Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

vốn trong nước là yếu tố quyết định, vốn nước ngoài giữ vai trò quan trọng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (945.08 KB, 70 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngay những ngày đầu giải phóng đất nước, Đảng ta và toàn thể nhân
dân đã vạch ra mục tiêu quan trọng nhất là phát triển kinh tế-xã hội, tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa nước ta từ 1 nước có nền nông
nghiệp lạc hậu thành 1 nước công nghiệp hiện đại. Để làm được điều này,
không chỉ có sự quyết tâm mà chúng ta phải có một nguồn vốn đủ lớn cho đầu
tư phát triển. Vốn cho đầu tư phát triển là rất quan trọng nếu không muốn nói
là yếu tố quyết định đối với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng kĩ thuật cho nền kinh tế. Trong chiến
tranh, Việt Nam ta chủ yếu nhờ viện trợ nước ngoài, nhưng giờ đây, hoà bình
lập lại và đặc biệt là sự sụp đổ của Liên Bang Nga vào năm 1991 đã đẩy nước
ta vào thế cô độc. Vì thế, không còn cách nào khác là chúng ta phải tự đứng
trên đôi chân của mình.
Với phương châm “Vốn trong nước là yếu tố quyết định, vốn nước
ngoài giữ vai trò quan trọng”, Đảng và Nhà Nước đã giao cho các ngân hàng
thương mại nói chung và ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt
Nam nói riêng nhiệm vụ huy động các nguồn lực tài chính trong nước để phục
vụ cho các dự án phát triển kinh tế. Nguồn vốn huy động chủ yếu từ dân cư,
các tổ chức kinh tế, phát hành trái phiếu ở trong và ngoài nước.
Trong những năm qua, nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn
phát triển đối với kinh tế đất nước, ngân hàng thương mại cổ phần ngoại
thương Việt Nam nói chung và Vietcombank Hà Nội nói riêng đã mở rộng
mạng lưới giao dịch, huy động nguồn vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Khách hàng chủ yếu của Vietcombank Hà Nội là các tổ chức kinh tế, cá nhân
trên địa bàn.
Tuy nhiên trong bối cảnh khó khăn của kinh tế thế giới, sự tác động
ảnh hưởng mạnh mẽ sâu rộng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, đặc
biệt là sau khi Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2006. Không chỉ có vậy,
môi trường kinh tế trong nước chưa thực sự ổn định, môi trường pháp lí đang
dần được hoàn thiện nên hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại
đang gặp rất nhiều khó khăn, nhất là trong hoạt động huy động vốn.


Dựa trên suy nghĩ đó và qua quá trình thực tập ở ngân hàng thương
mại cổ phần ngoại thương Việt Nam chi nhánh Hà Nội, em đã tiến hành
nghiên cứu đề tài: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại ngân hàng
Thương mại Cổ phần ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội.
Sau đây, em xin trình bày chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về nguồn vốn của các ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng hoạt động huy động vốn ở ngân hàng ngoại
thương Việt Nam chi nhánh Hà Nội
Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn ở ngân
hàng Vietcombank Hà Nội.
Chuyên đề này được hoàn thành dựa trên sự hướng dẫn tận tình của
Tiến sĩ Hoàng Xuân Quế cùng các anh chị phòng Tổng Hợp-Chi nhánh ngân
hàng ngoại thương Hà Nội. Thời gian thực tập còn kéo dài, em mong được sự
giúp đỡ của thầy và các anh chị rất nhiều. Em xin chân thành cảm ơn.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ NGUỒN VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại:
1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại:
Trong nền kinh tế hàng hoá, nhiều doanh nghiệp, nhiều đơn vị tổ chức
kinh tế hoạt động kinh doanh trong nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực khác
nhau. Các ngành tạo ra được sản phẩm hàng hoá cho xã hội như: nông nghiệp,
công nghiệp, xây dựng. Tuy nhiên, bên cạnh đó có ngành chỉ làm nhiệm vụ
lưu thông, phân phối, lại có ngành chỉ thuần tuý cung cấp dịch vụ như: vận
tải, bưu chính viễn thông, ngân hàng Hệ thống ngân hàng đứng đầu là ngân
hàng trung ương, bên dưới là các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng
thương mại hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng.
Có thể nói, ngân hàng thương mại là một phần không thể thiếu của nền kinh
tế. Nó góp phần thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển. Ngân hàng thương mại
được coi là 1 loại định chế tài chính đặc biệt của nền kinh tế thị trường. Người
ta cho rằng ngân hàng thương mại ra đời trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá

phát triển tới 1 trình độ nhất định. Qua quá trình tồn tại và phát triển nhiều thế
kỷ, hệ thống ngân hàng thương mại ngày càng được hoàn thiện. Ngân hàng
thương mại trở thành một định chế không thể thiếu của nền kinh tế thị trường.
Hoạt động của ngân hàng thương mại đã và sẽ góp phần to lớn vào việc thúc
đẩy nền kinh tế phát triển. Vì vậy, ngân hàng thương mại có 1 vị trí đặc biệt
quan trọng trong nền kinh tế xã hội.
Ngân hàng thương mại là loại ngân hàng giao dịch trực tiếp với các
công ty, xí nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân, bằng cách nhận tiền gửi, tiền
tiết kiệm, rồi sử dụng số vốn đó để cho vay, chiết khấu, cung cấp các phương
tiện thanh toán và cung ứng dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng trên.
Ngân hàng thương mại là loại ngân hàng có số lượng lớn và rất phổ
biến trong nền kinh tế. Sự có mặt của ngân hàng thương mại trong hầu hết các
mặt hoạt động của nền kinh tế, xã hội đã chứng minh rằng: ở đâu có một hệ
thống ngân hàng thương mại phát triển thì ở đó đã có sự phát triển với tốc độ
cao của nền kinh tế.
Như vậy, có thể nói rằng ngân hàng thương mại là định chế tài chính
trung gian quan trọng vào loại bậc nhất trong nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ
thống tài chính trung gian này, mà các nguồn tiền nhàn rỗi nằm rải rác trong
xã hội sẽ được huy động, tập trung lại, đồng thời sử dụng số vốn đó để cấp tín
dụng cho các tổ chức kinh tế, cá nhân để phát triển kinh tế, xã hội.
1.1.2. Quá trình ra đời và phát triển của các ngân hàng thương mại:
Ngày nay, trong mỗi quốc gia, toàn bộ hệ thống ngân hàng được định
hình thành 2 cấp rõ rệt gồm ngân hàng trung ương (Central Bank), và hệ
thống ngân hàng thương mại (Commercial Bank).
Nhưng từ xa xưa, hàng ngàn năm trước công nguyên, khi mới hình
thành manh nha ngành ngân hàng, cho đến tận thế kỷ 18 thì không có sự phân
biệt đó: các ngân hàng hoạt động độc lập và đơn điệu, không có mối liên hệ
với nhau, những hoạt động đó đều giống nhau về nội dung và tính chất, bao
gồm nhận ký thác, cho vay, chiết khấu, nghĩa là trong thời kỳ thế kỷ 18 trở về
trước, chỉ tồn tại trong nền kinh tế một hệ thống ngân hàng duy nhất-hệ thống

ngân hàng trung gian (Intermediary Bank System).
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, hệ thống
ngân hàng đã từng bước phát triển, hoàn thiện dần. Trong sự phát triển và
hoàn thiện của hệ thống ngân hàng chúng ta thấy rõ mối liên hệ hữu cơ giữa
sự phát triển của hệ thống ngân hàng với sự phát triển của hệ thống lưu thông
tiền tệ. Chính hệ thống lưu thông tiền tệ bắt đầu từ hình thái tiền đúc bằng
kim loại quý đã nảy sinh nghề ngân hàng cách đây hàng ngàn năm để từ đó
qua nhiều thế kỷ, hệ thống ngân hàng đã được hình thành.
1.1.3. Bản chất của ngân hàng thương mại:
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt trong
nền kinh tế, hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Bản chất của
ngân hàng thương mại thể hiện qua các khía cạnh sau:
*Ngân hàng thương mại là 1 loại hình doanh nghiệp và là 1 đơn vị kinh
tế. Nói ngân hàng thương mại là 1 đơn vị kinh tế, 1 loại hình doanh nghiệp
nghĩa là ngân hàng thương mại hoạt động trong 1 ngành kinh tế, có cơ cấu, tổ
chức như một doanh nghiệp bình đẳng trong quan hệ kinh tế với các doanh
nghiệp khác. Nó phải tự chủ về kinh tế và phải có nghĩa vụ đóng thuế cho
Nhà Nước như các đơn vị kinh tế khác.
*Hoạt động của ngân hàng thương mại là hoạt động kinh doanh. Ngân
hàng thương mại phải có vốn (vốn được cấp nếu là ngân hàng công, được cổ
đông đóng góp nếu là ngân hàng cổ phần), phải tự chủ về tài chính (tự lấy thu
nhập để bù đắp chi phí). Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại cần
đạt đến mục tiêu tài chính cuối cùng là lợi nhuận. Tuy nhiên, việc tìm kiếm
lợi nhuận là phải chính đáng trên cơ sở chấp hành luật pháp của Nhà Nước.
*Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại là hoạt động kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Đây là lĩnh vực đặc biệt vì trước hết nó
liên quan trực tiếp đến tất cả các ngành, liên quan đến mọi mặt của đời sống
kinh tế, xã hội. Mặt khác, lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng là lĩnh vực nhạy cảm,
đòi hỏi sự thận trọng và khéo léo trong điều hành ngân hàng để tránh những
thiệt hại cho xã hội. Lĩnh vực hoạt động này của ngân hàng thương mại góp

phần cung ứng 1 lượng vốn tín dụng rất lớn cho kinh tế, xã hội.
1.2. Nguồn vốn tại ngân hàng thương mại:
1.2.1. Vốn chủ sở hữu:
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng (được pháp luật cho phép) chủ ngân
hàng phải có 1 lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng
lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình
thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở
hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị
trường.
*Nguồn vốn hình thành ban đầu:
Tuỳ theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn vốn hình thành vốn
ban đầu khác nhau. Nếu ngân hàng thuộc sở hữu Nhà Nước, ngân sách Nhà
Nước cấp (vốn của Nhà Nước). Nếu ngân hàng cổ phần, các cổ đông đóng
góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh do các bên
liên doanh góp, ngân hàng tư nhân là vốn sở hữu của tư nhân.
*Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động:
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều
phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể.
Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không,
chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một phần
thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích luỹ tuỳ thuộc vào cân nhắc của chủ
ngân hàng về tích luỹ và tiêu dùng. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập ròng
lớn, nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận sẽ cao so với vốn chủ hình thành ban đầu.
Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để
mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng
nhu cầu gia tăng vốn của chủ do ngân hàng Nhà Nước quy định… Đặc điểm
của hình thức huy động này là không thường xuyên, nhưng giúp cho ngân
hàng có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
*Các quỹ:
Ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có mục đích riêng. Trước tiên là

quỹ dự phòng tổn thất. Quỹ này được trích lập hàng năm và được tích luỹ lại
nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra. Quỹ bảo toàn vốn nhằm bù đắp hao mòn
của vốn dưới tác động của lạm phát. Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản
của ngân hàng và chênh lệch giữa mệnh giá và thị giá cổ phiếu khi phát hành
cổ phiếu mới. Tuỳ theo quy định cụ thể của từng nước, các ngân hàng còn có
thể có quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ giám đốc…
Các quỹ của ngân hàng thuộc sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình
thành các quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên, khả năng sử dụng
các quỹ này vào hoạt động kinh doanh tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng quỹ.
*Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần:
Các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại mà có khả
năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận vốn sở
hữu của ngân hàng (vốn bổ sung) do nguồn này có một số đặc điểm là sử
dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả
khi đến hạn.
1.2.2. Vốn huy động:
Vốn huy động là tài sản bằng tiền của các tổ chức và cá nhân mà ngân
hàng đang tạm thời quản lý và sử dụng với trách nhiệm hoàn trả. Vốn huy
động là nguồn chủ yếu và quan trọng nhất của bất kỳ 1 ngân hàng thương mại
nào. Chỉ có các ngân hàng thương mại mới được quyền huy động vốn với các
hình thức khác nhau.
1.2.2.1. Đặc điểm của vốn huy động:
-Vốn huy động trong ngân hàng thương mại chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Các ngân hàng thương mại hoạt
động được chủ yếu nhờ nguồn vốn này.
-Vốn huy động về mặt lý thuyết là một nguồn không ổn định, vì khách
hàng có thể rút tiền của họ mà không ràng buộc. Chính vì đặc điểm này mà
các ngân hàng thương mại cần phải duy trì một khoản “Dự trữ thanh khoản”
để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng.
-Có chi phí sử dụng vốn tương đối cao và chiếm tỷ trọng chi phí đầu vào

rất lớn trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại.
-Đây là nguồn vốn có tính cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng.
-Vốn huy động chỉ được sử dụng trong các hoạt động tín dụng, bảo lãnh.
Các ngân hàng thương mại không được sử dụng nguồn vốn này để đầu tư.
1.2.2.2. Cơ cấu huy động vốn của ngân hàng thương mại:
*Tiền gửi hoạt kỳ (tiền gửi không theo kỳ hạn)
-Tiền gửi hoạt kỳ là lại tiền gửi mà người gửi tiền (chủ tài khoản) được
sử dụng 1 cách chủ động và linh hoạt, không bị ràng buộc về mặt thời gian.
-Tiền gửi hoạt kỳ là loại tiền gửi để phục vụ cho nhu cầu giao dịch,
thanh toán cho chủ tài khoản như trả tiền hàng hoá, dịch vụ, rút tiền mặt từ
ATM, chuyển tiền… chủ tài khoản gửi tiền vào tài khoản ở ngân hàng, không
vì mục đích hưởng lợi mà vì nhu cầu giao dịch, thanh toán. Chính vì vậy, lãi
suất không phải công cụ để thu hút nguồn này, mà công cụ chính là dịch vụ
mà ngân hàng cung cấp kèm theo mà phải là công cụ có nhiều tiện ích, an
toàn, nhanh chóng và chính xác.
-Tiền gửi hoạt kỳ là nguồn vốn huy động có chi phí sử dụng vốn (chi
phí lãi) rất thấp. Chính vì vậy, các ngân hàng nên tập trung huy động nguồn
vốn này thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng mới có hiệu quả cao. Do tính
chất linh hoạt của nó, nên tiền gửi hoạt kỳ được sử dụng để cho vay ngắn hạn.
*Tiền gửi định kỳ (tiền gửi có kỳ hạn):
-Tiền gửi định kỳ là loại tiền gửi mà người gửi tiền chỉ có thể rút ra
khi đáo hạn. Tuy nhiên, trong trường hợp bình thường, các ngân hàng vẫn cho
khách hàng rút tiền trước hạn với điều kiện chỉ được hưởng lãi theo lãi suất
không kỳ hạn. Tiền gửi định kỳ có đặc điểm:
+Tiền gửi định kỳ có đặc điểm là sự ổn định tương đối. Do vậy, các
ngân hàng thương mại thường sử dụng cho vay trung và dài hạn.
+Tiền gửi định kỳ có chi phí sử dụng vốn khá cao. Người gửi tiền có
kỳ hạn nhằm mục đích hưởng lãi. Do vậy, lãi suất hấp dẫn, lãi suất cao là đòn
bảy, là công cụ để thu hút nguồn vốn này. Như vậy, công cụ chủ yếu để gia
tăng nguồn vốn tiền gửi định kỳ là lãi suất.

*Tiền gửi của các ngân hàng khác:
Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và các mục đích khác, ngân hàng
thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên, quy mô nguồn
này thường không lớn.
*Nguồn vốn huy động khác:
Ngoài 3 nguồn vốn nói trên, các ngân hàng thương mại có thể huy
động các nguồn khác như:
-Tiền gửi ký quỹ.
-Tiền gửi đảm bảo thanh toán.
-Tiền gửi tạm giữ.
-Tiền đang chuyển.
1.2.3. Nguồn đi vay và nghiệp vụ đi vay của ngân hàng thương mại:
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy
nhiên, khi cần ngân hàng thương mại vay mượn thêm. Tại nhiều nước, ngân
hàng Trung Ương thường quy định tỷ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn của
chủ. Do vậy, nhiều ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn
thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động vốn bị hạn chế.
1.2.3.1. Vay ngân hàng Nhà Nước:
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của
ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu dự trữ bắt
buộc, dự trữ thanh toán), ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng Nhà
Nước. Hình thức cho vay chủ yếu của ngân hàng Nhà Nước là tái chiết khấu
(hoặc tái cấp vốn). Các thương phiếu đã được các ngân hàng thương mại chiết
khấu (hoặc tái chiết khấu) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng
mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại ngân hàng Nhà Nước.
Nghiệp vụ này thường làm thương phiếu của ngân hàng thương mại giảm đi
và dự trữ (tiền mặt hoặc tiền gửi tại ngân hàng Nhà Nước) tăng lên. Ngân
hàng Nhà Nước điều hành vay mượn này một cách chặt chẽ. Ngân hàng
thương mại phải thực hiện các điều kiện này nhằm đảm bảo và kiểm soát nhất
định. Thông thường, ngân hàng Nhà Nước chỉ tái chiết khấu cho những

thương phiếu có chất lượng (thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và
phù hợp với mục tiêu của ngân hàng Nhà Nước trong từng thời kỳ. Trong
điều kiện chưa có thương phiếu, ngân hàng Nhà Nước cho ngân hàng thương
mại vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định.
1.2.3.2. Vay các tổ chức tín dụng khác:
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ
chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự
trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động
hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm
kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu
cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy, nguồn vay mượn từ
các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách. Nó bổ
sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ ngân hàng Nhà Nước. Quá trình
vay mượn rất đơn giản. Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng
cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý (hoặc ngân hàng Nhà Nước). Khoản
vay có thể không cần đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc. Kết quả là
dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng lên.
1.2.3.3. Vay trên thị trường vốn:
Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn
bằng cách phát hành các giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị
trường vốn. Rất nhiều ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền gửi trung và dài
hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy
các khoản vay trung và dài hạn sẽ bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng
nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thường, đây là khoản vay
không có bảo đảm. Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay
mượn được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp
bằng cách này, họ thường phải vay thông qua các ngân hàng đại lý hoặc được
bảo lãnh của ngân hàng Đầu Tư. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình
độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công
cụ nợ dài hạn của ngân hàng. Nghiệp vụ vay mượn tương đối phức tạp. Ngân

hàng cần nghiên cứu kỹ thị trường để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất
và thời hạn vay mượn thích hợp. Các vấn đề chuyển nhượng, điều chỉnh lãi
suất, bảo quản hộ… cũng được các ngân hàng quan tâm.
1.2.4. Vai trò huy động vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
thương mại:
Như mọi đơn vị kinh doanh khác, muốn hoạt động kinh doanh được
tiến hành cần phải có tư liệu sản xuất. Ngân hàng thương mại là một tổ chức
kinh doanh tiền tệ nên phải có tiền mới có thể hoạt động kinh doanh được.
Hoạt động tìm kiếm tư liệu sản xuất của ngân hàng thương mại là hoạt động
huy động vốn. Như vậy, huy động vốn đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt
động của các ngân hàng thương mại.
1.2.4.1. Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh:
Trong nền kinh tế thị trường, bất kỳ doanh nghiệp nào muốn sản xuất
kinh doanh cũng phải cần vốn, vốn quyết định đến khả năng kinh doanh của
doanh nghiệp. Đối với ngân hàng thương mại, vốn là đối tượng kinh doanh
chủ yếu, vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh. Điều
này thể hiện ở vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay của ngân hàng. Nếu ngân
hàng không có vốn thì không thể tiến hành hoạt động kinh doanh. Trên thực
tế, ngân hàng nào có khối lượng vốn lớn hơn thì ngân hàng đó có thể cạnh
tranh trong kinh doanh.
1.2.4.2. Vốn ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng và các hoạt động
khác của ngân hàng thương mại:
Vốn của ngân hàng có ảnh hưởng lớn đến việc mở rộng hay thu hẹp
tín dụng, hoạt động bảo lãnh kinh doanh ngoại tệ hay hoạt động thanh toán
của các ngân hàng thương mại. Vốn tự có của các ngân hàng ngoài việc sử
dụng để mua sắm tài sản cố định, trang thiết bị, góp vốn kinh doanh… còn là
căn cứ để giới hạn các hoạt động kinh doanh tiền tệ bao gồm cả các hoạt động
tín dụng. Việc quy định tỷ lệ cho vay, tỷ lệ huy động vốn trên vốn tự có của
ngân hàng Trung Ương thể hiện vai trò quản lý, điều tiết thị trường của Nhà
Nước, để đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng và đảm bảo quyền và lợi ích

hợp pháp của người gửi tiền.
Những quy định về mức cho vay, mức huy động trên vốn tự có như:
-Mức cho vay của 1 ngân hàng cho một khách hàng không vượt quá
15% vốn tự có.
-Mức huy động không vượt quá 20 lần vốn tự có.
-Mua cổ phần hoặc góp vốn liên doanh không được vượt quá 50% vốn
tự có.
Nếu khả năng về vốn của ngân hàng đó dồi dào thì ngân hàng có thể
mở rộng được các hoạt động của mình và đáp ứng được nhu cầu của khách
hàng về cho vay, bảo lãnh, đầu tư. Vốn tự có rất quan trọng nhưng chỉ chiếm
một phần rất nhỏ trong tổng nguồn vốn, vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất
và là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng tiến hành các hoạt động kinh doanh.
Do đó, ngân hàng nào có nguồn vốn huy động càng lớn thì khả năng cấp tín
dụng cho nền kinh tế và các hoạt động khác càng được mở rộng.
1.2.4.3. Vốn đảm bảo khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân
hàng trên thị trường:
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô
hoạt động đòi hỏi các ngân hàng phải coi uy tín của mình trên thị trường là
điều quan trọng. Uy tín đó trước hết phải thể hiện ở khả năng sẵn sàng thanh
toán cho khách hàng khi họ yêu cầu. Khả năng thanh toán của ngân hàng càng
cao thì vốn khả dụ càng lớn. Mặt khác, uy tín của ngân hàng còn được thể
hiện ở khả năng cho vay và đầu tư của ngân hàng (ngân hàng chỉ có thể cho
vay những dự án lớn, thời hạn dài nên ngân hàng có vốn lớn). Điều này phụ
thuộc vào hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Với tiềm năng và khả năng
huy động vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô ngày
càng tăng, tiến hành cạnh tranh có hiệu quả, vừa giữ chữ tín, vừa nâng cao
thanh thế của ngân hàng trên thị trường.
Bên cạnh đó, một trong những công cụ lớn nhất của vốn tự có là tạo
sự uy tín trong công chúng. Một ngân hàng có trụ sở tài sản riêng càng đồ sộ
chừng nào thì càng dễ gây uy tín cho dân chúng chừng ấy. Vốn tự có của

ngân hàng càng lớn thì sức chịu đựng của ngân hàng càng mạnh khi mà tình
hình kinh tế xã hội và tình hình hoạt động của ngân hàng trải qua giai đoạn
khó khăn.
1.2.4.4. Vốn là một trong những yếu tố quyết định đến năng lực cạnh
tranh của ngân hàng:
Với mỗi ngân hàng, quy mô, trình độ cán bộ, công nhân viên, phương
tiện kỹ thuật hiện đại là tiền đề thu hút vốn. Khi có nguồn vốn dồi dào, ngân
hàng có thể mở rộng khối lượng tín dụng và điều tiết lãi suất cho vay. Do đó,
có tiềm lực về vốn lớn ngân hàng có thể giảm mức lãi suất cho vay từ đó tạo
cho ngân hàng ưu thế trong cạnh tranh, và giúp ngân hàng có tiềm lực trong
việc mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết, cho thuê, mua bán nợ, kinh
doanh chứng khoán… Từ sự đa dạng hoá danh mục đầu tư giúp ngân hàng
phân tán rủi ro trong kinh doanh và tạo thuận lợi cho ngân hàng.
1.3. Đặc điểm của nguồn vốn huy động:
1.3.1. Đặc điểm của nguồn tiền gửi:
Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải được thanh toán khi khách
hàng yêu cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn. Sự thay đổi
đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn, làm thay đổi cầu thanh khoản của ngân hàng.
Quy mô của tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác. Thông thường
nguồn này chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng
năm của các ngân hàng.
Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc, do vậy chi phí tiền gửi
thường cao hơn lãi trả cho tiền gửi. Ở nhiều nước, ngân hàng phải mua bảo
hiểm cho tiền gửi.
1.3.2. Đặc điểm của nguồn đi vay:
Tỷ trọng của nguồn vốn này trong tổng nguồn thường thấp hơn nguồn
tiền gửi, trừ một số ngân hàng chuyên hoạt động bán buôn. Các khoản đi vay
thường là với thời hạn và quy mô xác định trước, do vậy tạo thành nguồn ổn
định cho ngân hàng. Khác với nhận tiền gửi, ngân hàng không nhất thiết phải
đi vay thường xuyên: Ngân hàng chỉ vay lúc cần thiết, ngân hàng hoàn toàn

chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu cầu sử dụng. Nguồn vay
có thể không phải chịu dự trữ bắt buộc và bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên, do rủi
ro lớn hơn nên lãi suất trả cho tiền vay thường lớn hơn lãi suất trả cho tiền gửi
với cùng kỳ hạn. Các khoản vay ngân hàng Nhà Nước và vay ngân hàng khác
tuy lãi suất thấp song thường có thời hạn ngắn, chỉ nhằm đảm bảo thanh toán
tức thời cho ngân hàng. Việc cho vay của ngân hàng Nhà Nước phụ thuộc rất
lớn vào chính sách tiền tệ mà ngân hàng Nhà Nước theo đuổi trong từng thời
kỳ. Việc vay mượn các ngân hàng khác trên cùng địa bàn cũng gặp khó khăn
khi nhiều ngân hàng đang thiếu phương tiện thanh toán. Muốn mở rộng quy
mô vay mượn trên thị trường liên ngân hàng, một ngân hàng cần vươn tới thị
trường liên ngân hàng quốc tế với khả năng phân tích rủi ro lãi suất và rủi ro
hối đoái.
Vay thông qua phát hành các giấy nợ trung và dài hạn đóng vai trò
quan trọng trong việc tạo và gia tăng các nguồn trung và dài hạn ổn định cao
cho ngân hàng. Ngân hàng có thể sử dụng nguồn này để cho vay các dự án,
tài trợ cho trang thiết bị và bất động sản của doanh nghiệp và người tiêu dùng.
1.3.3. Đặc điểm của các nguồn khác:
Phần lớn các nguồn khác ngân hàng không phải trả lãi (lãi suất danh
nghĩa bằng không). Tuy nhiên chi phí để có và duy trì chúng là rất đáng kể.
Nhìn chung các nguồn khác trong ngân hàng thường không lớn (trừ một số
ngân hàng có các dịch vụ uỷ thác cho Nhà Nước hoặc cho các tổ chức quốc
tế). Việc gia tăng các nguồn này nằm trong chính sách tăng nguồn thu cho
ngân hàng và bị ảnh hưởng rất lớn bởi khả năng thực hiện và mở rộng các loại
hình dịch vụ khác.
1.3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn vốn huy động:
1.3.4.1. Nhân tố khách quan:
*Môi trường pháp lý và chính sách kinh tế vĩ mô:
Kinh doanh ngân hàng là một trong những ngành chịu sự giám
sát chặt chẽ của pháp luật và các cơ quan chức năng của chính phủ. Các hoạt
động của ngân hàng thương mại chịu sự điều chỉnh của luật các tổ chức tín

dụng và hệ thống các văn bản pháp luật khác của Nhà Nước. Môi trường pháp
lý đem lại cho ngân hàng các cơ hội và thách thức. Ngân hàng thương mại
xây dựng các chiến lược kinh doanh cho riêng mình phải trên cơ sở tuân thủ
pháp luật và các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà Nước như chính sách lãi
suất…
VD: Việc dỡ bỏ những hạn chế về huy động vốn tiền gửi nội tệ sẽ
mở đường cho các ngân hàng nước ngoài phát triển các sản phẩm để huy
động vốn tiền gửi nội tệ và các sản phẩm cho vay nội tệ.
Mặt khác, ở Việt Nam hiện nay, các ngân hàng thương mại được
tổ chức theo mô hình tổng công ty. Do vậy, các chi nhánh ngân hàng trong
hoạt động của mình ngoài việc phải tuân theo pháp luật và các văn bản dưới
luật của Nhà Nước ban hành mà còn phải tuân theo các quy định mà ngân
hàng mẹ ban hành trong từng thời kỳ về lãi suất, tỷ lệ dự trữ, hạn mức cho
vay… Sự thay đổi các chính sách này sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng thu hút
vốn và chất lượng nguồn vốn của ngân hàng thương mại.
* Tình hình kinh tế, xã hội:
Môi trường kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng, nó ảnh hưởng đến khả
năng thu nhập, chi tiêu, thanh toán và nhu cầu về vốn và tiền gửi của dân cư
và ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Tình hình
phát triển kinh tế là một yếu tố vĩ mô có tác động trực tiếp đến mọi hoạt động
của các ngân hàng thương mại nên ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn.
Trong điều kiện nền kinh tế ổn định, thu nhập dân cư được đảm bảo và ổn
định thì nguồn tiền vào ra của các ngân hàng cũng ổn định, số vốn huy động
của các ngân hàng ngày càng tăng lên và cơ hội đầu tư cho vay của các ngân
hàng cũng được mở rộng do lòng tin của các nhà đầu tư vào nền kinh tế. Khi
nền kinh tế suy thoái, thu nhập của dân cư biến động thì lòng tin của dân
chúng vào đồng tiền cũng bị giảm sút. Khi đó, khả năng huy động vốn của
ngân hàng không những bị giảm xuống mà lượng tiền trong dân cư ký gửi vào
ngân hàng cũng có nguy cơ bị rút ra. Và như vậy, ngân hàng sẽ gặp khó khăn
trong công tác huy động vốn, quản lý dự trữ và củng cố niềm tin cho khách

hàng. Nói chung sự thay đổi của các yếu tố: tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ
lạm phát, thu nhập bình quân đầu người thay đổi, chính sách đầu tư, tiết kiệm
của chính phủ thay đổi sẽ ảnh hưởng đến khả năng tiêu dùng và tiết kiệm của
dân cư. Từ đó, ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn của ngân hàng thương
mại.
* Yếu tố thuộc về văn hoá, tâm lý của khách hàng:
Mỗi quốc gia có một nền văn hoá riêng. Văn hoá chính là yếu tố tạo nên
bản sắc dân tộc như: tập quán, thói quen, tâm lý… Đối với ngân hàng, hoạt
động huy động vốn là một hoạt động chịu nhiều ảnh hưởng của môi trường
văn hoá. Cụ thể ở các nước phát triển, người dân có thói quen gửi tiền vào
ngân hàng để hưởng những tiện ích trong thanh toán, hưởng lãi và trong tiềm
thức của họ, ngân hàng là một phần không thể thiếu được, là một phần tất yếu
của nền kinh tế. Do vậy, ngân hàng không gặp khó khăn trong việc huy động
vốn nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế. Ngược lại, ở những nước
đang phát triển như Việt Nam, việc huy động vốn của ngân hàng gặp rất nhiều
khó khăn vì người dân Việt Nam hiện nay vẫn chưa quen sử dụng các dịch vụ
ngân hàng. Ở các nước kém phát triển, nhu cầu dùng tiền mặt thường lớn hơn
các khoản mục gửi tiết kiệm. Yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến nguồn vốn tiềm
tàng mà ngân hàng có thể huy động được trong tương lai. Mặt khác, ngân
hàng chưa tạo được lòng tin đối với khách hàng, chưa chú trọng đến công tác
Marketing, tiếp thị, quảng cáo…
1.3.4.2. Nhân tố chủ quan:
* Chiến lược kinh doanh của ngân hàng:
Trong một ngân hàng, nghiệp vụ huy động vốn chịu tác động trực tiếp từ
các hoạt động về sử dụng vốn. Mỗi ngân hàng đều có một chiến lược kinh
doanh riêng theo từng thời kỳ, tuỳ thuộc vào đặc điểm của bản thân ngân
hàng và điều kiện môi trường kinh doanh. Vì thế, ngân hàng phải xây dựng
cho mình một chiến lược kinh doanh phù hợp. Trong chiến lược kinh doanh
ngân hàng phải quyết định sẽ mở rộng hay thu hẹp quy mô nguồn vốn, thay
đổi tỷ trọng của nguồn vốn trong tổng nguồn vốn, lãi suất huy động. Nếu

chiến lược kinh doanh được xây dựng đúng đắn, phù hợp với điều kiện bản
thân ngân hàng, các nguồn vốn được khai thác tối đa và hợp lý thì công tác
huy động vốn sẽ phát huy hiệu quả.
* Lãi suất:
Với tư cách là giá vốn, lãi suất có tác động điều tiết trực tiếp đến hoạt
động tín dụng, cho vay và huy động vốn của ngân hàng, tác động đến lợi
nhuận khi xem xét kết quả kinh doanh, tính toán lãi suất chênh lệch đầu ra,
đầu vào. Lãi suất huy động vốn là mối quan tâm hàng đầu của cá nhân và tổ
chức muốn gửi tiền vào ngân hàng. Các ngân hàng thương mại không chỉ
cạnh tranh với nhau mà còn cạnh tranh với các tổ chức tài chính phi ngân
hàng và người phát hành các công cụ khác trên thị trường vốn. Đặc biệt trong
thời kỳ khan hiếm tiền tệ, dù cho sự khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng
sẽ thúc đẩy những người tiết kiệm và đầu tư chuyển vốn từ công cụ mà họ
đang có sang tiết kiệm và đầu tư hoặc từ một tổ chức tiết kiệm này sang một
tổ chức tiết kiệm khác. Vì vậy, lãi suất ảnh hưởng lớn nhất đến lượng tiền gửi
tiết kiệm vì khách hàng chọn gửi tiền theo phương thức này thường có mục
đích hưởng lãi.
* Công nghệ của ngân hàng:
Ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng.
Ngân hàng cũng có vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy các ngành kinh
tế khác phát triển. Vì vậy công nghệ ngân hàng cần đi trước một bước, công
nghệ ngân hàng liên quan trực tiếp đến các hoạt động như thanh toán, giao
dịch, kế toán… Trình độ công nghệ của ngân hàng ngày càng cao, khách hàng
sẽ cảm thấy hài lòng về dịch vụ được ngân hàng cung ứng và yên tâm hơn khi
gửi tiền tại các ngân hàng. Đây là yếu tố rất quan trọng giúp ngân hàng cạnh
tranh phi lãi suất vì khách hàng mà ngân hàng phục vụ không quan tâm đến
lãi suất mà quan tâm đến chất lượng và loại hình dịch vụ mà ngân hàng ngân
hàng cung ứng. Với cùng một lãi suất huy động như nhau, ngân hàng nào cải
tiến chất lượng dịch vụ tốt hơn, tạo sự thuận tiện hơn cho khách hàng thì sức
cạnh tranh sẽ cao hơn. Vì vậy, các ngân hàng không ngừng đổi mới công

nghệ để dịch vụ ngân hàng thêm đa dạng.
* Công tác tổ chức cán bộ:
Trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng là điều kiện để thực hiện tốt
các nghiệp vụ ngân hàng. Cán bộ ngân hàng phải có chuyên môn tốt để có thể
quản lý tốt nguồn vốn, thực hiện tốt công việc sử dụng vốn góp phần nâng
cao chất lượng huy động vốn. Một ngân hàng có đội ngũ cán bộ có trình độ
chuyên môn cao, đoàn kết, thân thiện, năng động là nền tảng thành công của
ngân hàng. Bởi lẽ khách hàng muốn giao dịch, kinh doanh với một ngân hàng
bề thế, tiện lợi, các nhân viên dễ mến, lịch sự và có chuyên môn.
* Uy tín ngân hàng:
Trên thực tế, mỗi ngân hàng đã, đang và sẽ tạo được một hình ảnh riêng
của mình trong lòng khách hàng. Một ngân hàng lớn, sẵn có uy tín sẽ có lợi
thế hơn trong hoạt động huy động vốn. Sự tin tưởng của khách hàng sẽ giúp
cho ngân hàng có khả năng ổn định khối lượng vốn huy động và tiết kiệm chi
phí hoạt động. Từ đó, ngân hàng có thể đề ra chiến lược dự trữ dễ dàng hơn.
Thậm chí trong điều kiện lãi suất gửi tiền tại ngân hàng có uy tín thấp hơn đôi
chút, những người có tiền vẫn lựa chọn ngân hàng đó để gửi mà không tìm
những nơi trả lãi hấp dẫn hơn vì họ tin rằng ở đây đồng vốn của mình sẽ tuyệt
đối an toàn.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
CHI NHÁNH HÀ NỘI
2.1. Giới thiệu về ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt
Nam-chi nhánh Hà Nội:
2.1.1. Giới thiệu:
Thành lập ngày 01/03/1985, là thành viên trong hệ thống ngân hàng
ngoại thương Việt Nam, được Nhà Nước công nhận là doanh nghiệp hạng I.
Năm 2004, ngân hàng ngoại thương Hà Nội vinh dự được chủ tịch nước Cộng
Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam trao tặng huân chương Lao Động hạng ba.

Được thành lập nhằm phục vụ hoạt động kinh doanh đối ngoại, thanh
toán quốc tế, các dịch vụ tài chính, ngân hàng quốc tế trên địa bàn Hà Nội.
Ngoài trụ sở chính 344 Bà Triệu, ngân hàng ngoại thương Hà Nội hiện có 08
phòng giao dịch.
Là 1 trong những chi nhánh hàng đầu của ngân hàng ngoại thương
Việt Nam. Với hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, cung cấp các dịch vụ tự
động hoá cao: VCB online, thanh toán điện tử liên ngân hàng, hệ thống rút
tiền tự động ATM Connect 24… hệ thống thanh toán SWIFT toàn cầu và
mạng lưới đại lý trên 1400 ngân hàng tại 85 nước và vùng lãnh thổ trên thế
giới, đảm bảo phục vụ tốt các yêu cầu của khách hàng.
*Chức năng, nhiệm vụ của ngân hàng ngoại thương Hà Nội:
Giúp ngân hàng ngoại thương Việt Nam nghiên cứu tổng hợp những
vấn đề kinh tế đối ngoại, ngoại thương, ngoại hối tại thành phố Hà Nội và
phối hợp với chi nhánh ngân hàng Nhà Nước thành phố Hà Nội nghiên cứu,
tổng hợp và tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương và thống đốc ngân
hàng Nhà Nước về chủ trương, chính sách, kế hoạch và biện pháp phát triển
kinh tế đối ngoại, ngoại thương, ngoại hối của Hà Nội. Trên cơ sở đó tăng
cường các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng phục vụ sản xuất, đẩy mạnh xuất
nhập khẩu và kinh doanh dịch vụ đối ngoại, tăng thu ngoại tệ, góp phần phát
triển kinh tế địa phương.
Tổ chức thực hiện các biện pháp quản lý Nhà Nước của ngân hàng
trong lĩnh vực ngoại hối của địa phương, xem xét và xử lý các vụ, việc vi
phạm điều lệ quản lý ngoại hối phát sinh tại Hà Nội, trong phạm vi quyền hạn,
trách nhiệm được giao và thông qua sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan ở
địa phương và chi nhánh ngân hàng Nhà Nước cơ sở tại thành phố Hà Nội.
Tổ chức thực hiện các nghiệp vụ thu, đổi ngoại tệ phục vụ khách
nước ngoài ra, vào thành phố Hà Nội theo quy định của ngân hàng ngoại
thương Việt Nam.
Thực hiện quan hệ giao dịch và mở tài khoản “không cư trú” cho
các tổ chức và cá nhân nước ngoài thường trú tại Hà Nội thuộc đối tượng

“người không cư trú”, theo sự phân công của ngân hàng ngoại thương Việt
Nam.
Thực hiện thanh toán quốc tế trong quan hệ giao dịch trực tiếp với
các ngân hàng đại lý nước ngoài, khi có điều kiện theo sự uỷ nhiệm của ngân
hàng ngoại thương Việt Nam về các mặt nghiệp vụ:
-Thanh toán về xuất nhập khẩu hàng hoá thuộc kim ngạch mậu dịch
của trung ương hoặc địa phương.
-Thực hiện các nghiệp vụ cấp, bảo lãnh tín dụng thương mại đối với
các đơn vị kinh tế thuộc địa phương, theo quy chế về bảo lãnh tín dụng do
ngân hàng ngoại thương công bố.
-Thanh toán các khoản tiền kiều hối chuyển từ nước ngoài về nước.
-Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán khác về phi mậu dịch phục vụ
việc chi tiêu của các cơ quan đại diện của nước ta ở nước ngoài và các đoàn
Việt Nam đi nước ngoài.
-Thực hiện các quan hệ tài khoản với 1 số ngân hàng đại lý nước
ngoài trong việc điều hành và quản lý vốn ngoại tệ.
*Định hướng phát triển:
Là thành viên của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, với mục tiêu
xây dựng Ngân hàng Ngoại thương trở thành ngân hàng lớn trong khu vực và
trên thế giới, ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đặt mục tiêu và định hướng
phát triển sau đây:
*Cơ cấu lại tổ chức và hệ thống quản lý theo mô hình hướng tới
khách hàng và theo chuẩn mực của ngân hàng hiện đại. Lành mạnh hoá hệ
thống tài chính và tiến tới đạt các chỉ tiêu theo thông lệ quốc tế về ngân hàng.
*Đa dạng hoá hoạt động kinh doanh ngân hàng bao gồm cả hoạt
động ngân hàng bán buôn và hoạt động ngân hàng bán lẻ. Mở rộng quan hệ
khách hàng với mọi thành phần kinh tế, chú trọng hơn tới khách hàng doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
*Mở rộng mạng lưới các kênh hoạt động ngân hàng trên địa bàn Hà
Nội. Phát triển nhanh các sản phẩm và dịch vụ ngân của Ngân Hàng Ngoại

Thương dựa trên nền tảng của công nghệ hiện đại.
*Phát huy vai trò chủ đạo trên thị trường tiền tệ, kinh doanh ngoại
tệ và hoạt động xuất nhập khẩu.
*Tăng cường đào tạo, đào tạo lại, và tuyển dụng mới cán bộ, tạo lập
nguồn nhân lực chất lượng cao của ngân hàng, đáp ứng nhu cầu phát triển và
nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
*Xây dựng trụ sở và tạo lập không gian giao dịch ngân hàng hiện
đại, khang trang, không ngừng nâng cao và hoàn thiện ứng dụng công nghệ
trong quản lý và kinh doanh ngân hàng nhằm đa dạng hoá hoạt động nghiệp
vụ và đa dạng hoá khách hàng.
2.1.2. Thực trạng tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh ngân
hàng thương mại cổ phần ngoại thương Hà Nội:
2.1.2.1. Tình hình huy động vốn:
Nguồn vốn huy động của chi nhánh thời gian qua
Đơn vị: tỷ đồng
Năm 2006 2007 2008
Vốn huy động 9.673 6.270 7.175
Tăng % 31 12 14,43
Công tác huy động vốn của chi nhánh trong năm 2006 đã duy trì
kết quả tốt. Phát huy thế mạnh của Vietcombank và với các phương pháp huy
động hiệu quả, thực hiện thành công việc đưa các sản phẩm mới về huy động
vào thị trường theo chủ trương của ngân hàng ngoại thương Việt Nam, tổng
nguồn vốn của chi nhánh năm 2006 đạt 10.830 tỷ đồng, tăng 31% so với năm
2005 và vượt 12% kế hoạch ngân hàng ngoại thương Việt Nam giao cả năm
2006 cho chi nhánh.
+Năm 2007: tổng nguồn vốn của chi nhánh tính đến 31/12/2007 đạt
7.088 tỷ đồng, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2006, trong đó nguồn vốn huy
động đạt 6.270 tỷ đồng, tăng 12% so với cuối năm 2006, đạt kế hoạch của
ngân hàng ngoại thương Việt Nam giao cho chi nhánh.
+Năm 2008: Trước yêu cầu phải tăng cường huy động vốn của

ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam, với các chính sách
thoả thuận lãi suất linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường, lượng vốn huy
động tiết kiệm của Vietcombank Hà Nội đạt được kết quả khá tốt nhất là
trong bối cảnh nền kinh tế trong năm 2008 gặp nhiều khó khăn, bất ổn. Tính
đến ngày 31/12/2008, tổng nguồn vốn của Vietcombank Hà Nội đạt 7.553 tỷ
đồng, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2007.
2.1.2.2. Hoạt động tín dụng:
Dư nợ tín dụng của chi nhánh thời gian qua
Đơn vị: tỷ đồng
Năm 2006 2007 2008
Dư nợ tín dụng 4.274 2.553 2.524
Tăng % 21,5 6 -1,13
Công tác tín dụng của chi nhánh trong năm 2006 tiếp tục thực hiện
với phương châm “Hiệu quả & an toàn”. Với nỗ lực của các cán bộ ngân hàng
ngoại thương Hà Nội, tính đến 31/12/2006, dư nợ tín dụng của chi nhánh đạt
4.274 tỷ đồng, tăng 21,5% so với năm 2005, vượt kế hoạch của ngân hàng
ngoại thương Việt Nam giao cho chi nhánh năm 2006. Số lượng khách hàng
là các doanh nghiệp có vay vốn tại chi nhánh là 275 khách hàng.
Thực hiện quy trình tín dụng mới theo quyết định
90/QĐ.NHNT.QLTD ngày 26/05/2006 của ngân hàng ngoại thương Việt
Nam áp dụng với khách hàng là doanh nghiệp, phòng quản lý rủi ro tín dụng
đã từng bước góp phần nâng cao chất lượng tín dụng, tạo đà phát triển bền
vững cho ngân hàng ngoại thương Hà Nội, góp phần làm cho hoạt động cấp
tín dụng đối với khách hàng doanh nghiệp của ngân hàng ngoại thương Hà
Nội tiếp cận với tập quán quốc tế và quản lý trong hoạt động ngân hàng.
Để mở rộng quan hệ khách hàng và đẩy mạnh công tác tín dụng, đội
ngũ cán bộ của Vietcombank Hà Nội đã chủ động tìm kiếm khách hàng tiềm
năng, các dự án, các phương án sản xuất kinh doanh khả thi, tạo điều kiện hỗ
trợ kịp thời nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, ngân hàng ngoại thương Hà Nội luôn quan tâm duy trì

và củng cố đội ngũ khách hàng truyền thống. Phong cách giao dịch của cán
bộ tín dụng và chất lượng các sản phẩm tín dụng của chi nhánh đã tạo niềm
tin và uy tín đối với khách hàng, tạo điều kiện cùng khách hàng kinh doanh
hiệu quả.
Bên cạnh đội ngũ khách hàng truyền thống về xuất nhập khẩu, chi
nhánh đang mở rộng nhu cầu cho vay tiêu dùng với nhiều hình thức cho vay
ưu đãi, hấp dẫn. Tính đến ngày 31/12/2006, dư nợ tại bộ phận tín dụng thể
nhân đạt 151 tỷ đồng. Nhìn chung, các khoản vay cá nhân có chất lượng tốt,
đảm bảo khả năng trả nợ ngân hàng.
Quan điểm mở rộng tín dụng đi kèm nâng cao chất lượng tín dụng
của chi nhánh luôn được quán triệt. Tuy nhiên, do tình hình khó khăn chung,
đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng cơ bản và cầu đường do
thanh quyết toán chậm nên trả nợ ngân hàng chưa đúng hạn. Đến 31/12/2006,
dư nợ quá hạn là 105 tỷ đồng, chiếm 2,46% tổng dư nợ.
Nợ quá hạn chủ yếu tập trung tại một số công ty cầu và một số
doanh nghiệp xuất khẩu khá nhạy cảm trước những biến động của thị trường.
Chi nhánh đã rất quan tâm, đốc thúc đơn vị trong việc chi trả gốc và lãi vay.
Chi nhánh hiện đã thành lập tổ xử lý nợ xấu tại chi nhánh cấp 1 và các chi
nhánh cấp 2, quyết tâm và triệt để trong công tác xử lý nợ xấu.
Năm 2007: tính đến ngày 31/12/2007, dư nợ tín dụng đạt 2.553 tỷ
đồng, tăng 6% so với cuối năm 2006, đạt 88% kế hoạch năm 2007, chiếm
1,49% thị phần trên địa bàn Hà Nội. Số lượng khách hàng là các doanh
nghiệp vay vốn tại chi nhánh hiện là 133 khách hàng. Đến 31/12/2007, dư nợ
quá hạn chiếm 0,78% tổng dư nợ
-Cho vay trung và dài hạn: chiếm 22,3% tổng dư nợ.

×