấp cùng với sự đồng thuận và nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị, của
cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước, chúng ta đã đạt được những
thành tựu khá toàn diện, cơ bản hoàn thành mục tiêu tổng quát và các chỉ tiêu đề
ra cho năm 2010. Nền kinh tế phục hồi và tăng trưởng khá cao. Kinh tế vĩ mô cơ
bản ổn định. Các lĩnh vực văn hóa xã hội có tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục
được cải thiện. Chính trị xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn
xã hội được bảo đảm. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt được nhiều kết
quả quan trọng. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được
nâng cao.
Những kết quả trên đây đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thành cơ bản
các mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2006 - 2010, tạo điều kiện thuận lợi để đất nước phát triển cao hơn trong giai
đoạn tiếp theo.
II. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA VIỆT NAM NĂM 2011
Theo nhiều dự báo, năm 2011, kinh tế thế giới tuy tiếp tục xu hướng phục
hồi nhưng chưa vững chắc và còn nhiều khó khăn. Các nền kinh tế là thị trường
xuất khẩu chính của Việt Nam như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản tăng trưởng chậm.
Cuộc khủng hoảng nợ công của khu vực đồng Euro và thâm hụt ngân sách cao ở
nhiều nước có thể gây biến động về tỷ giá giữa các đồng tiền, làm cho tính bất
định và độ rủi ro tăng lên, tác động mạnh tới xuất nhập khẩu, đầu tư, chính sách
tài khóa và tiền tệ của các quốc gia. Trong khi đó, giá cả nguyên liệu đầu vào có
xu hướng tăng, gây áp lực lên mặt bằng giá trong nước. Sự mạnh lên của nền
kinh tế và sức cạnh tranh của hàng hóa Trung Quốc trong điều kiện hội nhập


9
Đông Á và việc thực hiện các hiệp định mậu dịch tự do ASEAN và ASEAN+
ngày càng sâu rộng, tạo ra cơ hội nhưng cũng đặt ra những thách thức rất lớn đối
với nền kinh tế nước ta. Nếu không tạo dựng được các yếu tố nội sinh bền vững
để tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức thì thách thức sẽ lấn át, ảnh hưởng xấu
đến ổn định vĩ mô và tăng trưởng. Trong khi đó, vẫn đang tiềm ẩn những nhân
tố gây mất ổn định chính trị và đe dọa chủ quyền quốc gia.
Ở trong nước, nền kinh tế phục hồi khá nhanh và lấy lại đà tăng trưởng sau
ảnh hưởng của khủng hoảng; chính trị xã hội ổn định, môi trường kinh doanh
tiếp tục được cải thiện, Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư
nước ngoài. Đầu năm 2011, Đại hội lần thứ XI của Đảng sẽ thông qua các văn
kiện quan trọng xác định những quan điểm, mục tiêu và những định hướng lớn
để phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Đây là những thuận lợi cơ bản. Tuy
nhiên, vẫn còn những yếu tố gây lạm phát cao và bất ổn định kinh tế vĩ mô.
Những hạn chế của hệ thống thể chế, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực vẫn là
những cản trở lớn. Thiên tai, dịch bệnh và biến đổi khí hậu có thể tác động xấu
đến sự phát triển, nhất là sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân.
1. Mục tiêu tổng quát
Tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát gắn với đổi mới mô hình
tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế; phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng
cao hơn năm 2010, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền
kinh tế; bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống nhân dân; giữ
vững ổn định chính trị; bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội;
nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.
2. Các chỉ tiêu chủ yếu
a) Các chỉ tiêu kinh tế:
- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 7-7,5% so với năm 2010;
- Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2011 tăng 10% so với năm 2010. Nhập siêu
không vượt quá 18% kim ngạch xuất khẩu.

- Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bằng khoảng 40% GDP.
- Chỉ số giá tiêu dùng tăng không quá 7%.
b) Các chỉ tiêu xã hội:
- Tuyển mới đại học, cao đẳng tăng 6,5%; trung cấp chuyên nghiệp tăng 10%;
cao đẳng nghề và trung cấp nghề tăng 16,5%.
- Mức giảm tỷ lệ sinh là 0,2%o.

10
- Tạo việc làm cho 1,6 triệu lao động, trong đó đưa 8,7 vạn lao động đi làm việc
ở nước ngoài.
- Giảm tỷ lệ hộ nghèo 2% theo chuẩn nghèo mới; riêng 62 huyện nghèo giảm
4%.
- Năm 2011 có 4% số xã đạt các tiêu chí nông thôn mới.
- Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng xuống 17,3%.
- Số giường bệnh trên 1 vạn dân: 21 giường (không bao gồm giường bệnh của
trạm y tế cấp xã).
- Diện tích sàn nhà ở đô thị bình quân đầu người: 19 m
2
.
c) Các chỉ tiêu môi trường:
- Tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh: 86%.
- Tỷ lệ dân số đô thị được sử dụng nước sạch: 78%.
- Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý: 69%.
- Tỷ lệ chất thải rắn y tế được xử lý: 82%.
- Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước
thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường: 55%.
- Tỷ lệ chất thải rắn ở đô thị được thu gom: 83%
- Tỷ lệ che phủ rừng: 40%.
3. Các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu
Để đạt được các mục tiêu phát triển trong năm 2011, phải tập trung triển

khai thực hiện các nhiệm vụ quan trọng của kế hoạch 5 năm 2011-2015; chuẩn
bị các điều kiện và triển khai theo các chương trình kế hoạch thực hiện 3 đột phá
lớn: (1) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; (2) Phát triển
nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao và (3) Xây dựng
hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội để hướng tới mục tiêu xây dựng hệ thống
cơ sở hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, quy mô lớn.
1. Chỉ đạo, thực hiện các giải pháp để tăng cường ổn định vĩ mô, bảo đảm các
cân đối lớn của nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Áp dụng các biện pháp để tăng mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu chặt chẽ hơn,
nhất là hàng tiêu dùng cao cấp đắt tiền, gắn với đẩy mạnh sản xuất trong nước thay thế
nhập khẩu để giảm tỷ lệ nhập siêu. Tăng tính ổn định các cân đối lớn, như cân đối
cung cầu hàng hóa gắn với định hướng tiêu dùng, thực hiện có hiệu quả cuộc vận động

11
người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam; cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư; cân
đối ngoại tệ quốc gia, thu chi ngân sách,
Phối hợp chặt chẽ chính sách tài khoá với chính sách tiền tệ; điều hành chính
sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thận trọng; tăng tổng phương tiện thanh toán
phù hợp với các chỉ tiêu vĩ mô. Thực hiện đồng bộ các giải pháp điều chỉnh lãi
suất phù hợp với điều kiện thực tế của thị trường, tạo điều kiện phát triển sản
xuất, kinh doanh.
Quản lý chặt chẽ thị trường vàng, việc lưu hành ngoại tệ. Chủ động thực hiện lộ
trình điều chỉnh giá cả một số hàng hóa, dịch vụ Nhà nước đang quản lý như
điện, than, các dịch vụ công như y tế, giáo dục, theo cơ chế thị trường, đồng
thời có chính sách hỗ trợ đối với người có công, các đối tượng chính sách xã
hội, người nghèo. Đẩy mạnh các biện pháp quản lý thị trường; phát triển, hoàn
thiện hệ thống phân phối, lưu thông, nhất là một số mặt hàng thiết yếu như
lương thực, sữa, thuốc chữa bệnh.
Áp dụng các biện pháp kiểm soát chặt chẽ nợ công, cơ cấu nợ công và ổn định giá
trị đồng tiền, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia. Từng bước giảm tỷ lệ huy động

vào ngân sách so với GDP, đồng thời với việc áp dụng quyết liệt các biện pháp
chống thất thu. Tiếp tục đổi mới chính sách và cơ cấu chi ngân sách nhà nước, bảo
đảm chi đúng mục đích, có hiệu quả, tiết kiệm và chống lãng phí.
2. Thực hiện các giải pháp chuyển dịch cơ cấu và tái cấu trúc nền kinh tế mà
trước hết là điều chỉnh cơ cấu đầu tư, bao gồm cơ cấu đầu tư trong từng ngành,
từng lĩnh vực, cơ cấu nguồn vốn theo hướng giảm đầu tư từ nguồn vốn ngân
sách nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa các nguồn vốn đầu tư.
Tập trung vốn Nhà nước để đầu tư đồng bộ các công trình, dự án trọng yếu, có hiệu
quả kinh tế - xã hội. Thực hiện phân cấp mạnh cho các địa phương đi đôi với tăng
cường hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của cấp trên. Thực hiện lồng ghép các nguồn
vốn, tập trung đầu mối quản lý các chương trình mục tiêu quốc gia và các dự án hỗ
trợ có mục tiêu, khắc phục tình trạng phân tán nguồn vốn và đầu tư dàn trải. Có
biện pháp thật cụ thể đẩy nhanh tiến độ đầu tư các nhà máy điện, thực hiện kiên
quyết và có hiệu quả việc tiết kiệm điện cả trong sản xuất và tiêu dùng, phấn đấu
bảo đảm cung ứng đủ điện cho yêu cầu sản xuất và sinh hoạt.
Điều chỉnh cơ cấu ngành công nghiệp nhằm nâng cao giá trị gia tăng, sớm ban
hành và triển khai thực hiện chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ, các ngành
sản xuất trong nước có khả năng cạnh tranh thay thế hàng nhập khẩu. Đổi mới cơ
cấu, chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, khuyến khích đầu tư vào những

12
ngành, lĩnh vực sản xuất có chất lượng, công nghệ cao, ít tiêu tốn năng lượng và
ảnh hưởng đến môi trường, có khả năng đẩy mạnh xuất khẩu.
Ban hành các cơ chế, chính sách và có các giải pháp mạnh mẽ hơn để tạo bước
chuyển biến mang tính đột phá về cơ sở hạ tầng, tăng vốn đầu tư cho khu vực nông
nghiệp, nông thôn tương xứng với vai trò quan trọng, vị trí chiến lược của khu vực
này. Tiếp tục đầu tư đẩy nhanh triển khai thực hiện xây dựng hệ thống kho tàng dự
trữ một số hàng hóa nông sản chủ lực, xây dựng vùng sản xuất hàng hoá đi đôi với
phát triển công nghiệp chế biến. Có chính sách hỗ trợ nông dân tham gia bảo hiểm
đối với những sản phẩm có sản lượng lớn, liên quan nhiều đến sản xuất và đời sống

của đông đảo nông dân.
Coi trọng đầu tư phát triển các vùng kinh tế động lực, kinh tế ven biển, khu công
nghiệp, khu kinh tế. Tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng quy hoạch và quản
lý phát triển theo quy hoạch, bảo đảm yêu cầu liên thông giữa các ngành, các
vùng. Rà soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực, trước hết tập
trung vào những ngành mất cân đối (như năng lượng), lĩnh vực đang có dấu hiệu
cung vượt cầu (sắt thép, xi măng, ), bảo đảm cân đối giữa kế hoạch đầu tư và
vốn đầu tư, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, đầu tư ngoài quy hoạch.
Cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà nước, trước hết tập trung củng cố, tăng
cường năng lực và sự phát triển bền vững của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty
nhà nước trên cơ sở rà soát, đánh giá kỹ, chấn chỉnh, sắp xếp lại một cách căn
bản; nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tập đoàn, tổng công ty, đi
đôi với hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát của
các cơ quan nhà nước. Tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước phải tập trung
vào những lĩnh vực kinh doanh chính, thực hiện công khai minh bạch kết quả
hoạt động kinh doanh, báo cáo tài chính, thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc.
Kiên quyết tách biệt chức năng quản lý hành chính nhà nước và chức năng đại
diện chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích, phát triển mạnh các
loại hình kinh tế ngoài nhà nước. Tạo môi trường bình đẳng về pháp luật và trên
thực tế giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; bảo đảm quyền
bình đẳng về cơ hội và mức độ tiếp cận của các doanh nghiệp đối với các nguồn
lực, nhất là đất đai, vốn tín dụng đầu tư. Có cơ chế, chính sách, tạo sự phát triển
có hiệu quả, bền vững các doanh nghiệp nhỏ và vừa; tạo điều kiện phát triển đa
dạng các hình thức kinh tế hợp tác.
3. Triển khai kịp thời các chính sách bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội.
Tập trung giải quyết một số vấn đề xã hội và môi trường bức xúc.

13
Chú trọng kiểm tra, giám sát để các chính sách phúc lợi, an sinh xã hội đã

ban hành áp dụng đúng đối tượng thụ hưởng. Ban hành chuẩn nghèo quốc gia
mới, nâng cao hiệu quả lồng ghép thực hiện các chương trình giảm nghèo. Tập
trung các biện pháp giảm nghèo tại các địa phương, các vùng có tỷ lệ hộ nghèo,
số hộ cận nghèo cao, bảo đảm giảm nghèo, thoát nghèo bền vững.
Có lộ trình cụ thể để khắc phục tình trạng quá tải tại các bệnh viện tuyến
Trung ương và tỉnh, đặc biệt là các bệnh viện chuyên khoa chữa trị bệnh hiểm
nghèo; chủ động phát hiện và xử lý kịp thời, hiệu quả các dịch bệnh. Mở rộng
việc áp dụng chế độ luân phiên cán bộ y tế giúp tuyến dưới nâng cao chất lượng
khám chữa bệnh; tăng cường công tác dân số ở cơ sở. Quản lý chặt chẽ về chất
lượng và chấp hành pháp luật trong hoạt động khám chữa bệnh tư nhân, thị trường
thuốc chữa bệnh; tăng khả năng bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm; áp dụng đồng
bộ các biện pháp phòng, chống nghiện ma tuý, nhiễm HIV.
Tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện và triển khai thực hiện đúng chính sách
và pháp luật đối với người có công, các đối tượng chính sách xã hội.
Xây dựng hệ thống giải pháp đồng bộ, hữu hiệu và kiên quyết khắc phục tình trạng
bạo lực, tệ nạn xã hội đang có xu hướng diễn biến phức tạp. Đẩy mạnh phòng,
chống vi phạm pháp luật, tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức; thực hiện các biện
pháp kiên quyết giảm tai nạn giao thông.
Tăng đầu tư vào lĩnh vực môi trường, phòng chống ô nhiễm không khí, nguồn
nước, bảo vệ môi trường sinh thái, chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị
cho các cơ sở nghiên cứu, dự báo về biến đổi khí hậu, đầu tư tương xứng cho khắc
phục hậu quả và công tác phòng, chống thiên tai. Kiểm tra, thanh tra và xử lý
nghiêm những vi phạm pháp luật về môi trường. Kiểm soát chặt chẽ việc cấp phép
khai thác khoáng sản, các dự án đầu tư sử dụng nhiều tài nguyên, năng lượng; kiên
quyết không cấp phép cho các dự án đầu tư mới không đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi
trường.
4. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính và phòng, chống tham nhũng,
lãng phí.
Chỉ đạo quyết liệt hơn chương trình cải cách thủ tục hành chính theo hướng tiếp tục
đơn giản hóa thủ tục, đồng thời kiểm soát chặt chẽ những thủ tục mới phát sinh, vừa

tạo điều kiện thuận lợi nhất cho công dân và doanh nghiệp, vừa bảo đảm yêu cầu
quản lý ngày càng cao, hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan quản lý Nhà nước. Tăng
cường kỷ luật hành chính, kỷ luật công vụ và đặc biệt là đề cao chế độ trách nhiệm
cá nhân, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật.

14
Tiếp tục thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, huyện, phường
theo Nghị quyết số 26/2008/QH12 của Quốc hội ngày 15/11/2008 và Nghị quyết số
724/2009/UBTVQH12 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 16/1/2009 cho đến
khi Quốc hội có Nghị quyết mới về vấn đề này.
Rà soát, điều chỉnh quy định về phân cấp, phân công quản lý nhà nước giữa Trung
ương và địa phương, giữa các Bộ ngành, bảo đảm trong từng lĩnh vực có cơ quan
chịu trách nhiệm chính, có sự phân công chủ trì, phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ
quan hữu quan. Nâng cao năng lực, hiệu quả kiểm tra, thanh tra, giám sát của cơ
quan trung ương, nhất là trong các lĩnh vực đất đai, khoáng sản, tài chính, ngân hàng,
đầu tư công, hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm tính thống nhất, thông
suốt và hiệu lực, hiệu quả của hệ thống quản lý hành chính nhà nước, nâng cao trách
nhiệm giải trình của các cơ quan chính quyền các cấp. Áp dụng đồng bộ các biện
pháp mạnh để phòng, chống tham nhũng một cách có hiệu quả hơn.
Thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí. Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, nâng cao ý thức thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí, tạo thành thói quen, nếp sống của mỗi công dân
và cả cộng đồng.
5. Tăng cường đào tạo, chú trọng xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế -xã hội trong giai đoạn mới.
Đổi mới và hoàn thiện chính sách đào tạo nguồn nhân lực, chú trọng đào tạo nghề
nhằm tăng cường đội ngũ lao động có đào tạo cả về quy mô và chất lượng; gắn đào
tạo với nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực; thực hiện liên kết chặt chẽ giữa các cơ sở sử
dụng lao động, cơ sở đào tạo; tăng cường đào tạo thông qua hợp đồng đào tạo; điều
chỉnh cơ cấu đào tạo phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội. Triển khai xây

dựng và thực hiện chương trình phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nâng cao kỹ
năng thực hành, năng lực sáng tạo đáp ứng yêu cầu của các ngành, các địa bàn kinh tế
trọng điểm, quan tâm đào tạo nghề cho lao động nông thôn; đối tượng là thanh niên
hoàn thành nghĩa vụ quân sự.
Coi trọng giáo dục toàn diện, đặc biệt là giáo dục trách nhiệm công dân, tăng
khả năng thực hành của học sinh. Xây dựng văn hóa trường học; đẩy nhanh tiến độ
triển khai chương trình kiên cố hóa trường, lớp học. Hoàn thiện và triển khai quy
định của pháp luật về phát triển giáo dục mầm non.
6. Củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; mở rộng quan hệ đối
ngoại, chủ động hội nhập quốc tế.

15
Ưu tiên bảo đảm nguồn lực cho củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an
ninh; thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp tạo sức mạnh tổng hợp bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đặc biệt là trên các vùng biển,
đảo của Việt Nam. Chủ động phát hiện, ngăn chặn mọi âm mưu chống phá, gây
bạo loạn của các thế lực thù địch, bảo đảm sự ổn định, giữ vững an ninh quốc gia
và trật tự an toàn xã hội. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về quốc phòng,
an ninh, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng,
an ninh, nhất là trên các địa bàn trọng điểm. Nâng cao chất lượng và hiệu quả
công tác phòng chống vi phạm pháp luật và tội phạm, thực hiện có hiệu quả các
chương trình quốc gia về phòng, chống tội phạm ma túy, buôn bán phụ nữ, trẻ
em; nâng cao năng lực phòng cháy, chữa cháy, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn.
Sớm sửa đổi, bổ sung quy định các dự án trồng rừng có vốn đầu tư nước ngoài
thuộc nhóm các dự án đầu tư có điều kiện. Thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư các dự
án trồng rừng có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các khu vực nhạy cảm về quốc
phòng, an ninh; giao đất trồng rừng tại các khu vực này cho nhân dân và các đơn vị
vũ trang, gắn phát triển kinh tế-xã hội với bảo vệ quốc phòng, an ninh.
Mở rộng quan hệ đối ngoại và tăng cường hợp tác quốc tế, tạo môi trường
hòa bình, ổn định và tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển và bảo

vệ đất nước. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả, thực hiện
tốt các cam kết quốc tế. Phát huy vai trò và huy động các nguồn lực của cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài về phát triển đất nước./.


16

×